●   Bản rời    

Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam -Hiệp Ước Verseilles

Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam

Hiệp Ước Verseilles

TS Nguyễn Xuân Thọ

http://sachhiem.net/NGXUANTHO/BuocMoDau_02.php

| ¿ trở ra mục lục| 13-Feb-2023

Nước Pháp đã rất nhanh chóng thay chân Bồ Đào Nha trong sự nghiệp truyền đạo tại Đông Dương (tức Indochine), nhờ sự hoạt động cá nhân của linh mục Alexandre de Rhodes, thuộc dòng Jésuites (Dòng Tên), đã không ngừng làm công tác tuyên truyền tại Rome, rồi tại Pháp,

Chương 1: Những Mục Tiêu Đầu Tiên Của Pháp Tại Việt Nam - Hiệp Ước Versailles 1787

Vào năm 1497, khi mà Vasco de Gama (1) đi vòng quanh Hảo Vọng giác (Cap de Bonne Espérance), và năm 1521, Magellan đi cắt ngang mũi đất cực Nam châu Mỹ, thì người ta biết từ nay có thể đi thẳng bằng đường biển từ bờ biển châu Âu sang bờ biển Thái Bình Dương. Và công cuộc “thực dân hóa” những vùng đất thuộc bờ biển đó bắt đầu.

Đây không phải là một công cuộc thực dân chiếm thuộc địa theo nghĩa hiện đại của từ này. Các dân cư (ngoại trừ đôi khi việc buôn bán nô lệ) cũng như việc khai thác nông nghiệp, hoặc hầm mỏ, chưa lôi cuốn các kẻ đi chinh phục; người ta chỉ đi tìm một cái cảng thiên nhiên sẵn có, để thuận ra vào và người ta thực hiện với cư dân địa phương những cuộc đổi chác có lợi, trong đó mỗi người đổi những thứ ít giá trị, theo ý họ, lấy những thứ có giá trị lớn hơn cho mình.

Dĩ nhiên, xứ Hindoustan, mũi đất châu Á gần nhất đối với các đường giao thông châu Âu, là địa điểm đầu tiên người ta đặt chân lên. Người Bồ Đào Nha đã đổ bộ lên đây trong thế kỷ XV, rồi tiếp tục đi xa nữa đến tận bờ biển các nước nằm giữa Ấn Độ và Trung Quốc mà họ đặt tên cho là “Indo-chine” (Ấn Độ - Trung Quốc).

Năm 1511, Albuquerque xây dựng lên tại mỏm cuối bán đảo Malaysia một thành phố là Malacca; thành phố này đã nhanh chóng trở nên phồn thịnh giàu có và trong một thời gian dài là trung tâm thương mại chính của Âu châu, nằm giữa Trung Quốc, vùng Đại quần đảo châu Á, và Hindoustan.

Ảnh https://en.wikipedia.org/

Nước Pháp đã rất nhanh chóng thay chân Bồ Đào Nha trong sự nghiệp truyền đạo tại Đông Dương (tức Indochine), nhờ sự hoạt động cá nhân của linh mục Alexandre de Rhodes, thuộc dòng Jésuites (Dòng Tên), đã không ngừng làm công tác tuyên truyền tại Rome, rồi tại Pháp, với những nhân vật thân cận của Richelieu, và từ 1625 đến 1630, đã phát triển Kitô giáo tại Nam bộ và Bắc bộ. Chẳng bao lâu, những bài ký sự của vị giáo sĩ, giám mục “vùng ngoại đạo” Francois Pallu, đã làm cho người ta chú ý nhiều đến các cư dân Việt Nam.

François Pallu, MEP (1626–1684) là một giám mục người Pháp. Ông là thành viên sáng lập của Hiệp hội Truyền giáo Paris ở Nước ngoài và trở thành nhà truyền giáo ở Châu Á. Ảnh en.wikipedia

Vua Louis XIV quan tâm nhất là nước Xiêm. Vua đã gửi sang Xiêm nhiều phái đoàn với nhiệm vụ đàm phán về những quan hệ buôn bán, hữu nghị và cả khuyên nhà vua Xiêm theo đạo. Vua Xiêm đáp lại vinh dự mà vua nước Pháp đã dành cho mình; vậy là các phái đoàn Xiêm được tiếp đón tại cung điện Versailles, trước con mắt ngạc nhiên của các triều thần. Nhưng rồi chẳng bao lâu một phong trào bài ngoại mãnh liệt xuất hiện tại Xiêm; người Pháp bị bắt giam, hoặc bị trục xuất, và thế là vấn đề nước Xiêm, đã từng khơi gợi bao niềm hy vọng lớn, bỗng trở thành một con số không.

Vả lại, “công ty Ấn Độ”(2) đã nghĩ chuyện lập một thương điếm tại một vài đảo ngoài khơi bờ biển Việt Nam: Từ 1686, một trong các nhân viên công ty đưa ra đề nghị chiếm Côn Đảo. Lúc đầu, không ai đáp ứng, nhưng rồi các thống đốc những thương điếm của Pháp tại Ấn Độ, Dumas và Dupleix, đã đưa ra lại đề án ấy.

Sau khi ký kết hiệp định Aix-la-Chapelle, năm 1748, công ty đã giao cho Pierre Poivre, vừa từ Viễn Đông về và có viết một báo cáo chi tiết về các tài nguyên Việt Nam, trách nhiệm thành lập tại nước này một chi nhánh. Pierre Poivre đến Đà Nẵng năm 1749, được vua Võ Vương đón tiếp tử tế ngay tại Huế; tuy nhiên, những cố gắng của ông không đi đến thành công. Mặc dù vậy, đề án trên vẫn được đưa ra lại mấy lần nữa (1753 - 1755).

Sau Hiệp định Paris, một ủy ban được thành lập nhằm mục đích cổ vũ cho sự thành lập một chi nhánh công ty tại Nam bộ Việt Nam “để nó có thể, trong một chừng mực nào đó, đạt được những quyền lợi cân bằng với những quyền lợi nước Anh đã đạt được” (tại Ấn Độ). Ủy ban này rất lo sợ nước Pháp sẽ bị Anh, đi trước mình, ở Nam bộ.

Về thực tế, chính tham vọng của một ông hoàng Việt Nam muốn chiếm lại ngôi báu, bằng cách dựa vào một vị giáo sĩ Pháp, sẽ thuyết phục Louis XVI nghĩ tới một cuộc vũ trang can thiệp vào Việt Nam.

Tại Việt Nam, lúc này, giữa chúa Trịnh ở phía Bắc và chúa Nguyễn ở phía Nam, đang có một cuộc phân tranh quyết liệt. Sông Gianh là đường ranh giới giữa hai bên. Cuộc phân tranh bắt đầu từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX mới chấm dứt, với sự tiêu diệt thế lực họ Trịnh. Những trận đánh không xảy ra liên tục.

Trong giai đoạn đầu (1620-1674), hai bên đã có những lực lượng quan trọng. Quân Nguyễn ra sức củng cố những nơi phòng thủ tự nhiên, dọc biên giới của mình và xây đắp chủ yếu là hai bức tường thành lớn, chặn lối đi của quân Bắc vào: lũy Trường Dục (1630), dọc theo sông Nhật Lệ và lũy Đồng Hới (1631), từ chân núi Đâu Mâu đến cửa sông Nhật Lệ.

Theo dòng thời gian, những cuộc nổi loạn và phiến động, do hậuquả của những cuộc chiến liên miên, giữa hai dòng họ Trịnh-Nguyễn, làm cho kiệt sức cả hai miền Bắc cũng như Nam, dẫn tới một cuộc khởi nghĩa lớn của nhân dân. Năm 1773, ba anh em quê làng Tây Sơn, tỉnh Bình Định, là Nguyễn Văn Nhạc, Nguyễn Văn Huệ và Nguyễn Văn Lữ (3) lãnh đạo phong trào nổi dậy của nhân dân và đuổi chúa Định Vương Nguyễn Phước Thuần (1765-1777). Định Vương phải rời bỏ Huế, trốn vào Nam Bộ, tìm nơi ẩn lánh. Quân Tây Sơn đuổi theo, vào Sài Gòn năm 1777, bắt được Định Vương tại Long Xuyên và xử tử vào giữa tháng 10 năm 1777 tại Sài Gòn(4) (Định Vương lúc này 24 tuổi), cùng một lúc với Nguyễn Phước Dương (5).

Quân Trịnh lợi dụng lúc quân Nguyễn đang phải đối phó với quân Tây Sơn, để gây lại chiến sự bị gián đoạn mất một trăm năm đình chiến (1674-1774) và chiếm được Huế.

Quân Trịnh đã nhân thời gian ngưng chiến này tiến hành tước đoạt của nhà Lê đang trị vì ở miền Bắc, mọi quyền hành thực tế. Ông vua cuối cùng của nhà Lê, là Lê Chiêu Thống (1781-1788), bị quân Tây Sơn đuổi, được quân Thanh đưa về một thời gian, để rồi lại rút sang Trung Quốc, sau trận đại bại của quân Thanh và mất tại Bắc Kinh năm 1793. Nhưng Nguyễn Phước Ánh (6), con của Nguyễn Phước Luân, là kẻ kế thừa ngôi báu, lúc này mới 13 tuổi, phải lẩn tránh kẻ thù hung dữ nhiều nơi trong nước cùng với chú là vua Huê Vương, để khỏi mất mạng, như nhiều người tổ tiên trong dòng họ đã bị mất ngôi. Nguyễn Phước Ánh, sau này chính là Gia Long.

