Một Vài Điều Cần Làm Sáng Tỏ
Trong Việc Biên Soạn Sách Sử Về Giáo Hội La Mã
Nguyễn Mạnh Quang
https://sachhiem.net/NMQ/TUYENGON/TuyenNgon02.php
15 tháng 6, 2010
1 2 3
IV.- Những Thành Phần Người Việt Viết Sử
Từ mấy thập niên vừa qua, đã có rất nhiều người Việt viết sử Việt Nam về
thời cận và hiện đại. Đọc các tác phẩm của họ, người viết nhận thấy rằng,
thành phần tác giả này rất là phức tạp. Mỗi thành phần hay mỗi tác giả trong
các thành phần này khi viết sử đều có chủ đích riêng của họ. Xin tạm kể ra
một số những thành phần này như sau:
A.- Những thành phần viết sử có chủ đích lấp liếm và chạy tội cho việc làm
bất chính của tôn giáo, phe đảng, ông cha hay chính bản thân họ đã từng cấu
kết với một trong hai hay cả hai Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên
Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thế kỷ 19
cho đến ngày 30/4/1975. Ngòai chủ đích bất chính trên đây, thành phần này
vốn là những người chịu ảnh hưởng sâu nặng của chính sách ngu dân và giáo
dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã. Vì thế, họ có những nhược điểm như sau:
1.- Không thấu hiểu lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại.
2.- Không có kiến thức về lịch sử thế giới.
3.- Không hiểu biết gì về lịch sử Giáo Hội La Mã
4.- Không biết hay biết mà cố tình không đả động gì tới việc Vatican đã liên
tục tích cực can thiệp vào nội tình Việt Nam từ cuối thế kỷ 18.
5.- Không biết gì hay biết mà cố tính không hề đả động tới những việc Giáo
Hội La Mã đã từng cấu kết với các cường quyền và với các đế quốc thực dân
xâm lược Âu Mỹ để củng cố quyền lực ở Âu Châu và đánh chiếm các đất đai ở
ngòai Âu Châu làm thuộc địa trong mưu đồ bành trướng thế lực.
6.- Không biết gì về trào lưu tiến hóa của nhân loại (cho nên họ mới vầ còn
u mê tuyệt đối tin tưởng câu chuyện cực kỳ phi lý, hết sức phi luân và vô
cùng bạo người trong kinh thánh. Vì thế, họ mới tuyệt đối trung thành với
Tòa Thánh Vatican hay Giáo Hội La Mã.
7.- Không biết gì hay biết mà cố tính không hề đả động tới những hành động
của Giáo Hội La Mã đã cấu kết với đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ để thực hiện ý
đồ dựa hơi hai đế quốc này để thi hành kế sách luồn lách, lấn lướt và tiếm
đoạt chính quyền, rồi tiến tới thiết lập “chế độ cha cố” (papacy) hay độc
tài tôn giáo, sau đó sẽ sử dụng quyền lực nhà nước để (a) hủy diệt các tôn
giáo cổ truyền của dân tộc và văn hóa bản địa, (b) cướp đoạt tài sản thiên
nhiên của đất nước, (c) bóc lột và nô lệ hóa dân ta.
Tệ hại hơn nữa, những
người viết sử trong thành phần này có thói quen thường hay sử dụng từ ngữ
hoàn toàn trái ngược với những định nghĩa trong tự điển. Họ gọi những tên
tội đồ của dân tộc đã từng làm tay sai bán nước cho Liên Minh Đế Quốc Thực
Dân Xâm Lược Pháp – Vatican và những người trong đạo quân đánh thuê cho liên
minh xâm lược này là “các nhà ái quốc”, là “người Việt Quốc Gia
chân chính yêu nước”, gọi những nhà ái quốc đã liều minh hy sinh cả đời
cho đại cuộc đánh đuổi liên minh giặc xâm lăng giặc trên đây để giành lại
chủ quyền độc lập cho dân tộc là “Việt gian”. Hành động ngang ngược
này phản ảnh đúng với nền đạo lý và văn hóa Ki-tô, một nền văn hóa oạn
luân, phi luân, vô tổ quốc và phi dân tộc mà họ đã tiếp thu được ở học đường
từ bậc tiểu học đến hết bậc trung học. Họ bất chấp cả lương tâm và lẽ phải,
ưa thích sử dụng thủ đoạn “cưỡng từ đoạt lý”, triệt để thi hành chính
sách tuyền truyền của Vatican với những kế sách “Tăng Sâm giết người”
hoặc là “hoang ngôn thiên lập thành chân” và “cả vú lấp miệng em”
để “lộng giả thành chân”, hoặc là tung hỏa mù với dã tâm làm cho
người dân và thế hệ mai sau bị lẫn lộn không biết đầu là sự thật, đâu là giả
dối.
Hầu hết những tác giả
thuộc thành phần này là tu sĩ và tín đồ Ca-tô. Ngòai ra, còn một số tác giả
tuy không phải là tín đồ Ca-tô nhưng thuộc vào thành phần được hưởng những
đặc quyền đặc lợi của các chính quyền đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm hay quân
phiệt Ca-tô Nguyễn Văn Thiệu hoặc cả hai. Điển hình cho các các tác giả này
là các ông Lữ Giang (bút hiệu của ông cựu thẩm phán Nguyễn Cần), Cao Thế
Dung, Nguyễn Văn Chức, Phan Thiết, Minh Võ, Trần Gia Phụng, Nguyễn Văn
Trung, Linh-mục Vũ Đình Họat, Phạm Văn Lưu, Nguyễn Văn Lực, Nguyễn Vy
Khanh, Hoàng Lạc & Hà Mai Việt với cuốn Nam Việt Nam 1954-1975 (Alief, TX:
TXB, 1990), v.v…
B.- Những thành phần viết
sử tài tử để chứng tỏ mình có khả năng về sử học. Thế nhưng, trong thực
tế, họ cũng có gần như cả 7 nhược điểm của các tác giả thuộc loại A ở
trên. Vì ở vào tình trạng có những nhược điểm như trên, cho nên, cũng như
các tác giả thuộc loại A ở trên, những tác phẩm của họ không hề đề cập đến
vai trò của Giáo Hội La Mã trong việc vận động Pháp và Mỹ cấu kết với
Vatican đem quân đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa, không nói gì đến vai trò
của Giáo Hội La Mã và giới tu sĩ áo đen ở hậu trường sân khấu chính trị của
chính quyền Bảo Hộ Pháp trong những năm 1885-1945 cũng như của đoàn quân
viễn Chinh Liên Minh Pháp – Vatican tại Đông Dương trong những năm
1945-1954, và của các chĩnh quyền miền Nam trong những năm 1954-1975. Không
những thế, nhiều khi họ còn tỏ ra thiên lệch bênh vực và bào chữa cho những
việc làm tội ác của Giáo Hội La Mã và của các chính quyền bù nhìn tay sai
cho Vatican ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975. Điển hình cho
những tác phẩm này là bộ Việt Sử Khảo Luận của tác giả Hoàng Cơ Thụy (Paris:
Nam Á, 2002), cuốn Việt Nam 1945-1995 – Tập I (Bethesda, MD: Tiên Rồng,
2004), của tác giả Lê Xuân Khoa, cuốn Việt Nam: Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia-
Cộng Sản… - Tập I (San Jose, CA: TXB,2002) của Nghiên Cứu Lịch Sử Cận và
Hiện Đại gồm các ông Dương Diên Nghị, Nguyễn Châu, Lương Văn Toàn, Lê Văn
Phú và Hoàng Đức Phương, cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm (San Jose, CA: Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, 1994) của tác giả
Hoàng Ngọc Thành và Thân Thị Nhân Đức, v.v…
C.- Những tác giả có căn
bản sử học và tốt nghiệp đại học về ngành sử học tại một hay nhiều đại học ở
Âu Châu, Bắc Mỹ hay Úc Đại Lợi. Những tác phẩm của các tác giả này được biên
soạn theo phương pháp sử học với những dẫn chứng nói rõ nguồn tài liệu hay
tác phẩm khả tín của các nhà sử học có uy tín. Đây là những người có học vị
về sử học như Linh-mục Trần Tam Tỉnh, Tiến-sĩ Cao Huy Thuần, Tiến-sĩ Vũ Ngự
Chiêu, Tiến-sĩ Nguyễn Xuân Thọ, Giáo-sư Lê Thành Khôi (tác gỉả cuốn Le Vietnam, histoire et civilization, Paris, 1955), v.v…
D.- Những tác giả vốn là
chứng nhân của lịch sử và đã bỏ ra nhiều năm trời tìm hiểu và nghiên cứu các
tài liệu để đúc kết thành các tác phẩm của họ với mục đích nói lên những sự
thật của lịch sử, đặc biệt là nói lên chính sách cũng tính cách tham tàn và
thâm độc của chính quyền Bảo Hộ Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican. Đây là
các tác giả như Nguyễn Thế Anh, Phan Khoang, Nguyễn Hiến Lê, Phạm Văn Sơn,
Ngô Văn với cuốn Việt Nam 1920-1945 (Amarillo, TX: TXB, 2000), v.v…
E.- Những thành phần trí
thức và cũng là chứng nhân trong giai đoạn lịch sử Việt Nam từ năm 1945 trở
về sau. Họ đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu kinh thánh Ki-tô, những lời dạy
cũng như những việc làm bất chính của Giáo Hội La Mã từ cái thuở cái giáo
hội này mới ra đời. Những tác phẩm của họ là những công trình biên sọan và
được hệ thống hóa những việc làm tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại nhân
loại trong gần hai ngàn năm qua. Đây là các tác phẩm của các tác giả như
cựu thẩm phán Bùi Văn Chấn với bút hiệu là Charile Nguyễn, Tiến-sĩ Trần
Chung Ngọc, Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ, cựu Thiếu Tướng Đỗ Mậu với cuốn Việt Nam
Máu Lửa Quê Hương Tôi (Westminster, CA: Văn Nghệ, 1993, Chu Văn Trình, Bùi
Kha, Trần Văn Kha, Lê Trọng Văn, Chu Bằng Lĩnh (với cuốn Đảng Cần Lao, San
Dỉego, CA: Mẹ Việt Nam, 1993), v.v…
F.- Những thành phần có
kiến thức, có học vị đại học về sử học, có kinh nghiệm trong công việc biên
khảo sách sử và dạy sử ở Việt Nam hiện nay. Đây là các tác giả Trương Hữu
Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh,
Nguyễn Đình Lê, Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư của tác phẩm Bộ Lịch
Sử Đại Cương gồm 3 tập (Hà Nội: Bộ Giáo Dục Việt Nam, 2008 và 2009), các tác
giả của cuốn Một Số Vấn Đề Lịch Sử Đạo Thiên Chúa Trong Lịch Sử Dân Tộc Việt
Nam (TP Hồ Chí Minh: Viện Khoa Học Xã Hội và Tôn Giáo, 1988) của cuốn Những
Họat Động Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa Giáo Trong Thời Kỳ Kháng
Chiến 1945-1954 (Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học, 1965), v.v…
Chúng tôi không nói đến
những tác giả biên soan những tác phẩm sử từ năm 1945 trở về trước (thời
Việt Nam nằm dưới ách thống trị của Liên Minh Xâm Lược Pháp Vatican). Đó là
những tác giả như các học giả Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim, vì hoàn cảnh lịch
sử lúc bấy giờ, dân ta không có cơ hội tiếp cận với các nguồn sử liệu trong
các văn khố của các nước Âu Mỹ.
Riêng về người viết:
Bản thân đã từng chìm nổi với quê hương và dân tộc ngay từ khi đất nước vừa
mới trở mình vào mùa thu năm 1945, được huấn luyện trong ngành sử học, đã
liên tục vật lộn với nghề dạy sử tại các trường trung học ở miền Nam Việt
Nam (từ năm 1964) và ở Hoa Kỳ từ năm 1975 cho đến khi về hưu vào năm 1998.
Nhờ vậy mà người viết đã nhìn thấy rõ:
1.- Giáo Hội La Mã
mang danh nghĩa là một tôn giáo nhưng bản chất là một thế lực chính trị có
tham vọng bá quyền và theo đuổi chính sách đế quốc thực dân xâm lược để
thống trị toàn cầu và nô lê hóa nhân loại bằng những kế họach và kế sách vồ
cùng thâm độc, cực kỳ quỷ quyệt và hết sức tinh vi.
2.- Vai trò của Giáo
Hội La Mã trong dòng lịch sử thế giới qua chính sách cấu kết với cường
quyền và các đế quốc thực dân xâm lược để củng cố quyền lực và bành trướng
thế lực mà họ gọi là “mở mang nước Chúa”;
3.- Những họat động của
Vatican can thiệp trực tiếp vào nội tình Việt Nam từ cuối thế kỷ 18 cho đến
ngày nay.
4.- Dùng những chức vụ
trong chính quyền làm miếng mồi để dụ khị hay câu nhử những phường háo danh
và thèm khát quyền lực chạy theo bắt mồi rồi “theo đạo tạo danh đời”.
5.- Dùng những bọn
“theo đạo tạo danh đời” này làm chân tay cướp đoạt tài nguyên quốc gia, bóc
lột nhân dân, vơ vét và tích lũy tài sản cho đầy túi tham.
6.- Dùng những của cải
đãg cướp đoạt được của quốc gia nạn nhân và đã bóc lột và vơ vét của nhân
dân để vừa gửi về Kho Nhà Chúa ở Vatican vừa làm những miếng mồi vật chất để
câu nhử và dụ khị những hạng người tham lợi chạy theo bắt mồi rồi theo đạo
(hạng người “theo đạo lấy gạo để ăn”), vừa nuối dưỡng bộ máy cai trị bằng
những tổ chức công an, mật vụ, cảnh sát và các đạo quân thập tự dùng làm
công cụ đàn áp nhân dân dưới quyền.
7.- Đoàn ngũ hóa những
tín đồ tân tòng “theo đạo tạo danh đời” và “theo đạo lấy gạo để ăn” rồi tổ
chức họ thành những đạo quân cảnh sát, công an, mật vụ và quân đội của bộ
máy đàn áp nhân nhân.
8.- Dùng bộ máy đàn áp
nhân dân trên đây để cưỡng bách và chèn ép nhân dân dưới quyền phải theo đạo
và làm nanh vuốt cho việc thi hành giáo luật Ki-tô.
9.- Dùng quyền lực của
nhà nước để thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ với mục đích kìm
hãm nhân dân dưới quyền mãi mãi ở trong tình trạng ngu dốt theo đúng như chủ
trương “dân ngu dễ trị và dễ phỉnh lừa bằng tín lý Ki-tô.”
