|
14 tháng 10, 2010 |
LTS: Ở trong xã hội ảnh hưởng "văn minh" Thiên Chúa Giáo này, có nhiều việc
hiểu không nổi. Các "cán bộ quảng cáo Chúa" (cả chăn chiên lẫn con chiên) ở
nơi nào, ở lãnh vực nào (chính trị, lịch sử, ... và nhất là khoa học, là môn
học đã lật tẩy những điều dốt nát trong thánh kinh), cũng đem Thiên Chúa
vào, Chúa ở khắp mọi nơi (để làm vua, hoặc để nói tiên tri), nhưng đồng thời
họ cứ luôn bịt miệng thiên hạ bằng câu"không thể đụng đến tôn giáo" (nếu
không phải là ca ngợi)! Điều này không khác chi "vừa ăn cướp vừa la làng".
Văn hóa Đông phương (nhìn vào các làng quê bêb lương) không hề có quan niệm
"không được động đến tôn giáo". Điều này dễ hiểu, vì các tôn giáo Đông Phương không hề lấn
lướt, hay đòi làm vua ở khắp mọi nơi như thế.
Còn nhớ cách đây không lâu, trong bài “Xin Đừng Mắc Mưu Khiêu Khích Tôn Giáo, Một Sách Lược Của Cộng Sản” đăng ngày 22/07/2009, ông Chu Tất Tiến viết "Người có mục đích nghiên cứu tôn giáo phải là nguời nghiên cứu và có học vị về Tôn giáo". Đó là phản ứng "bịt tai" của ông Tiến trước các chỉ trích của các nhà trí thức đối với các "sản phẩm dỏm" của "các nhà quảng cáo Chúa" [xin xem lời phê về câu nói này trong bài
"Chuyện Dê Cỏn Buồn Sừng" Của GS Nguyễn Mạnh Quang"]. Lẽ ra phải nói rằng "muốn có thẩm quyền để bàn về điều gì thì phải có nghiên cứu nhiều về điều đó." Tiếc rằng các ông làm nghề quảng cáo Chúa là những người luôn đi đầu trong việc múa rìu qua mắt thợ. Chính cái bệnh thích xông vào tất cả mọi nơi, nên chính các ông đã "đụng" một cách vô trật tự vào những lãnh vực không chuyên môn. Chẳng may đôi khi chạm đúng chỗ chuyên môn của GS Trần Chung Ngọc, và đó là điều may mắn cho độc giả chúng tôi vì sẽ được một bài đọc thích thú. (SH)
Từ 19 tháng 5 cho đến 6
tháng 6, 2010, tổ chức
Pew Forum on Religion and Public Life đã thực hiện một cuộc thăm dò
trình độ hiểu biết của quần chúng về tôn giáo nói chung trên nước Mỹ. Ngày
thứ ba 28 tháng 9, 2010, Tổ chức đưa ra kết quả thật bất ngờ, làm cho giới
lãnh đạo Ki Tô Giáo bối rối, vì Mỹ là nước có gần 80% theo Ki Tô Giáo trong
đó có tới 23% là Công giáo. Kết quả là những người vô thần (atheists) về
hạng nhất, Do Thái hạng hai, Công giáo thua cả Tin Lành, và đặc biệt là
“Hispanic Catholic” về hạng bét, thua xa “White Catholic”, và “Tin Lành Đen”
cũng thua “Tin Lành trắng”. Điều này thật là dễ hiểu, nếu chúng ta hiểu ít
nhiều về Ki Tô Giáo.
Những sắc dân màu theo Ki
Tô Giáo thường là kém hiểu biết nhất về chính tôn giáo của họ khoan nói đến
sự hiểu biết về các tôn giáo khác. Vì thế, trong khi ở Âu Châu, cái nôi của
Công giáo trước đây, Công giáo đang suy thoái trầm trọng, số người đi lễ nhà
thờ chỉ còn vài phần trăm, và Giáo hoàng của Công giáo đang bị cả thế giới
lên án về tôi chủ động bao che các linh mục loạn dâm, thì ở các nước nghèo,
kém phát triển, giáo dân vẫn đi lễ nhà thờ nườm nượp, không chỉ ngày chủ
nhật mà còn cả những ngày thường, chỉ vì vẫn còn tin vào lời đe dọa bậy bạ
của giáo hội: không đi lễ nhà thờ là một trọng tội, đáng phải dày đọa hỏa
ngục, và vẫn tin Giáo hoàng là “Đức Thánh Cha”, là “Holy Father”, là đại
diện của Chúa trên trần (Vicar of Christ). Sau đây là bảng kết quả của cuộc
thăm dò ý kiến.
Rất tiếc là tổ chức trên
không biết đến “Vietnamese Catholic”, rất có thể score chỉ là 11.5, sát nút
“Hispanic Catholic”.
Sau đây chúng ta điểm qua
vài ý kiến trên Internet về kết quả cuộc thăm dò ý hiểu biết về tôn giáo
trên.
► Kết quả của cuộc thăm
dò ý kiến này hoàn toàn có nghĩa đối với tôi vì căn bản là, để cho những mục
đích tôn giáo, từ “đức tin” thường diễn đạt là không hiểu biết.
[The results of this poll
make total sense to me since basically, for religious purposes the word
"faith" generally translates to "ignorance"].
► Chúng ta hiểu rằng sự
khởi đầu của tôn giáo là vì quần chúng không hiểu biết tại sao lại có ngày
và đêm, tại sao trời mưa, tại sao một vài vị sao (hành tinh) lại di chuyển ở
trên trời v…v… Về sau, họ muốn an ủi sự đau khổ vì cha chết hay con chết,
do đó họ tạo ra “thiên đường”, một “nơi tốt đẹp hơn” Khi được hỏi rằng làm
sao mà một Gót đầy tình thương yêu lại để cho một đứa trẻ bị dã thú ăn thịt
thì họ bịa ra một sự “mâu thuẫn vĩ đại” – Gót hành động theo những cách bí
hiểm, và không phải chỗ của chúng ta chất vấn ông ta. Ah, thật là những
người không hiểu biết đáng thương.
[We understand that
religion started as ignorant people wondering how the sun and night cycles
worked, why it rained, why some 'stars' (planets) moved across the sky, etc.
Later, they wanted to console the grieved when a parent or child died, so
they made up 'heaven'; a 'better place'. When asked how a 'loving god' could
let a child be eaten by wild animals, they made up the 'big contradiction' -
'god works in mysterious ways, and it is not our place to question him'.
Ah, such poor, ignorant people.]
► Không lấy gì làm lạ là
hầu hết những người sùng tín tôn giáo lại biết rất ít về những gì họ tin.
Nếu họ tìm hiểu để biết thêm về lịch sử đức tin của họ, có thể là họ sẽ bỏ
đức tin đó. Nuôi dưỡng sự không hiểu biết chính là vì quyền lợi của tôn
giáo.
[It is not surprising
that most religious people know very little of what they believe. If they
learned more of the history of their faith, it is possible they might turn
away. It is in the religions' interest to keep this ignorance alive.]
► Càng tìm hiểu về căn
rễ, lịch sử, và những niềm tin của tôn giáo, con người càng có khuynh hướng
theo vô thần. Do đó, vô thần thường biết nhiều về tôn giáo.
[The more you study the
roots, history, and beliefs of formal religion, the more you tend toward
atheism. Therefore, atheists tend to know a lot about religion.]
Và sau đây là của một tín
đồ Ki Tô:
► Đối với những tín đồ
Ki Tô Giáo, chúng ta phải tin và đặt đức tin vào Chúa Ki Tô, và những lời
giảng dạy của ông ta như được mạc khải trong Kinh Thánh [Người viết câu
này nhất định chưa đọc Kinh thánh vì nếu đã đọc rồi thì phải biết Giê-su đã
giảng láo như thế nào. TCN] Mọi lý luận tôn giáo đặt căn bản trên bằng
chứng đều vô dụng. Kinh Thánh (Hebrew, 11:1) định nghĩa đức tin như là “sự
bảo đảm những điều mà chúng ta hi vọng, sự tin chắc vào những gì không
thấy”. Đức tin, đó là định nghĩa niềm tin của các tín đồ Ki Tô, và thiếu
đức tin là sự giải thích của những người vô thần.
[For Christians, we must
believe and have faith in Christ, and his teachings as revealed in
scripture. Any religious argument based upon proof is useless. The Bible
(Hebrews, 11:1) defines faith as "the
assurance of things hoped for, the conviction of things not seen". Faith,
that is what defines the belief of Christians, and lack of faith, the
explanation of atheists.]
Như vậy, rõ ràng là những tín đồ Ki Tô Giáo da màu thuộc loại mù lòa tin
bướng tin càn, tin vào những hi vọng viển vông về quyền năng cứu rỗi linh
hồn của một người Do Thái [Giê-su] trong khi Thánh Kinh đã viết rõ, chính
người đó đã khẳng định là chỉ cứu những người Do Thái mà thôi, không hề biết
đến Mít, Mễ là ai, và tin vào một thiên đường giả tưởng, tin chắc vào
những gì không thấy. Sự thiếu hiểu biết về chính tôn giáo của mình là một
vấn nạn to lớn của các tín đồ Ki Tô Giáo, nhất là Công giáo.
Không đọc Kinh Thánh nên họ chẳng biết gì về Kinh Thánh đã đành, nhưng ngay
cả những diễn biến trong Giáo hội họ cũng chẳng biết đến, chỉ biết cúi đầu
nghe mấy “bề trên” giảng láo, tiếp tục mê hoặc đầu óc họ bằng những điều đã
lỗi thời mà chính Tòa Thánh đã bác bỏ.. Thật vậy,
từ năm 1981, tòa thánh Vatican đã mời một số chuyên gia đến để cố vấn cho
tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, các chuyên gia được giáo hoàng
John Paul II tiếp kiến. Ông ta nói với các khoa học gia là “cứ tự nhiên
nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ lớn (big bang), nhưng
không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm
của Thượng đế.” (Stephen Hawking, A Brief History of Time, p.
116: He told us that it was all right to study the evolution of the universe
after the big bang, but we should not inquire into the big bang itself
because that was the moment of Creation and therefore the work of God).
Chúng ta nên để ý, Big Bang là hiện tượng nổ bùng của một dị điểm
(singularity) vô cùng đặc, vô cùng nóng, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay, và
đã xảy ra cách đây khoảng 13.7 tỷ năm chứ không phải là chỉ có từ 6000-10000
năm do sự “sáng tạo” (sic) trong 6 ngày của Gót của Ki-tô giáo như được
viết trong Kinh Thánh, được coi như những lời không thể sai lầm của Gót. Và
giáo hoàng nói câu trên chẳng qua chỉ để vớt vát phần nào mặt mũi của Gót,
Gót của những khoảng trống (God of the Gaps), một mặt mũi đã không còn chỗ
đứng trong thế giới tiến bộ trí thức và khoa học của nhân loại.
Rồi,
trước những khám phá khoa học liên hệ đến thuyết Tiến Hóa bất khả phủ bác
trong nhiều bộ môn của khoa học, năm 1996, Giáo hoàng John Paul II đã thú
nhận trước thế giới là:
“Thân xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của
Gót, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn
chỉ là một giả thuyết”. (Pope John Paul II has put the teaching
authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the
human body may not have been the immediate creation of God, but is the
product of a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh
knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just
a hypothesis”).