Sau khi Định Vương Nguyễn Phước Thuần bị giết, Nguyễn Phước Ánh liên tục bị những người nổi dậy truy kích; sau mấy lần mưu đồ chiếm lại giang sơn không thành, Nguyễn Phước Ánh phải lẩn trốn sang Bangkok. Biết mình tứ cố vô thân và trong tay không có một tài sản, một phương tiện nào, ông bèn nghĩ tới chuyện kêu gọi người Hà Lan, người Anh, người Bồ Đào Nha, người Tây Ban Nha tại Philippines giúp ông khôi phục ngai vàng. Cuối cùng, ông hướng sang nước Pháp, theo lời khuyên nhủ của Pierre Pigneau de Béhaine, vừa được phong làm Giám mục Adran năm 1774, làm Khâm mạng Tòa thánh, thuộc Hội Truyền giáo Lazaristes.

Pigneau de Béhaine

Đối với Pigneau de Béhaine, tất cả mọi phương tiện phục vụ có lợi cho Tòa thánh và nước Pháp đều tốt. Người ta sẽ gặp ông, sau việc đi sứ mà chúng tôi sắp nói tới, trở lại Việt Nam can thiệp vào những vấn đề quân sự, việc binh đao, tỏ ra là một vị tướng lão luyện, khi cần, sẵn sàng gác cây thánh giá lại một bên để cầm lấy thanh gươm. Và người ta cũng sẽ thấy Nguyễn Phước Ánh, nhờ ông ta mà trở thành vua Gia Long (7) sau này, tự mình đọc bài điếu văn trước huyệt vị Giám mục. Vậy là Pigneau de Béhaine đã nhanh chóng nhận thấy được những quyền lợi đáng kể mà Tòa thánh và nước Pháp được hưởng do việc đặt lên ngai vàng của triều đình Huế một nhân vật, sau này sẽ trung thành tận tụy suốt đời. Ông ta vừa được sự tín nhiệm của vị hoàng thân, vừa được sự tín nhiệm của nhà chức trách Pháp, nhờ chức vị Giám mục của mình. Quả ít có dịp may như vậy. Ông tự cho mình có khả năng, nếu người ta phái ông đi Pondichéry (và nếu cần, đi Versailles), nhận sự giúp đỡ của Louis XVI. Ông được trao toàn quyền trong việc đàm phán và mang theo một đại diện của Việt Nam, với tư cách là đặc mệnh toàn quyền: chính vị Đông cung thái tử. Kể ra thì sự ủy nhiệm ấy hoàn toàn tự nhiên nếu như vị toàn quyền đặc mệnh ấy không phải là một cậu bé mới lên năm.

tượng Bá Đa Lộc và Hoàng Tử Cảnh

Vị Giám mục ra đi cùng với đứa trẻ ấy và đã trở thành một con tin thật sự trong tay ông ta, bảo đảm cho ông ta sự trung thành của Nguyễn Phước Ánh trong thời gian con mình vắng mặt.

Hoàng Tử Cảnh, một người con tâm phúc của Nguyễn Phước Ánh, và vài người phục dịch(8), cùng với vị Giám mục, lên đường đi Ấn Độ. Tháng 2/1785, họ đến Pondichéry và ở đây cho tới tháng 7/1786, nhưng không xin được sự viện trợ như mong muốn. Pigneau bèn quyết định đi Pháp. Tháng 2/1787 họ đến Lorient.

Vị Giám mục bắt đầu cuộc vận động: dĩ nhiên “ông Hoàng con”, bây giờ dầu sao cũng đã lên bảy rồi, sẽ là “ngôi sao” của các phòng khách Paris, sẽ có những buổi đón tiếp long trọng, sẽ là nhân vật “người hùng” trong các bài ca… Dĩ nhiên với cậu bé, vấn đề “đàm phán”, cậu làm gì biết đến.

Nhưng trái lại, Pigneau de Béhaine thì hy vọng Louis XVI sẽ chấp nhận cuộc liên minh mà ông ta đang mong muốn. Ông ta phô trương tước vị “đặc mệnh toàn quyền” của “vua Nam kỳ” , trưng bày cái đại ấn của vương quốc và thuyết trình về nghị quyết của “Đại Hội đồng Vương quốc”. Nguyên văn bản nghị quyết ấy được cất giữ tại kho lưu trữ của Bộ Ngoại giao Pháp và người ta có thể ít nhất là nói điều này: “Văn bản đó khó tin lắm”. Dù Nguyễn Phước Ánh có mong muốn chiếm lại ngôi vua bằng mọi cách đi nữa thì cũng không ai tưởng tượng được rằng chính ông ta, cùng với “Hội đồng Hoàng gia” của ông ta, lại có thể tự mình, một cách có ý thức, đề nghị những điều kiện như vậy:

Thử xem:

Sau khi Hội đồng (Hoàng gia) đã bàn định về tình hình hiện tại của đại sự quốc gia, quyết định:

1/ Sự giúp đỡ của một cường quốc châu Âu đã trở thành tối cần thiết để Nhà Vua khôi phục lại mọi quyền hành của mình, sẽ yêu cầu Hoàng thượng giao thác mọi quyền lợi của mình vào tay Đức vua nước Pháp, mà Hoàng thượng đã biết rõ sức mạnh, lòng nhân từ và đức tính công bằng, ưu tiên trước các cường quốc khác của châu Âu.

2/ Để bắt đầu và ấn định một cuộc đàm phán quan trọng tầm cỡ ấy, đề nghị Nhà Vua nhờ đến trung gian vị Giám mục Adran, gốc người Pháp, mà đức độ khôn ngoan và lòng yêu điều thiện đã được cả nước biết đến lâu nay.

3/ Nhà Vua trao cho Giám mục những quyền hành không giới hạn để nhân danh Nhà Vua, xin với triều đình Pháp những viện trợ cần thiết và thỏa thuận dàn xếp với nhau những điều hợp lý và có thể mang lại cho cả hai bên những lợi ích thiết thực nhất.

4/ Để đảm bảo với triều đình Pháp về sự thẳng thắn của Nhà Vua trong các ý định của mình, yêu cầu Nhà Vua giao phó cho vị Giám mục Pháp, Hoàng thái tử, đứa con duy nhất và là Đông cung sẽ kế vị mình ngự trị quốc gia. Nhà Vua tin cậy và ủy thác vào tay Giám mục việc dạy dỗ và giáo dục một vị Hoàng tử biết bao thân thương của Nhà Vua và biết bao quý giá đối với đất nước.

5/ Để tránh những điều khó khăn trong việc bảo đảm thi hành đúng nội dung những văn bản viết bằng tiếng nước ngoài và tại một nước không có ai làm phiên dịch được, ngoài chính đương sự, yêu cầu Nhà Vua giao cho vị Giám mục nói trên chiếc đại ấn, mà cả nước coi như dấu hiệu thụ phong của Nhà Vua, để trong mọi trường hợp triều đình Pháp có thể tin vào quyền hành của Giám mục Adran và vào sự thành công của công cuộc mình sắp làm.

6/ Vị Giám mục nói trên sẽ xin với triều đình Pháp, nhân danh Nhà Vua Nam kỳ, một sự viện trợ 1.500 quân, số tàu bè cần thiết để chuyên chở họ và chuyên chở trọng pháo, quân nhu cho việc chiến tranh, cùng với tất cả mọi thứ gì cần thiết và có ích cho cuộc viễn chinh.

7/ Để làm Thái sư cho Thái tử Đông cung thế truyền và để đi theo cùng Giám mục Adran, Nhà Vua sẽ cử hai người trong số các sĩ quan cao cấp của triều đình, cùng với cả đoàn tháp tùng cần thiết; những sĩ quan này đều bảo đảm cho lòng chân thành của Nhà Vua mong muốn điều đình với triều đình Pháp.

8/ Giám mục Adran sẽ chịu trách nhiệm, thay mặt Nhà Vua và Hội đồng Quốc gia, đề nghị sẽ nhượng lại cho Pháp và cho vua Pháp chủ quyền toàn vẹn hòn đảo nhỏ chắn ngang trước cảng chính miền Nam kỳ mà người châu Âu gọi là Tourane và người Nam kỳ gọi là Hội An, để vua Pháp có thể sử dụng xây dựng các cơ quan theo cách thức nào và dưới hình dạng nào họ thấy thích hợp nhất.

9/ Ngoài ra, nước Pháp được quyền sở hữu, cùng với người Nam kỳ, cảng trên để có thể sử dụng vào việc bảo vệ sửa chữa và đóng tại chỗ tất cả những tàu bè mà triều đình Pháp thấy cần thiết.

10/ Vị Giám mục nói trên sẽ đề nghị với triều đình Pháp về chủ quyền sở hữu hòn đảo mang tên Poulo-Condor (Côn Đảo).