10.- Rất nhiều sự kiện
lịch sử bị chính quyền miền Nam bưng bít, không được đưa vào trong các
chương trình học. Vì thế mà dân miến Nam hầu như không biết gì về những sự
kiện lịch sử này.
Dưới đây là một số những sự kiện chứng minh những nhận xét trên:
A.- Vai trò của La Mã
và giới tu sĩ áo đen ở hậu trường sân khấu chính trị Việt Nam trong thời kỳ
từ cuối thế kỷ 18 cho đến tháng 7 năm 1954 và ở miền Nam trong những năm
1954-197
B.- Nhân dân Âu Châu
vùng lên chống lại Vatican với những phong trào và thời kỳ như:
1.- Phong trào theo
Chủ Nghĩa Nhân Bản (Humanism) khởi dậy vào đầu thế kỷ 14. Chủ trương này là
chỉ trích và lên án nặng nề Tòa Thánh Vatican về các tội ác tiếm quyền thế
tục, tham nhũng, thối nát và đời sống bê bối thối tha, loạn luân, dâm loàn
và loạn dâm, phi luân của các giáo hoàng và giới tu sĩ Ca-tô. Vấn đề này
được sách Men and Nations ghi nhận như sau:
"Theo thời gian, Chủ Nghĩa Nhân Bản trở nên một trường phái học thuật có
một quan niệm nhân sinh mới. Một trong những đặc tính của quan niệm nhân
sinh mới này là tinh thần phê phán. Thí dụ như một số tư tưởng gia trong
phong trào này chỉ trích Giáo Hội La Mã, chống đối những điều mà họ cho là
thói hư, tật xấu, những khuyết điểm trong tổ chức và trong việc quản trị của
Giao Hội. Những người này vẫn còn giữ vững niềm tin tôn giáo, nhưng họ không
thể chấp nhận quyền lực của Giáo Hội mà không hoài nghi và thắc mắc.”
[i]
2.- Thời Kỳ Phục Hưng
(The Renaisance), đồng thời với phong trào Chủ Nghĩa Nhân Bản. Phong trào
này chống lại Vatican một cách mãnh liệt về (a) chính sách bất khoan dung
(Policy of Intolerance), (b) chủ trương của Vatican về việc hủy diệt dỉ sản
văn hóa cũng như các công trình văn minh của nhân loại, và (c) đòi phải
phải triệt để tôn trọng các quyền tự do ngôn luận, tự do tư tường, tự do tôn
giáo, tự do được đọc và lưu giữ những tác phẩm văn chương, thi ca, nghệ
thuất, chính trị, triết lý, tâm lý, giáo dục, v.v… giống như thời thượng cổ.
Cũng vì thế mà các nhà viết sử mới gọi thời kỳ này là Thời Kỳ Phục Hưng
(1300-1650).
3.- Phong Trào Đòi Cải
Cách Tôn Giáo (The Reformation) khởi phát vào khoảng năm 1309 kéo dài đến
năm 1648. Phong trào này chỉ tríach và lên án Giáo Hội La Mã về những sai
lầm trong những tín lý Ki-tô (phần lớn nhắm vào những tín lý do Giáo Hội
La Mã đặt ra từ Hội Nghị Nicaea khởi nhóm vào ngày 20/5/235) và nhắm vào
các tội ác tiếm quyền thế tục, tham nhũng, thối nát và đời sống bê bối thối
tha, loạn luân, dâm loan và loạn dâm của các giáo hoàng và giới tu sĩ Ca-tô,
giống như Phong Trào Nhân Bản nhưng tích cực hơn.) Phong trào bùng nổ vào
cuối thập niên 1510, đưa đến việc hình thành các hệ phái Tin Lành Luther,
hệ phái Tin Lành Calvin, Anh Giáo và Pháp Giáo. Chính phong trào này đã làm
cho quyền lực của Giáo Hội La Mã tại Âu Châu bị thu gọn lại, chỉ còn ở các
nước Nam Âu như Ý Đại Lợi, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, một phần ở các nước Pháp,
Áo và Ba Lan.
4.- Thời Đại Khoa Học và
Lý Trí (1500-1789) ra đời vào đầu thế kỷ 16 và kéo dài đến năm 1789. Phong
trào nẩy sinh tự nhiên trong hoàn cảnh lich sử do các phong trào và thời kỳ
B1, B2 và B3 tạo nên. Với cái tên là Thời Đại Khoa Học và Lý Trí (Science
and Age of Reason), chúng ta cũng có thể nhìn ra cái bản chất của phong trào
này: chống lại gần như toàn bộ hệ thống tín lý cùng những việc làm gian dối
và tội ác tàn ngược của Giáo Hội La Mã. Vì thế mà nền tảng tín lý Ki-tô của
Vatican bị “đào tận gốc trốc tận rễ.” Có thể là cụm từ “les corbeaux noirs”
của người Pháp phát sinh trong thời kỳ này. Cũng trong thời kỳ này, văn hào
Voltaire (1694-1778) đã lớn tiếng tuyên bố rằng, đạo Ca-tô là “cái tôn
giáo ác ôn”. Cũng chính trong thời kỳ này các tư tuởng cao đẹp về cách
mạng và những kiệt tác của các đại tư tưởng gia như John Lock (1632-1704),
Voltaire (1694-1778) [tên thật là Francois Arouet], Dennis Diderot
(1713-1784), Montesquieu (1689-1755) Jean Jacques Rousseau (1712-1788),
v.v…,được thành hình và được phổ biến rộng rãi ở Âu Châu trong các vùng
ngòai vòng kiểm sóat của Vatican.
5.- Thời Đại Cách Mạng
Dân Chủ (The Age Of Democratic Revolution). Đây là thời kỳ nhân dân các quốc
gia Âu Châu đã thaam nhuần từ tưởng cao đẹp củac các đại tư tưởng gia trên
đây, đã nhìn thấy rõ bộ mặt thật cực kỳ ghê tởm của Giáo Hội La Mã và các
chế độ đạo phiệt tay sai của Vatican. Vì vậy mà cương quyế tvùng lên làm
cách mạng với mục đích là hủy diệt chế đô giáo hoàng (papacy) và lật đổ các
chế độ quân chủ chuyên chế để thành lập một chế độ chính trị theo mô hình
dân chủ hầu đem lại công bằng trong xã hội, dân chủ tự do và cơm no áo ấm
cho nhân dân. Muốn được như vậy, thì phải tịch thu toàn bộ tài sản của
Vatican, loại bỏ mọi ảnh hưởng của Giáo Hội La Mã ra khỏi sân khấu chính trị
và trong các phạm vi các sinh hoạt cúa nhân dân, ban hành hiến chương dân
sự cho giới tu sĩ áo đen, theo đó thì họ phải tuyên thệ trung thành với hiến
pháp, chứ không phải trung thành với giáo hoàng ở Roma và trừng phạt ghiêm
khắc những người con ngoan cố vẫn tiếp tục thần phục Vatican, chống lại hiến
pháp và luật pháp quốc gia. Vấn đề này sẽ được trình bày đầy đủ trong Phần
III của tập sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam và trong Phần VII của bộ sách
Lịch Sử và HỒ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.
Và các phong trào khác
tiếp theo các phong trào trên đây cho đến khi Liên Minh Xâm Lược Pháp đem
quân sang tái chiếm Đông Dương vào đầu tháng 9 năm 1945 và chiến tranh Triều
Tiên bùng nổ vào ngày 25/6/1950.
Với lòng cương quyết
phải nói lên những sự thật lịch sử mà dân ta chưa được biết, người viết chỉ
có một nguyện vọng đơn thuần là đem hết tất cả những hiểu biết về lịch sử đã
thâu thập được trong cuộc đời học sử, đọc sử và dạy sử viết thành mấy tập
sách để cho mọi người nhìn thấy rõ những sự kiện lịch sử đã bị bưng bít, bị
bóp méo và bị xuyên tạc bởi các thế lực ở hậu trương sân khấu chính trị trên
toàn cõi Đông Dương trong những năm 1885-1954 và ở hậu trường sân khấu chính
trị miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975.
Kinh nghiệm trong lịch
sử cũng như trong cuộc sống hàng ngày cho thấy rằng những con bò (một loài
thú ăn cỏ đi bằng bốn chân) trong các trại chăn nuôi ở Hoa Kỳ hay ở nhiều
nơi khác chỉ biết nghe theo lệnh truyền của người chủ chăn là những người mà
ta thường gọi là “cowboys”. Tương tự như vậy, những “con cừu non Việt Nam”
đi bằng hai chân và được nuôi dưỡng bằng ăn cơm gạo Việt Nam cũng chỉ biết
nghe theo lệnh truyền của những người chủ chăn của chúng mà người Pháp gọi
là ”lũ quạ đen”. Đây là một trong những đặc tính súc sinh của giống cừu non
Việt Nam. Cái đặc tính này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi nhận như sau:
“Nếu những năm
1949-1953, các linh mục thế đã biến giáo dân thành những tên sát nhân cuồng
nhiệt, nhờ khẩu hiệu tiêu diệt cộng sản để vinh danh Chúa”, thì cũng chẳng
khó khăn gì trong việc tạo ra cuộc “Xuất hành vĩ đại” (vào những năm
1954-1955.”
[ii]
“Ngọai trừ các cụm nhà thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người Công Giáo
thường được tập trung lại thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương,
sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt
khỏi lũy tre. Bị đóng khung và được đòan ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở
thành một lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha xứ kêu gọi
họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và
cô lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước,
tẩy chay bất cứ điều gì không được Giáo Hội chính thức phê chuẩn, chẳng hạn
sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển của Việt Nam, hoặc các tài
liệu cách mạng đều bị cho là ngược với đạo. Cac sách của Voltaire,
Montesquieu, khỏi nói tới Các Mac, vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị
giáo luật khai trừ, nhưng ngay cuốn sách thánh đã dịch ra tiếng bản xứ mà
cũng chẳng ai được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ tiếng La
Tinh và Việt ngữ, khổ lớn, nằm trong thư viện các chủng viện và một vài cha
xứ, còn giáo dân thì không thể rờ tới.)"[iii]
Cuối cùng thì nhóm
thiểu số “cừu non” người Việt đã trở thành một lọai người “thà mất nước, chứ
không tà mất Chúa” và suốt cả ngày cả đời không lúc nào là không hướng về
nhà thờ coi như là nơi Chúa ngự trị để họ cầu nguyện tận tâm, tận trí, tận
khôn để hy vọng được Cha cho là ngoan đạo rồi chuyyên y cho họ được lên
thiên đường. Thực trang này được nhà văn con chiên Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại
trong cuốn Xóm Đạo với nguyên văn như sau:
“Toàn trại này, dường như ai cũng sùng đạo như nhau, và sự sùng đạo ấy được
thể hiện qua việc cầu nguyện và đi lễ. Buổi sáng, năm giờ chuông đổ lần thứ
nhất, họ đã lục tục đánh thức cả nhà cùng dậy. Việc đầu tiên khi chưa bước
chân xuống đất, là phải làm dấu thánh giá và đọc vài kinh nhật tụng. Sau đó,
đánh răng rửa mặt, thay quần áo đi lễ. Trên đường đến nhà thờ, họ không bỏ
phí thì giờ, lấy tràng hạt ra vừa lần chuỗi vừa cầu xin. Vào nhà thờ đọc
kinh chung cả tiếng đồng hồ rồi mời tham dự thánh lễ mà dường như vẫn chưa
thấy đủ, họ còn quì nán lại đọc kinh thêm cho đến lúc tới giờ đi làm. Buổi
trưa, đúng giờ ngọ , chuông nhà thờ lại cất lên, nhắc họ dù đang làm gì, dù
đang ở đâu, cũng phải tạm ngưng tay để làm dấu thánh giá và cầu nguyện. Tối
về, cơm nước xong lại vội vã đến nhà thờ. Và khoảng 9 giờ tối, trước khi đi
ngủ, mọi gia đình đều tụ tập trước bàn thờ để đọc thêm một loạt kinh nữa
trước khi lên giường! Nói chung, một ngày không biết bao nhiêu lần nhớ đến
Chúa. Ăn củ khoai cũng làm dấu thánh giá. Nửa đêm mất ngủ cũng ngồi lên lần
tràng hạt! Vui cũng cám ơn Chúa, mà buồn cũng coi là thánh giá Chúa trao cho
mình gánh vác! Niềm tin mãnh liệt như thế, cho nên chẳng lạ gì.”
[iv]
Chính vì tình trạng này
mà “bọn quạ đen” ở Việt Nam mới dễ dàng kích động và xúi giục “đàn cừu non”
hiệp thông”
và “cầu nguyện”
trong những vụ âm mưu đi cắm thập giá và dựng tượng bà già xề Maria ở những
nơi nào mà chúng muốn cướp đọat đất đai hay bất động sản khác cho đế quốc
thực dân xâm lược Vatican. Cũng chính vì thế mà
“bọn cừu non” Việt Nam, những người thường tự nhận là “người Việt Quốc
Gia” chỉ đọc những tác phẩm của các tác giả thuộc hai thành phần A và B
trên đây. Họ mắc chứng bệnh (1) ưa thích chụp mũ cho những tác giả có những
tác phẩm nói lên sự thật về những việc làm tội ác của Vatican trong gần hai
ngàn năm qua là “cộng sản” và (2) dị ứng với tất cả các tác phẩm của các tác
giả thuộc các thành phần khác. Ấy là chưa kể đến việc họ bị dị ứng hay không
hề đọc các tác phẩm của các nhà viết sử chân chính người Âu Mỹ chẳng hạn
như cuốn Vicars of Christ (Dublin, Ireland: Poolbed Press Ltd., 2004), của
tác giả Peter de Rosa, cuốn Rich Church, Poor Church (New York: G.P.
