|
16 tháng 7, 2010 |
Kính gởi: Tòa soạn Sách Hiếm,
Hôm nay Gã Học Trò
tôi xin được gởi đến Quý Tòa soạn bài cuối cùng trong loạt bài ‘Tôi
đọc Tân Ước” để gọi là “cho đủ bộ” và tùy vào sự Quý tòa soạn thấy
được hay không mà đăng tải hoặc là không? Thực ra, trong các bài mà
Gã Học Trò tôi ghi nhận được trong khi đọc Kinh Thánh chỉ nhằm chứng
minh rằng các Đạo Chúa chẳng qua là bắt đầu từ một câu chuyện “Thần
thoại hoang đường” của dân Do Thái với Ông Đức Chúa Trời tàn ác, vô
nhân, bất công… Cũng như Jêsus (nếu có thực) cũng chỉ là sự thêu dệt
của người đời hay Giáo hội La Mã bằng những câu chuyện không đủ tính
chất hợp lý (từ phương diện chuyện kể cho đến tính cách văn học) lẫn
cứu rỗi để đáng cho ta tin tưởng. Nhưng với “Đức Tin” mà hàng tín đồ
lại tin vào những điều mà giáo hội lẫn giáo sĩ “đã lừa đảo” họ qua
những giáo lý không dựa vào Kinh Thánh, hay họ sáng tạo ra những
Kinh Nguyện để tín đồ chỉ biết Kinh Nguyện mà không hề chú tâm vào
tìm hiểu Kinh Thánh.
Gã Học Trò tôi đã có
thắc mắc đôi điều về quyển sách được gọi là Kinh Thánh này, và với
thắc mắc đó nên đã ghi lại và nhờ đến Quý Tòa Soạn (nếu thấy được)
đăng tải dùm để gọi là góp ý cùng với độc giả và hàng tín đồ như là
một cuộc “Đi Tìm Thực Chất của đạo Thiên Chúa” thế thôi! Tôi đã
nghĩ: “Một tôn giáo được xây dựng trên nền tảng của một câu chuyện
hoang đường thần thoại; thì người tin có tin như thế nào đi nữa, thì
cũng chỉ tin vào những sự hoang tưởng mà thôi! Như vậy, người tin
vào chỉ là sống theo ảo tưởng mà chẳng phải là tin trong một sự chân
chính cho một Chân lý nào cả, thế mà tại sao họ cứ mãi phải tin vào
những điều không thực đó?”
Chính vì thế mà tôi
đã cố gắng dành thì giờ để hoàn tất những bài nầy. Mong chúng không
phí thì giờ quý báu của Quý Tòa Soạn.
Thành thật cám ơn và
trân trọng kính chào!
Gã Học Trò.
Tôi Đọc
“Tân-Ước”: Sách Của "Giăng"!
Trong các sách gọi là “Phúc Âm” thì sách của
Thánh (?) Giăng thường được các Linh mục, Giáo hội trích dẫn để
thuyết hay giảng giải cho tín hữu Ki-Tô nhiều hơn các sách khác: Vì
trong sách đó có nhiều điều “có vẻ” như thích hợp với cái “Thần
thánh” của một Tôn giáo (Cái Tôn giáo được “ngụy tạo” từ một câu
chuyện “thần thoại hoang đường” để đưa tín đồ vào sự hoang tưởng của
Đức tin)!
Tuy nhiên, núp sau những “ca tụng” thần thánh
đó, Giăng đã “bí ẩn” tiết lộ những điều mà không nhiều người để ý
đến; và có thể Giáo hội đã hiểu nhưng lại “đánh lận con đen” và “lừa
đảo” tín đồ bằng cách Giáo hội cho rằng: “Kinh Thánh là do sự mặc
khải của Đức Chúa Trời, nên không thể sai lầm”, và để giáo dân
“không được đọc Kinh Thánh” thì họ lại giành quyền diễn giải Kinh
Thánh theo lý lẽ “phải có trình độ Thần học” cùng theo “Linh Hứng”
của những người chức sắc trong giáo Hội, mà không theo sự hiểu biết
của tín đồ. Do đó, những tín đồ thường không đọc Kinh Thánh mà chỉ
tin theo những điều mà các Linh Mục, Tổng giám Mục, chức sắc nói như
thế nào thì nghe và làm theo như thế ấy, coi như là những làm theo
những điều mà Chúa muốn; và chỉ biết cầu nguyện theo Kinh nguyện tức
là những điều được chức sắc của giáo hội vẻ vời ra để “đánh lừa sự
thật” của Kinh Thánh, khiến tín đồ không cần xem đến Kinh Thánh và
tưởng rằng các vị chức sắc đã nói đúng theo Kinh Thánh. Cái “kỳ tài”
của ông Giăng là” bật mí” những điều “bí mật” một cách khéo léo mà
nếu đọc sơ qua thì người ta khó mà phát hiện,
Những điều viết trên đây chắc Quý vị sẽ không
tin, nhất là những người theo Đạo Chúa! Nhưng đó vẫn là “sự thật”!
Xin mời Quý Vị theo bước cùng tôi!