11/ Nhà Vua sẽ cho phép nước Pháp độc quyền buôn bán với Việt Nam, và gạt các nước Âu châu khác ra.

12/ Nhà Vua cam kết, nếu nước Pháp khôi phục lại được địa vị cho Nhà Vua và ủng hộ Nhà Vua giữ gìn ngôi báu, sẽ giúp lại cho vua Pháp những khoản tương đương về quân nhân, thủy thủ, lương thực, tàu bè, thuyền chiến (…) mỗi khi và mỗi nơi cần đến.

13/ Nhà Vua sẽ thông báo cho vị Giám mục Adran biết trước, nếu triều đình Pháp có yêu cầu Nhà vua những điều gì mà Nhà vua chưa dự kiến trước được, thì vị Giám mục nói trên phải đồng ý trong chừng mực mà những yêu cầu ấy không làm thiệt hại gì cho quyền lợi của nhân dân mà Nhà Vua vừa là người cha, vừa là người bảo vệ; vị Giám mục nói trên, là người thông hiểu phong tục tập quán người Nam kỳ, sẽ chỉ rõ cho triều đình Pháp thấy rõ rằng hiệp định ông ta muốn ký kết với Pháp chỉ có giá trị vững bền khi những điều kiện ký kết thật sự công bằng và có lợi cho cả hai nước.

14/ Sau cùng, Nhà vua sẽ nói cho Giám mục Adran rằng, khi giao phó vào tay vị Giám mục số mệnh của chính Nhà vua và của thần dân, là Nhà vua chờ đợi ở vị Giám mục sẽ vì lòng chân tình gắn bó với bản thân Nhà vua mà mang hết tinh thần khẩn trương do thời cuộc đòi hỏi, cũng như tất cả sự khôn ngoan chín chắn của mình, sự khôn ngoan chín chắn này đã được Nhà Vua luôn luôn thừa nhận để tiến hành công cuộc đàm phán; kết quả thành công trong trọng trách mà vị Giám mục đã đảm đương một cách nhiệt tình và qua những sự hy sinh lớn lao sẽ phụ thuộc vào công việc đàm phán đó. Sau nữa, bằng cách làm sáng ngời lòng nhân từ của Đấng Tối cao mà vị Giám mục thờ phượng, cũng như lòng nhân hậu của Đức vua mà mình là kẻ bầy tôi, sự thành công của việc đàm phán nói trên, vị Giám mục sẽ mãi mãi xứng đáng với những lời ca ngợi và lòng biết ơn của Đức vua và cả đất nước Nam kỳ.

“Được” bàn bạc thảo luận tại Hội đồng Hoàng gia ngày mồng 10 tháng 7 âm lịch, năm thứ 13 niên hiệu Cảnh Hưng (18/8/1782)(9).

Vậy là, trước mặt bá tước De Montmorin, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp, một vị Giám mục người Pháp, được một Hội đồng có tính khả nghi trao quyền hành, đại diện lợi ích của một ông vua bị dân chúng truất phế và đuổi đi, phải trốn tránh ở nước ngoài: Nguyễn Phước Ánh.

Có thể giả thiết rằng dưới con mắt của vị Giám mục, những lợi ích của nước Pháp và của Tòa thánh được đặt lên trước lợi ích của Việt Nam. Nhưng khi thấy rõ cách thức mà những nhà truyền đạo nhận định vai trò truyền giáo của mình, người ta sẽ hiểu sự ngờ vực mà dân chúng và nhà cầm quyền Việt Nam có, đối với họ.

Dù sao, người ta vẫn thảo luận những đề nghị của Pigneau de Béhaine tại Versailles, Bộ Ngoại giao tỏ ra dè dặt. Vị Giám mục không hề nản lòng, lôi kéo được một số nhân vật cao cấp ủng hộ. Ông đã đi đến chỗ tự mình đứng ra bảo vệ cho những đề nghị của ông, trước mặt vua Louis XVI, Bộ trưởng Bộ Hải quân Castries và Bộ trưởng Ngoại giao Montmorin.

Ngày 28/11/1787, nhân danh Nguyễn Phước Ánh, Giám mục Adran ký kết với bá tước De Montmorin, đại diện cho vua Louis XVI, văn kiện ngoại giao đầu tiên giữa nước Pháp và nước Việt Nam(10), tại phòng Hiệp định của Bộ Ngoại giao, nay là Thư viện Versailles.

Qua hiệp định này, Nguyễn Phước Ánh cam kết, một khi đã chiếm lại được ngôi vua, đất nước thái bình sẽ nhượng cho Pháp mảnh đất và vùng biển Đà Nẵng, những đảo kề cận và đảo Côn Lôn. Ông hứa hẹn sẽ chấm dứt khủng bố các nhà truyền giáo Kitô, sẽ cho phép tự do tín ngưỡng; ông dành cho nước Pháp những quyền ưu tiên buôn bán.

Đáp lại, nước Pháp cam kết cho Nguyễn Phước Ánh, nhằm giúp ông ta thu phục giang sơn, bốn tàu chiến, cùng với 1.400 lính với đầy đủ mọi quân cụ.

Trong một bản thông cáo riêng biệt, ngày 28/11/1787, tự tay mình thảo và ký, Giám mục Adran tuyên bố rằng: căn cứ trên những quyền hành ông được giao phó…. “Vua Nam kỳ sẽ chịu trách nhiệm, hoặc bằng cách cung ứng vật liệu, hoặc bằng cách chi tiền trực tiếp, theo những bản dự toán sẽ thiết lập sau, xây dựng những công trình an ninh và phòng thủ đầu tiên như thành lũy, trại lính, bệnh viện, kho hàng, những cơ sở quân sự, nhà ở(11). Ngoài ra, ông còn cam kết sẽ thuyết phục Nguyễn Phước Ánh phê chuẩn hiệp ước ông vừa ký kết.

Bề ngoài, vị Giám mục có vẻ đã thành công mỹ mãn; thực ra, năm ngày sau khi ký Hiệp định, Bộ trưởng Ngoại giao Pháp nhận xét rằng ở Pháp chưa có đủ yếu tố để đánh giá thắng lợi của một cuộc viễn chinh xa xôi như vậy, đã gửi ngày 2/12/1787, không cho vị Giám mục hay, những chỉ thị cho bá tước De Conway, tư lệnh quân đội Pháp tại Ấn Độ, bảo ông ta phải dựa vào hoàn cảnh thực tế mà tiến hành, hoặc hoãn lại cuộc viễn chinh:

“Thưa ông, Đức vua đã quyết định viện trợ cho vị Hoàng thân Nam kỳ, do Giám mục Adran đã qua Pháp kêu gọi lòng tốt của Người. Đức vua đã chọn ông làm Tư lệnh cuộc viễn chinh và lãnh đạo cơ quan sẽ được thiết lập sau đó. Ý đồ của Người bộc lộ rất rõ qua những chỉ thị kèm theo thư này, một chỉ thị cụ thể, ông sẽ vận dụng theo chiều hướng nào do sự khôn ngoan lựa chọn và một chỉ thị mật. Chỉ thị mật này để ông được chủ động tiến hành, hoặc trì hoãn lại cuộc viễn chinh tùy ý kiến riêng của ông về những tài liệu mà ông đã nhận hoặc có thể nhận.”(12)

Đồng thời với những chỉ thị mật đó gửi bá tước De Conway, cùng ngày hôm ấy, de Montmorin biên thư cho hiệp sĩ d’Entrecasteaux, Toàn quyền các đảo Iles de France và Bourbon:

“Thưa ông, trước tiên tôi phải lưu ý ông về tính chất mật của bức công hàm này… ‘Khi Đức vua quyết định tiến hành cuộc viễn chinh theo yêu cầu của Giám mục Adran và giao trách nhiệm cho bá tước Conway chỉ huy cuộc viễn chinh này, Đức vua đã để cho vị tướng lĩnh ấy toàn quyền chủ động tiến hành, hoặc hoãn lại cuộc viễn chinh, tùy theo tính chất của các tài liệu mà ông ta có được về điều kiện dễ dàng nhiều hay ít của cuộc viễn chinh và về sự lợi ích của một sự thiết lập như thế…’. Yêu cầu ông đừng nói gì với Giám mục Adran về việc Đức vua để cho ông Conway được tự do gác lại hoặc trì hoãn ngày viễn chinh…”

Vài tuần sau, ngày 17/2/1788, Bộ trưởng Ngoại giao viết công hàm cho đại sứ Pháp tại Tây Ban Nha La Vanguon, giao cho ông này thông báo cho triều đình Tây Ban Nha biết quyết định của chánh phủ Pháp sẽ tổ chức viện trợ cho Nguyễn Phước Ánh. Ông ta viết thêm vào bức công hàm:

“Hoàng thượng sở dĩ quyết định như vậy không phải nhằm chủ yếu là tạo một cơ sở thương mại ở vùng biển La Sonde, mà trước tiên là nhằm ngăn cản các cường quốc khác, nhất là nước Anh, thay chân vào chỗ chúng ta. Nếu họ đạt được mục tiêu đó thì họ sẽ có được một vị trí rất thuận lợi, cho phép họ ngăn cản sự thông thương bằng đường biển sang đất Trung Quốc và đe dọa những thuộc địa của Tây Ban Nha và của Hòa Lan tại vùng này.”