Putnam’s Sons, 1984) và cuốn The Decline And Fall of The Roman Church (New
York: G.P. Putnam’s Sons, 1981) của tác giả Malachi Martin, cuốn Vietnam Why
Dit We Go? (Chino, CA: Chick Publications, 1984) và cuốn The Vatican’s
Holocaust (Sprìngfield, MO: OzarkBook, 1986) của tác giả Avro Manhattan,
cuốn Deceptions and Myths of the Bible (New York: Bell Publising Company,
1979) của tác giả Lloyd M. Graham, cuốn Tyrants History’s 100 Most Evil
Despots & Dictators (London: Arcturus, 2004) của tác giả Nigel Cawthorne,
cuốn The Bad Popes (New York:Barnes & Noble Books, 1993) của tác giả E. R
Chamberlain, cuốn Babylon Mystery Religion (Riverdide, CA: Ralph Woodreow
Evangelistic Association, Inc, 1981) của tác giả Ralph Woodrow, cuốn The
Vatican Exposed (Amherst, New York: Prometheus Books, 2003) của tác giả
Paul L. Williams, cuốn Smokescreens (Chino, CA: Chick Publications, 1983)
của tác giả Jack T.Chick, cuốn Fire in The Lake (New York: Vintage Books,
1972) của tác giảr Frances FitzGerald, cuốn Vietnam: A History (New York:
The Viking Press, 1983) của tác giả Stanley Karnow, bộ sách Vietnam: A
Dragon Embattled (New York: Frederick A Praeger, 1967) của tác giả Joseph
Buttinger, cuốn The Two Vietnams (New York: Frederick A Praeger, 1964) của
tác giả Bernard B. Fall, cuốn The Politics Of Heroin in Southeast Asia (New
York: Harper Colophon Books, 1973) của tác giả Alfred W. McCoy, cuốn The
Deaths Of The Cold War Kings – The Assassinations of Diem & JFK (Baltimore,
MD: Cemetery Dance Publications, 2000) của hai tác giả Bradley S. O’ Leary &
Edward Lee, cuốn In Retrospect – The Tragety And Lessons Of Vietnam (New
York: Time Books Random Houses, 1995) của tác giả Robert S. McNamara, bộ
Lịch Sử Thế giới gồm 3 cuốn (1) Ancient Civilizations – Prehistory to the
Fall of Rome, (2) Medieval and Early Modern Times – The Age of Justinian to
the Eighteen Century, (3) Modern Times – The French Revolution to the
Present (New York: Macmilln Publishing CO. Inc, 1983) của tác giả Carlton
J. H. Hayes, v.v…
Vì những lẽ này mà kiến
thức của họ về lịch sử thế giới, về Giáo Hội La Mã và về lịch sử Việt Nam
trong thời cận và hiện đại gần như là con số không vĩ đại. Bằng chứng là
ngay cả ông Trần Gia Phụng, một người đã tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế, Ban
Sử Địa và đã dạy môn sử tại các trường trung học ở miền Nam Việt Nam trong
nhiều năm mà lại viết một đoạn văn “lịch sử” như sau:
“Có
một điều cần nhấn mạnh là cá nhân người nào làm thì người đó chịu trách
nhiệm, đừng vì cá nhân đó theo tôn giáo nầy hay tôn giáo khác mà đưa vấn đề
thành sự
đối đầu tôn giáo rất nguy hiểm. Ví dụ trường hợp tôi viết về chế độ Ngô Ðình
Diệm, thì chế độ Diệm có điểm tốt mà cũng có điểm không tốt. Rủi một điều là
cái điểm không tốt nguy hại nhất cho chế độ Diệm chính là vụ treo cờ Phật
giáo mà ai đã từng ở miền Trung, nhất là ở Huế và Ðà Nẵng đều thấy và biết.
Chuyện nầy cũng được các tác giả Ky-Tô giáo viết lại, ví dụ cụ thể nhất là
linh mục Cao Văn Luận. Từ cái điểm không tốt nầy mới nẩy sinh ra đủ thứ
chuyện, làm sụp đổ chế độ Diệm.
Cái điểm không tốt nầy thuộc về
trách nhiệm cá nhân hai ông Ngô Ðình Thục và Ngô Ðình Diệm chứ không liên hệ
gì đến Ky-Tô giáo cả. Phải tách bạch rõ ràng như thế để tránh những hiểu lầm
đáng tiếc, những chụp mũ vu vơ.”
[v]
“Văn tức là người.” Viết
đoạn văn trên đây, ông Trần Gia Phụng đã tự phơi bày cho mọi người thấy rõ
trình độ hiểu biết của ông quá yếu kém về lịch sử Việt Nam trong thời cận
và hiện đại, về lịch sử thế giới và về lịch sử Giáo Hội La Mã. Đoạn văn “Cái
điểm không tốt nầy thuộc về trách nhiệm cá nhân hai ông Ngô Ðình Thục và Ngô
Ðình Diệm, chứ không liên hệ gì đến Ky-Tô giáo cả. Phải tách bạch rõ ràng
như thế để tránh những hiểu lầm đáng tiếc, những chụp mũ vu vơ”
chứng tỏ rằng ông Phụng:
1.- Không biết gi về
những rặng núi tội ác của Giáo Hội Lá Mã chống lại nhân loại trong gần gần
hai ngàn năm qua. Sách Vatican Thú Tội và Xin Lỗi? (Garden Grove, CA: Giao
Điểm, 2000) trình bày khá rõ ràng với nhiều chi tiết của rằng núi tội ác này
của Giáo Hội La Mã
2.- Không biết gì
về việc Vatican chủ trương thi hành sách lược cấu kết với các cường quyền và
các đế quốc thực dân xâm lược Âu Mỹ để (a) củng cố quyền lực ở Âu Châu và
bành trướng thế lực ở các lục địa ngòai Âu Châu. Vấn đề này đã được chúng
tôi trình bày khá đầy đủ trong Chương 6 (Mục III, Phần II) trong bộ sách
Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc
online trên sachhiem.net.
3.- Không biết gì
về những sự kiện lịch sử trong thế kỷ 15mà Giáo Hội La Mã là tác nhân. Đó là
việc Tòa Thánh Vatican đã bàn hành hàng loạt các thánh chỉ hay sắc lệnh, ban
đặc quyền phép cho hai nước Bồ Đào Nha và Tây Nha được được đặc quyền mang
quân đi đănh chiếp các vùng đất ở ngòai Âu Châu làm thuộc địa để cướp đọat
đất đai và tài nguyên làm của riêng, để hủy diệt các tôn giáo và nền văn hóa
khác, để tàn sát những người dân bản địa, hãm hiếp đàn bà con gái. Vấn đề
này đã được chúng tôi trình bày đày đủ trong Chương 3 trong tập sách Tâm Thư
Gửi Nhà Nước Việt Nam.
Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.
5.- Không biết gì về
vai trò của Giáo Hội La Mã trong dòng lịch sử thế giới trong gần hai ngàn
năm qua và trong dòng lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại.
6.- Không biết gì
về việc Giáo Hội La Ma đã 3 lần vận đọng chính quyền Pháp cấu kết với
Vatican và xuất quân đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa để cùng thống trị và
cướp đọat tài nguyên, cùng nô lệ hóa và cùng bóc lột dân ta đến tận xương
tận tủy. Vấn đề này cũng đã được trình bày đầy đủ nơi Chương 5 trong tập
sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương sách này có thể đọc online
trên sachhiem.net.
7.- Không biết gì về
vai trò của các ông tu sĩ áo đen con chiên người Việt trong Đoàn Quân viễn
Chinh Liên Minh Pháp – Tây Ban Nha – Vatican tấn công Việt Nam từ năm 1858
cho đến khi buộc triều đình Huế phải cúi đầu ký Hòa Ước Patenôtre (1884).
8.- Không biết gì về
vai trò của Giáo Hội La Mã trong thời Kháng Chiến 1945-1954 mà rõ ràng nhất
là lời tuyên bố vào ngày 28/12/1945 của vị khấm sứ đại diện của Tòa Thánh
Vatican tại Hà Nội là Tổng Giám Mục Antoni Drapier. Lời tuyên bố này được
sách sử ghi lại như sau:
Ngày 28/12/1945: HUẾ: Tổng Giám Mục Antoni Drapier,
đại diện Roma, tuyên bố:
"Gia đình Bảo Đại là gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt Nam
(la plus francophile de tous les annmites) và theo ý ông ta, nên cho Bảo Đại
lên ngôi như trước ngày 9/3 (À mon avis, il serait avantageux pour le
calm de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars; DOM [aix], CP
125). DRAPIER cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo Long kế vị,
và Nam Phương làm Giám Quốc [Phụ Chính ]."[vi]
9.-
Không biết gì về việc Giáo Hội La Mã trực tiếp và công khai đưa ông Ngô Đình
Diệm sang Hoa Kỳ giao cho Hồng Y Francis Spellman vận động chính khách có
thế lực trên sân khấu chính trị của siêu cường này để đưa ông ta về Việt Nam
cầm quyền. Vấn đề này đã được người viết trình bày khá rõ ràng (1) trong
Chương 17, sách Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 (Houston, TX:
Văn Hóa, 2000), và (2) trong Chương 60 (Mục XVIII, Phần VI) trong bộ sách
Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc
online trên sachhiem.net.
10.- Không biết gì về vai trò Giáo Hội qua các ông giám mục và linh mục
Việt Nam quyết định ra lệnh cho chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm (vào cuối
năm 1954) phải làm thế nào cho từ kép “đạo công giáo” được sử dụng thay thế
cho các từ kép “đạo Thiên Chúa”, “đạo Ki-tô giáo”, “đạo Cơ Đốc, “”đạo
Gia-tô” trong các văn thư hành chách, trong các sách giáo khoa ở học đường,
trong sách báo và trong các tác phẩm văn chương và nghê thuật.
[vii]
11.- Không biết gì về chuyện vào năm 1956, một ông linh-mục yêu cầu chính
quyền Ngô Đình Diệm ra lệnh cấm, không cho lưu hành và không sử dụng bộ lịch
sử thế giới do hai ông Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang biên sọan; hậu quả là
bộ sách này bị chính quyền tịch thu, không được sử dụng trong các trường
trung học, và tác giả Nguyễn Hiến Lê bị mật vụ của chính quyền Ngô Đình Diệm
theo dõi.[viii]
12.- Không biết gì về
vai trò của các ông tu sĩ áo đen trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội La
Mã. Họ chỉ được làm những gì Vatican cho phép. Sự kiện này được chính các
ông tu sĩ áo đen nói cho chúng ta biết. Vấn đề này Linh-mục Trịnh Văn Phát
nói rõ như sau:
”Trong suốt thời gian ở Việt Nam tôi
đã suy nghĩ và tự hỏi mình phải làm gì cho quê hương và Giáo Hội. Giúp quê
hương không phải là bổn phận trực tiếp của tôi, nhưng tôi có bổn phận với
giáo hội vì tôi là người của giáo hội và được đào tạo để sau này phục vụ
cho giáo hội. Có nhiều anh em yêu cầu tôi về giúp cho địa phận, tôi thẳng
thắn trả lời tôi không có tự do chọn lựa, tôi được huấn luyện để phục vụ
theo nhu cầu của giáo hội.”
[ix]
13.-
Không biết gì về giứo tú sĩ áo đen và giáo dân chỉ được phép đọc những gì
mà giáo hội cho phép và không được đọc những gì mà giáo hội không cho phép.
Vấn đề này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh nói rõ như sau:
“Bị
đóng khung và được đoàn ngũ hóa bởi hang giáo sĩ, họ trở thành một lực lượng
quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha xứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ
đức tin, bảo vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô lập phần lớn
giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào, thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ
điều gì không được Giáo Hội chính thức phê chuẩn, chẳng hạn sách truyện Kiều
, một kiệt tác văn thơ cổ điển của Việt Nam, hoặc các tài liêu cách mạng đều
bị cho là ngược với đạo. Các sách của Voltaire, Montesquieu, khỏi nói tới
Các Mác (Karl Marx), vừa bị nhà nước thuộc địa cấm, vừa bị giáo luật khai
trừ,…”[x]
Đây là
những sự kiện nói về vai trò của Giáo Hội La Ma trong dòng lịch sử thế giới
và trong dòng lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. Ấy thế mà là một
giáo viện tốt nghiệp ngành sử học và phụ trách giảng dạy môn sử ở các trường
trung học ở Việt Nam trong nhiều năm trời, ông Trần Gia Phụng lại không biết
một chút gì về những sự thật lịch sử này. Vì không biết những sự thật lịch
sử này, cho nên ông mới viết đọan văn “lịch sử để đời” trên đây.
Thật là
đáng buồn! Một người được đào tạo thành một giáo viên dạy sử tại Đại Học Sư
Phạm Huế – Ban Sử Đia, đã hành nghề dạy sử tại các trường trung học ở miền
Nam Việt Nam trên dưới 10 năm trước khi sang định cư ở Canda, rồi lại viết
khá nhiều tác phẩm về lịch sử Việt Nam mà vẫn còn dốt nát về lịch sử như
vậy, thì còn nói chi đến những người khác.
Thực ra,
tất cả những người tiếp nhận sở học qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi
sọ mà Giáo Hội La Mã gọi là “đào
tạo thanh thiếu niên theo tinh thần công giáo”
đều là những người vừa dốt nát về lịch sử, vừa không biết sử dụng lý trí để
tìm hiểu sự vật (cách vật trí tri). Vì thế mà ngay cả những người đã học
xong lớp 12 (học xong cấp 3), kiến thức tổng quát của họ cũng vãn ở trong
tình trạng bất quân bình, không bằng một em bé học sinh Hoa Kỳ mới học đến
lớp 9.
Riêng về
tín đồ Ca-tô, không những họ ngu dốt như vậy mà còn bị Giáo Hội la Mã coi
như đàn cừu non, tức là một loài thú vật. Có một điều kỳ lạ là họ lại không
biết họ là hạng người ngu dốt và cũng không biết rằng Giáo Hội đã công khai
khinh rẻ họ, công khai coi họ như một lòai thú vật hay đúng hơn là loài súc
sinh, cho nên mới gọi họ là “cừu non” (con chiên).. Vì không biết như vây,
cho nên họ mới hợm hĩnh tự phong là “dân Chúa”, là “dân được Chúa chọn”, lên
mặt ta đây là “dân văn minh” và miệt thị những người thuộc các tôn giáo hay
nền văn hóa khác là “man di”, là “mọi rợ”, là “dã man”, là “tà giáo”, là
“tà đạo” và “vô đạo”. Chình vì vừa ngu dốt, vừa hợm hĩnh như vậy, cho nên họ
mới nêu lên những câu hỏi có tính cách cự nự và hạch sách người viết như đã
nói ở trên.
Nói
chung, thực sự là tất cả các ông việt sử thuộc lọai A và B trên đây chỉ
biết lơ mơ về lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại. Sự hiểt biết
của họ về lịch sử hoàn toàn là do bộ máy tuyện truyền của Giáo Hội La Mã mớm
cho họ qua chính sách ngu dân và nhồi sọ ở học đường mà thôi. Chính vì thế
mà họ không biết gì về tất cả 13 điều mà người viết đã nêu lên với ông giáo
viên dạy sử Trần Gia Phụng như đã nói ở trên, tức là không biết gì về chủ
trương và hành động của Giáo Hội La Mã qua các chủ trương và chính sách:
1.- Kìm
hãm người dân dưới quyền mãi mãi ở trong tình trạng ngu dốt bằng chính sách
ngu dân và nhồi sọ.