Còn
nữa, tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ
học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái
đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố:
“Thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là
một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction
nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng
phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là trạng thái hậu quả của những
thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này”
(Hell is not a
punishment imposed externally by God, but the condition resulting from
attitudes and actions which people adopt in this life).
Tại sao giáo hoàng lại
phán như vậy? Vì thật ra thì thử hỏi đã có ai biết thiên đường là như thế
nào, cảnh vật ở đó ra sao, mặt mũi Gót như thế nào, mặt mũi Giê-su ở trên đó
ra sao, trên đó có bao nhiêu thiên thần, bao nhiêu linh hồn, hạnh phúc trên
đó như thế nào, và cái đời sau của con người ở trên đó sinh hoạt ra sao v…v…
Trong lịch sử loài người tuyệt đối không có ai đã cho chúng ta biết những
điều trên. Tín đồ chỉ nghe bề trên giảng về thiên đường một cách mơ hồ,
hoang đường, phản khoa học, vô căn cứ, trong khi chính những bề trên đó lại
chẳng biết gì, cũng chỉ nghe các bề trên trước của họ nói tầm phào về thiên
đường mà thôi. Thiên đường của Ki Tô Giáo chẳng qua chỉ là một cái bánh vẽ
trên trời để mê hoặc những đầu óc yếu kém và vẫn được các bậc lãnh đạo Ki Tô
Giáo tiếp tục mê hoặc tín đồ dù rằng giới trí thức trong các giáo hội Ki Tô,
từ Giáo hoàng trở xuống cho tới các giám mục, linh mục, đã biết rõ đó chỉ là
chuyện hư cấu. Nếu thiên đường không phải là nơi để các tín đồ Ki Tô hi
vọng sống cuộc sống đời đời với Chúa của họ, lẽ dĩ nhiên sau khi chết, thì
chúng ta lại biết, qua những kiểm chứng của những nhà khoa học, là có nhiều
trường hợp, con người lại nhớ rõ kiếp trước của minh, mô tả rất chính xác
nơi mình ở trước, những người mình đã gặp trước , chứng tỏ rằng thuyết luân
hồi của nhà Phật không phải là không có cơ sở.
Chấp
nhận thuyết Big Bang, thuyết tiến hóa, chấp nhận con người không phải là do
Gót tạo ra tức thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần
và lâu dài, thú nhận không làm gì có thiên đường (một cái bánh vẽ trên trời
để dụ những người đầu óc mê mẩn, yếu kém), và hỏa ngục (một nơi để hù dọa
những người không tin Chúa), Giáo hoàng đã chính thức bác bỏ thuyết “sáng
tạo” của Ki Tô Giáo, phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài
người do Gót tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và
Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông. Do đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu
rỗi” của Giê-su chỉ là những luận điệu thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki
Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê
tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không
thực.
Thật vậy, sự kiện là, Giáo hoàng đã bác bỏ đức tin quan trọng
nhất trong Ki-tô giáo: Quyền năng “cứu chuộc”, “cứu rỗi” , “luận phạt” của
Giê-su, do đó hi vọng của các tín đồ Ki-tô về một cuộc sống đời đời trên
thiên đường cùng Giê-su chẳng qua chỉ là một ảo vọng, và sự luận phạt của
Giê-su đối với những tín đồ đạo Giê-su không tin ông ta chẳng qua chỉ là một
sự hù dọa đã không còn ý nghĩa.
Nhưng có vẻ như các tín
đồ Ca-tô không hề biết đến những lời tuyên bố trên của Giáo hoàng vì bị các
“bề trên” của họ bưng bít. Nhưng dù có biết họ cũng không tin. Niềm tin về
một thiên đường, hi vọng về một đời sống sau, quả là có tác dụng mãnh liệt,
ăn sâu vào tiềm thức của tín đồ. Bởi vậy mà chúng ta vẫn thấy các tín đồ
Mít, từ LM. Hoàng Minh Thắng, giáo sư thánh kinh tại
Roma, trong bài “Việc Tạo Dựng Trong
Thánh kinh và Khoa học”, cho tới
các con chiên như Chu Tất Tiến, mù tịt về khoa học mà lại viết bậy viết bạ
về khoa học trong bài “Những Thiếu Sót Trong Thuyết Tiến Hóa và Thuyết
“Big Bang””, hoặc Nữ tu Tố Nhung - Tu Hội Hiện Diện và Sống, trong bài
“Thiên Chúa Vũ trụ Con Người” vẫn tiếp tục mê sảng viết láo về sự tạo
dựng của Gót, cùng bài bác thuyết “Big Bang” về nguồn gốc vũ trụ, và thuyết
“Tiến Hóa” về nguồn gốc con người, trên Blog:
http://2010menchuayeunguoi.blogspot.com/,
Có vẻ như những người này
muốn chứng tỏ là trí tuệ của họ vượt xa trí tuệ của giáo hoàng của họ, nghĩa
là vượt xa Chúa của họ vì giáo hoàng là đại diện của Chúa trên trần, nắm
trong tay cái chìa khóa của một thiên đường mù. Nhưng thực ra thì bản chất
của họ chỉ là những con chiên có đầu óc của con chiên nằm ngoài sự tiến hóa
của nhân loại. Đọc mấy bài của họ, chúng ta thấy rõ sự mù mờ trong đầu óc
của họ, đầu óc của những con chiên đã bị thuần hóa, không biết làm gì hơn là
viết láo viết lếu để bảo vệ đức tin, thực ra là sự mê tín, của mình. Tôi
không có thì giờ phê bình mấy bài trên mà chỉ trích dẫn vài đoạn trong các
bài của họ để độc giả thấy đầu óc của họ thuộc loại nào. Tôi cũng không phê
bình những đoạn này mà chỉ đưa ra một số tài liệu khả tín mà trước đây tôi
đã đưa lên trang nhà giaodiemonline.com và sachhiem.net.
◄ ● ►
LM. Hoàng Minh Thắng, giáo sư thánh kinh tại Roma, viết:
Để giúp các người
đồng hữu duy trì niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất, cũng như tuân giữ ngày
sabat và xác tín về ơn gọi làm người cao cả của mình, các thầy tư tế đã
trình bầy một quan niệm thần học siêu việt về việc tạo dựng vũ trụ và con
người. Việc tạo dựng đó được thành toàn trong một thời gian biểu tượng là
một tuần lễ. Ở đây con người được tạo dụng nên giống hình ảnh của chính
Thiên Chúa. Nghĩa là con người là một tác phẩm tuyệt diệu do chính bàn tay
toàn năng, nhân từ và đầy yêu thương của Thiên Chúa làm nên… Rồi trước khi
tạo dựng nên con người, Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ và mọi loài mọi
vật, cùng sắp đặt khung cảnh sống cho con người nữa. Ngài tạo dựng tất cả
chỉ bằng một lời phán.
Như trên chúng ta đã
biết, chính Giáo hoàng John Paul II đã bác bỏ quan niệm thần học về con
người được Thiên Chúa tạo dựng. Ở Roma, ông LM Hoàng Minh Thắng tất nhiên
phải biết như vậy, nhưng rất có thể ông ta không được quyền biết đến như
tuyệt đại đa số tín đồ Ca-tô. Chắc chắn là ông LM này chưa hề đọc kỹ toàn
bộ cuốn Thánh Kinh bởi vì nếu đã đọc thì ông ta phải biết bản chất Thiên
Chúa của ông ta là như thế nào, bởi vậy mới nhai lại những câu vô nghĩa như
Thiên Chúa toàn năng, nhân từ và đầy yêu thương. Lẽ dĩ nhiên ông ta không
biết rằng Richard Dawkins trong cuốn “The God Delusion”, ấn bản 2008,
đã đưa ra tới 16 nhận định chính xác về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo. Mở đầu
Chương 2, trang 51, về “Giả Thuyết Về Thiên Chúa” [The God
Hypothesis], tác giả Richard Dawkins viết:
Không cần phải bàn cãi gì nữa, Thiên Chúa trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa
đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh
diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng
bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù;
một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ
đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con,
chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như
bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và
toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và
những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác
ôn thất thường.
[The God of the Old
Testament is arguably the most unpleasant character in all fiction: jealous
and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak; a vindictive,
bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist,
infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal,
sadomasochistic, capriciously malevolent bully.]
Tôi đã
chứng minh là 16 nhận định trên của Richard Dawkins về Thiên Chúa không sai,
trích dẫn những câu từ chính cuốn Thánh Kinh,
http://giaodiemonline.com/2009/03/god.htm. Sau đây là vài nhận định
điển hình:
1) Thiên Chúa có phải là một kẻ ghen tuông, đố kỵ hay không?
Xuất Ê-Díp-Tô Ký 20: 5 và Phục Truyền 5:9: Ta, Thiên Chúa của các ngươi, là một Thiên Chúa
ghen tuông đố kỵ,
sẽ trừng phạt tới ba bốn thế hệ sau của những kẻ nào ghét Ta (nghĩa là
những người đi thờ phụng Thần khác hay hình ảnh khác)
Xuất Ê-Díp-Tô Ký 34: 14:
… các ngươi không được thờ phụng Thần nào khác, vì Thiên Chúa, tên ông ta
là “Ghen Tuông, Đố Kỵ”, là một Thiên Chúa Ghen Tuông, Đố Kỵ
[for the Lord, whose name is Jealous, is a jealous God]
Phục Truyền 6: 15: Vì
Thiên Chúa của ngươi là một Thiên Chúa ghen tuông đố kỵ trong đám các
ngươi
[For the Lord your God is a jealous God among you]
Phục Truyền 29: 20: Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa và lòng ghen tuông đố kỵ của Người sẽ
đốt cháy người đó, và mọi sự nguyền rủa trong cuốn sách này sẽ đổ lên đầu
hắn [trong cuốn “Kinh Thánh”, Cựu Ước cũng như Tân ước, có rất nhiều lời
nguyền rủa. TCN]
Phục Truyền 32: 16: Chúng khiêu khích Thiên Chúa ghen tuông, đố kỵ với các Thần khác
[They provoked Him to jealousy with other gods]
2) Thiên Chúa có bất công, tự cho là có quyền năng làm ác và bất nhân không?
Xuất Hành 4:23: Nếu
ngươi (Vua Ai Cập) không để cho người Do Thái ra đi, Ta sẽ giết con của
ngươi, và ngay cả đứa con đầu lòng của ngươi.
Xuất
Hành 13:15: Thiên Chúa giết mọi đứa con đầu lòng trên đất Ai cập, con
đầu lòng của người cũng như con đầu lòng của các súc vật.
Xuất Hành 20: 5 và Phục Truyền 5:9:
Ta, Thiên Chúa của các ngươi, là một Thiên Chúa ghen tuông đố kỵ, sẽ trừng phạt tới ba bốn thế hệ sau của những kẻ nào ghét Ta
(nghĩa là
những người đi thờ phụng Thần khác hay hình ảnh khác)
Isaiah
14: 21: Hãy sẵn sàng để giết những đứa con vì tội của cha chúng.