Trước tiên tôi xin xác định trở lại công việc
làm của mình: Tôi chỉ đọc Kinh Thánh theo quá trình thứ tự và ghi
những nhận xét của mình vào đó chứ không sửa đổi hay xuyên tạc; có
những đọan khó hiểu hay dịch (từ cuốn Kinh Thánh, Cựu-Ước và
Tân-Ước; United Bible Societies, bản in 1990 tại Korea) nghi ngờ,
tôi ghi thêm phần “tiếng Anh” trong quyển “The Holy Bible, The Old
and New Testament; King James Version; World Bible Publishers; Iowa
Falls, IA 50126 U.S.A; bản in Canada” để xác minh rõ hơn;
Và đây cũng là: “Nếu Quý Tòa Soạn thấy được
đăng dùm” chứ không là trách nhiệm ở Tòa Soạn.
x
xx
Những sự lập lửng được viết rất nhiều trong
Kinh Thánh. Với sự lập lửng đó làm cho người ta khó hiểu về nghĩa
lẫn mù mờ về tâm linh, do đó Kinh Thánh mang tính chất khá "mờ mờ ảo
ảo". Không biết đó là dụng ý của những người viết ra Kinh Thánh hay
là ngôn ngữ trong những thời kỳ ấy khiến cho người ta có cách diễn
đạt như vậy!
Trong lời tiểu dẫn của "Tin lành theo Giăng"
được viết như sau:
"1 1Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi
Lời ở cùng Ðức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Ðức Chúa Trời. 2Ban
đầu Ngài ở cùng Ðức Chúa Trời. 3Muôn vật bởi Ngài làm
nên, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài" (In the beginning
was the Word, and the Word was with God, and the Word was God. The
same was in the beginning with God).
Ngôi Lời theo như thế có nghĩa là hai đối với
Đức Chúa Trời; nhưng cũng là một đối với Ðức Chúa Trời bởi vì Ngài
"ở cùng" và "cũng là". Có lẽ, chính vì ở chỗ đó mà người ta xem
Jêsus là "phân thân" của Ðức Chúa Trời dưới thế và trở thành "Ðức
Chúa Con"; còn một Ðức Chúa khác để thực hành, làm những điều kỳ bí,
khiến người ta làm điều thiện ác, gây tai họa đó là "Ðức Chúa Thánh
Thần". Một Ðức Chúa trên trời phân thân thành ba vị trí: "Ba Ngôi",
cho nên ngôi nào cũng mang một tính chất giống nhau của cùng "Một
Ðức Chúa Trời". Mà Ðức Chúa Trời tính tình như thế nào chúng ta đã
được biết qua sách "Sáng Thế Ký" và "Xuất Ê díp tô ký". Cho nên
chúng ta cũng không trách chi Jêsus từ chối mẹ, anh em mình; hoặc
làm chết cả hai ngàn con heo; hay chỉ một lời quở mắng khiến cây vả
liền héo khô. Cây cỏ còn “bị nguyền rủa” để chết nữa là, huống hồ
chi đến con người!
Nhưng “Ngôi Lời” là gì? Không biết Quý vị có
thắc mắc như tôi không và không hiểu những người đứng trên bục giảng
khi giảng cho nhiều người nghe mà họ có “hiểu” và “biết” Ngôi Lời là
gì không? Thực ra Ông Chúa Trời “tàn ác” đã mất hết năng lực “Ngôi
Lời” từ lâu ngay cả trong “Sáng Thế Ký”, vì lúc đầu “Ngài phán” thì
“có như vậy”. Nhưng sau đó Ông phải “nặn ra” mới có A-Dong và Ê-Và
và sau nữa thì phải ở trên mây mà thiêu đốt cả hai làng Gô-Mô-Rơ và
Sô-Đôm bằng mưa diêm sinh. Rồi, đôi lúc Ông phải hiện ra trong giấc
mơ hoặc biến thành ngọn lửa trong bụi cây để khiến Môi-Se làm theo ý
mình. Điều diễn tả nầy chứng tỏ Giăng đã đi hơi “hố” trong cách diễn
tả của mình, cũng như không hiểu gì về Ông Chúa Trời trong Cựu-Ước
cả.
Điểm “Ngôi Lời” là điểm đặc biệt của ông
Giăng khi viết nên sách của mình. Khi ông Giăng đưa điều lạ nầy vào
trong sách của mình thì sách của ông trở nên có vẻ huyền ảo và thần
thánh hóa câu chuyện khiến cho những người đời sau nhất là những
“nhà Thần học ngu muội” như vớ được phải vàng, vội vàng triển khai
một cách say mê để “ngu muội hóa” tín đồ một cách thảm hại. Ôi! buồn
thay cho cái cảnh “Không thấy mà tin”!
Thế nhưng, Kinh Thánh lại ghi tiếp:
"1 12Nhưng hễ ai đã nhận Ngài,
thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Ðức Chúa Trời, là ban
cho những kẻ tin Ngài, 13là kẻ chẳng phải sanh bởi khí
huyết, hoặc bởi tình dục, hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Ðức Chúa
Trời vậy".
Mới đọc thì chúng ta thấy thật là đơn giản,
chỉ cần "tin danh", "nhận" thôi, thì được ban quyền phép để trở nên
con cái Ông Chúa Trời. Nhưng con người thuở đầu tiên từ đâu mà ra
(theo Kinh Thánh); chẳng là từ Ông Chúa Trời ư? Nhưng Ông Chúa Trời
có “tâm địa” ganh ghét, thù hận chỉ vì "cái bẫy Trái cấm" của Ông,
mà Ông đã đuổi loài người ra khỏi vườn địa đàng; không những thế mà
ông còn rủa sả nặng nề đàn bà, đàn ông, con rắn, và cho mang tội nhỏ
nhặt ấy đến "muôn ngàn đời con cháu về sau" bằng "Tội Tổ Tông" không
biết đến bao giờ để chứng tỏ “lòng nhân từ, sự công bình” của Ông
Chúa cha là như vậy đó; không những vậy, mà Ông lại còn “sợ sệt” nên
cho Thần Chê-ru-bin giữ cây sự sống (ấy là Ông Chúa Trời đầy quyền
năng là như thế đấy!); Ông làm Ðại Hồng Thủy; gây rối loạn phân tán
loài người do nơi Tháp Ba-bên. Những điều ấy cũng đã chứng tỏ được
"Tâm Ðịa" của Ông Chúa Trời rồi, thế mà Ông lại bắt người ta phải
phụng thờ Ông! Mới là lạ!