2.- Dùng
bạo lực để đánh phá và hũy diệt những cống trình văn hóa và văn minh của
nhân loại.
3.- Miệt
thị, chửi rủa và sát hại các nhà tranh đấu chống lại Tòa Thánh Vatican.
Dốt nát
như vậy mà mà họ cũng ti-toe viết sử. Rõ thật là nỡm!
Điều đau
buồn hơn nữa cho dân Việt Nam ta là những hạng người vừa ngu dốt, vừa hợm
hĩnh này đã dựa vào quyền lực của người ngoại bang là Liên Minh Thực Dân Xâm
Lược Pháp - Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican cùng với giặc tác oai
tác quái, hét ra lửa mửa ra khói, cướp đoạt tài nguyên của đất nước ta, đè
đầu cỡi cổ và phè phỡn trên mồ hôi, nước mắt và xương máu của nhân dân ta
trong suốt chiều dài lịch sử từ năm 1862 đến năm 1954 ở tất cả những nơi nào
có gót giầy quân xâm lược bước tới, và từ tháng 7 năm 1954 cho đến ngày
30/4/1975 ở miền Nam Việt Nam. Cho đến ngày nay, ở hải ngoại cũng như ở
trong nước, chúng vẫn còn cúi đầu nghe lời xúi giục của bọn quạ đen tiếp tục
đánh chính quyền và đất nước ta.
V.- Về Các Danh Xưng Và Ngôn Ngữ
Có một
vài danh xưng và một số từ ngữ sử dụng trong các tác phẩm của người viết cần
phải được làm sáng tỏ. Đó là danh xưng “Đế Quốc Vatican”, danh xưng “Liên
Minh Đế Quốc Thực Dân Lược Pháp”, danh xưng đạo Thiên Chúa, và một số từ
ngữ.
A.- VỀ
MỘT SỐ NHỮNG DANH XƯNG:
Hầu hết những danh xưng này chỉ mới xuất hiện trong
những tác phẩm của chúng tôi mà không có ở trong các tác phẩm của các tác
giả khác. Đây cũng là cái cớ để cho một số tín đồ của đạo Ca-tô nêu lên
những câu hỏi có tính cách hạch sách và cự nự chúng tôi như đã nói trên.
Chúng tôi xin giải thích như sau:
1.- Về
Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp - Thập Ác Vatican hay liên minh
giặc Pháp - Thập Ác Vatican và Liên Minh Đế Quốc Xâm Lược Mỹ - Vatican:
Theo Việt Nam Tự Điển của học giả Lê Văn Đức thì đế quốc là “nước mạnh,
nước ỷ vào vào sức mạnh xâm chiếm nước khác để mở rộng bờ cõi và giành thị
trường.” Hán Việt Tự Điển của học giả Đào Duy Anh cũng viết: “Đế quốc
là nước lớn kiêm tính được nhiều quốc gia họăc dân tộc khác.”
Nói một
cách khác là ngôn ngữ của nhân lọai đã xác định rõ ràng rằng một nước mạnh
đem quân đi dánh chiếm và thống trị một nước khác, thì nước đó được gọi là
đế quốc và quân đội viễn chinh của đế quốc đó là quân xâm lược. Có hơn một
quốc gia liên minh hay cấu kết với nhau để đánh chiếm một quốc gia nạn nhân
thì cái liên minh đó gọi là liên minh giặc xâm lược. Pháp và Vatican liên
kết với nhau để tấn chiếm Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1954, rồi trong những
năm 1954-1975, Mỹ và Vatican liên kết với nhau để cưỡng chiếm miền Nam Việt
Nam. Như thế, thiết tưởng rằng việc người viết sử dụng danh xưng "liên
minh đế quốc thực dân xâm lược Pháp - Vatican" và “Liên Minh Xâm Lược
Mỹ - Vatican” là đúng với ngôn ngữ của nhân loại như đã nói ở trên.
Những hành động của Giáo Hội La Mã đã tích cực vận động nước Pháp liên kết
với Vatican và xuất quân đánh chiếm Việt Nam đã được trình bày khá rõ ràng
trong các chương sách từ Chương 21 đến Chương 24 (Mục VII và Mục VIII, Phần
III) sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã và Chương 5 (Phần I)
sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Những cố gắng của Vatican vận động Hoa
Kỳ liên kết với Vatican và đưa người của Vatican là ông Ngô Đình Diệm về
Việt Nam cầm quyền để làm tay sai cho cả Hoa Kỳ và Vatican sẽ được trình bày
rõ ràng trong Chương 60 (Mục XVIII, Phần VI), sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
của Giáo Hội La Mã, và Chương 17 (Phần III), sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước
Việt Nam.
2.- Về
danh xưng của đạo Thiên Chúa La Mã:
Nguyên thủy của hệ phái tôn giáo này là đạo Ki-tô Do Thái (The Jewish
Christianity). Đạo Ki-tô Do Thái xuất hiện vào cuối thế kỷ 1 do người Do
Thái sáng lập và được cho ra đời ở nước Do Thái. Vì thế mới có danh xưng là
đạo Ki-tô Do Thái.
Vào giữa
thập niên 310, giáo chủ của hệ phái tôn giáo này là Silvester I (314-335),
cấu kết với Hoàng Đế Constantine (280-337) và đem đạo Ki-tô Do Thái thống
thuộc vào chính quyền Đế Quốc La Mã. Tiếp theo đó, Hoàng Đế Constantine cho
triệu tập Hội Nghị Nicaea vào ngày 20/3/235 với mục đích cho thông qua tín
lý Chúa Ba Ngôi. Sau đó, năm 383, (có sách nói là vào năm 340) chính
quyền Đế Quốc Lã Mã ra lệnh dùng danh xưng The Roman Cattolica thay thế cho
danh xưng cũ là Ki-tô Do Thái (The Jewish Christianity và Giáo Hội mẹ kể từ
đây là ở La Mã, chứ không còn ở Do Thái nữa. Đây là một thủ đọan “cưỡng từ
đoạt lý” để tiếm danh nhắm đánh lừa người đời. Danh xưng “Giáo Hội La Mã”
(The Roman Church hay the Roman Cạtholic Church) được cho ra đời kể từ đó,
và cũng từ đó, Giáo Hội Ki-tô Do Thái và tín đồ của hệ phải tôn giáo này bị
Giáo Hội truy diệt. Cho đến thế kỷ thứ thi bị tiêu diệt hoàn toàn. Vấn đề
này sẽ được trình bày đầy đủ với nhiều chi tiết nơi Chương 2 (Mục I) và
Chương 4 (Mục II), Phần I trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo Hội
La Mã.
Chữ
Cattolica hay Catholica
là tiếng La-tinh bắt nguồn từ chữ Katholicos
của người Hy Lạp. Chữ này chuyển dịch sang tiếng Anh là “universal”, và sang
tiếng Pháp là “universel”. Theo tự điển Anh – Việt của Viện Ngôn Ngữ Học
Việt Nam và Tự Điển Pháp - Việt của học giả Đào Văn Tập, thì Universal và
universel đều có nghĩa là “phổ thông, phổ biến, phổ quát, chung.” Khi
sử dụng chữ Cattolica hay universal hoặc universel, chính quyền Đê Quốc La
Mã hay Giáo Hội La Mã là có dã tâm lấn lướt và vơ vào, cho rằng cái đạo này
là đạo phổ quát hay phổ biến hay “tôn giáo của toàn cầu”. Đây là hành
động gian dối thứ hai của cái tôn giáo này sau hành động gian dối thứ nhất
là chuyện bịa đặt ra tín lý Chúa Ba Ngôi tại Hội Nghi Nicaea vào năm 325.
Hai hành động gian dối nặng tính cách, lấn lướt và vơ vào này cùng với những
tín lý láo khoét và bịp bợm trong kinh thánh (cả Cựu Ước và Tân Ước) là
những hạt giống gian dối, lấn lướt và vơ vào để rồi sinh sôi nầy nở ra hàng
triệu triệu hành động gian dối, lấn lướt, vơ vào và tội ác sau này của Giáo
Hội La Mã.
Các nhà
ngữ học và thần học Anh và Pháp không sử dụng chữ universal hay universel
(đạo rộng rãi, đạo khắp nơi, đạo phổ quát của toàn cầu, đạo chung) để nói về
cái đạo Roman Katholicos
hay Roman Catholica.
Có lẽ họ cho rằng nếu sử dụng như vậy, nghe nó lố bịch và chướng tai quá!
Vì thế, họ mới để nguyên chữ Cattolica (của Hy Lạp) và Anh hóa hay Pháp hóa
thành chữ Catholic, rồi để mặc cho người đời muốn hiểu sao thì hiểu. Nhiều
khi người dân Anh thường gọi tẳt chữ Catholic là Cat và có thể hiểu ngầm là
“con mèo” hay “đạo con mèo”.
Tôn giáo
này được du nhập vào Việt Nam từ năm 1533 và được thường gọi bằng nhiều từ
khác nhau như: đạo Ki-tô, đạo Da-tô, đạo Cơ-đốc và đạo Thiên Chúa, đạo
Chúa. Trong thời Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican tấn chiếm và thống trị
Việt Nam (1858-1945), Nhà Thờ Vatican đã có ý định sử dụng từ “công giáo”
thay thế cho các từ Cơ Đốc, Ki-tô, Thiên Chúa, Da-tô hay Gia-tô, nhưng không
được người Pháp chấp thuận. Lúc đó, người Pháp đang cầm trịch trong chính
quyền tại chính quốc Pháp cũng như tại Đông Dương. Họ sợ rằng nếu sử dụng từ
“công giáo”, thì có khác nào đổ dầu vào ngọn lửa căm hờn của người dân Việt
Nam đang sôi sục trong phong trào tranh đấu đòi lại độc lập và tự do cho dân
tộc.
Trong
thời Kháng Chiến 1945-1954, quyền lực của người Pháp ở Đông Dương không còn
ở thế mạnh như thời 1858-1945 nữa. Đây là cơ hội thuận tiện cho Giáo Hội La
Mã lấn lướt người Pháp để giành giật, lấn lướt và vơ vào cho được nhiều
quyền lực hơn tại Việt Nam bằng cách đề nghị đưa Bảo Đại lên cầm quyền để
lập chính phủ đối đầu với chính quyền Kháng Chiến Việt Nam dưới quyền lãnh
đạo của cụ Hồ Chí Minh. Đề nghi này do vị Khâm-sư đại diện Vatican ở Hà Nội
là Giám Mục Antoni Drapier công bố vào ngày 28/12/1945 (đã được nói rõ ở
trên).. Nhờ vậy mà nhà Thờ Vatican mới cho sử dụng từ công giáo mạnh mẽ hơn
nếu so với thời 1858-1945, nhưng họ cũng vẫn không dám công khai ra lệnh cho
chính quyền Bảo Đại ban hanh quyết định bắt buộc các cơ quan công quyền và
các báo chí lưu hành trong vùng Pháp – Vatican tạm chiếm phải sử dụng từ
công giáo thay thế cho các từ Cơ đốc, Da-tô, Thiên Chúa trong các văn thư
hành chánh. Cũng vì thế mà ở Việt Nam, cho đến năm 1954, chúng ta KHÔNG THẤY
CÓ từ “công giáo” trong các văn thư hành chánh cũng như trong báo chí và
trong các sách giáo khoa trong học đường. Sự kiện này được ông Nguyễn Hy
Thần ghi nhận trong bài viết “Danh Từ “Công Giáo”: Chữ và Nghĩa” như
sau:
“Sách
báo Việt Nam viết trước thập niên 1960 khi đề cập đến Catholics thì dùng chữ
Thiên Chúa giáo, đạo Gia-tô, đạo Ki-tô hay đạo Cơ Đốc. Viết về đạo
Catholics, cuốn “Việt Nam Văn Hóa Sử Cương” của Đào Duy Anh (viết năm 1938)
nói rằng: “Từ thế kỷ 16, 17, Cơ Đốc giáo do các giáo-sĩ Bồ Đào Nha và Pháp
Lan Tây truyền sang thì ở nước ta có thêm một thứ tôn giáo mới theo nghi
thức La-mã giáo hội…” Toàn bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (viết vào
khoảng năm 1950) - Đúng ra, bộ sách này được biên soạn vào năm 1919, in và
phát hành vào năm 1921 - NMQ] không hề dùng chữ công giáo. Nhưng danh từ
công giáo cũng vắng bóng trong những tác phẩm văn học viết trước thập niên
1950. Như vậy qua sự tìm hiểu đặt trên căn bản ngôn ngữ học bên trên, cũng
thừa để kết luận rằng hai chữ “công giáo” được bắt đầu dùng để chỉ đạo Cơ
Đốc (Catholics) vào cuối thập niên 1950 hoặc đầu thập niên 1960.”[xi]
Mãi đến
năm 1954, sau khi ông Ngô Đình Diệm được Mỹ và Vatican đưa về Việt Nam cầm
quyền và để mặc cho anh em Nhà Ngô quản lý vấn đề nội bộ ở miền Nam Việt
Nạm, lúc đó Nhà Thờ Vatican mới chính thức sử dụng chính quyền cưỡng bách
dân ta phải sử dụng từ công giáo để thay thế cho các từ Cơ Đốc, Da-tô và
Thiên Chúa trong các văn thư hành chánh, trong các sách giáo khoa, trong
báo chí và trong các ấn phẩm văn học. Sự kiện này được Linh-mục Vũ Đình Hoạt
ghi lại trong cuốn Tôn Giáo Chính Trị Quan như sau:
"Nếu
nói hoặc viết chỉ nguyên Công giáo mà thôi, thì đó phải hiểu và bắt buộc
phải hiểu chứ không thể hiểu khác đi được: đó chính là Giáo Hội La Mã hoặc
Vatican mà Đức Giáo Hoàng là vị lãnh đạo tinh thần tối cao của toàn thể Thế
Giới Công Giáo. Riêng tại Việt Nam kể từ năm 1533 cho đến năm 1954
khi mà các danh từ Thần Học và Kinh Thánh chưa được Hàn Lâm Viện Hóa,
nói cách khác chưa được Đại Chủng Viện thuần túy Việt Nam dịch thuật các
sách giáo khoa và Phụng Vụ cũng như Kinh Thánh các danh từ cổ như Thiên Chúa
Giáo hoặc Gia Tô Giáo trong các sách vở lịch sử hay "Nhà Đạo" vẫn được hiểu
cách chung là Đạo Công Giáo, vì lẽ khi đó chưa có đạo Tin Lành trên đất nước
Việt Nam, và các nhà truyền giáo cũng chỉ nguyên thuộc Hội Truyền Giáo Thừa
Sai Ba Lê (MEP) mà thôi. Kể từ năm 1954 về sau này khi mà đã có Đại
Chủng Viện Việt Nam chuyên môn dịch các sách Kinh Đạo Thần (Kinh Thánh, Đạo
Đức và Thần Học), lúc ấy mới có sự phân biệt rõ "Công Giáo" (Catholic), bắt
nguồn từ Kinh Tin Kính "Tôi tin có Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công
giáo và tông truyền". (Sách lễ giáo dân sở di trú và tị nạn USCC. Hoa Thịnh
Đốn, trang 1370). Vậy kể từ năm 1954 về sau này, các sách vở Việt Nam,
nếu muốn trực chỉ nguyên Giáo Hội la Mã hoặc Vatican, thì bắt buộc phải dùng
danh từ Công Giáo (Catholic), chứ không thể nào dùng danh từ Thiên ChúaGiáo
hoặc Gia- tô hoặc Ki Tô được. "
[xii]
Từ
khỏang đầu thập niên 1990, một số các nhà biên khảo lịch sử người Việt ở hải
ngoại bắt đầu sử dụng chữ Ca-tô và Ca-tô Rôma thay vì gọi là công giáo hay
Thiên Chúa Giáo La Mã. Họ cho rằng đó chỉ là một cách gọi tắt của chữ
Catholic giống như người Anh hay người Pháp gọi là Cat, chứ không có ý gì
miệt thị hay khinh rẻ cả. Trong tập sách này và các tác phẩm khác, chúng tôi
dùng từ Ca-tô, đôi khi cũng dùng từ Da-tô hay Ki-tô.