Xin đọc
trong
http://skepticsannotatedbible.com/inj/ot_list.html, có liệt kê 878 vụ
bất công của Thiên Chúa trong Cựu ước.
Joshua 24:19: Ông ta
là một Thiên Chúa ghen tuông, đố kỵ; ông ta không tha thứ cho những
sự phạm pháp [nghĩa là thờ các thần khác] cũng như những tội lỗi của ngươi.
Jeremiah 11:14: Vậy
ngươi (Jeremiah) chớ cầu nguyện thay cho dân này (dân Giu-đa); chớ vì chúng
nó mà lên tiếng cầu nguyện; vì khi chúng nó cầu nguyện Ta khi bị hoạn nạn Ta
sẽ không nghe chúng. [Điều này: “Ta sẽ không nghe chúng” thật đã rõ
ràng ở Tòa Khâm Sứ và Thái Hà, vì Thiên Chúa không hề biết đến dân Việt, và
trong chương trình “cứu rỗi” của Giê-su không hề có người Việt như Tân Ước
đã viết rõ]
Jeremiah 14:12: Khi chúng nó (dân Giu-đa) nhịn ăn, và khi
chúng nó dâng cúng đồ nướng và bánh trái, Ta sẽ không nhận: nhưng ta sẽ diệt
chúng nó bằng gươm giáo, nạn đói và ôn dịch.
Ezekiel 8:18: Vậy Ta sẽ làm theo cơn giận của Ta: mắt ta sẽ
không đoái thương chúng nó, Ta cũng chẳng có lòng thương xót; và dù chúng
kêu van vào tai Ta, Ta cũng không thèm nghe chúng.
Chúng ta
hãy đọc vài câu trích từ Phục Truyền 28:15-68:
15-24: Nếu ngươi
không nghe theo lời phán của Thiên Chúa ngươi, không làm theo các lời răn và
luật pháp của Ngài thì mọi sự rủa sả sẽ giáng xuống trên mình ngươi.
Ngươi sẽ
bị rủa sả ở trong thành và ngoại đồng ruộng, cái giỏ và thùng nhồi bột của
ngươi cũng bị rủa sả…bông trái của đất ruộng ngươi, luôn với những con bò
con, chiên con của ngươi đều bị rủa sả.
Ngươi sẽ
bị rủa sả khi đi ra và lúc đi vào.. Thiên Chúa sẽ giáng xuống ngươi sự rủa
sả, kinh khủng, và hăm dọa cho đến khi ngươi bị hủy diệt.. Ngài sẽ khiến
cho ôn dịch theo đuổi ngươi cho đến khi ngươi bị hủy diệt khỏi trái đất…
Ngài sẽ giáng bịnh lao, bịnh nóng lạnh, bịnh phù, hạn hán, binh đao và sâu
bọ trong đồng lúa cho đến khi ngươi chết. Thay vì mưa, Ngài sẽ khiến cát
bụi từ trên trời sa xuống trên đất ngươi cho đến khi ngươi bị hủy diệt.
27:
Thiên Chúa sẽ giáng cho ngươi ghẻ chốc của xứ Ai Cập, trĩ lậu, ghẻ ngứa và
lác, mà ngươi không thể chữa lành..
53:
Ngươi sẽ ăn hoa quả của thân thể mình, tức là ăn thịt con trai và con gái
mình, mà Thiên Chúa ban cho ngươi.
Trong
Phục Truyền 28:15-68: còn có nhiều đoạn khác Thiên Chúa phán rất ác
ôn và ghê tởm mà tôi nghĩ không có một ác quỷ nào có thể độc ác và tàn bạo
như vậy.
3) Thiên Chúa có ưa trả thù không?
Phục
Truyền 32: 35: Sự báo thù sẽ thuộc về ta, phần đối trả sẽ qui về
ta, vì ngày khốn khổ của chúng đã gần kề.
Phục
Truyền 32:39-43: Ta giết cho chết…Ta làm cho bị thương…Ta sẽ báo thù
kẻ cừu địch ta… Ta sẽ làm cho các mũi tên của ta đẫm máu.. những lưỡi gươm
của ta đính đầy thịt… Vì Đức Chúa Trời sẽ trả thù máu của tôi tớ
Ngài, trả thù kẻ cừu địch Ngài.
Jeremiah 11:22 : Này, Ta sẽ phạt chúng nó; những người trai
tráng sẽ chết bởi gươm đao, con trai con gái của chúng sẽ chết bởi đói kém.
Jeremiah 46:10:
Ngày đó thuộc về Chúa.., ấy là ngày báo thù, Ngài sẽ báo thù
kẻ thù nghịch mình.
Micah 5:14:
Ta sẽ báo thù những nước không nghe theo ta, trong cơn thịnh nộ và
căm tức của ta.
4) Thiên Chúa có khát máu không?
Leviticus 4:17: Và
Thầy tế lễ sẽ nhúng ngón tay vào máu [của con bò bị giết để tế Thiên Chúa]
và rảy bảy lần trước Thiên chúa.
Leviticus 26:28-29:
Ta sẽ nổi giận, phạt tội các ngươi nặng gấp 7 lần. Và các người sẽ ăn thịt
con trai và con gái các ngươi. [And ye shall eat the flesh of your sons, and
the flesh of your daughters shall ye eat.]
Phục Truyền 32:39-42:
Ta giết cho chết…Ta làm cho bị thương…Ta sẽ báo thù kẻ cừu địch ta… Ta sẽ
làm cho các mũi tên của ta đẫm máu.. những lưỡi gươm của ta đính đầy thịt…
Thi Thiên 68: 21-23:
Thiên Chúa sẽ dẫm nát đầu kẻ thù của ông ta.. Và chân các người sẽ ngập máu
kẻ thù.
Isaiah 34: 6-8: Lưỡi
gươm của Chúa dính đầy máu… Đất đai của chúng sẽ ngập máu… Vì đó là ngày trả
thù của Thiên Chúa.
Độc giả nào thích ăn thịt
uống máu Chúa thì có thể đọc thêm những hành động khát máu của Thiên Chúa
trong cuốn Thánh Kinh như sau: Isaiah 49: 26; Isaiah 63: 2-6;
Jemeriah 19: 9; Jeremiah 46: 10; Jeremiah 48: 10; Ezekiel 39: 17, 18, 19;
Zephaniah 1: 17. Cũng xin đọc ở đây:
http://skepticsannotatedbible.com/cruelty/ot_list.html danh sách 769
hành động độc ác trong Cựu Ước. [See
here for a list of 769 Old Testament cruelties.]
5)
Thiên Chúa có phải là một kẻ khát máu diệt dân tộc khác không?
Deutoronomy 13:15: Các
ngươi phải dùng kiếm tận diệt tất cả dân chúng trong thành (vì họ đi thờ
thần khác), phá hủy hoàn toàn tất cả những gì trong đó, và cả mọi súc vật
trong đó.
1
Samuel 15: 2-3: Ta
sẽ trừng phạt dân Amalek và phá hủy tất cả những gì chúng có và giết hết
không chừa ai: đàn ông, đàn bà, con trẻ, con nít mới sinh, bò, cừu, lạc đà
và lừa của chúng.
6) Thiên Chúa có dạy cha mẹ giết con không?
Lê-vi 20: 9:
Đứa con nào rủa cha hay mẹ mình thì phải mang ra giết đi.
Lê-Vi 21: 9:
Nếu con gái của thầy tế lễ làm nghề mãi dâm, xúc phạm cha mình, người con
gái ấy phải mang đi thiêu sống.
Phục truyền 13: 6-10:
Nếu anh em ngươi, con trai hay con gái ngươi, vợ ngươi hay bạn ngươi, khuyến
dụ ngươi đi thờ các thần khác, thần của các nước lân bang hay xa xôi.., thì
ngươi phải giết nó đi, trước hết là đích thân tay ngươi phải ném đá để cho
nó chết, rồi sau mới đến tay của dân chúng.
[Nếu luật này cũng được áp dụng đối với các
tôn giáo khác thì mọi nhà truyền giáo Ki Tô, từ Alexandre de Rhodes cho tới
Puginier v..v…, và các nhà truyền đạo Tin Lành trên thế giới đều phải bị ném
đá cho chết đi. Nhưng mừng thay, chẳng có đạo nào ở Á Đông lại ác ôn như
đạo Thiên Chúa]
Psalm 137: 9:
Phúc cho kẻ nào đem những con trẻ của ngươi đập vào đá cho chết [Happy shall
he who takes and dashes your little ones against the rock]
Tôi
không hiểu ông LM Hoàng Minh Thắng đã đọc những câu trên trong Thánh Kinh
chưa và đã bao giờ giảng cho tín đồ nghe về những hành động “nhân từ yêu
thương” của Thiên Chúa như trên hay không. Tiếp đến ông LM viết về khoa
học:
Khoa thiên văn và vũ trụ học ngày nay cho chúng
ta biết rằng thế giới đã có từ 30 tỉ năm nay, và vũ trụ không chỉ gồm thái
dững hệ, trong đó có trái đất của chúng ta và 200 tỉ ngôi sao thuộc giải
ngân hà mà thôi, nhưng còn có hằng hà sa số các giải ngân hà khác nữa, cũng
như các tinh tú nằm cách xa trái đất đến 2 tỉ năm ánh sáng, tức là chừng
19.000 tỉ lần tỉ cây số. Các giải ngân hà ấy chuyển động xa rời nhau với tốc
độ tương đương với khoảng cách có giữa chúng.
Dựa trên những
điều này khoa học đưa ra thuyết vũ trụ lan rộng mọi phía. Để giải thích sự
hình thành của vũ trụ người ta đưa ra giả thuyết vụ nổ khai nguyên. Theo đó
ban đầu tất cả mọi chất liệu trong vũ trụ đều kết hợp trong một hạt nhân
nguyên thủy duy nhất. Hạt nhân đó phát xuất từ đâu không ai biết rõ. Tiếp
đến hạt nhân khai nguyên ấy nổ tung ra. Các mảnh phát xuất từ vụ nổ này đụng
chạm cọ xát nhau và cấu tạo thành hằng trăm tỉ vũ trụ, như vũ trụ của chúng
ta ngày nay. Vụ nổ ấy xảy ra cách đây chừng 20 tỉ năm. Và trong tiến trình
hình thành dài đó của vũ trụ, thì trái đất là thành phần li ti của một trong
hằng hà sa số các giải ngân hà. Với thời gian, vỏ của trái đất nguội dần đi.
Tiếp đến là sự cấu tạo các điều kiện cần thiết cho sự sống như nước, khí,
cây cỏ thảo mộc, thiên nhiên, súc vật. Và con người đã chỉ xuất hiện trên
trái đất này vào khoảng kỷ thứ tư mà thôi tức là cách đây khoảng một triệu
năm. Kỷ thứ tư là thời gian ngắn trong quá trình hình thành dài đằng đẵng
của vũ trụ, gồm 3 triệu năm cuối cùng trong lịch sử vũ trụ.