"1:14 Ngôi Lời đã trở nên xác thịt, ở giữa
chúng ta, đầy ơn và lẽ thật (full of grace and truth); chúng ta đã
ngắm xem sự vinh hiển của Ngài, thật như vinh hiển Con một đến từ
nơi cha".
Sự ca tụng đầy huyền nhiệm của "một đức tin"
từ một tín đồ là thế đấy; nhưng "Con một" ấy thế nào, chúng ta có
thể xem lại những phần trước mà chúng ta đã phân tích cũng từ trong
Kinh Thánh mà ra để có thể thấy được sự "Thực và Hư" của nó.
"1:18 Chẳng hề ai thấy Ðức Chúa Trời; chỉ
Con một ở trong lòng Cha, là Ðấng đã giãi bày Cha cho chúng ta
biết".
Giăng viết câu này chắc hẳn đã không đọc đến
"Sáng-Thế-Ký"! Thật tội nghiệp cho ông; vậy thì trước khi đuổi
A-dong và Ê-và ra khỏi vườn địa đàng có đoạn nào trong Kinh Thánh
nói rằng "không ai thấy Ðức Chúa Trời" đâu, nếu không ai thấy thì
làm sao để viết nên chuyện; hay là đoạn nầy muốn nói rằng: “Kinh
Thánh chỉ là những chuyện bịa đặt không thôi!”. Còn Jêsus có là "Con
một" hay không, xin mời quý vị cùng "Quý Ngài" hãy đọc Kinh Thánh
trong các câu sau:
"6 1Vả, khi loài người khởi
thêm nhiều trên mặt đất, và khi loài người đã sanh được con gái rồi,
2các con trai của Ðức Chúa Trời thấy con gái loài người
tốt đẹp, bèn cưới người nào vừa lòng mình mà làm vợ (That the sons
of God saw the daughters of men that they were fair; and they took
them wives of all which they choose). 3Ðức Giê hô va phán
rằng: Thần ta sẽ chẳng hằng ở trong loài người luôn; trong điều lầm
lạc, loài người chỉ là xác thịt; đời người sẽ là một trăm hai mươi
năm mà thôi.
4Ðời đó và đời sau, có người
cao lớn trên mặt đất, vì con trai Ðức Chúa Trời ăn ở cùng con gái
loài người mà sanh con cái (When the sons of God came in unto the
daughters of men and they bare children to them); ấy những người
mạnh dạn ngày xưa là tay anh hùng có danh". (Sáng Thế Ký 6:1-4).
Giăng đã viết “tào lao” thế mà John Paul II
lại trích dẫn trong “Crossing Threhold of Hope” của ông, cũng như
các linh Mục chức sắc trích ra để “ngu muội, lừa đảo” hàng giáo dân;
Đúng là những tội lỗi “vô bờ” không thể tha thứ được!
Sách của Giăng viết từ "Sự sắm sửa về chức vụ
Ðức Chúa Jêsus" trở đi mà không nói về sự "giáng sinh" hay "gia phổ"
của ông. Và mượn qua lời Giăng, người ta ca tụng Jêsus hết lời:
"Chiên con của Ðức Chúa Trời, là Ðấng cất
tội lỗi thế gian đi" (6:29); "Có một người đến sau ta, trổi
hơn ta, vì người vốn trước ta" (1:30), hay "Ấy chính Ngài là
Con Ðức Chúa Trời" (And I saw, and bare record that this is the Son
of God) (1:34).
Giăng đã viết khác với những Ma-thi-ơ, Mác,
và Lu-ca về hai môn đồ đầu tiên của Jêsus là Si-môn (Phi-e-rơ) và
Anh-rê; nhưng với Phi-líp thì cũng vẫn là "phán rằng: Hãy theo
ta!". Có điều những người viết Kinh Thánh lúc nào cũng
phải "chú trọng" về tính chất Thần Thánh của Jêsus nên thường đặt
những câu nói tương đối "ngớ ngẩn" vào những nhân vật để ca tụng
Jêsus như "1:49 Na-tha-na-ên lại nói: Lạy thầy, thầy là Con Ðức
Chúa Trời, thầy là Vua dân Y-sơ-ra-ên!". Tại sao Na-tha-na-ên
lại biết đích xác như vậy? Jêsus là con Ông Chúa Trời, hay là Vua
dân Do-Thái; mà ngay trong Kinh Thánh cũng đã viết một cách rõ ràng
rằng: Jêsus được thọ thai bởi Thánh Linh chứ không phải do Giô-sép
là dòng dõi vua Do-Thái. Ðã thế Jêsus cũng "không cần" khiêm tốn:
"1:51 Ngài lại phán: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, các
ngươi sẽ thấy trời mở ra, và Thiên sứ của Ðức Chúa Trời lên xuống
trên Con người". Như vậy, quý vị sẽ phải "suy nghĩ" như thế nào?
Đây là sự “Mặc Khải” thật là ngu xuẫn và đần độn của Ông Chúa Trời
đến thế sao?