Gọi là
đạo Ca-tô có thể làm cho một số tín đồ Ca-tô bất bình vì họ cho rằng gọi như
vậy là có ý miệt thị cái đạo mà họ cho là cao cả hơn, quý trọng hơn cả dân
tộc và tổ quốc Việt Nam. Họ là những người “La Mã hơn cả La Mã”, lúc
nào cũng tỏ ra sợ sệt và hết lòng nịnh bợ, tâng bốc Vatican đến tận mây
xanh. Đây là một trong những đặc tính độc đáo trong căn bệnh “snobbery”
(trưởng giả học làm sang) của họ. Căn bệnh này của họ được nhà trí thức
Ca-tô Nguyễn Văn Trung ghi nhận trong bài viết “Một số tình hình đặc biệt
của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam” như sau:
“Nhưng
trong lề lối là việc của các giám mục thường rất độc tài, độc đoán. Trong
đối xử thường tỏ ra kỳ thị, ban phát ân huệ, coi thường bề dưới, ganh tị và
kèn cựa với đồng liêu để lập công với Tòa Thánh. Những đỉểm nổi bật nhất là
tiền hậu bất nhất, việc làm không đi đôi với lời rao giảng, trọng ngoại
khinh nội, tham phú phụ bần, vô cùng sợ hãi Tòa Thánh, đến nỗi có những linh
mục nói rằng ”Tòa Thánh dánh răm cũng khên thơm…”
[xiii]
Cái đặc
tính độc đáo này đã làm cho tín hữu Da-tô người Việt hoàn toàn khác hẳn với
tín hữu Da-tô người Âu Mỹ. Chúng ta có thể nhìn ra những khác biệt này qua:
A.- Cung
cách sử dụng các từ (chữ)
nói về các tước hiệu hay chức vị của giai cấp tu sĩ trong Giáo Hội La Mã
như holy father, cardinal, archbishop, bishop:
1.- Khi
nói hay viết những người mang tước hiệu hay chức vị này thì người Âu Mỹ chỉ
nói hay viết các tước hiệu hay chức vị đó kèm theo tên người mang tước hiệu
hay chức vụ đó, chứ không thêm một từ nào khác đứng trước hay đứng sau các
từ này. Họ gọi hay viết Pope John Paul II, Pope Benedict XVI, Cardinal
Spellman, Archbishop Nguyễn Văn Bình, Bishop Bùi Tuần, v.v...
2.- Trái
lại, khi nói hay viết những người mang tước hiệu hay chức vị này, tín đồ
Ca-tô người Việt lại thêm chữ Đức (viết hoa) đi kèm theo ở trước các từ này
đê tỏ lòng tôn kính tuyệt đối của họ đối với những người mang các tước hiệu
hay chức vị này. Vì thế mà họ luôn luôn gọi la Đức Giáo Hoàng, Đức Hồng Y,
Đức Tổng Giám Mục và Đức Giám Mục, v.v….
Cũng nên
biết, trong các chức vụ trong hệ thống đẳng cấp của Giáo Hội La Mã, chức vụ
giáo hoàng là chức vụ lớn nhất cũng chỉ ngang hàng với chức vụ quốc trưởng
hay tổng thống của một quốc gia mà thôi. Chúng ta chỉ gọi Tổng Thống Obama,
Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng, chứ không có ai
gọi Đức Tổng Thống Obama, Đức Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết, Đức Thủ Tướng
Nguyễn Tấn Dũng bao giờ cả. Tương tự như vậy, chúng ta phải nên gọi là Giáo
Hòang John Paul II, Giáo Hoàng Benedict XVI, Hồng Y Pham Minh Mẫn, Tổng Giám
Mục Nguyễn Văn Bình là hợp lý và nghe rất thuận tai. Thế nhưng đối với tín
đồ Ca-tô người Việt, họ cho rằng gọi như thế là hỗn hào hay bất kính đối với
nhưng người của họ mang tước hiệu này. Vì vậy họ mới thêm chữ “Đức” (viết
hoa) rồi gọi là Đức Giáo Hoàng John Paul II, Đức Giáo Hoàng Benedict XVI,
Đức Hồng Y, Đức Giám Mục. Họ cho rằng gọi như vậy thì mới đúng với “tinh
thần sống đạo theo đức tin Ki-tô” hay “lương tâm công giáo”. Quả
thật là nỡm, nỡm hết chỗ nói!
B.- Vấn
đề phiên âm và chuyển dịch các từ và danh xưng trong đạo Ca-tô sang tiếng
Việt. Như đã nói trên, tín hữu Ca-tô
người Việt vừa mang chứng bệnh “trưởng giả học làm sang”, vừa mang
chứng bệnh tham lam, gian dối, lươn lẹo, lấn lướt và vơ vào, vừa mang chứng
bệnh sợ hãi và nịnh bợ Tòa Thánh Vatican đến tận tâm, tận trí và tận khôn.
Cả 3 chứng bệnh này đều hết sức trầm kha. Vì thế mà khi phiên âm hay chuyển
dịch những từ trong đạo Ca-tô, họ dồn hết nỗ lực nặn óc tìm ra những từ
tiếng Việt sao cho có thể để đáp ứng được cả ba căn bệnh ghê tởm của họ.
Bằng cớ là:
1.- Về phiên âm: cụm từ “Pope
Benedict XVI”. Riêng về chữ “Benedict” là danh tự riêng và khi dùng làm
phẩm tự thì viết là Benedictine, thí dụ như
Benedictine monk. Trong bài Viết Linh Mục Là Ai? Do ông
nhuquy54@gamail.com
phổ biến gửi cho thhanhan@yahoo.com ngày
10 tháng nặm 2010, chúng tôi thấy chữ “Benedictine monk” được dịch và
phiên âm sang tiếng Việt là “một tu sĩ dòng Bê-nê-đít” và cụm từ “the
International Benedictine Confederation”
được chuyển dịch và phiên âm là “Công
đoàn Bê-nê-đít Quốc tế”
Ấy thế
mà các ông tu sĩ áo đen và con chiên người Việt lại chuyển dịch và phiên
âm cụm từ “Pope Benedict XVI” thành “Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16”. Họ
cố tình thêm vào từ “Đức” để vừa tỏ lòng nịnh bợ, tâng bốc và tuyệt đối tôn
kính của họ đối với người mang chực vụ này bất cần biểt cái con người mang
cái chức vụ này có đáng tôn kính hay không. Từ Biển là do ho phiên âm
từ âm “Ben”, và từ Đức là do họ phiên âm từ âm “dict”
ra. Ở đây, họ cố tình ăn gian làm như là tên của ông giáo hoàng này là cả
một “đại dương (biển) đạo đức”. Hành động gian manh này phản ảnh đúng
theo căn bệnh tham lam vơ vào và căn bệnh nịnh bợ tâng bốc của họ đối với
những người có quyền thế. Thực ra, chữ Benedict là tên riêng, đáng lý ra
là phải để nguyên như vậy hay là phiên âm là “Bê-nê-đít” như đã nói ở trên,
nhưng họ lại cố ý phiên âm sang tiếng Việt và phiên âm theo ý riêng của họ.
Có như vậy, thì họ mới có cơ hội biểu lộ được lòng nịnh bợ và tâng bốc của
họ đối với Tòa Thánh Vatican.
Cũng nên
biết chữ Benedict, âm được nhấn mạnh là âm “Ben”, âm “e” coi như bị lướt,
rồi kế đến âm “dict”. Như vậy, nếu phiên âm sang tiếng Viêt, thì phải đọc là
“Bén đít” hay “Bẹn đít”. Có như vậy thì nghe ra mới gần giống như nguyên
gốc là Benedict của ông giáo hoàng này. Nhưng vì bản chất của tín đồ Ca-tô
người Việt là vừa xun xoe tâng bốc nịnh bợ các đấng bề trên của họ, vừa gian
dối tham lam vơ vào cho tôn giáo của họ càng nhiều càng tốt, cho nên, họ
không thể nào gọi Đức Thánh Cha của họ là Bẹn Đít hay Bén Đit hay Bê-nê-đít”
được. Nếu gọi như vậy, họ sẽ bị ám ảnh mang tội với Chúa, và sẽ bị đày xuống
tới chín tầng địa ngục.
2.- về
vấn đề chuyển dịch từ Catholic sang tiếng Việt:
Từ Catholic hay Cattolica cũng vậy. Họ không để nguyên chữ Catholic như
người Anh, người Pháp hay để nguyên Cattolica như người Hy Lạp, và cũng
không dịch ra là đạo rộng rãi, đạo phổ quát, đạo chung hay đạo của toàn cầu
đúng nghĩa của chữ catholic hay cattolica, nhưng họ lại cố tình dịch là
“công giáo” với ý đồ là “mập mờ đánh lận con đen” làm cho thiên hạ
lầm tưởng rằng “cái tôn giáo ác ôn” quái đản của họ là một tôn giáo công
chính, là công đạo hay đạo chính thức của đất nước.
B.- VỀ
NGÔN NGỮ:
Nói đến vấn đề sử dụng ngôn ngữ, thiết tưởng cũng nên biết
rõ về cung cách Giáo Hội La Mã sử dụng những thuật ngữ hoặc là để tự tâng
bốc tất cả những gì của hay thuộc về giáo hội lên đến tận mây xanh, hoặc là
miệt thị những gì không phải thuộc về giáo hội hay gièm phe những tác giả và
tác phẩm nói về những sự thật lịch sử có liện hệ để những rặng núi tội ác
của giáo hội. Ngòai ra, giáo hội còn chơi trò ma bùn sử dụng những
thuật ngữ có tính cách lươn lẹo có thể nói ngược cũng được và nói xuôi cũng
được.
a.- Về
những thuật ngữ để tự tâng bốc giáo hội và tín đồ của giáo hội lên đến tận
mây xanh: Chúng ta thấy giáo hội tự phong là “Hội Thánh duy nhất thánh
thiện và tông truyền”
"Hiền Thê Của Thiên Chúa Làm Người".
Đồng thời, chúng ta cũng lại thấy bất kỳ cái gì của giáo hội hay thuộc về
giáo hội cũng đều có chữ “thánh” đi kèm theo, chẳng hạn như bánh thánh, rượu
thánh, hội thánh, nước thánh, đất thánh,. thánh giá, chức thánh, v.v… Các
tu sĩ của Giáo Hội thì được gội là Chua thứ hai ròi từ giám mục trở lên đều
có chữ “Đức” đi kèm theo ở trước. Tín đồ của Giáo Hội thì được gọi là “dân
Chúa” hoặc là “dân được Chúa chọn”. Tất cả cho chúng ta thấy cái đặc tính
ngạo mạn và hợm hĩnh của giáo hội và của tín đồ Ca-tô.
b.- Về
những thuật ngữ để miệt thị các tôn giáo hay nền văn hóa khác và những người
dân ở ngòai đạo Ca-tô:
Hình như giáo hội có thói quen sử dụng những thuật ngữ như là tà giáo, tà
đạo, man di, mọi rợ, dã man, vô thần với những lời lẽ kèm theo vô thần là vô
cùng độc ác, hết sức xấu xa và cực kỳ ghê tởm để nói về những gì của hay
thuộc về các tôn giáo hay nền văn hóa khác với đạo Da-tô. Sự kiện này cho
chúng ta thấy các đặc tính “mục hạ vô nhân” và bất nhân của Vatican
và giáo dân Ca-tô. Vấn đề này sẽ được nói rõ hơn ở sau.
c.- Về
những thuật ngữ có tính cách lươn lẹo muốn nói xuôi cũng được, nói ngược
cũng được:
Trong mấy chục năm gần đây, chúng ta thấy Vatican và giáo dân Ca-tô người
Việt thường lớn tiếng cao rao rằng tranh đấu cho nhân quyền, tranh đấu cho
tự do tôn giáo, tranh đấu cho tự do dân chủ ở Việt, đặc biệt là họ sử dụng
thuật ngữ “hiệp thông” và “hiệp thông cầu nguyện” để “đòi công lý và hòan
bình” với dã tâm xúi giục và kêu gọi những người đồng đạo của họ cùng nổi
loạn chống lại chính quyền Việt Nam vào những khi có một xóm đạo nào đã
khởi loạn.
Về những
thuật ngữ mà họ sử dụng như tranh đấu cho nhân quyền, tranh đấu cho tư do
tôn giáo, tranh đấu tự do dân chủ ở Việt Nam đều chỉ là đầu môi chót lưỡi để
dùng làm chiêu bài đánh phá chính quyền và dân tộc Việt Nam mà thôi. Nếu
chúng ta theo dõi những việc làm của họ trong mấy chục năm qua,ì chúng ta sẽ
thấy rõ vấn đề này:
Có một
điều cực kỳ phi lý và khôi hài là trong khi Vatican của như các ông tu sĩ áo
đen và giáo dân Ca-tô người Việt cao rao rằng họ tranh đấu cho tự do dân chủ
tự do ở Việt Nam, thì bản thân của Giáo Hội La Mã hay quốc gia Vatican vẫn
theo chế độ tăng lữ quân chủ chuyên chế toàn trị cực kỳ phong kiến
(Monarchical-sacerdotal regime).