Và ông đã kết thúc với câu tái bút sau đây:

“Tôi có chiều hướng tin rằng những hoàn cảnh địa phương sẽ tỏ ra bất lợi cho cuộc viễn chinh trước con mắt vị tướng ấy (De Conway), đến chỗ có thể chắc chắn là nó sẽ không được tiến hành”(13).

Conway, lúc này đang bực dọc với Pigneaude Béhaine, hoặc e ngại vì những thất bại mới đây của Pháp tại Ấn Độ đã gửi công hàm trả lời Bộ trưởng ngày 15/3/1789, rằng Poulo-Condro chẳng mang lại lợi ích gì khi mà cả công ty Ấn Độ, cả người Anh đã không thể đặt chân lên cơ sở tại đó. Đà Nẵng, đối với ông ta, thì hoang vu quá không người; muốn khai thác phải đầu tư vào đó những số vốn khổng lồ và ông ta kịch liệt công kích tư cách cùng thái độ xử sự của vị Giám mục:

“Người ta có thể tha thứ cho vị Giám mục Adran những giấc mơ của một cái đầu cuồng nhiệt…

Những tính toán của ông ta cũng chẳng chính xác gì hơn những điều ông quyết đoán. Ông ta đã dự trù chi phí cuộc viễn chinh lên tới năm hoặc sáu trăm ngàn đồng quan Pháp; những món chi tiêu sơ bộ đã lên tới một triệu. Cuộc viễn chinh mà thực hiện sẽ tổn phí ít nhất gấp ba lần. Và cũng không phải dễ dàng tính toán trước được mỗi năm chúng ta sẽ phải chi ra bao nhiêu tiền nữa để giữ gìn và bảo vệ. Chẳng có gì dễ dàng bằng chiếm cứ lấy đất Nam kỳ, hoặc một vị trí tốt, hay một cảng. Nhưng, chi phí xây dựng và bảo quản liệu có được bù đắp lại bằng những món lợi mơ hồ chỉ mới hứa hẹn suông trong tương lai xa xăm? Những chỉ thị của Ngài là một lời báo trước khá rõ ràng chưa phải lúc chi tiêu những món tiền lớn như vậy…

Sự thận trọng trong các chỉ thị đó, thưa Ngài, ngày càng thuyết phục tôi và đã đảm bảo cho tôi tránh được những hành vi thiếu cân nhắc mà vị Giám mục đang muốn đẩy tôi vào; nhưng không bảo đảm cho tôi tránh khỏi bạo lực, khỏi những hăm dọa và những âm mưu của ông ta. Tôi rất mong muốn được vừa lòng Giám mục Adran mà không tuân thủ các mệnh lệnh của ông ta. Nhưng tôi thà chịu hậu quả thù hằn của ông ta, còn hơn vì ông ta mà hy sinh quyền lợi của Đức vua bằng cách phản bội lòng tín nhiệm vô cùng vinh dự của Ngài đối với tôi.”(14)

Vậy là Conway chẳng phái một người nào đi đâu cả và xin những chỉ thị mới. Những chỉ thị mới ông ta chẳng bao giờ nhận được: trong kho lưu trữ của Bộ Ngoại giao, tại Paris, có văn bản mệnh lệnh của Montmorin gửi cho Conway, mang chữ ký tắt và chữ ký chính thức của Louis XVI bảo ông ta đừng có trả lời bản dự án cuộc viễn chinh đánh chiếm Nam kỳ.

Pigneau de Béhaine trở lại Pondichéry vào tháng 5/1788 và chỉ nhận được một cuộc tiếp đón dè dặt, rất khác với cuộc tiếp đón mà vị Giám mục đợi chờ. Ông không thể đoán biết được vì sao. Conway không bao giờ tiết lộ cho ông những chỉ thị mà Conway đã nhận được.

Buồn lòng và bất bình sâu sắc trước cái ý nghĩ: nước Pháp sẽ không tôn trọng những lời đã hứa với một ông Hoàng nước ngoài đang đặt niềm tin trọn vẹn vào những lời người ta đã nhân danh Đức vua mà hứa hẹn với ông? Pigneau de Béhaine thoáng có ý nghĩ không trở lại Nam kỳ nữa.

Tuy vậy, vị giám mục không chịu thua, quyết tâm “làm cuộc cách mạng Nam kỳ một mình”. Nhờ các thương gia Pháp giàu có ở Ấn Độ giúp đỡ, ông đã tổ chức được một đội viễn chinh 300 người, do các sĩ quan Pháp chỉ huy, đổ bộ lên cửa sông Sài Gòn vào tháng 7/1789.

Mặc dù phải nhượng bộ trước những lý lẽ của vị giáo sĩ và để có khả năng khôi phục ngai vàng phải nhờ nước ngoài viện trợ, Nguyễn Phước Ánh, về phía mình, không hề ngồi không chờ đợi. Chẳng đợi vị Giám mục trở về, ông tập hợp lại những người theo mình và sau hai năm chuẩn bị, đã mở một cuộc tấn công đánh chiếm Sài Gòn, năm 1788.

Ngày 21/01/1790, Nguyễn Phước Ánh gửi một bức thư cho Louis XVI cảm ơn thiện chí của vua Pháp và thông báo cho vua Pháp biết ông không chờ đợi sự viện trợ của Pháp mà ông đã không nhận được:

“… Còn những viện trợ đã xin với Bệ hạ, tuy tôi không nhận được, tôi vẫn hoàn toàn yên tâm khi tôi nghĩ rằng việc đó không do lỗi của Bệ hạ, mà do lỗi của người chỉ huy quân sự của Bệ hạ tại Ấn Độ. Tôi sẽ không bao giờ giải bày được hết cả tấm lòng tri ân của tôi đối với Bệ hạ đã có lòng tốt cho Hoàng tử, con tôi, trở lại với tôi, và qua việc đoàn tụ cha con, như người ta thường nói, trả về với nước một con cá từ trong nước thoát ra. Dẫu vạn ngàn xa cách tôi sẽ không bao giờ quên được những ân huệ lớn lao này.

Còn về lực lượng hiện tại của tôi, tôi đang có một đạo quân khá đông, lục quân cũng như hải quân; tôi có số quân nhu, quân lương, khả dĩ đủ cho cái chiến dịch mà tôi còn phải thực hiện. Tôi chẳng dám lộ liễu xin Bệ hạ viện trợ cho về quân lính nữa…”(15)

Bản tóm lược bức thư, do Pigneau de Béhaine dịch ra tiếng Pháp, đã được trình bày tại Hội đồng Quốc gia năm 1791. Thế rồi, sau một loạt chiến thắng và thất bại, năm 1799, quân Nguyễn Phước Ánh thắng một trận lớn chiếm được thành Quy Nhơn, là thành trì chính của anh em Tây Sơn. Giám mục Adran tham dự chiến dịch này. Bị ốm nặng sẵn, chẳng bao lâu sau đó vị Giám mục chết vì bệnh kiết lỵ, ngày 09/10/1799, thọ 58 tuổi. Thi hài ông được mai táng tại Gia Định, ngày 16/12 cùng năm ấy.

Hoạt động của vị Giám mục đã được người Pháp trình bày, dưới cái nhìn của người Việt Nam, như một hoạt động mở màn cho các nhà thực dân Pháp thế kỷ XIX. Vì vậy mà người ta đã dựng một bức tượng của ông tại Sài Gòn trước ngôi nhà thờ(16) xây dựng năm 1875, đối diện với con đường phố lớn nhất của thành phố - đường Catinat(17): bức tượng diễn tả vị Giám mục, một tay che chở cho Hoàng tử Cảnh dưới tay áo dòng thụng của mình, và tay kia, giơ cao bản Hiệp ước Versailles với một cử chỉ tự hào. Người Việt Nam thì trái lại, nhìn thấy ở Giám mục Pigneau de Béhaine con người mở đầu áp đặt chế độ nô lệ tương lai lên non sông đất nước mình; và năm 1945 cách mạng đã hạ bệ bức tượng của vị Giám mục và của kẻ mà ông đỡ đầu(18).

Các sử gia Pháp thường đề cao quá mức sự giúp đỡ của Pigneau de Béhaine và các bạn hữu của ông; tuy nhiên, sự giúp đỡ ấy đã cho phép Nguyễn Phước Ánh biết cách trang bị một đội thủy quân, biết xây thành lũy theo kiểu Vauban và từ đó mà đẩy lùi dần được quân đội Tây Sơn. Sau Quy Nhơn thì Huế cũng thất thủ năm 1801 và Hà Nội năm1802. Làm chủ toàn bộ đất nước, Nguyễn Phước Ánh lên ngôi Hoàng đế năm 1802, dưới niên hiệu Gia Long (1802-1820).

Đối với người Việt Nam, Nguyễn Phước Ánh “rước voi về chà trên mồ mả ông bà”.