Và trong sách của Giăng, Giăng còn cho ta
nhiều điều mới lạ hơn các sách khác. Nhưng, vẫn không bào chữa được
sự "kiêu mạn và bất hiếu" của Jêsus. Nếu nơi khác, chúng ta có
"Ai là mẹ ta và ai là anh em ta?"; thì ở đây, ngay trong đám
cưới tại thành Ca-na, trong xứ Ga-li-lê, chúng ta có:
"2 3Vừa khi thiếu rượu, mẹ Ðức
Chúa Jêsus nói với Ngài rằng: Người ta không có rượu nữa. 4Ðức
Chúa Jêsus đáp rằng: Hỡi người đàn bà kia, ta với ngươi có sự gì
chăng? Giờ ta chưa đến (Jesus saith unto her, Woman, what have I to
do with thee? mine hour is not yet come)".
Ðọc Kinh Thánh tới những đoạn như thế, tôi
không thể không lấy làm lạ là Jêsus "bất hiếu, không hiếu kính mẹ"
một cách tồi tệ như vậy!
Khi Jêsus đến đền thờ ở thành Giê-ru-sa-lem:
"2:15 Ngài bện một cái roi bằng dây, bèn
đuổi hết thảy khỏi đền thờ, chiên và bò nữa; vải tiền người đổi bạc
và đổ bàn của họ"
Tôi tưởng tượng ra cảnh ấy, không khỏi ngạc
nhiên về sự hung hăng của một nhà giảng đạo. Những thái độ ấy, nếu
tôi không lầm, tôi chưa hề thấy có trong Cựu-Ước, từ Áp-ra-ham đến
Y-sác, Gia-cốp nhất là đối với Môi-se; chắc có thái độ như thế mới
là Thánh? Thánh phải khác với những nhà Tiên tri chăng? Hoặc Jêsus
là Con Ông Chúa Trời phải làm cho giống như thái độ của Chúa Trời:
Phải "hung hiểm, gian ác" và đầy "quyền năng, phép lạ" mới chứng tỏ
mình là Con của Chúa Trời chăng?
Ðã thế, Jêsus lại "phán" như sau:
"3: 16 Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế
gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy
không bị hư mất mà được sự sống đời đời (For God so loved the world,
that he gave his only begotten Son, that whosoever believeth in him
should not perish, but have everlasting life)".
Ðọc đến câu này, tôi cảm thấy thương cho
Giăng vì ông đã không tham cứu kỹ đến "Sáng thế Ký" khi viết ra nó;
và ngay cả Giáo Hoàng John Paul II khi Ông trích dẫn trong "Crossing
Threshold of Hope" của Ông. Bao nhiêu năm thần học mà vẫn không
“thấy” (hay phớt lờ để đánh lừa) được câu sau này:
"6 1Vả, khi loài người khởi
thêm nhiều trên mặt đất, và khi loài người đã sanh được con gái rồi,
2các con trai của Ðức Chúa Trời thấy con gái loài
người tốt đẹp, bèn cưới người nào vừa lòng mình mà làm vợ (That
the sons of God saw the daughters of men that they were fair; and
they took them wives of all which they choose).
Tôi lại càng cảm thấy khó hiểu hơn khi Giăng
viết:
"3:18 Ai tin Ngài thì chẳng bị đoán xét
đâu; ai không tin thì đã bị đoán xét rồi, vì không tin đến danh Con
một Ðức Chúa Trời (He that believeth on him is not condemned; but he
that believeth not is condemned already, because he hath not
believed in the name of the only begotten Son of God)".
Tại sao lại như vậy? "Ai tin Ngài thì
chẳng bị đoán xét" thì đã đành; còn chẳng tin thì "đã bị
đoán xét rồi"; hơi khó hiểu thật! Nhưng chung quy, cũng chỉ vì
chẳng tin “Ngài”, không tin đến danh Con một Ðức Chúa Trời! Trước
kia, trong Cựu Ước gặp phải Ông Chúa Trời quá độc đoán, nay đến Tân
Uớc thì gặp phải “Con một” của Ông cũng độc đoán không thua gì: Bắt
buộc người ta phải tin mình trong khi nếu xét về "tư cách đạo đức"
thì cũng chẳng ra gì! Tôi có "quá đáng" không quý vị nhỉ? Hay là qua
những lời và hành động này chứng tỏ Jêsus có những “bất ổn” trong
tâm thần mà ta không thể loại trừ! Dù sao, đó vẫn là những sự thật
trong Kinh Thánh đã ghi lại rành rành! Và điều ấy cũng thể chối bỏ.
Vả, trong câu :
"3:17 Vả, Ðức Chúa Trời đã sai Con Ngài
xuống thế gian, chẳng phải để đoán xét thế gian đâu, nhưng hầu cho
thế gian nhờ Con ấy mà được cứu".
Giăng khi viết câu này chắc không tham khảo
đến những phần khác của Ma-thi-ơ, Mác, và Lu-ca; vì rằng:
"Chớ tưởng rằng ta đến để đem sự bình an
cho thế gian; ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm dáo.
Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia;
và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình" (Ma-thi-ơ
10:34-36)
Kinh Thánh được viết ra để "mạ lỵ" Ông Chúa
Trời một cách quá đáng, toàn đặt để cho Ông làm những việc ác nhiều
hơn là việc "nhân từ và công bình"; ngay cả “Chúa Con” Jêsus cũng
không tránh khỏi vì toàn là "hăm dọa" thế gian:
"3:36 Ai tin Con, thì được sự sống đời
đời; ai không chịu tin Con, thì chẳng thấy sự sống đâu, nhưng cơn
thịnh nộ của Ðức Chúa Trời vẫn ở trên người đó".