Trong
khi Vatican và giáo dân Ca-tô người Việt cao giọng rêu rao rằng họ tranh đấu
cho nhân quyền và tự do tôn giáo cho Việt Nam, thì chính họ lại chà đạp lên
nhân quyền và quyền tự do tôn giáo của những người dân thuộc các tôn giáo
hay nền văn hóa khác. Bằng chứng là vào tháng 8 năm 2001, Giáo Hoàng John
Paul II đã ra lệnh cho
Emmanuel Milingo 71 tuổi (người inước Zambia,Châu Phi) phải bỏ rơi người vợ
thân thương mới cưới trước đó vào ngày 27/5/2001 là bà Maria Sung 43 tuổi
(một y sĩ người Nam Hàn). Nếu ông giám mục này không tuân lệnh thì sẽ bị rút
phép thông công. Một bằng chứng khác nữa là cho đến ngày hôm nay, nếu có một
người nào thuộc một tôn giáo khác muốn thành hôn với người yêu là tín đồ
Ca-tô của Giáo Hội, thì người đó bị đòi hỏi phải từ bỏ tốn giáo cổ truyền
của gia đình, phải theo học một lớp giáo lý Ki-tô và phải làm tất cả những
thủ tục và lễ nghi theo đạo rồi mới được tiến hành làm lễ thành hôn.
Trong khi tất cả mọi người dân
của các dân tộc có văn hiến đều hiểu rằng “quốc có quốc pháp, gia có gia
quy” và quốc gia nào cũng có luật pháp quy định về tự do tôn giáo. Ngọai
trừ những nước bị áp đặt theo chế độ đạo phiệt Ca-tô như các nước Âu Châu
trong thời Trung Cổ, Châu Mỹ La-tinh và Phi Luẩt Tân trong thời Liên Minh
Tây Ban Nha – Vatican, Croatia trong những năm 1941-1945, Việt Nam trong
thời 1885-1945, và miền Nam Việt Nam trong như năm 1954-1975, từ thời Cách
Mạng Pháp 1789, tất cả các nước như Hoa Kỳ, Anh, Nga, Pháp Đức, Nhật Trung
Hoa, v.v…, hiến pháp và luật phát của các quốc gia trên thế giới đều nói rõ
về vấn đề tự do tôn giáo, đều xác định rõ rằng quyền tự do tôn giáo là
quyền được hành xử tôn giáo trong khuôn viên nơi thờ tự. Đi ra ngoài nơi thờ
tự, tín đồ của bất kỳ tôn giáo nào muốn làm gì cũng phải làm theo luật
pháp đã quy định.
Thế nhưng, vì vốn quen với nếp
sống trịch thượng làm cha thiên hạ, tác oai tác quái, giống như cái thời
Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican đem quân đánh chiếm Việt Nam từ năm 1858
cho đến năm 1945 và ở miền Nam trong những năm 1954-1975, các ông tu sĩ áo
đen và tín đồ Ca-tô người Việt lại không nghĩ như vậy. Họ bất chấp cả công
lý, bất chấp cả luật pháp quốc gia. Muốn chiếm đọat một nơi nào cho nhà
thờ Vatican, thì họ hò nhau “hiệp thông” kéo nhau đến tụ tập ở nơi đó, xúm
nhau dựng tượng bà già xề Maria và thập tự giá, thiết lập bàn thờ, dâng
hoa, thắp nến và cầu nguyện với dã tâm tạo nên một sự đã rồi để biến nơi đó
thành tài sản của Vatican. Tự do tôn giáo của đạo Ca-tô La Mã là như vậy đó!
Đúng là quân ăn cướp!
Như vậy rõ
ràng là khi họ nói đến “hiệp thông” thì phải hiểu là họ đang thi hành thủ
đoạn xúi giục nhau tiếp tay cho một nhóm người đồng đạo đang gây bạo lọan
chống chính quyền hoặc là đang diễn trò cắm thập tự giá và dựng tượng bà già
xề Maria bừa bãi ở một nơi nào đó mà họ có ý đồ cướp đoạt cho Nhà Thờ
Vatican. Tình trạng này đã liên tục xẩy ra từ ngày 18/12/2007 cho đến nay
qua các vụ như:
1.- Vụ mưu
đồ chiếm đọat sở đất và tòa nhà công quyền tại số 142 Phố Nhà Chung và Hà
Nội trong những ngày 18/12/2007 đến ngày 30/1/2008,
2.- Vụ mưu
đồ chiếm đọat sở đất của Công Ty May Chiến Thắng tại số 178 đường Nguyễn
Lương Bằng, Đống Đa, Hà Nôi trong những ngày từ 18/8/2008 cho đến ngày
22/9/2008.
3.- Vụ dựng
tượng bà già xề Maria bừa bãi ở bãi biển ở làng An Bằng, Huế, trong năm
2008,
4.- Vụ dựng
tượng bà già xề Maria mà họ gọi là “Mẹ Sầu Bi” bất hợp pháp vào ngày
15/8/2008 ở ngòai nhà thờ của xóm đạo Đồng Đinh (Ninh Bình) rồi gây bạo
loạn chống lại lệnh chính quyền kéo dài trong nhiều ngày.
5.- Vụ nổi
lọan mưu đồ cướp đoạt tài sản quốc gia và chống chính quyền tại Nhà Thờ Tam
Tòa (Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình) khởi đầu từ ngày 207/2009 kéo trong nhiều
ngày,
6.- Vụ bạo
loạn ở xóm đạo Loan Lý (xã Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa
Thiên-Huế)
do Linh-mục Ngô Thanh Sơ chỉ huy khởi đầu vào khuya ngày 13/9,/2009 kéo dài
trong nhiều ngày.
7.- Vụ Núi
Chẽ ở gần Nhà Thờ Đồng Chiêm (xã
An Phú, huyện Mỹ Đức, Hà Nội):
Họ dựng thập giá bất hợp pháp trong mưu đồ cướp ngọn núi này cho Nhà Thờ
Vatican, khinh thường luật pháp, khởi loạn chống chính quyền kể từ ngày
06/01/2010.
8.- Vụ Cồn
Dầu ở Đà Nẵng được chuẩn bị từ cuối tháng 1/2010 và khởi sự bugfng nồ vào
ngày 4/5/2010 với ý đồ và tuồng tích y hệt như 7 vụ đã nói ở trên.
Ôn cố suy
tân. Căn cứ vào những hành động bất chính này, chúng ta có thể đoán chắc
rằng trong tương lại những trò hề vô liêm sỉ nàylại được chúng tái diễn ở
một nơi nào khác. Chúng ta hãy chờ xem.
Có thể nói là họ có thói quen
dùng những thuật ngữ với dã tâm “cưỡng từ đoạt lý” nghe ra rất ngang
ngược. Họ gọi những người đồng đạo của họ đã từng làm tay sai cho Liên Minh
Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican là các
nhà ái quốc, và gọi những người đã liến tục chiến đáu cho đại cuộc đánh đuổi
hai liên m inh xâm lược tren đây để giành lại chủ quyền độc lập cho dân tộc
là “Việt gian”. Họ nói với người viết một cách trơ trẽn rằng không nên sử
dụng những lời lẽ nặng nề để lên án Giáo Hội La Mã và cũng không nên dùng
từ kép "Việt gian" để gọi những người cộng tác với người Pháp (đúng ra là
làm tay sai đắc lực cho quân cướp ngoại thù), dù rằng thực chất là như vậy.
Xin thưa rằng, theo thiển ý của chúng tôi, điểm quan trọng nhất của công
việc viết sử là phải nói lên sự thật của lịch sử và phải dùng ngôn ngữ
chính xác để diễn tả đúng với bản chất và gíá trị tốt hay xấu của sự việc
và của các tác nhân lịch sử. Cũng vì lẽ này mà các nhà viết sử và nhân dân
Pháp đã gọi Thống Chế Pétain và những người làm tay sai đắc lực trong chính
quyền bù nhìn cho Đức trong những năm 1940-1944 là "Pháp gian".
Tương tự như vậy, Uông Tinh Vệ và những người Trung Quốc làm tay sai đắc lực
cho quân xâm lăng Nhật trong thời Đệ Nhị Thế Chiến cũng đều bị gọi là "Hán
gian". Ngô Tam Quế cộng tác với người Mãn Châu trong thế kỷ 17 cũng bị
người Trung Quốc gọi là "Hán gian". Sách sử Việt Nam đều gọi Lê
Chiêu Thống và Gia Long là hạng người “rước voi về giày mả tổ”. Sử
gia Nigel Cawthorne đã biên soạn một cuốn sách với tựa đề Tyrants History’s
100 Nost Evil Despots & dictators (London: Arcturus, 2004) trong đó ông nêu
đích danh 100 tên bạo chúa và độc tài độc ác nhất trong lịch sử nhân loại,
trong đó có tên Ngô Đình Diệm. Như vậy thì cha con và anh em ông Ngô Đình
Diệm cùng tất cả những người làm tay sai đắc lưc cho chính quyền Liên Minh
Xâm Lược Pháp - Vatican và đế quốc Nhật bị gọi là "Việt gian", thì
cũng chỉ là quy luật của lịch sử mà thôi. Câu nói "gươm lịch sử không tha
phường phản quốc" thiết tưởng là một bài học dạy cho chúng ta tính cách
vô tư khi viết sử.
Nói đến việc
sử dụng những ngôn ngữ với những lời lẽ nặng nề, người viết xin đưa ra hai
trường hợp để chúng ta cùng suy nghĩ:
A.- Một mặt,
Giáo Hội La Mã tự phong là "Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và
tông truyền, là "Hiền Thê Của Thiên Chúa Làm Người" và tín đồ
Ca-tô tự phong là "dân Chúa", "dân được Chúa chọn", Đức Thánh
Cha, Đức Hồng Y, Đức Tổng Giám Mục, Đức Giám Mục. [Hết sức ngạo mạn và vô
cùng hợm hĩnh].
B.- Mặt
khác, Giáo Hội lại sử dụng những ngôn từ mang ý nghĩa hạ cấp nhất, hạ cấp
hơn cả những ngôn từ của những phường đá cá lăn dưa hay những tay anh chị ở
chợ Cầu Muối để nói về các tôn giáo và nền văn hóa khác. Bằng chứng là chúng
đã từng thấy từ giáo hoàng (thường tự xưng là "hoàng đế của các hoàng
đế" và "vua của các vua"), cho đến các ông hồng y, tổng giám mục,
gíám mục, linh mục đều sử dụng những lời lẽ nặng nề như "tà giáo", "tà
đạo", "mọi rợ", "dã man", "man di",
vô đạo"
để hạ giá và miệt thị các tôn giáo khác cùng các thành phần ở ngoài Giáo
Hội, bất kể là trong số những nhóm nạn nhân này có cả những hệ phái Thiên
Chúa giáo cũng thờ ông Thượng Đế Jehovah của Giáo Hội (như Do Thái Giáo,
Hồi Giáo, và thờ luôn cả ông Jesus như Tin Lành, Anh Giáo, Chính Thống
Giáo). Đây là một sự thật hiển nhiên và đều được các nhà viết sử ghi nhận:
1.- Kinh
sách của Giáo Hội cũng thường gọi các tôn giáo khác là "tà giáo".
Sách Kinh Nhựt Khoá, trang 707, gọi dân Việt Nam là "chim muông cầm thú".
2.- Sách
Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo (Phần Nhất) của Linh-mục Bùi Đức Sinh (Saigòn:
Chân Lý, 1972), sử dụng không biết bao nhiêu là các từ "man di", "mọi
rợ" và "dã man" để nói thẳng hay ám chỉ những người hay nhóm dân
thuộc các tôn giáo hay văn hóa khác. Riêng nơi các trang 200-208, ông linh
mục tác giả này sử dụng các từ "man di, mọi rợ và dã man" tới 24 lần.
2.-
Sách Phép Giảng Tám Ngày (của Giáo-sĩ Alexandre de Rhodes) in trong cuốn
Giáo Sĩ Đắc Lộ và Tác Phẩm Quốc Ngữ Đầu Tiên (Sàigòn: Tinh Việt Văn Đoàn,
1961), tác giả giáo sĩ này phỉ báng tất cả các tôn giáo cổ truyền của dân
tộc ta, trong đó có chỗ ông ta viết:
“Bởi
tam giáo này, như bởi nguồn đục, có ra nhiều sự dối khác. Song le, bắt mỗi
sự dối ấy chẳng có làm chi, vì chưng biết là bởi đâu mà ra, cho hay tỏ tường
là dối thì vừa. Như thể có chem. cây nào đục cho ngã, các ngành cây ấy tự
nhiện cũng ngã với. Vây thì ta làm cho Thích Ca, là thằng hay dối người ta
ngã xuống, thì mọi truyện dối trong đạo bụt bởi Thích Ca mà ra, có ngã với
thì đã tỏ.”[xiv]
3.- Trong
cuốn Ngàn Năm Soi Mặt (trong phần Phụ Bản:"Các Thánh Lệnh Phân Chía Thế
Giới"), sử gia Vũ Ngự Chiêu ghi lại như sau:
"Các giáo
hoàng đầu tiên của thời Phục Hưng [Renaissance] dùng thần quyền để phân chia
những vùng đất "mọi rợ" mà Portugal [Bồ Đào Nha] và Espania [Tây Ban
Nha] bắt đầu đi xâm chiếm ở duyên hải Tây Phi Châu (1416) hay "lục địa đã
mất" và Mỹ Châu (thập niên 1480-1490."
[xv]
.
4.-
Giám-mục Ngô Đình Thục, ông Ngô Đình Diệm, ông Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn
đều gọi các ông tổng trưởng, bộ trưởng và các tướng lành trong chính quyền
của chế độ bằng "thằng".
5.- Rất
nhiều Linh-mục và giáo dân Ca-tô ở Việt Nam gọi người dân bên lương chúng
ta là "thằng tà đạo". Ngoài ra, họ còn gọi chúng ta là bọn "vô đạo",
bọn "dã man", trong khi đó thì họ tự xưng là "dân Chúa".