Trên đây là đại
khái một vài dữ kiện khoa học, nhưng chúng chỉ là những phỏng đoán, chứ
không có gì chính xác. Bởi vì thực ra không ai biết được chính xác loài
người đã xuất hiện trên trái đất này “lúc nào”. Nghĩa là đối với các vấn đề
liên quan đến sự hình thành của vũ trụ và sự hiện diện của loài người trên
trái đất này, khoa học cũng mù tịt, và không cung cấp cho chúng ta dữ kiện
nào chính xác và thỏa đáng. Tất cả vẫn chỉ là những giả thuyết, những dự
đoán hữu lý mà thôi.
Tôi phải nói rằng kiến thức khoa học của LM Hoàng Minh Thắng là một con
số không vĩ đại. Ông ta không hiểu ngay cả thế nào là một giả thuyết. Lẽ
dĩ nhiên không ai biết được chính xác là loài người đã xuất hiện trên trái
đất lúc nào, kể cả Thiên Chúa trong Kinh Thánh. Ông LM thử nói xem trong
Thánh Kinh, chính xác là “lúc nào” thì loài người xuất hiện trên trái đất.
Lúc Gót nặn con người ra từ đất sét? Nhưng lúc đó là lúc nào?? Tuy không
biết chính xác, nhưng khoa học biết rằng vũ trụ đã hình thành như thế nào,
cách đây bao lâu, và con người cũng vậy, đã từ đâu mà ra, với tất cả những
bằng chứng khoa học mà không ai có thể phủ nhận, trong khi Kinh Thánh đích
thực mới là mù tịt, không đưa ra bất cứ một bằng chứng nào, tất cả chỉ tin
vào những lời Gót phán mà ngày nay những bằng chứng khoa học đã chứng tỏ
rằng đó chỉ là những lời phán bậy. Thật vậy:
Theo Thánh Kinh thì Gót (God) của Ki-Tô Giáo tạo ra ánh sáng bằng một
lời phán: "Có ánh sáng nè", ánh sáng liền hiện ra. Có một thắc mắc
cần nêu lên: Khi đó chỉ có một mình Gót, chưa có con người, vậy ai là người
ở đó để mà nghe thấy Gót nói: "Có ánh sáng nè" và viết lại trong Cựu
Ước như vậy? Thắc mắc này cũng áp dụng cho mọi lời “Rồi Gót nói”
(Then God said..) trong Cựu Ước “trước khi” Gót tạo ra con người. Do đó
huyền thoại trong Sáng Thế Ký hoàn toàn vô nghĩa vì không ai có thể biết
được Gót làm gì lúc “ban đầu”. Giáo hội dạy rằng Ngũ Kinh (5 quyển đầu
trong Cựu Ước) là những lời mạc khải của Gót cho Moses viết, nhưng chúng ta
có quyền không tin đó thật sự có phải là những lời mạc khải của Gót hay
không hay chỉ là giáo hội bịa ra.. Mà đúng là giáo hội phịa ra vì ngày nay
tất cả các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đều khẳng định rằng Ngũ Kinh tuyệt
đối không phải là những lời “mạc khải” của Thần cho Moses, vì Moses không
phải là tác giả của Ngũ Kinh trong Cựu Ước. Cho nên, ngay từ đầu,
chuyện Sáng Thế trong Cựu Ước chỉ là chuyện tưởng tượng của dân Tộc Do Thái,
nghĩ ra để giải thích nguồn gốc vũ trụ và con người, phù hợp với lịch sử và
niềm tin của họ khi đó. Theo tác giả Ngô Triệu Lịch thì tất cả chỉ là đoán
mò, và Ki Tô Giáo đã được xây dựng trên một nền Thần Học đoán mò.
Điều thú vị là, ngày nay ai cũng làm được cái chuyện Gót của Ki Tô Giáo
làm lúc “ban đầu”, cách đây khoảng 6000 năm trong khi vũ trụ đã hiện hữu
khoảng 14 tỷ năm, và trái đất của chúng ta cũng đã hiện hữu khoảng 4 tỷ rưỡi
năm. Chúng ta chỉ cần nói: "có ánh sáng nè" và tay bật một công-tắc điện là
có ngay ánh sáng. Điều này thì Gót toàn năng toàn trí của Ki Tô Giáo làm
không được, khi Gót “sáng tạo” (sic) ra thế giới, Gót không biết điện là gì
vì con người chưa phát minh ra điện cho nên chúng ta không hiểu Gót Chúa tạo
ra ánh sáng loại nào.
Rồi “Thánh Kinh” viết tiếp, Gót chia ánh sáng đó ra làm hai phần, sáng
và tối, gọi phần sáng là ngày và tối là đêm. Chuyện vớ vẩn, ánh sáng có thể
chia ra làm hai phần hay sao? Chúng ta đang ở ngoài sáng, ban ngày, bước
vào một phòng tối kín mít để rửa ảnh chẳng hạn, khi ở trong phòng đó thì lúc
đó là ngày hay đêm? Gót gọi ngày và đêm bằng tiếng nước nào, tiếng Hi Lạp,
Do Thái hay tiếng Lèo, và tại sao lại gọi bằng tiếng nước đó.
Mặt khác, ngày và đêm chỉ có nghĩa đối với con người trên trái đất, và
tùy thuộc vị trí của mặt trời đối với trái đất. Thí dụ, ở bên Mỹ (tùy nơi)
là 12 giờ đêm thì ở Việt Nam đã là trưa ngày hôm sau. Cho nên, chúng ta
không thể có một ý niệm nào về ngày và đêm nếu không có mặt trời và chuyển
động biểu kiến (có nghĩa là thấy vậy mà không phải vậy) của mặt trời đối
với trái đất. Thời gian mặt trời soi sáng phần nào của trái đất thì ở đó ta
gọi là ngày. Khoảng thời gian không có ánh sáng mặt trời chiếu vào thì gọi
là đêm. Do đó, không ai có thể chia ánh sáng mặt trời thành hai phần, sáng
và tối, vì mặt trời là một khối lửa vĩ đại, luôn luôn tỏa chiếu ánh sáng.
Trí tuệ của những người viết Cựu Ước chưa đạt đến trình độ để hiểu những
hiện tượng trong vũ trụ cho nên viết là Gót của họ chia ánh sáng làm hai
phần sáng và tối. Chưa kể là trong ngày thứ nhất, Gót chưa tạo ra mặt trời,
mặt trăng, sao v...v..., vậy cái ánh sáng Gót tạo ra là loại ánh sáng nào.
Đó chẳng qua chỉ là một cách giải thích của những người tin vào quyền phép
của một vị Thần mà họ tin, những người có đầu óc thuộc thời bán khai, cách
đây khoảng từ 2500 đến 2900 năm, thời gian 400 năm bốn môn phái Jehovah (J),
Elohim (E), Deuteronomy (D), và Priest (P) dùng để viết Ngũ Kinh mà "người
ta" vẫn rao giảng là do Gót mặc khải cho Moses viết..
Những bằng chứng về thuyết Big Bang là gì? Tôi không đi vào chi tiết,
chỉ liệt kê những bằng chứng càng ngày càng chứng tỏ tuyết Big Bang là đúng,
ít ra là đúng hơn thuyết Sáng Tạo cả triệu lần. Muốn biết thêm chi tiết về
thuyết Big Bang độc giả có thể đọc trên
http://www.sachhiem.net/TCN/TCNkh/TCNkh00.php
Edwin Hubble (1889-1953)
|
Năm 1929, Edwin Hubble nhận ra một hiện tượng kỳ lạ: có vẻ như các thiên hà
càng ngày càng di chuyển ra xa chúng ta. Hiện tượng trên chính là căn bản
thuyết lý của Big Bang. Nếu ngày nay chúng ta có bằng chứng khoa học rằng
vũ trụ đang nở rộng thì đi ngược thời gian chúng ta có thể tưởng tượng rằng
vũ trụ trước đây nhỏ hơn bây giờ, trong đó các thiên hà gần nhau hơn. Tiếp
tục đi ngược thời gian, chúng ta có thể thấy rằng, một thời nào đó, các
thiên hà phải rất gần nhau, chồng chất lên nhau, không còn khoảng không gian
nào giữa các thiên hà hay vật chất trong vũ trụ. Luận cứ này đưa tới quan
niệm về Big Bang: vũ trụ thành hình do một sự nổ bùng lớn của một dị điểm vô
cùng đặc, vô cùng nóng (vì tất cả vật chất trong vũ trụ được ép lại thành
một điểm). Einstein đã từng thú nhận là sai lầm lớn nhất của ông ta là cho
vào các phương trình của ông ta một hằng số vũ trụ mà Einstein cho vào để
triệt tiêu sự nở rộng của vũ trụ, theo quan niệm về một thế giới cố định,
thường hằng. Sau khi Hubble đưa ra bằng chứng là vũ trụ đang nở rộng thì
các khoa học gia đã lấy lại những phương trình của Einstein, bỏ đi hằng số
vũ trụ, kết quả là các phương trình này mô tả rất chính xác vũ trụ của chúng
ta thực sự hình thành từ một Big Bang.. Các phương trình của Einstein cho
phép chúng ta đi ngược thời gian tới một thời điểm mà tất cả vũ trụ được thu
gọn trong một điểm mà danh từ khoa học gọi là "dị điểm" (singularity), một
thời điểm vào khoảng 0.0001 (một phần mười ngàn) của một giây đồng hồ (10-4
sec.) sau khi dị điểm bùng nổ, khi đó nhiệt độ của dị điểm là khoảng
1.000.000.000.000 (một ngàn tỷ) độ tuyệt đối (1012
oK),
nhiệt độ tuyệt đối K cao hơn nhiệt độ bách phân C là 273.16 độ, do đó 0
độ K tương đương với -273.16 độ bách phân C, và tỷ trọng của dị điểm là
100.000.000.000.000 (một trăm ngàn tỷ) gram (1014 g) cho một phân
khối. Để có một ý niệm về các con số trên, nhiệt độ ngoài biên của mặt
trời chỉ vào khoảng 6.000 độ, và tỷ trọng của nước chỉ là 1 gram cho một phân
khối. Một điểm quan trọng trong thuyết Big Bang mà chúng ta cần hiểu là:
không phải dị điểm nổ bùng và nở rộng trong một không gian hay vũ trụ có
sẵn, thí dụ như pháo bông nổ trên trời, mà là thời gian và không gian được
gói ghém trong dị điểm, nghĩa là thời gian và không gian của vũ trụ ngày nay
được sinh ra cùng với sự nổ bùng của dị điểm.
Sự
kiện vũ trụ đang nở rộng đã là một sự kiện khoa học, không ai có thể phủ
nhận. Nhưng sự kiện này có phải là "tiếng nói cuối cùng" của các khoa học
gia về thuyết Big Bang hay không? Không hẳn, vì thuyết Big Bang lại đưa đến
nhiều vấn đề khác cần phải kiểm chứng để cho thuyết này được công nhận.