Thực tế, đứng về mặt chính thức mà nói, nước Pháp chẳng có công gì trong việc Nguyễn Phước Ánh lên ngôi Hoàng đế cả và Hiệp ước Versailles cũng chưa hề được bắt đầu thực hiện chút nào. Mặc dầu vậy, suốt đời mình Gia Long đã tỏ rõ thái độ rất quý trọng đối với những người Pháp ở lại Việt Nam, do lòng biết ơn đối với những điều họ đã giúp ông. Hoàng tử Cảnh, là người thấm nhuần tư tưởng tình cảm thân Pháp và thân đạo, chưa có dịp thuận lợi để bộc lộ thái độ của mình, bởi ông Hoàng trẻ ấy bị một cơn sốt phát ban giết chết ngày 10/3/1801, năm 21 tuổi. Ông Hoàng trẻ đã được rửa tội vào giờ lâm chung. Lạ thay, hai đứa con và vợ của ông lúc đó, bị đầu độc chết trong những trường hợp mờ ám. Tuy vậy, trong những năm đầu lên ngôi, Gia Long không giấu giếm sự nghi ngờ của mình đối với các vị truyền giáo; những người mà ông có cảm tưởng dường như là “những tên mật thám” phục vụ tham vọng của các nước châu Âu.

Quả vậy, nước Pháp đâu có lơ là đối với Việt Nam. Ngay 1797, đại úy thủy quân Larchers có trình lên chánh phủ Đốc Chính một dự án đặt thương điếm tại Philippines và Việt Nam. Bốn năm sau, Charpentier de Cossigny, cựu Thống đốc Pondichéry, đã dự thảo một bản “hồi ký về Nam kỳ”, đề nghị thực hiện tại đây một cuộc “viễn chinh thương mại”. Ở tài liệu này, người ta còn thấy vị Đệ nhất Tổng tài (Bonaparte, tức Napoléon I) viết: “Gửi trở lại Bộ Hải quân, yêu cầu cho tôi biết ý kiến về cuốn ký sự này”.

Sau Hòa ước Amiens 1802, tướng Decaen được phái sang Ấn Độ, cùng với một bộ tham mưu quan trọng và với sứ mệnh chiếm lại những thuộc địa của Pháp ở phía đông Hảo Vọng giác (Cap de Bonne Espérance). Felix Renouard de Sainte-Croix, cựu sĩ quan kỵ binh cóchân trong cuộc viễn chinh, tháng 11/1808 tại Macao gặp Jean-MarieDayot, một trong những sĩ quan Pháp đã giúp Nguyễn Phước Ánh chống với quân Tây Sơn; Sainte-Croix có nhận của Dayot một cuốn “ký sự hàng hải và những bản đồ sông ngòi về Việt Nam”. Khi trở về Pháp, Félix Renouard de Sainte-Croix được Champany, Bộ trưởng Ngoại giao, tiếp đón. Champany đã báo cáo lại với Napoléon về cuộc viếng thăm này. Nhưng Hoàng đế lúc này đang có nhiều điều lo lắng nghiêm trọng hơn ở châu Âu, nên không có một dự định gì về Việt Nam.

Sau Phục hưng, tình hình châu Âu tương đối bớt căng thẳng, chánh phủ Pháp tìm cách nối lại những quan hệ bị gián đoạn một thời gian với các nước Viễn Đông. Năm 1817, Công tước De Richelieu, Bộ trưởng Ngoại giao, viết một bức thư cho Jean-Baptiste Chaigneau, cựu sĩ quan Pháp đã trở thành một vị đại thần của triều đình Huế, yêu cầu Chaigneau phục vụ cho nước Pháp bằng cách cung cấp những thông tin chỉ dẫn về nước Việt Nam. Trong bức thư viết cho Chaigneau, Richelieu nhấn mạnh việc thiết lập một cơ quan thương mại hợp pháp và thường trực với Việt Nam, chú ý tránh những ý đồ có thể dẫn tới những vụ can thiệp chính trị. Các giới doanh nghiệp Pháp rất quan tâm đến những dự án này. Đặc biệt, các phòng thương mại Lorient và Bordeaux lúc này đang sôi nổi ước muốn buôn bán với Viễn Đông. Vậy là người ta liền tổ chức hai cuộc “viễn chinh thương mại” sang Việt Nam năm 1817 và 1819.

Chaigneau cũng đang mong ước thăm lại quê hương xứ sở của mình; ông xin được giấy phép nghỉ ba tháng và tháng 11/1819 xuống tàu về Pháp. Năm sau, ông ta được cử làm lãnh sự Pháp tại Việt Nam và được giao thẩm quyền ký một hiệp định thương mại với nước này. Nhưng khi ông trở lại Huế thì tình hình đã thay đổi hoàn toàn: Gia Long mất tháng 2/1820, con trai thứ hai của ông tên là Nguyễn Phước Đảm nối ngôi cha, dưới niên hiệu Minh Mạng. Minh Mạng (1820-1841) được nuôi dạy theo Nho giáo nên thấm nhuần sâu sắc về những nhiệm vụ đặt lên vai ông, do khái niệm Khổng học “Thiên Mệnh” (mệnh Trời) mà ông đảm nhận trong ngày thụ phong.

Muốn hiểu thái độ của người Việt Nam trước kia đối với quyền lực nhà vua, phải ý thức hai điều cơ bản tồn tại trong cái mà ta có thể gọi là “Hiến pháp Việt Nam”: bảo vệ nhân dân, bảo đảm quyền lực. Quan niệm quyền lực của họ mang tính chất thần bí; nó là một khía cạnh thống nhất trong hệ thống siêu hình học và tôn giáo của họ: trên cơ sở đó mà đảm bảo tinh thần tôn trọng quyền lực, nhưng đồng thời vấn đề bảo vệ nhân dân cũng được đảm bảo cho mọi người, thông qua những hình phạt nặng nề đối với những nhà chức trách thoái hóa, không làm tròn trách nhiệm.

Uy tín nhà vua dựa trên cơ sở một tín điều: tính chất thần thánh của họ, đó là tín điều trung tâm của triết học tôn giáo Việt Nam mà đặc điểm nổi bật là chủ nghĩa chiết trung cực đoan. Lịch sử hay đúng hơn là một đường lối chính trị - chứ không phải ngẫu nhiên hoặc một ý thức tập thể nào của nhân dân - đã tạo nên cái thứ lý thuyết hỗn hợp mà người ta có thể gọi là “Tôn giáo cổ truyền” Việt Nam đó. Với sự thiết lập triều đại nhà Lê ở thế kỷ XV, đồng thời với sự củng cố chế độ trung ương tập quyền về chính trị và hành chánh, nền quân chủ đã nâng Khổng giáo lên thành quốc giáo và bắt phụ thuộc vào nó vô số những dòng tôn giáo khác đang hội tụ trên nước này, kể cả Đạo giáo và Phật giáo.

Đạo “thờ vua” gắn chặt với đạo “thờ Trời”; cũng như ở Trung Quốc cổ điển, nó là một bộ phận chủ chốt của cái hỗn hợp tôn giáo mà thực chất là một bộ máy chính trị nào đó. Bởi vì chính quyền và thần quyền gắn liền với nhau: nhà vua - “con Trời” - nắm giữ mọi quyền bính bởi vì Vua có sứ mệnh phải giữ gìn kỷ cương xã hội. Thực ra, đây là một phương diện của trật tự vũ trụ do có một sự tương ứng không thể nào sai được thừa nhận như là chân lý cơ bản, giữa thế giới tinh thần và thế giới vật chất. Vua - được Trời thừa nhận và giao phó cho một “sứ mệnh” thần bí - hoàn thành sứ mệnh ấy thông qua duy nhất sự có mặt của vua trên ngai vàng.

Người Việt Nam thừa nhận trên Vua chỉ có Ngọc hoàng Thượng đế, “Trời chí tôn” và các vị Tiên đế đã chết, là tổ tiên nhà Vua, bất cứ thế lực siêu nhiên nào khác dù là những vong linh bảo vệ các gia đình hay thành hoàng các làng xã, đều dưới quyền của vị quân vương đương trị và ngồi theo vị trí trong hệ thống thứ bậc của một cơ quan hành chánh thiêng liêng. Là “con người duy nhất, thần linh dòng họ mình” - Vua là nhân vật duy nhất trong những người sống được hưởng quyền làm chủ tế trời đất và cúng tế các tiên vương, những lời chúc tụng có khả năng củng cố thêm cho Vua khả năng giữ gìn trật tự, đạo lý và phồn vinh.

Tôn giáo bảo đảm sự hòa hợp của quốc gia, bằng cách thắt chặt những nhóm chính trị và xã hội cơ bản trong những mối quan hệ thống nhất chặt chẽ về đạo lý và tinh thần. Là quốc giáo, nhưng nó không mang vẻ lạnh lùng của những tín ngưỡng “nhà nước”: nó sống và sức sống ấy có được không phải nhờ dựa vào chính quyền, mà nhờ sự hòa nhập nhất trí của cả dân tộc vào lòng tin của nhân dân. Người ta thường ca ngợi tính hiệu quả của các thể chế ngày xưa của Việt Nam, sự hài hòa trong cơ cấu, tính vĩnh cữu của các thể chế đó. Người ta không lưu ý đúng mức đến sức mạnh ấy, tức cái uy tín có tính chất tôn giáo gắn liền với sức mạnh đó và bắt buộc mọi người tuân thủ không một chút phàn nàn. Vua - hoàng đế - là cái sườn nhà của cộng đồng dân tộc; nhưng không có cái “tôn giáo vương quyền” ấy thì Vua, hay Hoàng đế cũng chẳng là gì.