Giăng thường viết, đặt để sự ca tụng, vinh
danh Jêsus vào những câu nói của các nhân vật trong truyện một cách
"ngớ ngẩn", chứng tỏ Giăng chỉ là một trong những người "tương đối
cuồng tín" hơn là tin trong "đức tin" chân thật, chẳng hạn như:
"4:29 Hãy đến xem một người đã bảo tôi mọi
điều tôi đã làm: ấy chẳng phải là Ðấng Christ sao?" Hoặc:
"4:42 Họ nói với người đàn bà rằng: Ấy không còn phải vì điều ngươi
đã nói với chúng ta mà chúng ta tin đâu; vì chính chúng ta đã nghe
Ngài, và biết rằng chính Ngài thật là Cứu Chúa của thế gian".
Thật là lạ lùng, chỉ mới nghe nói đúng về
những điều trong quá khứ mà đã cho là "Ðấng Christ" hay là
"nghe Ngài" thì đã cho là "Cứu Chúa của thế gian". Nghệ
thuật truyền giảng của Giăng quả thật không ai bằng! Hèn chi "dụ dỗ"
được nhiều người cũng phải! Nhưng có đúng là "Chân lý" hay không là
một chuyện khác, phải không quý vị?
Khi Jêsus lên thành Giê-ru-sa-lem, đến cái ao
Bê-tết-đa:
"5 3Những kẻ đau ốm, mù quáng,
tàn tật, bại xuội nằm tại đó rất đông, (chờ khi nước động; 4vì
có một thiên sứ thỉnh thoảng giáng xuống trong ao, làm cho nước
động; lúc nước đã động rồi, ai xuống ao trước hết, bất kỳ mắc bịnh
gì, cũng được lành). 5Nơi đó, có một người bị bịnh đã ba
mươi tám năm. 6Ðức Chúa Jêsus thấy người nằm, biết rằng
đau đã lâu ngày, thì phán: Ngươi có muốn lành chăng? 7Người
bịnh thưa rằng: Lạy Chúa, tôi chẳng có ai để quăng tôi xuống ao
trong khi nước động; lúc tôi đi đến, thì kẻ khác đã xuống ao trước
tôi rồi. 8Ðức Chúa Jêsus phán rằng: Hãy đứng dậy, vác
giường ngươi mà đi. Vả, bấy giờ là ngày Sa-bát".
Trong câu chuyện này, tôi khá lấy làm ngạc
nhiên: Không biết câu chuyện này có thật hay không, hay là người ta
đặt ra để chơi? Vì những người bại xuội, mù quáng tất dù có biết
nước động cũng không thể nhảy được xuống ao trước hết thì họ đến đó
để làm gì? Nếu không có thân nhân đi theo để giúp họ thì họ sống
bằng cách nào khi nằm chờ? Và điều lạ lùng hơn nữa là Jêsus chỉ giúp
người nằm trên giường lành bịnh mà thôi; còn những người khác thì
không được đoái hoài đến trong khi "nằm tại đó rất đông". Nếu
vậy, thì "sự nhân từ, quyền năng, hằng cứu" của Chúa đã đi đâu rồi?
Giăng "đánh giá" Chúa Jêsus "thấp" quá rồi sao? Còn nếu Giáo Hội cho
rằng Kinh Thánh là “Mặc Khải” của Ông Chúa Trời thì đây là câu
chuyện “thật là đần độn nhất” của Ông Chúa Trời. Các nhà văn nỗi
tiếng của đạo Thiên Chúa hãy xem lại chuyện nầy xem sao? Câu chuyện
nầy có xứng đáng để mình nên đặt niềm tin vào đạo “Lừa đảo, ngu
muội” Thiên Chúa nầy hay không?
"5:10 Ai không tôn kính Con, ấy là không
tôn kính Cha, là Ðấng đã sai Con đến": Tại sao lại như vậy? Ðược
tôn kính hay không là tự trong "tư cách và đạo đức" của mình tỏ ra
cho mọi người, chứ đâu phải bắt buộc người ta như thế phải không quý
vị? Dù cho là Thần Thánh tự trên trời xuống cũng không ngoại lệ. Do
đó, Giăng đưa vào "miệng Chúa Jêsus" câu này, chẳng là "hại Chúa"
lắm ư?
Giăng đã không dấu được sự sáng tác của mình
trong câu sau:
"6:6 Ngài phán điều đó đặng thử Phi-líp,
chớ Ngài đã biết điều Ngài sẽ làm rồi". Như thế, những gì Giăng
viết về Jêsus không tránh khỏi những "thêm bớt, thêu dệt, và Thần
Thánh hóa" để nhằm vinh danh vị "Thần Thánh" và cùng "củng cố một
Ðức Tin" thông qua sách của mình vậy!
Giăng lại viết:
"6 64Song trong vòng các ngươi
có kẻ không tin. Vì Ðức Chúa Jêsus biết từ ban đầu, ai là kẻ không
tin, ai là kẻ sẽ phản Ngài. 65Ngài lại phán rằng: Chính
vì cớ đó, mà ta đã nói cùng các ngươi rằng nếu Cha chẳng ban cho,
thì chẳng ai tới cùng ta được".
Jêsus biết từ ban đầu "ai là kẻ phản Ngài",
thế tại sao “Ngài” lại thu nhận Giu-đa Ích-ca-ri-ốt làm môn đồ làm
chi, để cho “Ngài” phải cực khổ và chết thê thảm như vậy. Hay là
"nếu Cha chẳng ban cho, thì chẳng ai tới cùng ta được" thì đó
cũng "âu là" tại Ông Chúa Trời mà thôi! Hoặc người viết viết ra như
thế để cho được ứng nghiệm với những lời tiên tri hầu chứng tỏ Jêsus
là “Ðấng” đã được báo trước trong Cựu-Ước đó chăng? Nếu vậy, đã biết
trước rằng mình sẽ chết và để "Cứu chuộc" cho loài người, tại
sao Chúa Con lại nhu nhược than thở, sợ sệt như một con người tầm
thường, không có chút thần thánh nào cả! Ðó là, sự "phản ý" của
những điều mà các vị viết Kinh Thánh đã không "nhất quán" được vấn
đề mình "ngụy tạo" để vinh danh cho một vì Giáo chủ, phải không quý
vị nhỉ?