George Gamow (1904-1968)
|
Cũng vì vậy mà trong thập niên 1940, George Gamow đã từ thuyết Big Bang
tiến thêm một bước và tiên đoán sự hiện hữu của một bức xạ nền (background
radiation) trong vũ trụ. Gamow áp dụng môn vật lý nguyên lượng (quantum
physics) vào việc khảo sát những sự tương tác hạt nhân (nuclear
interactions) phải xảy ra trong quả cầu lửa khi Big Bang vừa mới nổ chưa
được một giây đồng hồ. Khi đó, quả cầu lửa, do dị điểm nổ tung ra, gồm các
hạt nhân của nguyên tử hydrogen, còn gọi là dương tử (proton), trung hòa tử
(neutron), điện tử (electron), và các hạt khác. Gamow tính ra rằng vào
khoảng 25% các hạt proton được biến cải thành hạt alpha, nhân của nguyên tử
Helium, gồm 2 proton và 2 neutron, phù hợp với sự cấu tạo của các ngôi sao
được thành lập khi vũ trụ mới thành hình, được ghi nhận trên các quang phổ
ánh sáng của các ngôi sao này. Kết quả là quả cầu lửa vô cùng nóng này chứa
đầy ánh sáng (bức xạ) có độ dài sóng ngắn dưới dạng tia X và tia Gamma.
Gamow và nhóm nghiên cứu của ông kết luận là những bức xạ ban khai này của
Big Bang, dù đã nguội đi rất nhiều qua mười mấy tỷ năm, nhưng vì không thể
thất thoát đi đâu được, nên vẫn còn tồn tại đầy trong vũ trụ hiện nay, tạo
thành một bức xạ nền, nghĩa là bức xạ có khắp mọi nơi trong vũ trụ. Đây
chính là dấu tích của Big Bang để lại, nếu thực sự vũ trụ này sinh ra từ một
Big Bang.
Năm 1948, hai sinh viên trong nhóm nghiên cứu của Gamow là Ralph Alpher và
Robert Herman đã tính ra được nhiệt độ tương ứng với bức xạ nền này vào
khoảng 500K, nghĩa là -268 độ Celsius hay nhiệt độ bách phân
(dưới nhiệt độ 00 của nước đá 268 độ). Lẽ dĩ nhiên, kết quả này
tùy thuộc nhiệt độ ban đầu của Big Bang và tuổi của vũ trụ, vì chúng ta có
thể tính ra nhiệt độ của bức xạ nền hiện nay bằng cách lấy nhiệt độ ban khai
của Big Bang chia cho căn số bậc hai của tuổi vũ trụ, tính bằng giây đồng
hồ.
Sự tiên đoán lý thuyết của Gamow và nhóm nghiên cứu của ông về một bức xạ
nền, dấu tích của Big Bang để lại, không được giới khoa học để ý đến nhiều,
tuy cũng có vài nhóm nghiên cứu khác tính ra nhiệt độ của bức xạ nền là vào
khoảng vài độ tuyệt đối.
Một
phần vì chưa có kỹ thuật đo nhiệt độ thấp (khoảng -2700 C) nên
không thể kiểm chứng tiên đoán của Gamow, một phần vì thuyết Big Bang chưa
có tính cách hoàn toàn thuyết phục. Mãi tới năm 1965, Arno Penzias và
Robert Wilson ở trung tâm khảo cứu của hãng Bell (Bell Research
Laboratories), thiết kế một cái ăng-ten lớn hình loa để dùng trong sự liên
lạc viễn thông với các vệ tinh, ngẫu nhiên dò ra được một loại âm thanh vi
sóng vô tuyến thuần nhất khắp nơi (microwave radio noise coming uniformly
from all over the sky). Âm thanh này chính là bức xạ nền đã tiên đoán bởi
Gamow trước đó hơn 20 năm. Thực nghiệm đã kiểm chứng lý thuyết, và điều này
đã thuyết phục hầu hết các nhà vũ trụ học về quan niệm vũ trụ sinh ra từ một
Big Bang. Penzias và Wilson được trao tặng giải Nobel vào năm 1978 về những
khám phá tình cờ này. 20 năm tiếp theo sự khám phá của Penzias và Wilson,
nhiều nhóm nghiên cứu trên thế giới đã đổ xô vào việc kiểm chứng sự hiện hữu
của bức xạ nền, dấu tích của Big Bang để lại, và ngày nay, nhiệt độ của bức
xạ nền được mọi người công nhận là 2.70K.
Tới đây, có lẽ chúng ta cho rằng câu chuyện Big Bang đã dứt khoát, không
còn ai có thể nghi ngờ gì nữa về nguồn gốc của vũ trụ, trừ những người mê
mẩn với thuyết sáng tạo (creationist). Không hẳn vậy, vì tới thập niên
1980, các nhà vũ trụ học không cảm thấy hoàn toàn hài lòng về những kết quả
liên hệ tới một bức xạ nền trong vũ trụ. Sự hiện hữu của một bức xạ nền đã
được kiểm chứng dứt khoát, nhưng vấn đề là nó nhuyễn quá (too smooth), nó
đồng đều khắp mọi phương trong vũ trụ. Bất kể đo từ hướng nào nó cũng như
nhau, thuần nhất (uniform). Điều này làm cho các nhà vũ trụ học bối rối.
Vì, nếu trong vũ trụ nở rộng này chỉ có toàn là bức xạ thì sự thuần nhất của
bức xạ nền không thành vấn đề. Nhưng chúng ta đã biết, trong vũ trụ có cả
tỷ thiên hà, và mỗi thiên hà có đến cả tỷ ngôi sao, nghĩa là trong vũ trụ có
những lượng vật chất rất lớn. Theo các nhà vũ trụ học thì sự hiện hữu của
những khối lượng vật chất lớn, vô cùng lớn, trong vũ trụ sẽ tạo ra những vân
(ripples) trong bức xạ nền, nghĩa là bức xạ nền không thể nào quá nhuyễn mà
phải không đồng đều, dù sự sai biệt này vô cùng nhỏ. Điều này sẽ gây nên
những vân trong bức xạ nền, nghĩa là bức xạ nền không thể quá nhuyễn như
những kết quả đo lường đã chứng tỏ. Đây chính là mắt xích cuối cùng trong
việc xác định thuyết Big Bang, không kiếm được cái mắt xích này, thuyết Big
Bang không có căn bản vững chắc.
Các khoa học gia đã hầu như thất vọng vì
kỹ thuật trong đầu thập niên 1990 không thể kiểm chứng được sự hiện hữu của
các vân trong bức xạ nền. Nhưng vào tháng 4 năm 1992, vệ tinh COBE (COsmic
Background Explorer) của cơ quan thám hiểm không gian Hoa Kỳ (NASA) đã dò ra
được những vân trong bức xạ nền với những sai biệt đúng như sự tiên đoán của
các khoa học gia. Thuyết Big Bang không còn là một thuyết nữa mà trở
thành một sự kiện khoa học (scientific fact) và cả thế giới loài
người đều công nhận sự kiện này về nguồn gốc của vũ trụ. Lẽ dĩ nhiên thế
giới loài cừu nằm ngoài những kiến thức khoa học này.
Thật vậy, ngày 30 tháng 4, 2001, báo Chicago Tribune loan tin “Những nhà
thiên văn của đại học Chicago đã phổ biến những kết quả đo lường chi tiết về
những vân trong bức xạ nền (background radiation) còn lại từ khi vũ trụ sinh
ra từ một Big Bang.” (University of Chicago astronomers on Sunday released
finely detailed measurements of radiation from the birth of the universe,
capturing an unprecedented snapshot of acoustic waves rippling from the
cataclysm of Big Bang). Những kết quả này đã góp thêm bằng chứng là vũ trụ
đã sinh ra từ một Big Bang (Evidence of cosmic explosive growth)
Và ngày 12 tháng 2, 2003, báo chí cũng như các đài TV Mỹ đã loan tin là cơ
quan thám hiểm không gian Hoa Kỳ (NASA) đã đưa ra những hình ảnh chụp bởi vệ
tinh Microwave Anisotropy Probe (MAP), được phóng lên không gian vào tháng
6, 2001, lên xa trái đất 1 triệu 6 trăm ngàn cây số (1.6 MKm), về một vũ trụ
ở thời điểm vài ngàn năm sau Big Bang, 200 triệu năm sau, và 13,7 tỷ năm
sau. Những hình ảnh này đưa đến sự định tuổi chính xác nhất của vũ trụ là
13,7 tỷ năm và thời gian này chiếm nửa đời sống của vũ trụ, nghĩa là
vũ trụ này chỉ còn tồn tại khoảng 14 tỷ năm nũa thôi. (Universe: Data reveal
birth, life, eventual end [The remarkable portraits capturing the afterglow
of the Big Bang – called the cosmic microwave background – were released by
NASA on Tuesday. They provide the most accurate dating of the universe’s
birth – 13.7 billion years ago – and suggest that it is now going through a
midlife crisis]) . Ngoài ra, các khoa học gia ở CERN (Conseil Européen pour
la Recherche Nucléaire), Geneva, đã làm thí nghiệm tái tạo hiện tượng Big
Bang với máy tăng tốc LHC [Large Hadron Collider].
Lẽ dĩ nhiên, LM Hoàng
Minh Thắng mù tịt, không biết về những tiến bộ trong khoa vũ trụ học. Ông
ta cũng không thể hiểu thế nào là một giả thuyết, thế nào là một thuyết khoa
học và qua những kiểm chứng thuyết khoa học đã trở thành sự kiện khoa học,
cho nên ông ta vẫn mê sảng trong niềm tin vào những điều hoang đường phi
khoa học và viết nhảm là: đối với các vấn đề liên
quan đến sự hình thành của vũ trụ và sự hiện diện của loài người trên trái
đất này, khoa học cũng mù tịt, và không cung cấp cho chúng ta dữ kiện nào
chính xác và thỏa đáng. Tất cả vẫn chỉ là những giả thuyết, những dự đoán
hữu lý mà thôi.
Lý thuyết được kiểm chứng
là phù hợp với những sự kiện tuyệt đối không phải là những dự đoán mà chính
là những tường trình rất đáng tin cậy về thế giới hiện thực. Những bằng
chứng về thuyết Big Bang ở trên đã chứng tỏ như vậy. Thật là tội nghiệp cho
các con chiên có những giới chăn chiên có đầu óc như của LM Hoàng Minh
Thắng.