6.- Giáo
Hoàng Pius IX (1846-1878) gọi dân Do Thái là "lũ chó". Sự thật này
đã được nhật báo The news Tribune, [Tacoma] September 3, 2000] nhắc lại
trong bản tin của hãng The Associated Press với tựa đề "Jewish Family
Protests Pius' Beatification...", trong đó có một đọan với nguyên văn như
sau:
"Các diễn
giả khác đọc mấy đoạn văn do chính Giáo Hoàng Pius (IX) viết trong đó có một
đoạn ông ta cho rằng người Do Thái không phải là công dân mà chỉ là một “lũ
chó.” [“Other speakers read from passages of Pius’ writing, including one in
which he allegedly that the Jews were not citizens but “dogs”.."[xvi]
Dù rằng bị
sỉ vả là "lũ chó" thì dân tộc Do Thái cũng đã sinh đẻ ra bà Maria
mà Giáo Hội đã gọi là "Đức Mẹ". Đức Mẹ này lại đẻ ra ông Jesus mà Giáo Hội
đã vinh danh là Chúa Kitô và chọn làm đối tượng thờ phượng trong cái "đạo
cứu rỗi" của Giáo Hội. Ai cũng biết rằng, giống nào sinh đẻ ra giống
đó, và không có ngọai lệ nào bảo rằng chó có thể sinh đẻ ra người được. Khi
gọi người Do Thái là "lũ chó", Giáo Hoàng Pius IX (1846-1878) cũng
thừa biết gọi như vậy là đã gọi tất cả mọi người con dân nước Do Thái từ
đời ông thánh tổ Abraham cho đến các ông Moses, Solomon, David, Joseph, bà
Maria và tất cả con cái bà con thân quyến (trong đó có ông Jesus) của bà ta
đều là "chó" cả.) Nực cuời hơn nữa là ông giáo hoàng mất dạy này
lại được Giáo Hoàng John Paul II phong chân phước vào tháng 9 năm 2000.
Luận điệu vô
liêm sỉ của Vatican và giáo dân Ca-tô người Việt:
Những người học sử và đọc sử đều biết rằng trong suốt chiều dài lịch sử,
nhất là từ giữa thế kỷ 18 đến nay, giới tu sĩ áo đen và tín đồ Ca-tô người
Việt luôn luôn sát cánh kề vai với Liên Minh Thực Dân Xâm Lược Pháp Vatican
và Liên Minh Xâm Lược Mỹ- Vatican chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Những hành động phản quốc làm tay sai một các vô cùng hèn hạ của họ đã khiến
các sĩ quan người ời Pháp trong đòan quân viễn chinh Pháp cũng phải công
khai nói ra những lời ghê tởm và khinh bỉ họ. Bản văn sử dưới đây cho chúng
ta sự thực này:
“Chúng
tôi chỉ có với mình”, Đô Đốc Rieunier sau này nói, “những giáo dân và bọn
du thủ du thực”. “Bọn lang bạt bị trục xuất khỏi làng vì đói rét hoặc vì
tội phạm,” Đại Tá Bernard viết, xô về đây với cái lưng mềm dễ uốn, họ tham
sống sợ chết; họ hoàn toàn hững hờ với cuộc đấu tranh của dân tộc mình, sẵn
sàng phụng sự bất cứ những ông chủ nào… Người ta sẽ tuyển dụng trong số họ
tất cả nhân viên hành chính cần thiết cho nhà nước, hoặc những người giúp
việc gia đình: làm đầy tớ, làm khuân vác, làm người chạy giấy và cả những
tên phiên dịch, hoặc những người ghi chép được đào tạo thô sơ qua các nhà
trường của Hội Truyền Giáo. Chính là qua sự tiếp xúc với những kẻ khốn nạn
này mà bọn thực dân và công chức, vừa mới đổ bộ lên, làm quen với dân tộc
Việt Nam …”
Nhà sử học
Cultru kết luận:
“Hoàn toàn hời hợt về cái gọi là giáo
dục phương Tây mà họ đã được tiếp thụ, những thanh niên Việt Nam này đã trở
thành những ông thông, ông phán, ông ký, kiểm soát, phiên dịch.. ấy lập
thành tại xứ sở thuộc địa một tầng lớp những người tha hóa, chuyên lợi dụng
địa vị chính thức của chúng để nhân danh chính phủ Pháp, lúc này không đủ
biện pháp cai quản họ, để áp bức, đục khoét dân chúng, buộc lòng phải nhờ
đến sự trung gian cuả họ…” “… Tại Nam kỳ, chính là từ trong những người
Công Giáo Annam mà người ta tuyển chọn những kẻ giúp việc cho chính phủ
Pháp, Phạm Quỳnh đã viết, “Họ có tài cán gỉ? … Phần lớn là những tay dạy
giáo lý Cơ Đốc, vì hạnh kiểm kém mà bị các giám mục đuổi về, và dưới một cái
tên La Tinh (bởi vì họ nói lõm bõm tiếng La Tinh), là đại diện sơ lược của
thủ đoạn, của sự vô trách nhiệm, và sự thoái hóa của Châu Á.”
[xvii]
Ngày nay,
một em bé mới học xong bậc tiểu học cũng biểt rõ những hành động phản quốc
rước đàn voi Pháp và Vatican về giày mả tổ Việt Nam của bọn chúng trong
suốt chiều lịch sử từ giữa thế kỷ 18 đến gàn cuối thế kỷ 20. Sự kiện này
được chính nhà văn Ca-tô Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại trong tác phẩm Xóm Đạo của
ông ta với nguyên văn như sau:
“… Thằng Anh
lưỡng lự rồi bảo Thông: “Bố em bảo đạo Công Giáo mang thực dân Pháp vào
chiếm nước ta! Có đúng như thế không anh Thông!”[xviii]
Ấy thế mà
ngay nay chúng ta lại thấy bộ máy truyên truyền của Vatican và tín đồ Ca-tô
thường ra rả lớn tiếng trâng tráo rêu rao rằng họ tranh đấu cho quyền độc
lập, cho dân chủ và cho các quyền tự do ở Việt Nam trong khi dân tộc Việt
Nam đã phải mất không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và xương máu của bào
nhiêu thế hệ từ cuối thập niên 1850 cho đến ngày 30/4/1975 mới hoàn thành
được sứ mạng lịch sử đánh đuổi được quân cướp xâm lăng Vatican dùng họ liên
kết với đế quốc thực dân xâm lược Pháp và đế quốc Mỹ ra khỏi giang sơn để
giành được chủ quyền độc lập cho dân tộc và thống nhất đất nước cho tổ quốc.
Thử hỏi còn có hạng người nào vô liêm sỉ bằng Vatican và giới tu sĩ áo đen
cũng như nhóm thiểu số dân Chúa người Việt không?
Phần trình
bày trên đây cho chúng ta thấy rõ cái cung cách sử dụng ngôn ngữ của Giáo
Hội La Mã nói chung hay của giới tu sĩ áo đen và tín đồ Ca-tô nói riêng quả
thật là siêu việt về lưu manh và lươn lẹo, phản ảnh đúng với cái bản chất
của nền văn hóa Ca-tô La Mã, một nền văn hóa côn đồ cực kỳ phi nhân, hết
sức phi luân và man rợ đến cùng độ của man rợ vì rằng “cái giáo hội khốn
nạn” này đã quyết tâm theo đuổi chủ thuyết thần quyền chỉ đạo thế quyền,
kiên trì thi hành chính sách bất khoan dung đối với các thành phần thuộc các
tôn giáo hay nền văn hóa khác, luôn luôn tìm cách dựa vào quyền lực của nhà
nước địa phương để hủy diệt tất các di sản văn hóa và công trình văn minh
của người dân bản địa. Chính vì thế mà nó đã trực tiếp và gián tiếp sát hại
tới trên 250 triệu người. Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ với nhiều chi
tiết ở trong Chương 8, Mục III, Phần II trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội
Ác của Giáo hội La Mã.
Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.
Phản ứng của
giới trí thức:
Có thể là vì không muốn để cho Giáo Hội Lã Mã và bọn côn đồ văn hóa của giáo
hội tiếp tục diễn trò "Vừa ăn cướp vừa la làng" để có thể nằm độc
quyền "Múa gậy giữa rừng hoang" trong việc sử dụng ngôn ngữ nặng nề
đối với những thành phần thuộc các tôn giáo hay văn hóa khác, cho nên văn
hào Voltaire mới phải gọi nó là “cái tôn giáo ác ôn” học giả Da-tô Henri
Guillemin gọi Giáo Hội La Mã là “Cái Giáo Hội Khốn Nạn” (Malheureuse
Église), nhà viết sử Charlie Nguyễn gọi đạo Công Giáo La Mã là “đạo máu”,
“đạo bịp”, và rất nhiều danh nhân, vĩ nhân và học giả khác ở khắp
nơi trên thế giới cũng đã sử dụng ngôn ngữ rất nặng nề một cách hết sức
chính xác để nói lên sự thật về bản chất cũng như việc làm và cung cách hành
xử của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua. Vấn đề này đã được Giáo-sư
Trần Chung Ngọc tóm lược trong Phần Phụ Lục in nơi các trang 285-304 trong
cuốn Đức Tin Công Giáo (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000) và người viết
cũng đã ghi lại đầy đủ trong Mục XXV (gồm 4 chương sách từ Chương 104 đến
Chương 107) có tựa đế là Phong Trào Phản Kháng Vatican Của Các Thành Phần
Trí Thức Ở Khắp Nơi Trên Thế Giới. Mục này nằm trong Phần VII trong sách
Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã.
VI.- Về Trường Hợp Ông Da-Tô Ngô Đình Diệm
Ngoài việc
làm tay sai đắc lực cho liên minh giặc xâm lược Pháp Vatican trong những năm
1922-1933, và giữa thập niên 1950, ông Da-tô Ngô Đình Diệm còn được Hoa Kỳ
và Vatican đưa lên cầm quyền ở miền Nam để làm tay sai cho hai thế lực này
trong những năm 1954-1963. Như vậy là trong thời gian này, ông Ngô Đình Diệm
trở thành tên phản quốc làm tay sai cho cả Hoa Kỳ và Vatican và phải làm
tròn nhiệm vụ đối với cả hai thế lực này.
A.- Đối với
Hoa Kỳ, ông Ngô Đình Diệm có nghĩa vụ phải dùng chính quyền của ông để hỗ
trợ cho siêu cường này biến miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống Cộng theo
“chính sách be bờ” (Policy of Containment) do ông George F. Kenan,
cựu đại sứ Hoa Kỳ ở Liên Sô, khởi xướng với mục đích ngăn chặn ngọn triều
Cộng Sản đang cuồn cuộn tràn ngập lục địa Trung Hoa và miền Bắc Việt Nam
xuống tới vĩ tuyến 17.
B.- Đối với
Vatican, ông Diệm có nghĩa vụ phải tiến hành kế hoạch Ki-tô hóa miền Nam
Việt Nam bằng tất cả phương tiện của chính quyền mà ông Ngô Đình Nhu đã công
khai tuyên là sẽ hoàn thành trong vòng 10 năm:
“Tôi có
cả một chương trình đã bàn tính kỹ với Đức Giám Mục (Ngô Đình Thục – NMQ) sẽ
lần hồi tiến tới chỗ mà Hội Truyền Giáo hoạt động một thế kỷ mới đạt tới,
còn chúng ta chỉ cầm quyền mười năm thôi là cả miền Nam này sẽ theo Công
Giáo hết.” [xix]
Đây là chủ
trương dùng quyền lực nhà nước để tiến hành kế họach Ki-tô hóa nhân dân dưới
quyền. Cũng nên biết là Vatican đã liên tục theo đuổi chủ trương này từ thời
Trung Cổ. Đến thế kỷ 16, chủ trương này được thể hiện ra bằng Sắc Chỉ
Romanus Pontifex được ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời Giáo Hoàng
Nicholas V (1447-1455). Nội dung của sắc chỉ này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh
ghi lại rõ ràng trong cuốn Thập Giá Và Lưỡi Gươm như sau:
"...., quyền
lợi của Bồ Đào Nha đã được phân định rõ ràng trong sắc chỉ "Romanus
Pontifex" do Đức (Giáo Hoàng) Nicholas V (1447-1455) ra ngày 8 tháng Giêng
năm 1454. Theo quyền lực Chúa ban và quyền lực của Tòa Thánh, Đức Giáo
Hoàng ban cho triều đình Lisbon (Bồ Đào Nha) "toàn quyền tự do xâm lăng,
chinh phục, chiến đấu, đánh giặc và khuất phục tất cả các quân Sarrasins
(tức người Ả Rập), các dân ngoại đạo và các kẻ thù khác của Giáo Hội, gặp
bất cứ nơi nào: được toàn quyền chiếm cứ tất cả các vương quốc, lãnh địa,
vương hầu, đất đô hộ và tài sản của chúng; toàn quyền chiếm đoạt tất cả của
nổi và của chìm của chúng và bắt tất cả chúng nó làm nô lệ vĩnh viễn".
Khi ban
quyền cho người Bồ Đào Nha được chiếm mọi thứ lợi lộc kể trên, Giáo Hoàng
đồng thời cũng muốn mở mang nước Chúa sang các miền xa xôi. Và để nhà vua
Bồ Đào Nha yên tâm hơn, Giáo Hoàng ra lệnh cấm không một ai khác được phép
đặt chân tới các vùng đất ấy nếu không có phép của nhà vua, dành cho nhà vua
độc quyền buôn bán và ra vạ tuyệt thông tức khắc cho bất kỳ ai dám hành động
ngược lại."[xx]
Vì là tín
đồ Da-tô thuộc loại siêu cuồng tín (sẽ được trình bày đầy đủ trong Mục
XVIII, Phần VI trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã) và
vì phải hoàn thành nghĩa vụ đối với Tòa Thánh Vatican, anh em ông Ngô Đình
Diệm đã hăm hở và hồ hởi triệt để thi hành kế hoạch Ki-tô miền Nam bằng tất
cả những phương tiện của chính quyền, giống như các chế độ đạo phiệt Da-tô
khác đã làm ở Âu Châu trong thời Trung Cổ, ở Châu Mỹ La Tinh, ở Phi Luật Tân
và ở Phi Châu từ đầu thế kỷ 16, ở Croatia trong những năm 1941-1945 và sau
này ở Rwanda (Phi Châu) vào năm 1994. Vì bản chất cuồng tín, La Mã hơn cả
La Mã, để tỏ lòng tuyệt đối trung thành với Vatican, cho nên anh em Nhà Ngô
đã hăng say tiến hành kế kọach Ki-tô bằng bạo lực và bằng tất cả mọi phương
tiện của chính quyền để biến tất cả mọi người dân ở miền Nam Việt Nam trở
thành Công Giáo hết trong vòng mười năm theo như ông Ngô Đình Nhu đã tuyên
bố như trên. Chính vì thế mà chính quyền đạo phiệt Da-tô Ngô Đình Diệm mới
trở thành một trong những chế độ chính trị bạo ngược nhất trong lịch sử Việt
Nam, đã tàn sát từ 300 ngàn đến 400 ngàn người.[xxi]
Cũng vì thế mà ông ta mới bị sách sử ghi nhận là một trong số một trăm (100)
tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại.[xxii]
Đối với nền
đạo lý Đông Phương, khi đã hành động dã man như vậy, ông Ngô Đình Diệm đã tự
biến minh thànht tên tàn tặc. Ở vào trường hợp này, bất kỳ người dân nào
cũng có quyền phất cở khởi binh khử diệt để cứu dân thoát khỏi chế độ bạo
ngược của ông ta. Sách Nho Giáo - Tập I viết:
”Nếu ông vua
nào trị dân mà yêu cái của dân ghét và ghét cái của dân yêu, là làm những
điều trái lòng dân, tức là trái mệnh trời, thì người khác được quyền ”điếu
dân phạt tội”, nghĩa là cứu dân mà đánh người có tội, như vua Thang đánh vua
Kiệt, vua Vũ Vương đánh vua Trụ vậy.”