Trong sách của Giăng, cũng nói đến sự phản
của Giu-đa Ích-ca-ri-ốt như là một điều "biết trước" như sau:
"6:70 Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta há chẳng
đã chọn các ngươi là mười hai sứ đồ sao? Mà một người trong các
ngươi là quỉ!"
Ðiều này lại đưa đến một tình trạng "mâu
thuẫn" khác: Vì Jêsus chuyên trị quỉ cho những người bị quỉ ám; các
quỉ đã từng sợ Jêsus: Jêsus chỉ cần phán thôi thì quỉ đã ra khỏi
người bệnh. Nhưng ông không thể trị được con quỉ đã ám Giu-đa
Ích-ca-ri-ốt và đã bị chết vì con quỉ đó; trong khi đó quỉ đã theo,
kề cận ông trong một thời gian dài gần trọn những năm ông còn sống
và đi truyền đạo. Thế, là điều khó suy nghĩ cho chúng ta và cũng là
chướng ngại để người ta giải thích cho Kinh Thánh được ổn thỏa, hợp
lý, hay ít ra là "nghe cho được"!
Giăng thường "ỡm ờ" khi viết những việc về
Jêsus bằng những ngôn từ có tính chất "thoái thác và ngụy biện" như:
"Giờ ta chưa đến" (2:4), (7:6), "vì thì giờ ta chưa trọn"
(7:8), "vì giờ Ngài chưa đến" (7:30), (8:20).
Và Giăng cũng không quên đặt vào miệng Jêsus
những lời "tự xưng" lẫn "hăm dọa" những người không tin, theo ông:
"8 23Ngài phán rằng: Các ngươi
bởi dưới mà có; còn ta bởi trên mà có. Các ngươi thuộc về thế gian
nầy; còn ta không thuộc về thế gian nầy. 24Nên ta đã bảo
rằng các ngươi sẽ chết trong tội lỗi mình; vì nếu các ngươi chẳng
tin ta là Ðấng đó, thì chắc sẽ chết trong tội lỗi các ngươi".
Hơn thế nữa, Jêsus còn nặng lời đối với người
"nhân thế" như sau:
"8:44 Các ngươi bởi cha mình, là ma quỉ,
mà sanh ra; và các ngươi làm sự ưa muốn của cha mình. Vừa lúc ban
đầu nó đã là kẻ giết người, chẳng bền giữ được lẽ thật, vì không có
lẽ thật trong nó đâu. Khi nó nói dối, thì nói theo tánh riêng mình,
vì nó vốn là kẻ nói dối và là cha sự nói dối".
Quý vị hãy xem sự giải thích của Jêsus về
"người mù từ thuở sanh ra" để thấy lòng dạ của Chúa Con "đẹp
đẻ" dường nào:
"9:3 Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ðó chẳng
phải tại người hay tại cha mẹ đã phạm tội; nhưng ấy để cho những
việc Ðức Chúa Trời được tỏ ra trong người".
"Thánh" Giăng quá "ác độc" khi viết lên điều
này, hay Thánh Giăng cố tình cho người đọc biết rằng Ông Chúa Trời
"tàn nhẫn" bắt người ta phải mù từ lúc mới sinh ra chỉ vì một việc:
Ðể chứng tỏ Ông Chúa Trời là Ðấng quyền phép được có chỗ thực hiện
phép lạ qua Chúa Con. Quả thật, Kinh Thánh viết những điều "mầu
nhiệm" và "sự mầu nhiệm" đó chỉ trong Kinh Thánh mới có mà thôi!
Ôi! Một Chúa Con đầy "ngạo mạn" như Thánh
Giăng đã từng viết, thế mà “Ngài” lại than thở não nùng thật là "cảm
động" thay!
"12 27Hiện nay tâm thần ta bối
rối; ta sẽ nói gì?... Lạy Cha xin cứu Con khỏi giờ nầy! Nhưng ấy
cũng vì sự đó mà Con đến giờ nầy! 28Cha ơi, xin làm sáng
danh Cha!"
Trong sách của Giăng có một đoạn khá lạ lùng,
tôi xin trích ra để quý vị cùng đọc và cùng suy nghĩ chơi cho vui:
"13 23Vả, có một môn đồ dựa vào
ngực Ðức Chúa Jêsus, tức là người mà Ngài yêu. 24Si-môn
Phi-e-rơ ra dấu cho người đó rằng: Hãy nói cho chúng ta biết thầy
phán về ai. 25Vậy, người nghiêng mình trên ngực Ðức Chúa
Jêsus, hỏi rằng: Lạy Chúa, ấy là ai?" (Now there was leaning on
Jesus' bosom one of his disciples, whom Jesus loved. Simon Peter
therefore beckoned to him, that he should ask who it should be of
whom he spake. He then lying on Jesus' breast saith unto him, Lord,
who is it?).
Tôi cũng tự hỏi rằng người môn đồ dựa vào
ngực Jêsus đó là ai? Ai mà được Jêsus yêu? Và tại sao Giăng lại viết
một cách kín đáo như vậy mà không chịu kể tên.