◄ ● ►
Bây giờ chúng hãy đọc ông văn sĩ Chu Tất Tiến viết bậy về “Những Thiếu
Sót Trong Thuyết Tiến Hóa Và Thuyết “Big Bang””. Nếu ông Chu Tất Tiến
hiểu được hai thuyết này thì tôi tình nguyện đi nhờ LM Hoàng Minh Thắng rửa
cho cái tội không hề có của nhân loại . Sự vô liêm sỉ của Chu Tất Tiến là
chẳng hiểu gì về khoa học mà cứ tán láo về khoa học và viết khơi khơi không
cần dẫn chứng. Tôi sẽ không phê bình những gì Chu Tất Tiến viết về Big
Bang, đại loại cũng cùng một luận điệu như LM Hoàng Minh Thắng. Trước hết
chúng ta hãy nghe nhà văn Chu Tất Tiến giảng một bài dỏm về khoa học:
Trong các môn khoa học thực nghiệm,
khi nói đến các khám phá được thu dụng, người ta chia ra làm ba cấp độ: Giả
thuyết (Hypothesis), Lý thuyết (Theory), và Luật (Law). Trước hết, một nhà
khoa học tìm thấy một thay đổi lạ, một liên hệ lạ giữa các vật chất, ông ta
sắp xếp các liên hệ hay sự tìm thấy mới lạ đó thành một hệ thống và gọi hệ
thống lý luận mới đó là một Giả Thuyết. Nhà khoa học đó trình bầy giả thuyết
của mình cho các nhà khoa học khác để cùng nghiên cứu. Sau khi lập đi lập
lại giả thuyết đó và đa số tìm được một lập luận tương đối vững chắc, giả
thuyết ấy được các khoa học gia gọi là Lý Thuyết. Nếu lý thuyết ấy đứng vững
trước mọi thử thách qua mọi thời đại, hoặc có thể được chứng minh bất cứ lúc
nào cũng đúng, không còn ai phê bình, chỉ trích nữa, lúc ấy Lý Thuyết mới
biến thành Luật và mọi người phải tuân theo.
Trong khoa học không có Luật. Law trong
khoa học không phải là Luật mà là “Định Luật”. Từ “Luật” chỉ để dùng trong
ngành Tư Pháp hay trong Ki Tô Giáo, những luật mà con người hay tín đồ phải
theo. Lý thuyết không bao giờ biến thành Luật mà mọi người phải tuân theo.
Chỉ có những người học về nó, hiểu nó, mới dùng được nó. Lý Thuyết cần
những chứng minh phức tạp, trong khi Định Luật là một khẳng định ngắn gọn về
sự kiện đã được chấp nhận là đúng và phổ quát (nghĩa là đúng khắp mọi nơi)
nhưng còn cần phải mô tả, giảng giải nhiều mới có thể hiểu. Định Luật khoa
học thì giống như là những định đề toán học [mathematical postulates]. Tôi
viết thêm một chút nhưng không hi vọng LM Hoàng Minh Thắng hay Chu Tất Tiến
có thể tiêu hóa nổi.
Chúng ta lấy thí dụ về định luật vạn vật
hấp dẫn. Định luật này được biểu thị bởi một biểu thức toán học đơn giản,
F = Gm1m2/r2,
và có thể áp dụng đúng mọi nơi trong vũ trụ và trong mọi thời gian. Nhưng
từ định luật này, chúng ta dẫn xuất ra lý thuyết về trọng trường mô tả vạn
vật hấp dẫn như thế nào, nguyên nhân nào đã sinh ra trọng lực v…v… Từ đó
chúng ta có thể khai triển Thuyết Tương Đối Rộng (General theory of
relativity) cùa Einstein trong đó trọng trường giữ một vai trò rất quan
trọng. Định luật căn bản không thay đổi, nhưng lý thuyết thì mở rộng ra bao
gồm những trường hợp phức tạp khác nhau liên hệ đến không gian và thời gian.
Bây giờ chúng ta hãy sang
phần nhà văn Chu Tất Tiến phê bình Thuyết Tiến Hóa:
Thực tế, nếu nhìn vào thuyết Tiến Hóa một
cách khoa học và khách quan, những nhà nghiên cứu về chủng loại, về Nhân
Loại Học, về Di Truyền đã tìm thấy trong lý thuyết của Darwin có nhiều lỗ
hổng (gaping holes) trong giai đoạn sơ khai của loài người theo. Ông ta đã
không thể lấp đầy những khoảng trống ấy và tìm cách che dấu đi bằng những
khảo cứu thực tiễn trong những thời đại của ông ta. Sau này, với sự khám phá
những bộ xương người nguyên thủy, các tác giả cận đại cũng dựa vào lý luận
của Darwin mà tiếp tục quảng bá cho thiên tài này, mà không lưu ý rằng, lý thuyết của Darwin vẫn chỉ là một giả thuyết có một số kiểm chứng chưa
đầy đủ.
Chu Tất Tiến không cho
chúng ta biết những nhà nghiên cứu nào đã tìm thấy trong lý thuyết của
Darwin có nhiều lỗ hổng và những lỗ hổng đó là như thế nào. Ông ta còn viết
một cách ngây ngô là “lý thuyết của Darwin vẫn
chỉ là một giả thuyết”, rồi một đoạn sau ông ta giải thích thế
nào là một giả thuyết và thế nào là một lý thuyết:
“Trước hết, một nhà khoa học tìm thấy một
thay đổi lạ, một liên hệ lạ giữa các vật chất, ông ta sắp xếp các liên hệ
hay sự tìm thấy mới lạ đó thành một hệ thống và gọi hệ thống lý luận mới đó
là một Giả Thuyết. Nhà khoa học đó trình bầy giả thuyết của mình cho các nhà
khoa học khác để cùng nghiên cứu. Sau khi lập đi lập lại giả thuyết đó và đa
số tìm được một lập luận tương đối vững chắc, giả thuyết ấy được các khoa
học gia gọi là Lý Thuyết…Lý thuyết của Darwin, cho đến nay, vẫn còn là Lý
Thuyết, chưa phải là Luật, và sẽ vĩnh viễn không bao giờ thành Luật, dù cho
đến ngày Tận Thế. “
Hai câu mâu thuẫn nhau
chứng tỏ Chu Tất Tiến chỉ viết bừa chứ chẳng hiểu thế nào là giả thuyết, giả
thuyết khác với lý thuyết đã được kiểm chứng như thế nào. Câu cuối chứng tỏ
Chu tất Tiến là người không đội trời chung với khoa học vì khoa học càng
tiến bộ thì những những điều mà Chu Tất Tiến tin nhảm tin nhí sẽ không còn
chỗ đứng trong xã hội loài người, và Chu Tất Tiến không còn cặp nạng Thiên
Chúa để lê lết trên cuộc đời của một con chiên. Vì vậy ông ta thích thú với
những lỗ hổng trong Thuyết Tiến Hóa mà chính ông ta chẳng biết đó là những
lỗ hổng nào. Nhưng ông ta cần chúng để nhét “Thiên Chúa của những khoảng
trống” [God of the gaps] của ông ta vào đó, nhưng ông ta không biết rằng,
qua thời gian, những lỗ hổng đó càng ngày càng thu hẹp lại và bị lấp đầy,
cho nên Thiên Chúa của ông ta chẳng còn chỗ nào để mà cựa quậy.
Những người như Chu Tất
Tiến thường không hiểu tiếng nói của khoa học. Khi họ nói “chỉ là lý
thuyết” thì thường là họ cho rằng đó chỉ là dự đoán, hay chưa chứng minh
được, thiếu sự xác định. Trong khoa học một lý thuyết thường được hiểu là
một điều nào đó đã được chứng minh và chấp nhận là đúng. Chúng ta có Thuyết
Tương Đối, Thuyết Vạn Vật Hấp Dẫn v…v…và không ai dám nói là những Thuyết
này không đúng hoặc chưa được chứng minh.
Trong khoa học, một Giả
Thuyết là những dự đoán dựa trên sự quan sát, một giải thích hợp lý về một
biến cố hay hiện tượng nào đó nhưng chưa được chứng minh. Hầu hết các giả
thuyết hoặc có thể kiểm chứng hoặc có thể bị bác bỏ bởi thực nghiệm hoặc
những quan sát bất phù hợp.
Một giả thuyết, sau khi
đã được kiểm chứng, thực nghiệm lập lại nhiều lần và ở nhiều nơi khác nhau
và được công nhận là đúng thì giả thuyết đó trở thành một lý thuyết và lý
thuyết đó đồng nghĩa với sự kiện. Người Ki Tô Giáo thường nói đến “thuyết
sáng tạo” trong Thánh Kinh. Thực chất sự sáng tạo này chỉ là một giả thuyết
theo khoa học, vì không có bất cứ một bằng chứng nào có thể chứng tỏ sự sáng
tạo đó thực sự đã xẩy ra, tất cả chỉ là sự giải thích về vũ trụ nhân sinh
của một dân tộc du mục ở Trung Đông trong thời chưa khai hóa.
Mục đích chính của Chu
Tất Tiến viết bài trên được khẳng định trong câu kết luận:
Trên đây chỉ là một vài nhận xét thô thiển
về sự thiếu sót của Darwin cũng như của thuyết Big Bang, được viết ra để trả
lời cho những người Cộng Sản Việt Nam, vẫn hàng kính ngưỡng thuyết Tiến Hóa
của Darwin một cách mù quáng. Từ đó, tìm mọi phương tiện tiêu diệt mọi tôn
giáo, và cho rằng “tôn giáo là thuốc phiện, ru ngủ nhân loại.” Mong rằng
những kẻ Cộng Sản đọc bài viết này sẽ thức tỉnh, và trả lại quyền Tự Do Tín
Ngưỡng cho mọi người dân Việt yêu dấu.
Chu Tất Tiến viết trong
tâm trạng của một kẻ mù quáng trong tín ngưỡng, tưởng rằng vài nhận xét
không những thô thiển mà còn lếu láo về Thuyết Tiến Hóa là có thể phá đổ
được Thuyết Tiến Hóa mà trong thực tế Cộng sản chẳng quan tâm đến, chỉ có
các khoa học gia và những người trí thức trong những xã hội Âu Mỹ mới kính
ngưỡng Thuyết Tiến Hóa của Darwin. Nếu tôn giáo, không phải là mọi tôn
giáo, mà điển hình là Ki Tô Giáo, không phải là thuốc phiện, ru ngủ con
người, thì làm sao trong Công giáo lại có những người như LM Hoàng Minh
Thắng hay Chu Tất Tiến và hàng triệu trí thức, tín đồ khác, mê mẩn vì một
cái bánh vẽ trên trời.
Tôi chẳng buồn phê bình
những gì Chu Tất Tiến nhận xét về Thuyết Tiến Hóa vì tôi không tin là ông ta
có đủ khả năng và kiến thức khoa học để nhận xét về Thuyết Tiến Hóa. Sau
đây tôi chỉ cho ông ta biết giới trí thức trong đó có cả những bậc lãnh đạo
Ki Tô Giáo đã nhận định thế nào về thuyết Tiến Hóa.
Nhưng trước hết tôi xin
nói vài nét đại cương về thuyết Tiến Hóa.
Vào cuối thế kỷ 19, Thuyết
Tiến Hóa bị Ki Tô Giáo chống đối dữ dội, dựa trên một số chi tiết trong
thuyết Tiến Hóa chưa thể kiểm chứng được mà Chu Tất Tiến gọi là lỗ hổng.
Nhưng với thời gian qua, càng ngày những kết quả nghiên cứu của các khoa học
gia trong nhiều bộ môn khoa học mà chính Darwin cũng không biết đến càng
chứng tỏ là thuyết Tiến Hóa có một căn bản vững chắc và có thể giải thích
được rất nhiều điều trong nhiều bộ môn khoa học, nhất là trong Sinh Học, đặc
biệt là về Nguồn Gốc Con Người.Thuyết Tiến Hóa của Charles Darwin và những
phát triển về sau trong nhiều bộ môn khoa học đã mở mang đầu óc con người
rất nhiều và có ảnh hưởng vô cùng lớn lao trên xã hội loài người.