Tuy nhiên, sự hỗ trợ của phương diện tinh thần mà chế độ quân chủ có thể hoàn toàn dựa vào cũng không gây ảo tưởng được. Nhà vua, vừa là quốc vương vừa là thần, về lý thuyết có quyền hành vô tận. Thực tình, nhà vua phải nêu gương tuân thủ pháp luật và kỷ cương xã hội, nếu không thì dân chúng có quyền, nói đúng hơn là có nhiệm vụ nổi dậy và tước “mệnh Trời” của nhà vua.

Như vậy, bằng một con đường vòng tinh vi, triết lý Khổng - Mạnh thực tế đã đặt chủ quyền tối cao vào tay nhân dân. Vị “con Trời” (Thiên tử) chỉ chịu trách nhiệm trước Trời: điều đó đã rõ. Nhưng kinhsách thánh hiền tuyên bố: “Đấng chí tôn” không có sủng thần. Đấng chí tôn chỉ sủng-ái-đạo-đức, lòng tin yêu của dân chúng không cố định. Dân chúng chỉ yêu mến những ông vua tốt bụng. “Trời có thể lấy lại ân huệ của Trời bất cứ lúc nào. Trời chỉ yêu quý những kẻ quan tâm làm tròn nhiệm vụ. Dân chúng có thể thu lại niềm tin yêu của mình bất cứ lúc nào; dân chúng chỉ gắn bó với những con người tốt bụng”. Mạnh Tử (372-289), người đệ tử ưu tú của Khổng Tử (551-479), còn nói rõ ràng hơn: “Ý dân là ý Trời”.

Vua được tôn lên để trị vì, phải trị vì hạnh phúc của thần dân và chịu trách nhiệm về sứ mệnh của mình. Kẻ mang danh hiệu vua phải hoàn thành bổn phận làm vua và phải biết xử thế như một nhà hiền triết. Nếu nhà vua áp bức dân chúng thì không xứng đáng là vua nữa; con người vua không còn là thiêng liêng và khi đó giết vua không còn là một trọng tội nữa. Sự nổi loạn chống chế độ bạo lực không những là hợp lý mà còn là một công lớn với nước và khẳng định cho kẻ nổi loạn cái quyền hợp pháp được chiếm lấy quyền lực tối cao.

Vậy là các triều đại Việt Nam, cứ theo cái đà ấy mà được hưng thịnh và sụp đổ. Chính sự quan tâm lo lắng đến vận mệnh đất nước đã hướng dẫn người dân Việt Nam, một cách thực tế, trong vấn đề trao quyền bính tối cao, ít nhất là trong việc thừa nhận những trường hợp hợp pháp.

Chế độ quân chủ nhà Nguyễn, dựa chặt chẽ vào Khổng giáo, đã biểu thị một sự thù địch sâu sắc đối với đạo Kitô, vì đạo Kitô rõ ràng là trái ngược với lễ nghi Khổng giáo. Minh Mạng là một ông vua rất nặng ý thức tôn giáo, không phản đối những cuộc trao đổi kinh tế với người Tây phương, là những kẻ nắm trong tay nền kỹ thuật tiên tiến, nhưng trong chừng mực mà những cuộc trao đổi không hại gì đến trật tự trong nước hay đến nền độc lập đối với bên ngoài. Minh Mạng từ chối không ký dự thảo hiệp ước thương mại do Chaigneau trình lên, vì chánh phủ Pháp đòi hỏi những tranh chấp giữa người Pháp với nhau, do Lãnh sự Pháp giải quyết và trong những vụ thưa kiện giữa ngườiPháp với người Việt Nam, phải có sự có mặt của Lãnh sự để bảo vệ cho quyền lợi người Pháp.

Những cuộc rối loạn này xảy ra đồng thời với cuộc vũ trang can thiệp của nước Anh đối với Trung Quốc, năm 1839, trong cuộc “chiến tranh nha phiến(19). Đây là một lời cảnh cáo nghiêm trọng đối với Minh Mạng đang thực hiện những điều nguy hiểm mà chủ nghĩa đế quốc phương Tây đang rêu rao lúc này ở Việt Nam. Nhà vua muốn thăm dò cho biết ý đồ các cường quốc châu Âu, nhằm điều chỉnh chính sách ngoại giao của mình, đồng thời tìm cách, bằng một tạm ước, giải quyết một cách đúng đắn vụ lộn xộn do những âm mưu của các vị giáo sĩ tạo nên. Chính nhằm mục đích này mà nhà vua cử nhiều phái đoàn, từ đầu năm 1840, sang Batavia, Pénang, Calcutta, Paris và London.

Đối mặt với mưu đồ và hành động của các giáo sĩ, trong khi mà người ngoại quốc, chẳng những không chịu tuân theo pháp luật của một đất nước đang cho họ cư trú, lại còn xâm phạm nền an ninh quốc gia và tìm cách lật đổ chế độ, thì cách dùng phương tiện ngoại giao để giải quyết các vấn đề của nhà vua Việt Nam là cách đúng đắn và đáng ca ngợi hơn cả.

Phái đoàn gửi sang Pháp tháng 11/1840 không được vua Louis Philippe tiếp. Các Hội truyền giáo nước ngoài nhất định ngăn cản việc ký kết một hiệp nghị mà họ sợ bao nhiêu thiệt thòi sẽ đổ xuống đầu họ, họ liền gửi cho vua Pháp một bản báo cáo, trong đó họ kể về Minh Mạng như một kẻ thù độc hại nhất của tôn giáo và yêu cầu có một sự can thiệp cứng rắn tại Việt Nam. Giáo hoàng Grégoire XVI cũng phản đối Minh Mạng.

Khi sứ đoàn trở về Huế thì vua Minh Mạng mất (21/1/1841). Vua kế vị là Nguyễn Phước Miên Tông, niên hiệu Thiệu Trị (1841-1847), cũng tỏ ra thù địch với Kitô giáo chẳng kém gì vua trước. Nhưng dư luận công giáo Pháp đủ mạnh để buộc nội các Guizot phải có những cuộc vận động mang tính chất kết tội đối với triều đình Huế, nhằm giải cứu cho những vị giáo sĩ đã bị án tử hình. Hai lần, năm 1843 và 1845, dưới sự hăm dọa quân sự, vua Thiệu Trị đành phải nhượng bộ.

Rồi năm 1847, theo yêu cầu của các vị giáo sĩ, nền Quân chủ tháng Bảy muốn buộc vua Việt Nam phải cho Kitô giáo được tự do, cũng như nó được tự do tại Trung Quốc. Chánh phủ Pháp gửi sang Đà Nẵng hai tàu chiến “Grâcieuse” và “Victorieuse”, do thiếu tá La Pierre chỉ huy. Ngày 15/4/1847, hai chiến hạm Pháp, tự cho là bị đe dọa, đã bắn chìm những tàu chiến Việt Nam bao vây chúng ngoài khơi Đà Nẵng. Trường hợp quân Pháp nổ súng vào hạm đội nhỏ bé của Việt Nam đó đã khiến Thiệu Trị thịnh nộ: vua bèn ra lệnh xử tử hết bất cứ người châu Âu nào bị bắt trên lãnh thổ Việt Nam.

Chính sách này sẽ được người con Thiệu Trị là Nguyễn Phước Hồng Nhậm (còn có tên khác là Nguyễn Phước Thì), kế vị cha tháng 11/1847, dưới niên hiệu Tự Đức (1847-1883), tiếp tục thi hành. Từ đấy, quan hệ giữa Việt Nam với Pháp là quan hệ giữa hai nước có chiến tranh.

Ngày 21/5/1857, Fray José Maria Diaz Sanjurjo, Giám mục thực thụ xứ Platea, Khâm mạng Tòa thánh tại miền Trung Bắc bộ, giáo sĩ thuộc dòng Dominicain Tây Ban Nha, bị bắt giam tại tỉnh lỵ Nam Định và bị chém đầu ngày 20/7/1857.

Nguyên nhân nào đã dẫn đến hành động khắc nghiệt ấy? Nó do ai quyết định, ai thi hành? Chẳng ai rõ chuyện đó bao giờ, mặc dù có vô số những bản báo cáo và thảo luận về vấn đề đó gởi lên trên, tại Việt Nam, cũng như tại Pháp và Tây Ban Nha. Than ôi, nó không phải là sự việc đầu tiên, cũng không phải là sự việc cuối cùng. Nó cũng sẽ bị bỏ qua đi như bao sự kiện khác, nếu nó không phải là lý do cho một sự can thiệp cá nhân của chính vị nữ hoàng nước Pháp, vốn người Tây Ban Nha, kẻ đã từng quen biết giám mục.

Dù sao, cũng chính là sự kiện đó đã bỗng nhiên đánh thức dậy trên đất nước Pháp, một sự quan tâm sâu sắc, sau 70 năm lắng đi, đối với Hiệp ước 1787 và khởi đầu một kỷ nguyên hoàn toàn mới trong mối quan hệ giữa nước Pháp với nước Việt Nam.