[xxiii]
“Người
làm vua mà tàn ngược như vua Kiệt, vua Trụ, thì người có nhân có đức, như
vua Thang, vua Vũ, được quyền trừ bỏ đi. Người nhân đức mà cứu dân thì không
phải là người có tội.” Bởi vậy Mạnh Tử mới nói: Tặc nhân giả, vị chi tặc,
tặc nghĩa giả, vị chi tàn. Tàn tặc chi nhân vị chi nhất phu. Văn tru nhất
phu Trụ hỷ, vị văn thí quân dã.” (Người làm hại nhân gọi là tặc, người làm
hại nghĩa gọi là tàn. Người tàn tặc gọi là đứa không ra gì. Ta nghe nói:
giết một đứa Trụ, chưa nghe nói giết vua vậy”. Lương Huệ Vương, hạ.”
[xxiv]
Sử gia
Bernard F. Fall cũng viết:
”Nếu
người làm vua áp bức nhân dân thì người đó không còn xứng đáng được đối xử
như là vua nữa. Cá nhân ông vua đó không còn thiêng liêng nữa, và trừ khử
ông vua đó không còn là một tội ác. Nổi loạn giết một tên bạo chúa như vậy
không những là một việc làm hợp lý mà còn là một việc làm đáng được ca tụng,
và người đứng ra trừ diệt tên bạo chúa đó xứng đáng được đưa lên nắm quyền
lãnh đạo đất nước, cai trị muôn dân” Nguyên văn: “If the
sovereign oppressed the people, he no longer deserved to be treated as the
sovereign. His person was no longer sacred, and to kill him was no longer a
crime. Revolt against such tyranny not only was reasonable but was a
meritorious act and conferred upon its author the right to take over the
powers of the soverign.”[xxv]
Từ những bản
văn sử trên đây, chúng ta có thể khẳng định rằng an hem ông Ngô Đình Diệm
đã sử dụng phương tiện và quyền lực của chính quyền để thi hành chính sách
Ki-tô hóa nhân dân bằng bạo lực, tàn sát những người bất khuất không chịu
theo đạo và bách hại Phật giáo một các cựu kỳ dã man, dã man đến đọ tàn sát
tới hơn 300 ngàn người. Như vậy, đối người dân Đông Phương sống theo nếp
sống văn hóa cổ truyền, Ngô Đình Diệm không còn xứng đáng được gọi là tổng
thống nữa, mà chỉ là “một tên tàn tặc”. Cũng vì thế mà ngày 1/11/1963, quân
dân Việt Nam đã vùng lên phất cở làm lịch sử, đã lôi hai anh em tên tàn tặc
Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu ra đập chết và thưởng cho mỗi đứa một phát đạn
ân huệ, rồi sau đó, “tên tàn tặc Ngô Đình Cẩn” mà người dân miền Nam thường
gọi là “tên lãnh Chúa miền Trung” cũng bị tân chính quyền đem xử tử vào ngày
9/5/1964. Tội ác của anh em nhà Ngô đã rành rành như vậy. Sách sử cũng đã
ghi rõ ràng rằng anh em họ Ngô là những tên bạo chúa, những tên tàn tặc. Vậy
thì chúng ta phải gọi Ngô Đình Diệm là “thằng bạo chúa phản thần tam đại
Việt gian Da-tô Ngô Đình Diệm” thì mới đúng với sự thật của lịch sử. Đây
là nguyên tắc lịch sử. Người nào không hiểu cái nguyên tắc này là kẻ không
biết gì về lịch sử.
Trong cuộc
sống hàng ngày, những kẻ không biết gì về gia phả hay gốc gác gia đình của
chính mình thường bị gọi là những đứa con hoang trong xã hội. Tương tự như
vậy, chúng ta cũng có thể gọi những kẻ không biết gì về quốc sử là những
đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc, và những kẻ không biết gì về lịch sử
thế giới đứa con hoang trong cộng đồng nhân loại.
Tín đồ Ca-tô
được đào tạo theo tinh thần công giáo, theo đó thì môn quốc sử và lịch sử
thế giới bị Giáo Hội La Mã kiểm duyệt hết sức nghiêm ngặt. Vì vậy mà:
A.- Học
sinh chỉ được học những bài học nào không gây bất lợi cho tín Ki-tô hay uy
tín của giáo hội.
B.-Tất cả
những bài học bài học gây bất lợi cho những tín lý Ki-tô hay bất lợi cho uy
tín của giáo hội đều bị cấm tuyết đối, không được đưa và trong chưuương
trình học, chẳng hạn như (1) các khám phá mới về khoa học và những lý thuyết
khoa học (như thuyết tiến hóa, lý thuyến Big Bang, (2) các chủ thuyết chính
trị và xã hội học của các đại tư tưởng gia trong Thời Đại Khoa Học và Lý
Trí (1500-1789), đòi hủy bỏ chế độ giáo hoàng (Papacy) và quân chủ chuyên
chế), của thời Cách Mạng Dân Chủ (16-3-1815) và của thời Phong Trào Phản
Kháng Xa Hôi (1800-1900).
C.- Tất cả
những bài học quốc sử nói về sự liên hệ của giáo hội với Pháp đem quân sang
đánh chiêm Việt Nam và sư cấu kết với Pháp trong suốt chiều dài lịch sử từ
cuối thế kỷ 18 cho đến tháng 7 năm 1954.
Chính vì thế
mà tín đồ Ca-tô người và những người tiếp nhận sở học các trường đạo và các
trường công lập trong 1885-1954 và ở miền nam trong những năm 1954-1975 hầu
không biết gì về quốc sử, cũng không biết gì về lịch sử thế giới và cũng
không biết gì về lịch sử Giáo Hội La Mã. Như vây, thực sự, họ đã trở thành
những đứa con hoang trong cộng đồng dân tộc và cũng là những đứa con hoang
trong cộng đồng nhân loại. Giáo Hội La Mã vốn dĩ đã có chủ trương biến họ
thành những người như vậy và đã công khai dùng tên của một lọai thú ngu đần
nhất để đặt tên cho họ là “con chiên”, tức là “con cừu non”. Cừu non hay cừu
già cũng đều là một loài thú hay loài súc sinh. Dĩ nhiên, loài súc sinh này
ở Việt Nam đã hành xử đúng như loài súc sinh mà Giáo Hội La Mã mong muốn.
Cũng vì thế mà nhà báo Long Ân mới ghi nhận.[xxvi]
Loài súc
sinh Ca-tô này cũng có những đặc tính súc sinh của chúng. Một số trong
những đặc tính súc sinh này của chúng đã thể hiện ra thành hành động cho mọi
người cùng thấy là: (1) vào ngày 27/8/1964, ngôi Chúa Ki-tô Thứ Hai Hòang
Quỳnh đã dạy bảo đàn cừu non dưới quyền chăn dắt của ông ta rằng “Thà mất
nước, chứ không thà mất Chúa”, (2) vào ngày 20/9/2008, ngôi Chúa Thứ
Hai Ngô Quang Kiệt cũng đã lớn tiếng công khai tuyên bố với ông Chủ Tịch Ủy
Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội và mọi người tại cơ quân công quyền này rằng
“Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái
hộ chiếu Việt Nam. Đi đâu cũng bị soi xét chúng tôi buồn lắm chứ…”
và (3) lời bọn “cừu non” người Việt thường bảo nhau rằng “giữ đạo, chứ
không giữ nước”, và (4) tất cả các hành động “hiệp thông cầu nguyện” đòi
chiếm đất của tổ quốc Việt Nam cho Vatican tại những nơi như đã nói ở trên.
Văn tức là
người. Những câu tuyên bố của các ông Chúa Thứ Hai người Việt trên đậy có
thể coi như là tiêu biểu cho nền văn hóa Ca-tô và đã cho mọi người thấy rõ
cái tính cách súc sinh của nó! Điều đau buồn cho dân ta là những đứa con
hoang này trong cộng đồng dân tộc và cộng đồng nhân loại đã dựa quyền lực
vào Liên Minh Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Pháp – Vatican và Liên Minh xâm Lược
Mỹ - Vatican mà nói ra những lời ngang ngược như trên và
đã tiếp tay cho quân cướp ngọai thù, tác oai tác quái, đánh phá dân tộc và
tổ quốc ta trong suốt chiều dài lịch sử từ cuối thế kỷ 18 cho đến ngày
30/4/1975, và cho đến ngày nay, chúng vẫn còn ngoan cố tiếp tục chống lại
đất nước ta.
Thiết tưởng,
chúng ta không nên mất công và mất thì giờ để ý đến những sàm ngôn của những
đứa con hoang này trong cộng đồng dân tộc và trong cộng đồng nhân loại. Lũ
người vong bản này không biết gì về những bước đường tiến hóa của loài
người, không biết gì về tình tự quê hương và dân tộc, và cũng không biết gì
về những quy tắc đạo lý cổ truyền của các dân tộc Đông Phương. Chúng chỉ
biết hành xử theo thú tính Ca-tô (tự cao, tự đại, tự tôn, háo thắng, háo
sát, lố bịch, trịch thượng, sống sượng, gian tham và tàn ngược) của chúng.
1 2 3
___________________
AUDIO/VIDEO CLIPS
1.- Video tuyên ngôn của một người viết sử về giáo hội la mã phần 01
2.- Video tuyên ngôn của một người viết sử về giáo hội la mã phần 02
3.- Video tuyên ngôn của một người viết sử về giáo hội la mã phần 03
4.- Video tuyên ngôn của một người viết sử về giáo hội la mã phần 04
[i]
Anatole G. Mazour & John M. Peoples, Men and Nations – A World
History (New York: Harcourt Brace Jovanovich. 1975), p.294. Nguyên văn: “As time went on, Humanism became more than a certain type of scholarship; it also came to mean a new outlook on life. One characteristic of this outlook was a critical spirit. Some Humanists, for example, criticized the Church, protesting against what they regarded as defects in its organization and administration. Men like this remained religious, but they were less inclined than earlier thinkers to accept Church authority without question.”
[ii]
Trần Tam Tỉnh,
Sđd., tr. 104.
[iii]
Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 54.
[iv]
Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh: Tân Văn, 2003), tr.
148.
[v]
Nguồn: Trần Gia Phụng. “Viết Cho Đúng Sự Thật.” Nguồn: https://thongtinberlin.de/diendan/traloibaivietchodungsuthant.htm”. Đoạn
văn này trích ra từ trong bài ”Viết Cho Đúng Sự Thật” đề ngày 25/11/2009
của ông Phụng được phổ biến rộng rãi trên các diễn đàn để trả lời những điểm
phê bình của ông Lữ Giang về một bài viết có liên hệ đến cuộc Cách Mạng 1/11/1963.
[vi] Chính Đạo, Việt Nam Niên Biểu 1939-1975
(Tập A: 1939-1946) (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr 295.
[vii]
Xin xem Linh-mục Vũ Đình Hoật, Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan –
Tập II (Fall Church, VA: Alpha, 1991), tr. 1013-1014.
[viii]
Nguyễn Hiến Lê, Đời Viết Văn Của Tôi (Wesminster, CA: Văn
Nghệ, 1986), tr. 99-101.
[ix]
Trịnh Văn Phát. Cảm Nghĩ Một Chuyến Đi. (Đăng trong Giáo Hoang Học
Vi?ệ PIÔ - Liên Lạc Số 2 - Nhóm Úc Châu thực hiện, tháng 7 năm
1995, tr 72.
[x]
Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr. 54.
[xi]
Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam,
1993), tr. 340-341.
[xii]
Vũ Đình Hoạt, Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan - Tập II
(Falls Church, VA: Alpha, 1991), trang 1013-1014.
[xiii] Nhiều
tác giả, Tại Sao Không Theo Đạo Chúa – Tập 2 (Spring, TX: Ban
Nghiên Cứu Đạo Giáo, 1998), tr. 116.
[xiv]
Nguyễn Khắc Xuyên & Phạm Đình Khiêm, Giáo Sĩ Đắc Lộ và Tác Phẩm
Quốc Ngữ Đầu Tiên (Sàigòn: Tinh Việt Văn Đoàn, 1961), tr. 83.
[xv]
Nguyên Vũ. Ngàn Năm Soi Mặt (Houston, Texas: Văn Hóa, 2002),
trang 389.
[xvi]
The
Associated Press. "Jewish family protest Pius’ beatification”] [The
News Tribune [Tacoma, Washington] Sunday, September 3, 2000. Vấn đề
này sẽ được trình bày đầu đủ hơn ở Chương 3.
[xvii]
Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa
Pháp Ở Việt Nam 1858-1897 (Saint Raphael, Pháp: Tự Xuất Bản,
1995), tr. 101-102.
[xviii]
Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh: Tân Văn, 2003), tr.
355.
[xix]
Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân – Tập I (Los Alamitos, CA:
Nhà Xuất Bản Việt, 1989), tr. 428.
[xx]
Trần
Tam Tỉnh, Sđd., tr. 14-15.
[xxi]
Nguyễn Mạnh Quang, Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa
Foundation (Houston, TX, 2004), tr. 127-131.
[xxii]
Nilgel Cawthorne, Tyrants History’ 100 Most Evil Despots &
Dictators (London::Arcturus, 2004), p. 167.
[xxiii] Trần
Trọng Kim, Nho Gíao - Tập I (Sàigòn: Tân Việt, 1953 ?), tr.
168.
[xxiv]
Trần
Trọng Kim, Sđd., tr. 248.
[xxv]
Bernard B. Fall, The Two Vietnams (New York: Frederick A.
Praeger, 1964), tr 18.
[xxvi] Xin xem Chú Thích số 2 trong tiểu mục Số 1 ở trên.
Database
#88
Trang Nguyễn Mạnh Quang