Kế đoạn đó, thì đến những câu sau:
"26Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ấy
là kẻ mà ta trao cho miếng bánh ta sẽ nhúng đây. Ðoạn Ngài nhúng một
miếng, rồi lấy cho Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, con trai của Si-môn. 27Liền
khi Giu- đa đã lấy miếng bánh, thì quỉ Sa-tan vào lòng người" (Jesus
answered, He it is, to whom I shall give a sop, when I have dipped
it. And when he had dipped the sop, he gave it to Judas Iscariot,
the son of Simon. And after the sop Satan entered into him).
Sự viết của Giăng quả có nhiều "bí ẩn": bí ẩn
về người được Chúa yêu, rồi lại đến bí ẩn về miếng bánh Chúa trao
cho Giu-đa vì "and after the sop Satan entered into Judas".
Nếu vậy, thì chính Jêsus đã đưa quỉ Sa-tan vào người của Giu-đa để
Giu-đa gây nên tội lỗi, rồi đỗ trút tội lỗi ấy cho Giu-đa. Thật là
một tội ác không thể tha thứ: Thầy mưu toan ám hại môn đồ của mình
để mình được vinh danh và Ông Chúa Trời được vinh hiển.
Ở trên đã như thế mà ở dưới Jêsus còn ban cho
các môn đồ một điều răn mới:
"13 34Ta ban cho các
ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như ta
đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể
ấy. 35Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà
thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta".
Jêsus lại thường kêu gọi môn đồ, mọi người
hãy tin vào ông, chẳng hạn như câu:
"14:1 Lòng các ngươi chớ hề bối rối; hãy
tin Ðức Chúa Trời, cũng hãy tin ta nữa" (Let not your heart be
troubled; ye believe in God, believe also in me).
Tại sao phải lại như thế? Người đủ khả năng
quyền phép, chinh phục mọi người mà cứ mãi kêu người ta "tin" vào
mình thì chẳng giảm giá trị của chính mình ư? Ðiều ấy "ngầm" chứng
tỏ đạo đức và những điều Jêsus làm chưa làm cho người ta tin vào ông
một cách hoàn toàn. Và cũng ở đó "nói lên" sự "ngạo mạn" của cái Ta
ở nơi Jêsus một cách thật là "rõ rệt", phải không quý vị?
Ðể chứng tỏ thêm, chỉ cần vài câu sau đó,
Giăng viết:
"14:6 Vậy Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Ta là
đường đi, lẽ thật, và sự sống; chẳng bởi ta thì không ai được đến
cùng Cha" (Jesus saith unto him, I am the way, the truth, and the
life; no man cometh unto the Father, but by me).
Chúng ta có thể tìm thấy được cái "khí khái"
của Jêsus chỉ trong sách của Giăng mà thôi! Giăng đã đặt những lời
thần thánh vào miệng của Jêsus thật xứng đáng là một người "từ Ðức
Chúa Trời" mà đến; và cũng "nhân danh" Chúa Trời để tự "vinh hiển"
cái Ta của mình. Lúc ông bị bắt, ông không sợ sệt, nao núng, sầu
khổ, mà:
"18:6 Vừa khi Ðức Chúa Jêsus phán: Chính
ta đây, chúng bèn thối lui và té xuống đất",
chỉ một câu trả lời mà làm cho người ta phải
"thối lui và té xuống đất" thì kể cũng lạ! Không biết Giăng
suy nghĩ như thế nào để viết nên câu này! Rồi Giăng diễn tả sự "hung
hăng" của vị Giáo Hoàng đầu tiên như sau:
"18:10 Bấy giờ, Si-môn Phi-e-rơ có một
thanh gươm, bèn rút ra, đánh đầy tớ của thầy cả thượng phẩm, chém
đứt tai bên hữu. Ðầy tớ đó tên là Man-chu".
Nhưng điều quan trọng nhất trong sách của
Giăng là nói đến một điều bí ẩn, mà điều bí ẩn đó đã được Leonardo
Da Vinci gửi gấm vào bức tranh "Bữa tiệc Thánh cuối cùng" (The Last
Supper), và Dan Brown dựa vào đó để đọc "bí ẩn" ấy qua tác phẩm văn
học "The Da Vinci code". Quý vị hãy đọc cùng tôi đoạn sau:
"19 25Tại một bên thập tự giá
của Ðức Chúa Jêsus, có mẹ Ngài đứng đó, với chị mẹ Ngài là Ma-ri vợ
Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len nữa, 26Ðức Chúa Jêsus thấy
mẹ mình, và một môn đồ Ngài yêu đứng gần người, thì nói cùng mẹ
rằng: Hỡi đờn bà kia, đó là con của ngươi! 27Ðoạn, Ngài
phán cùng người môn đồ rằng: Ðó là mẹ ngươi! Bắt đầu từ bấy giờ, môn
đồ ấy rước người về nhà mình". (Now there stood by the cross of
Jesus his mother, and his mother's sister, Mary the wife of
Cle'-o-phas, and Mary Mag-da-lene. When Jesus therefore saw his
mother, and the disciple standing by, whom he loved, he saith unto
his mother, Woman, behold thy son! Then saith he to the disciple,
Behold thy mother! And from that hour that disciple took her unto
his own home).
Với đoạn này, chúng ta kết nối với các câu
(13: 23,24,25) đã được trích dẫn ở phần trên, thì chúng ta có thể
hiểu Dan Brown "có lý" khi phân tích bức tranh "The Last Supper" của
Leonardo Da Vinci. Ðó là "bí ẩn" mà Giăng đã ngầm chứa trong sách
của Ông ta, ngoài những lời thật "Thánh" mà Ông ta đã đặt vào miệng,
ngôn từ của Jêsus. Chỉ có Giăng viết Jêsus "tương đối bình tĩnh" về
cái chết của mình. Nói là tương đối vì : Trong câu:
"12 27 Hiện nay tâm thần ta bối
rối; ta sẽ nói gì?... Lạy Cha xin cứu Con khỏi giờ nầy! Nhưng ấy
cũng vì sự đó mà Con đến giờ nầy! 28Cha ơi, xin làm sáng
danh Cha!"
thể hiện Jêsus vẫn có nhiều "lo lắng"!