Đi từ
thuyết Tiến Hóa con người đã phát triển ra những bộ môn khoa học có ích cho
con người, nhất là về sinh học, khám phá ra Genome, DNA, “gen” v…v… và tiến
một bước dài trong y học để đối trị với những bệnh tật như ung thư, AIDS
v..v.. mà ngày nay vẫn còn một số người tin rằng do Thiên Chúa của họ tạo ra
để trừng phạt những đứa con bị Thiên Chúa ghét. Một số người Ki Tô Giáo
cuồng tín trên nước Mỹ đã biểu tình chống “Gay” cầm tấm bảng trên viết
“Thanks God for AIDS”. Những chi tiết chuyên môn trong thuyết Tiến Hóa thí
dụ như sự sao y chính bản (replication) của các DNA, sự chuyển dịch
(translation), sự tạo ra các RNA từ DNA v..v.. và vô số các hiện tượng khác
trong Sinh Học cũng như chi tiết về “cây Tiến Hóa” là những đề tài vô cùng
phong phú và thích thú, nhưng không phải là dễ hiểu, nhất là đối với những
đầu óc như của LM Hoàng Minh Thắng hay Chu Tất Tiến.
Điểm kỳ diệu trong tư
tưởng của Darwin là khi hoàn thành những tác phẩm để đời trên, Darwin không
hề có một ý niệm gì về “gen” hay DNA (Deoxyribose Nucleic Acid),
một hóa chất mà cho tới năm 1953 các khoa học gia mới biết là giữ vai trò
quyết định trong cơ chế di truyền. Từ đó, các nhà Di Truyền Học đã so sánh
DNA trong các dân số khác nhau trên thế giới, cộng với những kết quả đã tìm
thấy của các nhà khảo cứu Cổ Sinh Vật Nhân Chủng Học (paleoanthropologists)
về các di vật của người đã hóa thạch (fossils) cùng vài bộ môn khoa học
khác như sinh học, sinh hóa học v..v.., ngày nay các khoa học gia đã có thể
biết được khá chính xác về nguồn gốc con người, nguồn gốc các sắc dân trên
thế giới.
Thuyết Tiến Hóa đã trở
thành một sự kiện. Tuy nhiên, một số ốc đảo cuồng tín trong Ki Tô Giáo vẫn
còn tiếp tục chống đối thuyết Tiến Hóa, định thay thế thuyết Tiến Hóa bằng
những sản phẩm Thần Học hạ đẳng bắt nguồn từ niềm tin vào giả thuyết “sáng
tạo” trong Kinh Thánh, thuộc các tổ chức khoa học dỏm như “Khoa học Sáng
tạo” (Creation Science) hay “Thiết Kế Thông Minh” (Intelligent design),
nhưng tất cả đều đã thất bại.
Trước hàng núi những bằng
chứng khoa học về thuyết Tiến Hóa, một số nhân vật có uy tín trong lãnh vực
tôn giáo như Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục , Mục sư, học giả v..v.. cũng
phải cúi đầu trước thuyết Tiến Hóa, khoan kể đến giới khoa học gia đã chấp
nhận thuyết Tiến Hóa từ trên trăm năm nay rồi. Sau đây chúng ta hãy đưa ra
nhận định của một số nhân vật tôn giáo cũng như khoa học về Thuyết Tiến Hóa
nói chung, trước những hiểu biết của chúng ta về Thuyết Tiến Hóa, và trước
những bằng chứng trong khoa học:
- Giáo Hoàng John Paul
II phát biểu năm 1996:
Thân xác con người có thể không phải là sự sáng tạo tức thời của Gót,
mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần... Những kiến thức mới nhất
dẫn đến việc phải chấp nhận Thuyết Tiến Hóa hơn chỉ là một giả thuyết.
[The human body may not
have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual
process of evolution...Fresh knowledge leads to recognition of the theory of
evolution as more than just a hypothesis]
- Linh mục dòng Tên
Teilhard de Chardin trong The Phenomenon of Man:
Tiến Hóa là một thuyết, một hệ thống, hay một giả thuyết? Nó còn
nhiều hơn nữa: nó là một điều kiện tổng quát mà mọi thuyết, mọi giả thuyết,
mọi hệ thống phải cúi đầu trước nó và phải phù hợp với nó nếu chúng muốn
được nghĩ tới và coi là đúng.. Tiến Hóa là một ánh sáng soi sáng mọi sự
kiện, một đường cong mà mọi đường thẳng phải theo nó...
[Is evolution a theory, a
system or a hypothesis? It is much more: it is a general condition to which
all theories, all hypotheses, all systems must bow and which they must
satisfy henceforth if they are to be thinkable and true. Evolution is a
light illuminating all facts, a curve that all lines must follow...
3. Mục sư Ernie Bringas
trong cuốn: Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical
Authority:
Thuyết Tiến Hóa là một
trong những cấu trúc tuyệt vời và thành công nhất của tư tưởng con người.
Mọi ngành khoa học đều tiếp tục ủng hộ và kiểm chứng quan niệm về sự tiến
hóa. Thuyết Tiến Hóa , giống như Thuyết Tương Đối, không còn là một
"thuyết" theo nghĩa thông thường nữa, mà là một nguyên lý khoa học đặt căn
bản trên rất nhiều bằng chứng không còn phải bàn cãi nữa.
[The theory of evolution
is among the most elegant and fruitful structures of human thought... All
scientific disciplines continue to support and verify the concept of
evolution. The theory of evolution, like the theory of relativity, is no
longer a "theory" in the popular sense, but a scientific principle based on
considerable, indisputable evidence.]
4. Giám mục John Shelby Spong trong cuốn Why
Christianity Must Change or Die:
Thuyết Tiến Hóa làm
cho Adam và Eve trở nên may nhất là những nhân vật theo truyền thuyết.
Thuyết Tiến Hóa không dễ gì cho tổ chức tôn giáo chấp nhận, và ngày nay vẫn
còn những tiếng nói cất lên từ những miền hẻo lánh của thế giới để chống đối
thuyết này. Những tiếng nói này sẽ không bao giờ thành công. Nhân loại rõ
ràng là tiến hóa theo một quá trình trải dài từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ năm.
Không làm gì có hai cha mẹ đầu tiên (nghĩa là Adam và Eve. TCN)
, và
do đó cái hành động bất tuân lúc đầu của hai bậc cha mẹ đầu tiên không thể
nào có ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại. Do đó cái huyền thoại về tội tổ
tông đã bị một đòn khai tử, và cái câu chuyện vững chắc về sự cứu rỗi do
những người bảo vệ Ki-tô giáo dựng lên qua nhiều thời đại đã bắt đầu chao
đảo.
[The theory of evolution
made Adam and Eve legendary at best. Evolution was not easy for the
religious establishment to accept, and still voices are raised today
in remote areas of the world to resit it. Those voices will never succeed.
Human life clearly evolved over a four-and-a-half-to-five-billion-year
process. There were no first parents, and so the primeval act of
disobedience on the part of first parents could not possibly have affected
the whole human race. The myth was thus dealt a blow, and the monolithic
story of salvation built by Christian apologists over the age began to
totter.]
5. Ernst Mayr, Giáo sư danh dự đại học Harvard, trong
cuốn What Evolution Is?:
Tiến Hóa
không chỉ đơn thuần là một ý tưởng, một lý thuyết, hay một quan niệm, mà là
tên của một quá trình trong thiên nhiên. Sự xảy ra của quá trình này có thể
chứng minh bằng tài liệu của hàng núi bằng chứng mà không ai có thể phủ bác
được. Ngày nay, xét đến số lượng to lớn những bằng chứng đã được khám phá
ra trong 140 năm nay để chứng minh sự hiện hữu của tiến hóa, thật là lạc dẫn
khi ta coi Tiến Hóa như là một thuyết. Tiến Hóa không còn là một thuyết, nó
đơn giản là một sự kiện.[Evolution is not merely an idea, a theory, or a
concept, but is the name of a process in nature, the occurrence of which can
be documented by mountains of evidence that nobody has been able to
refute...It is now actually misleading to refer to evolution as a theory,
considering the massive evidence that has been discovered over the last 140
years documenting its existence. Evolution is no longer a theory, it is
simply a fact.]
6. James Birx trong Interpreting Evolution:
Tiến Hóa là một sự kiện vững chắc đã được cả khoa học và lý trí
xác nhận; nhân loại chúng ta thì nối kết với sự sống, lịch sử của trái đất,
thiên hà này (giải ngân hà mà thái dương hệ, trong đó có trái đất, nằm
trong đó)
, và cả vũ trụ.Có một nền thần học
hiện đại nào mà chấp nhận cả hai quan điểm về vũ trụ và thuyết Tiến Hóa
trong một cách nhìn khoáng đạt và không có huyền thoại về thế giới?
Cuối cùng thì tín lý mù quáng của đức tin tôn giáo với những câu
chuyện đã lỗi thời và những giá trị cận thị thực sự không còn mấy giá trị
nữa; đó chỉ là sự mơ ước từ đó đặt niềm tin vào sự bất diệt của con
người và vào một vũ trụ tâm linh.
[Evolution is an
established fact supported by both science and reason; our own species is
linked to life, earth history, this galaxy, and the universe itself.
Is there a modern
theology that embraces both a cosmic perspective and the evolutionary
framework within an openended and myth-free worldview? Eventually, the
blind dogma of religious faith with its outmoded stories and myopic values
wears very thin, indeed; it is simply wishful thinking to believe in human
immortality and a spiritual cosmos.]
7. Stephen Jay Gould,
trong phần Dẫn Nhập của cuốn “Tiến Hóa: Sự Chiến thắng Của Một Ý Tưởng”
(Evolution: The Triumph of an Idea), tác giả là Carl Zimmer, một cuốn sách
đi kèm với chương trình dài 8 tiếng đồng hồ của đài truyền hình PBS về
thuyết Tiến Hóa (a companion to the PBS 8-hour television series on
Evolution):
Khoa học, như các chuyên gia chúng tôi thường
vạch rõ, không thể thiết lập sự thật tuyệt đối; do đó, những kết luận của
chúng tôi luôn luôn là có tính cách không dứt khoát. Nhưng sự hoài nghi
lành mạnh này không cần phải đưa nó đến độ hư vô, và chúng tôi có thể chắc
chắn nói rằng, một số sự kiện đã được kiểm chứng với đủ mức tin cậy cho nên
chúng tôi có thể coi những sự kiện này là đúng sự thật trong bất cứ nền văn
hóa địa phương nào trên thế giới.(tính phổ quát (universality) của các sự
kiện khoa học. TCN)Có lẽ tôi không thể tuyệt đối chắc chắn là quả
đất thì tròn thay vì phẳng, nhưng dạng hình cầu của hành tinh của chúng ta
đã được kiểm chứng đủ để cho tôi không cho phép “cái xã hội của những người
tin trái đất phẳng” được hưởng đồng đều thời gian để dạy thuyết của họ, hay
hưởng bất cứ khoảng thời gian nào, trong lớp dạy về khoa học của tôi.
Tiến Hóa, quan niệm
căn bản của mọi khoa học về sinh học, đã được kiểm chứng rất kỹ, và do đó có
thể coi như là đúng với sự thật.