Ông Tổng lãnh sự Tây Ban Nha tại Trung Quốc, trụ sở tại Macao, nhận được tin bị bắt của vị giám mục nói trên qua linh mục Tổng Quản của Hội truyền giáo Tây Ban Nha tại Trung Hoa và tại Bắc kỳ. Ông ta liền chính thức yêu cầu Nam tước Gros, đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp tại Trung Quốc, gửi ngay sang bờ biển Việt Nam một chiến hạm để làm thế dựa cho cuộc thương lượng cứu vị giám mục Tây Ban Nha. Tại khu vực không có một chiến hạm Tây Ban Nha nào; Manille thì ở xa quá, không thể làm căn cứ hành quân được; còn yêu cầu người Anh thì không thể được, bởi họ không phải là người theo Kitô giáo; nếu họ nhận, tức họ sẽ lợi dụng thời cơ để mở rộng ảnh hưởng đạo Tin lành của họ và thu vén cho những lợi ích thiết thân của họ về chính trị cũng như kinh tế. Vả lại lâu nay, nước Pháp vẫn là “đứa con gái đầu lòng của Hội thánh”, mà đức vua rất ngoan đạo bao giờ cũng có thể kêu gọi sự giúp đỡ một cách có hiệu quả.

Lời yêu cầu được tiếp nhận một cách rất thiện chí và ngay ngày hôm đó 01/9/1857, được chuyển tới cho Đô đốc Hải quân Rigault de Genouilly. Tổng chỉ huy hạm đội Pháp đang hành quân ven bờ biển Trung Hoa. Từ sở chỉ huy của mình tại Castle Peak, gần Hồng Kông, Rigault de Genouilly liền lập tức cho vũ trang chiếc chiến hạm “Catinat”; có chiếc tàu “Lilly” của Bồ Đào Nha cho Tây Ban Nha thuê, tại Macao, hộ tống. Chiếc “Catinat” xuất phát ngày 4/9, mang theo Bá tước De Kleckowski, Bí thư sứ bộ Pháp đảm nhiệm việc thương thuyết để giải thoát cho vị giáo sĩ, mà ông ta chưa biết tin đã bị hành hình. Ông ta đành chỉ trao cho chánh phủ Việt Nam một bức công hàm phản kháng nhân danh hai chánh phủ Tây Ban Nha và Pháp.

Sự kiện này là một lý do rất đầy đủ để tiến hành một cuộc viễn chinh quân sự.

Khuynh Hướng Thực Dân Của Nước Pháp

Từ Sully, các khuynh hướng thực dân thường thường bị chối nhận là không có ở nước Pháp. Tocqueville khẳng định rằng nước ông “luôn luôn ở hàng đầu của những nước mạnh của lục địa… rằng việc thương mại đường biển chỉ là một tiết mục phụ trong đời sống nước ông”. Prévost-Paradol nhấn mạnh: Tinh thần “thích quẩn quanh ở nhà” của người Pháp không thích hợp với việc đi chiếm thuộc địa. Leroy-Beaulieu phàn nàn tính do dự của tầng lớp tư sản trong vấn đề đầu tư vào các lãnh thổ hải ngoại.

Vì không có khuynh hướng thuộc địa, ba nhân tố chính đã can thiệp vào và đè nặng xuống trên những quyết định của các nhà cầm quyền, và tạo nên giữa năm 1830, 1870, những nền móng mới của sự bành trướng ra hải ngoại: kinh tế, quân đội, tôn giáo.

Lực lượng kinh tế chiếm một vị trí hết sức quan trọng. Trong thời gian chuẩn bị cuộc viễn chinh chống Alger (1830), những lực lượng đó chưa bộc lộ ra; nhưng về sau thì các tầng lớp thương nhân sẽ bộc lộ vai trò của mình một cách mạnh mẽ hơn, đi lại thường xuyên các bờ biển Nam Mỹ cũng như bờ biển Trung Quốc và bờ biển quần đảo La Sonde.

Quân đội cũng hành động theo chiều hướng đó và có thói quen nhìn các thuộc địa, đặc biệt là Algérie, như một lãnh thổ dành riêng. Bọn thủy thủ cũng sẽ hành động như vậy khi động tới vấn đề Việt Nam. Nhất là khi Napoléon III cần có những thành công quân sự và để duy trì cảm tình quân đội, ông ta phải mềm mỏng về chính trị theo chiều hướng mà quân đội khuyên theo.

Đường lối chính trị đó thường là phù hợp với quyền lợi của tôn giáo tại Việt Nam, và Bộ trưởng của ông ta là Chasseloup-Laubat khuyên thiết lập một thuộc địa “to lớn dễ sợ, từ đó mà nền văn minh Kitô giáo của chúng ta rọi sáng ra khắp nơi”.

Nhiều trào lưu tư tưởng đã có một vai trò trong chính sách thực dân, như trào lưu “Saint-Simoniens” ở Úc châu, hay linh mục Enfantin với đồ đệ tại Algérie, phong trào các tổ chức nhân đạo chiến đấu chống chế độ nô lệ… chắc chắn để lại một ảnh hưởng nhất định trên chính sách đối với người bản xứ của Napoléon III. Trước khi có lệnh hủy bỏ chế độ nô lệ, ông ta quyết định dựng lập “thành phố tự do” (Libreville), gợi cho người ta nghĩ rằng: những kẻ tù nhân khổ sai có thể cải tạo tại các trại giam Guyane (1854), hay Nouvelle Calédonie (1863) – Hội kín Franc Maconnerie cũng ca ngợi những thành tích của sự bành trướng thực dân, gắn liền với sự phát triển văn minh.

Những vấn đề thuộc địa ấy thường là gắn liền với nền chính trị đối ngoại quốc tế của nước Pháp như một thứ phụ lục. Người ta biết rằng chính sách hải ngoại của Guizot được chỉ đạo bằng cả ý muốn làm vui lòng Tây Ban Nha, vừa để giữ quan hệ tốt với nước Anh, và hơn một lần Bộ trưởng Ngoại giao của Louis-Philippe chống đối với những sáng kiến của Nha Thuộc địa. Vừa ghi nhận trong khuôn khổ đất đai thuộc địa những kết quả đáng kể, những sự kiện như cuộc viễn chinh Syrie (1860), và cuộc viễn chinh Mexique (1861-1867), hoặc việc khai kênh đào Suez (1869)… không phụ thuộc vào một chính sách thuộc địa được xác định mà có tính chất rời rạc.

Sau khi đặt vững nền móng tại Algérie, mà lãnh thổ sẽ trở thành một cái bệ thử máy cho sự nghiệp chinh phục thuộc địa, trong bốn mươi năm (1830-1870), không theo một kế hoạch nào định trước, nước Pháp sẽ đặt chân vững vàng lên châu Phi da đen, châu Đại dương và Viễn Đông. Bên cạnh những dấu vết của lãnh thổ nguyên sơ, một lãnh thổ mới cứ thế mà thiết lập và sẽ trở thành đế quốc lớn thứ hai toàn cầu.

TS Nguyễn Xuân Thọ

___________________

(1) Vasco de Gama: sinh năm 1460 (?) tại Bồ Đào Nha và mất năm 1524 tại Ấn Độ. Ông được xem là nhà thám hiểm, nhà hàng hải thành công nhất châu Âu của Kỷ nguyên Khám phá (BT)

(2) Công ty Ấn Độ: thành lập dưới thời Nhiếp chính do John Law, do động cơ tài chính thúc đẩy hơn là động cơ thuộc địa.

(3) Thực ra ba anh em Nhạc, Lữ, Huệ là dòng dõi Hồ và có chung một ông tổ với Hồ Quý Ly (1400-1407), người dưới thời Trần đã tiến hành một cuộc Cách mạng dân tộc. Tổ tiên các anh em Tây Sơn, Hồ Hưng Dật, gốc ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Hồ Hưng Dật di cư sang Việt Nam từ thời kỳ Ngũ Đế (907-960) Trung Quốc và định cư trước tiên ở vùng Nghệ An, làng Bảo Đợt, huyện Quỳnh Lưu, rồi dời ra Thanh Hóa. Trong công cuộc “Nam tiến” do các chúa Nguyễn tổ chức hồi thế kỷ XVI, ba anh em định cư tại ấp Tây Sơn (nên gọi là anh em Tây Sơn), làng Cửu An, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Cha của họ là Hồ Phi Phúc. Theo “Việt Nam sử lược” (Trần Trọng Kim), ba anh em đã chọn họ Nguyễn là họ đằng mẹ để cuộc khởi nghĩa của họ dễ tranh thủ được cảm tình của người miền Nam, vì miền Nam là lãnh thổ chúa Nguyễn.

(4) Trước khi người Pháp tới, Sài Gòn (vật cống miền Tây) chỉ riêng thành phố những người khách (Trung Quốc). Những người khách này gọi nó là Tài-Ngồn hoặc Tề-Ngồn (Đề Ngạn). Hiện chính là thành phố Chợ Lớn khoảng 6 km.

(5) Nguyễn Phước Dương và Nguyễn Phước Thuần đã bị Nguyễn Huệ giết tháng 10/1777 (Đinh Dậu) tại chùa Kim Chuông. Chùa này ở Sài Gòn, đường Cống Quỳnh (1974), trong khung trại lính O-Ma cũ (dưới thời Pháp chiếm đóng).