Có điều làm cho tôi khó đoán ra: Tại sao
Giăng đã viết về sự "liên hệ" giữa Jêsus cùng Ma-ri Ma-đơ-len như
chúng ta dẫn chứng ra từ trong sách của Giăng; nhưng Giăng có điều
"e ngại, sợ sệt" nào đó, Giăng viết thêm đoạn sau để tránh đi "tai
họa" cho mình, hay làm chỗ tránh trách nhiệm đối với các môn đồ khác
một khi bị phát giác; ngoài điều gọi "môn đồ được Chúa yêu" bằng
ngôn từ của giống đực: "he, son, him":
"20 1Ngày thứ nhứt trong tuần
lễ, lúc rạng đông, trời còn mờ mờ, Ma-ri Ma-đơ-len tới mộ, thấy hòn
đá lấp cửa mộ đã dời đi. 2Vậy, người chạy tìm Si-môn
Phi-e-rơ và môn đồ khác, là người Ðức Chúa Jêsus yêu, mà nói rằng:
Người ta đã dời Chúa khỏi mộ, chẳng hay để Ngài tại đâu.
3Phi-e-rơ với môn đồ khác bèn
bước ra, đi đến mồ. 4Cả hai đều chạy, nhưng môn đồ kia
chạy mau hơn Phi-e-rơ, và đến mồ trước. 5Người cúi xuống,
thấy vải bỏ dưới đất; nhưng không vào".
Rồi, Giăng lại cho "môn đồ được Chúa yêu"
xuất hiện lần nữa trong câu "21:7 Môn đồ mà Ðức Chúa Jêsus yêu
bèn nói với Phi-e-rơ rằng: Ấy là Chúa".
Giăng lại càng khôn khéo hơn khi kết thúc
sách của mình cũng với "người môn đồ được Chúa yêu" như sau:
"21 20Phi-e-rơ xây lại, thấy
môn đồ mà Ðức Chúa Jêsus yêu đến sau mình, tức là người đương bữa ăn
tối, nghiêng mình trên ngực Ðức Chúa Jêsus mà hỏi rằng: Lạy Chúa, ai
là kẻ phản Chúa? 21Khi thấy người đó, Phi-e-rơ hỏi Ðức
Chúa Jêsus rằng: Lạy Chúa còn người nầy, về sau sẽ ra thế nào?
22Ðức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu ta muốn người cứ ở cho tới khi
ta đến, thì can hệ gì với ngươi? Còn ngươi, hãy theo ta"
Và Giăng kết luận:
"21:24 Ấy chính là môn đồ đó làm chứng về
những việc nầy và đã chép lấy; chúng ta biết lời chứng của người là
thật".
Mặc dù Giăng viết vậy, nhưng nếu ta đọc Kinh
Thánh một cách khách quan như một người nghiên cứu, một người đọc
tiểu thuyết để phê bình, nhận xét; gạt bỏ đầu óc thần học hay sự mê
muội cuồng tín thì chúng ta sẽ thấy đâu là thật, đâu là những điều
người ta thêu dệt và đâu là nơi, là đoạn người ta muốn tạo nên "thần
bí" để nhằm quảng bá "một đức tin". Hoặc người viết đang làm nhiệm
vụ của đạo diễn đang sắp xếp những nhân vật phải làm gì, diễn xuất
ra sao, và nói như thế nào theo sự sáng tạo của họ. Kinh Thánh cũng
không tránh khỏi điều đó! Nhất là những người có "đức tin mù quáng"
thì sự viết lại càng "mù quáng" hơn nhiều và tín đồ "mê muội" lại
càng tin vào những sự "mù quáng" đó một cách mãnh liệt mà cứ tưởng
là những sự thật đã xảy ra ở trên đời. Ðiều đó chúng ta đã thấy
những đặc điểm về Chúa Trời và Jêsus trong Kinh Thánh thật khác xa
với những gì mà người ta, tăng lữ, giáo hội đã ca tụng và vinh danh.
Nếu ai còn nghi ngờ xin đọc kỹ lại Kinh Thánh "coi thử" xem sao!
Gã Học Trò.
Tài liệu tham khảo và trích dẫn:
- Kinh Thánh, Cựu ước và Tân ước; United Bible
Societies; bản in 1990 tại Korea.
- The Holy Bible, The Old and New Testament; King
James Version; World Bible Publishers; Iowa Falls, IA 50126 U.S.A; bản
in Canada.
Bài của Gã Học Trò:
Góp Ý Cùng Cô Nguyễn Thị Hồng Loan (Gã Học Trò)
Tôi đọc "Sáng Thế Ký" (Gã Học Trò)
Tôi Đọc Tân Ước: Sách Lu-Ca (Gã Học Trò)
Tôi Đọc Tân-Ước: Sách "Giăng" (Gã Học Trò)
Tôi Đọc Tân-Ước: Sách "Mác" (Gã Học Trò)
Tôi Đọc Tân-Ước: Sách Ma-Thi-Ơ (Gã Học Trò)
Tôi Đọc Xuất Ê-Díp-Tô ký (Gã Học Trò)
Đức Mẹ Sầu Bi (Gã Học Trò)