[Science, as we
professionals always point out, cannot establish absolute truth; thus, our
conclusions must always remain tentative. But this healthy skepticism need
not be extended to the point of nihilism, and we may surely state that some
facts has been ascertained with sufficient confidence that we may designate
them as “true” in any legitimate, vernacular meaning of the world.
Perhaps I cannot be
absolutely certain that the earth is round rather than flat, but the roughly
spherical shape of our planet has been sufficiently well verified that I
need not grant the “flat earth society” a platform of equal time, or even
any time at all, in my science class.
Evolution, the basic organizing concept of all the
biological sciences, has been validated to an equally high degree, and may
therefore be designated as true or factual.]
Tôi xin kết bài này bằng
một đoạn của Robert G. Ingersoll đã viết về thuyết Tiến Hóa của Charles
Darwin cách đây hơn một thế kỷ như sau:
“
Thế kỷ này (TK 19)
sẽ được gọi là thế kỷ của Darwin. Ông ta là một trong những vĩ nhân trên
trái đất. Ông ta đã giải thích rõ ràng những hiện tượng về sự sống hơn tất
cả những ông thầy dạy của Ki Tô Giáo. Một bên, viết tên của Charles Darwin,
và bên kia viết tên của mọi nhà thần học từ trước tới nay, và từ tên của
Darwin đã tỏa ra nhiều ánh sáng hơn là ánh sáng của tất cả các nhà thần học
gộp chung lại. Thuyết Tiến Hóa, thuyết sống còn thích ứng nhất với
hoàn cảnh xung quanh, thuyết nguồn gốc các chủng loại của ông ta đã cất bỏ
cái vết tích cuối cùng của Ki Tô Giáo ra khỏi những người có đầu óc. Ông
ta không chỉ nói lên mà còn chứng minh là những người được Thần linh khải
cho viết Thánh Kinh không biết gì về thế giới này, về nguồn gốc con người,
về địa chất học, về thiên văn học, về thiên nhiên; rằng Thánh Kinh được viết
do sự ngu si – với sự dọa dẫm để làm cho con người sợ hãi. Hãy nghĩ
đến những người đã trả lời (phê bình) ông ta. Càng ngu bao nhiêu thì họ
càng hồ hởi làm công việc này. Darwin bị chế riễu, khinh khi và coi
thường bởi thế giới của Ki Tô Giáo, tuy vậy mà khi ông ta chết, Anh Quốc đã
hãnh diện chôn ông ta cùng với những nhân vật cao quý nhất và vĩ đại nhất
của nước Anh. [Darwin được chôn ngay gần Isaac Newton trong điện
Westminster (Westminster Abbey). Trước sự kiện này, Mục sư Laing đã phê bình
“đây là một bằng chứng chứng minh nước Anh không còn là một quốc gia theo
Ki Tô Giáo nữa” (a proof that England is no longer a Christian country).
TCN]
Charles Darwin đã chinh phục thế giới trí thức, và những lý thuyết
của ông ta ngày nay đã được chấp nhận như là những sự kiện.Giáo hội Ki Tô dạy
rằng con người đã được sáng tạo ra thật là hoàn hảo [vì theo hình ảnh
của Thiên Chúa], và trong 6 ngàn năm qua đã không ngừng thoái hóa. Darwin
đã chứng minh sự sai lầm của cái tín lý này. Ông ta chứng minh rằng con
người, trong nhiều ngàn thời đại, đã không ngừng tiến bộ; rằng cái Vườn Eden
là huyền thoại của kẻ ngu; rằng giáo lý về tội tổ tông không có nền tảng dựa
trên sự kiện; rằng chuộc tội là một sự vô nghĩa; rằng con rắn không có quyến
rũ con người ham muốn, và con người không có “sa ngã”.
Charles Darwin đã
phá sập Ki Tô Giáo. Chẳng có gì khác còn lại ngoài một đức tin vào cái mà
chúng ta biết không thể xảy ra và đã không hề xảy ra. Ki Tô Giáo và
khoa học là kẻ thù của nhau. Một bên là mê tín, bên kia là sự kiện. Một
bên đặt nền tảng trên sự sai lầm, một bên trên sự chân thật. Một bên là kết
quả của sự sợ hãi và đức tin, bên kia là sự tìm tòi để hiểu biết và lý trí.
Chúng ta hãy lương
thiện. Tất cả những linh mục ở Rô Ma gộp lại có gia tăng sự phong phú của
tâm linh như là Bruno không? Tất cả những linh mục ở Pháp gộp lại có góp
phần lớn lao nào vào nền văn minh của thế giới như là Diderot và Voltaire
không? Tất cả các mục sư ở Scotland gộp lại có gia thêm vào kiến thức của
nhân loại như là David Hume không? Những người trong giới chăn chiên, mục
sư, linh mục, giám mục, hống y và giáo hoàng, từ ngày Giê-su thăng thiên đến
cuộc bầu phiếu cuối cùng, có góp phần vào sự tự do của con người như là
Thomas Paine không? – góp phần vào khoa học như là Charles Darwin không?
Thế giới đã trở thành
cái gì nếu không có những người không muốn tin vào Ki Tô Giáo?
[1]
Trước những nhận định
chính xác của mọi giới về Thuyết Tiến Hóa như trên, vậy mà tại sao những con
chiên như LM Hoàng Minh Thắng và Chu Tất Tiến còn cố gắng phản bác thuyết
Big Bang và thuyết Tiến Hóa, nhưng càng viết càng để lộ ra kiến thức nghèo
nàn của mình về những bộ môn ngoài khả năng hiểu biết của mình. Điều này
phản ánh kết quả thăm do ý kiến về tôn giáo ở trên, và theo nhận định của
một người trên Internet:
Không lấy gì làm lạ là
hầu hết những người sùng tín tôn giáo lại biết rất ít về những gì họ tin.
Nếu họ tìm hiểu để biết thêm về lịch sử đức tin của họ, có thể là họ sẽ bỏ
đức tin đó. Nuôi dưỡng sự không hiểu biết chính là vì quyền lợi của tôn
giáo.
[It is not surprising
that most religious people know very little of what they believe. If they
learned more of the history of their faith, it is possible they might turn
away. It is in the religions' interest to keep this ignorance alive.]
LM Hoàng Minh Thắng và
Chu Tất Tiến hiển nhiên là thuộc lớp người sùng tín tôn giáo ở trên. Với
trình độ hiểu biết rất thấp kém của mình về những lãnh vực ngoài khả năng
hiểu biết của họ, nên họ cứ tiếp tục viết bừa, tưởng rằng đầu óc của người
Việt Nam ngày nay cũng như đầu óc của những con chiên theo đạo trong thời
Alexandre de Rhodes đến Việt Nam để lừa bịp họ bằng những điều hoang đường
như đã viết trong cuốn Hành Trình Truyền Giáo: “Chỉ cần vài giọt nước
thánh là có thể chữa khỏi đủ mọi thứ bệnh, làm cho người mù sáng lại" v…v…”,
cho nên muốn viết sao thì viết. Họ không thể nhận thức được điều mà James
Birx đã nhận định ở trên:
Cuối cùng thì tín lý
mù quáng của đức tin tôn giáo với những câu chuyện đã lỗi thời và những giá
trị cận thị thực sự không còn mấy giá trị nữa; đó chỉ là sự mơ ước từ
đó đặt niềm tin vào sự bất diệt của con người và vào một vũ trụ tâm linh..
Trần Chung Ngọc
Grayslake, Illinois
Ngày 13 tháng 10, 2010
[1] This century will be called Darwin’s century. He was one of the greatest men who ever touched this globe. He has explained more of the phenomena of life than all of the Christian religious teachers. Write the name of Charles Darwin on the one hand and the name of every theologian who ever lived on the other, and from that name has come more light to the world than from all those. His theory of evolution, his theory of the survival of the fittest, his theory of the origin of species, has removed in every thinking mind the last vestige of Christianity. He has not only stated, but he has demonstrated, that the inspired writer knew nothing of this world, nothing of the origin of man, nothing of geology, nothing of astronomy, nothing of nature; that the Bible is a book written by ignorance – at the instigation of fear. Think of the men who replied to him. The more ignorant he was the more cheerfully he undertook the task. He was held up to the ridicule, the scorn and contempt of the Christian world, and yet when he died, England was proud to put his dust with that of her noblest and her grandest. Charles Darwin conquered the intellectual world, and his theories are now accepted facts.
The Christian church teaches that man was created perfect, and that for six thousand years he has degenerated. Darwin demonstrated the falsify of this dogma. He shows that man has for thousands of ages steadily advanced; that the Garden of Eden is an ignorant myth; that the doctrine of original sin has no foundation in fact; that the atonement is an absurdity; that the serpent did not tempt, and that man did not “fall”.
Charles Darwin destroyed the foundation of Christianity. There is nothing left but faith in what we know could not and did not happen. The Christian religion and science are enemies. One is a superstition; the other is a fact. One rests upon the false, the other upon the true. One is the result of fear and faith, the other of investigation and reason.
Let us be honest. Did all the priests of Rome increase the mental wealth of man as much as Bruno? Did all the priests of France do as great a work for the civilization as Diderot and Voltaire? Did all the ministers of Scotland add as much to the sum of human knowledge as David Hume? Have all the clergymen, friars, ministers, priests, bishops, cardinals and popes, from the day of Pentecost to the last election, done as much for human liberty as Thomas Paine? – as much for science as Charles Darwin?
What would the world be if infidels had never been?
Các bài đối thoại cùng tác giả
▪
“ Sản Phẩm Trí Tuệ” của Nguyễn Anh Tuấn -
Trần Chung Ngọc
▪
“Sản Phẩm Trí Tuệ” Mới Của Nguyễn Anh Tuấn Về “Giáo H -
Trần Chung Ngọc
▪
“Tự Do Tín Ngưỡng” của Minh Võ -
Trần Chung Ngọc
▪
Ai Dám Tấn Công Đạo Chúa ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chiến Tranh ... Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ -
Trần Chung Ngọc
▪
Chu Tất Tiến: Here We Go Again -
Trần Chung Ngọc
▪
Chung Quanh Một Cuộc Tranh Luận Hào Hứng -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - “Cha Chung” là ai? -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Các Vấn Nạn Cần Giải Quyết -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Căn Bản Đức Tin -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Kết Luận -
Trần Chung Ngọc
▪
Chuyện “Hòa Đồng Tôn Giáo” - Lợi Ích ? -
Trần Chung Ngọc
▪
Comments On John Paul II's Crossing the Threshold of Hope -
Trần Chung Ngọc
▪
Eh! Lữ Giang, alias Tú Gàn, Here we go again! -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Nguyễn Văn Lục -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ về Tú Gàn -
Trần Chung Ngọc
▪
Lại Chuyện Bất Đắc Dĩ Về Tiến Sĩ Nguyễn Học Tập -
Trần Chung Ngọc
▪
Một Trí Thức Không Biết Ngượng -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Bài “Niềm Tin ...” Của Trần Thị Hồng Sương -1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Đọc Mấy Câu Trả Lời của Ông Mục Sư NQM -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 ▪
>>>