(6) Theo “Quốc Sử quán triều Nguyễn” (lịch sử biên niên gia đình họ Nguyễn) ông thủy tổ gia đình họ Nguyễn là Nguyễn Bặc – người giữ một chức vị quan trọng ở triều Đinh. Nhưng chỉ từ một ông tổ xa là Nguyễn Kim (sinh năm 1468) thì lịch sử gia đình họ Nguyễn mới được ghi vào trong lịch sử Việt Nam. Từ Nguyễn Bặc đến Nguyễn Kim có 13 đời. Nguyễn Kim có 3 người con. Con trai thứ hai là Nguyễn Hoàng, sinh năm 1525. Nhờ có sự can thiệp của chị là Ngọc Bửu, vợ của Trịnh Kiểm, lúc này làm chức quản lý hoàng cung bên cạnh vua Lê Anh Tôn, mà Nguyễn Hoàng được bổ nhiệm, năm 1558, làm Tổng trấn xứ Thanh Hóa. Năm 1613, Nguyễn Hoàng chọn “Huế” (có nghĩa là hòa hợp) để đặt kinh đô. Ông mất năm 89 tuổi. Kế vị ông là con trai thứ sáu: 4 người con đầu đã chết, người thứ năm làm quan ở đất Bắc. Người kế vị sinh năm 1563. Khi có mang, mẹ ông cũng họ Nguyễn, một đêm chiêm bao thấy một người trao cho bà một tờ giấy viết dày đặc chữ PHƯỚC, có nghĩa là Hạnh phúc. Sáng thức dậy thì bà sinh con trai. Bà chọn chữ PHƯỚC đặt tên cho con, nhưng bà nghĩ rằng: “Nếu ta chọn chữ này làm tên riêng cho con ta, thì chỉ duy nhất một mình nó mang tên này trong gia đình. Nhưng nếu ta dùng chữ Phước làm tên đệm, giữa họ và tên riêng, thì một vạn con cháu ta sẽ có thể cùng dùng tên ấy; như vậy, sẽ có những một vạn ‘hạnh phúc’ cho dòng họ nhà ta.” Chính là từ đó mà những người hoàng phái đều mang họ Nguyễn Phước. Các con cháu của Nguyễn Hoàng: - Nguyễn Hoàng (1558-1613); - Chúa Sãi (Sãi Vương) Nguyễn Phước Nguyên (1613-1635); - Chúa Thượng (Thượng Vương) Nguyễn Phước Lan (1635-1648); - Chúa Hiền (Hiền Vương) Nguyễn Phước Tần (1648-1687); - Chúa Nghĩa (Nghĩa Vương) Nguyễn Phước Thái (1687-1691); - Chúa Minh (Minh Vương) Nguyễn Phước Chu (1691-1725); - Chúa Ninh (Ninh Vương) Nguyễn Phước Chú (1725-1738) - Võ Vương Nguyễn Phước Khoát (1738-1765) - Định Vương Nguyễn Phước Thuần (1765-1777) - Gia Long Nguyễn Phước Ánh (1802-1820)"

(7) Gia Long, niên hiệu của Nguyễn Phước Ánh (1802-1820)

(8) Nguyễn Hữu Luân, võ quan bậc 3, hạng nhất, cấm binh vệ úy; ông nội của Nguyễn Hữu Độ - nhạc phụ của Đồng Khánh và Thành Thái.

(9) “Hồi ký và tài liệu Á châu”: quyển 19, trang 101-103. Lưu trữ của Bộ Ngoại giao Pháp, Paris.

(10) Xem toàn văn bản Hiệp ước trong phần Phụ lục.

(11) Văn bản Hiệp ước và lời tuyên bố được cất giữ tại Phòng Hiệp ước của Bộ Ngoại giao Pháp, Paris.

(12) Thư từ công văn tổng hợp của Nam kỳ: Quyển VII, trang 607 và tiếp theo. Lưu trữ quốc gia, tại Paris.

(13) “Triều đình Tây Ban Nha”: Tập 624. Lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp, Paris.

(14) Thư từ và công văn tổng hợp của Nam kỳ: tập VIII, trang 510-511.

(15) “Hồi ký và tư liệu Á châu”: Quyển 21, trang 64.

(16) Người Việt Nam gọi Nhà thờ Sài Gòn là “Nhà thờ Nhà nước”. Nhà thờ lớn này, đối với đường Catinat, cũng tương tự như Khải hoàn Môn (Arc de Triomphe), đối với đại lộ Champs Elysées, ở Paris.

(17) Đường chính Sài Gòn, đường Catinat dưới thời Pháp thuộc, đổi tên là “Tự do” từ ngày Việt Nam độc lập, ngày nay là đường Đồng Khởi.

(18) Năm 1954, Ngô Đình Diệm dựng lên, cũng tại chỗ này, một tượng Đức bà Maria làm tại Rome theo đơn đặt hàng đặc biệt, ngày nay vẫn còn.

(19) Chiến tranh nha phiến tại Trung Quốc (1834-1842) William Jardines, người Scotland, mệnh danh là “chuột già đầu sắt”, được triều đình nhà vua Anh ban cho cái quyền “đầu độc” cả một đất nước, với cái chất mà người Trung Quốc gọi là “bùn ngoại quốc”, để làm giàu cho triều đình Anh và cho Hong Kong. Ngày 03/06/1839, Cao ủy Hoàng đế Trung Quốc là Liu Zexu ra lệnh đốt tàu giữa quảng trường công cộng, gần Quảng Đông, cả một tàu nha phiến để cảnh cáo cho những cường quốc phương Tây bán nha phiến tại Trung Quốc rằng triều đình Mãn Thanh từ đây sẽ kiên quyết buộc họ phải tôn trọng đặc biệt đạo luật buôn bán ma túy. Không cần thêm lý do nào khác, Lãnh sự Anh là Charles Elliot lập tức gửi về Luân Đôn một bản báo cáo yêu cầu chuẩn bị một cuộc can thiệp vũ trang của Anh thực sự xảy ra vào tháng 6/1840.

Nguồn: (Alpha Books - Ebook) Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Tại Việt Nam 1858-1897

Trang Lịch Sử




Đó đây


2024-03-28 - 25: Khắc Phục Hậu Quả Sau Khi Ông VVT Rời Ghế CTN - Ông Võ Văn Thưởng ra đi có chấm dứt mọi chuyện chưa?

2024-03-28 - Chấn động người Việt ở #Thailand: Thiếu tướng GĐ CA tỉnh Gia Lai … xuất hiện … chuyện gì xảy ra …? -

2024-03-24 - Thiếu tướng Hoàng Kiền _BUỒN, VUI, "GIẢI OAN" VẤN ĐỀ CHỐNG LẬT SỬ - Đôi lời với ông Võ Văn Thưởng

2024-03-22 - Thật là buồn khi một người mình đặt nhiều kỳ vọng lại làm mình thất vọng -

2024-03-22 - Tá hoả tịch thu! Tòa án NY bắt đầu kê biên tài sản sân golf, dinh thự Seven Springs -

2024-03-21 - VKSND TP HCM: Bị cáo Trương Mỹ Lan không ăn năn - VKSND TP HCM nêu quan điểm bị cáo Lan phạm tội nhiều lần, phạm tội có tổ chức, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiếm đoạt và gây thiệt hại số tiền đặc biệt lớn cho nhà nước

2024-03-21 - NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA CHỦ NGHĨA DÂN TÚY Ở VIỆT NAM -

2024-03-20 - Toàn cảnh đề nghị mức án với vợ chồng Trương Mỹ Lan, Trương Huệ Vân và đồng phạm -

2024-03-20 - Lý do đồng chí Võ Văn Thưởng có đơn xin thôi các chức vụ -

2024-03-20 - Trung ương đồng ý ông Võ Văn Thưởng thôi chức Chủ tịch nước - Ban Chấp hành Trung ương đồng ý để ông Võ Văn Thưởng thôi giữ các chức vụ Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng khóa 13, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng An ninh nhiệm kỳ 2021-2026, theo nguyện vọng cá nhân



▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 >>>




Thư, ý kiến ngắn
● 2024-03-21 - CHỐNG CỘNG: Chuyện cười ra nước mắt ở Sở Học Chánh Tacoma, Wa - Lý Thái Xuân -

● 2024-03-09 - Tổng thống Nga, Vladimir Putin đọc thông điệp gửi Quốc hội Liên bang (29/2/2024) - Gò Vấp -

● 2024-03-09 - Các hoạt động của Mặt Trận Việt Nam Công Giáo Cứu Quốc trong những năm 1942-1954 - trích Hồi ký Nguyễn Đình Minh -

● 2024-03-08 - Hồi ký lịch sử 1942-1954 - Liên Quan đến Giám mục Lê Hữu Từ, Khu tự trị Phát Diệm, Công Giáo Cứu Quốc - VNTQ/ Khôi Nguyên Nguyễn Đình Thư -

● 2024-02-15 - Trương vĩnh Ký dưới con mắt của người dân - Trần Alu Ngơ -

● 2024-02-14 - Các nhà hoạt động ẤN ĐỘ GIÁO phản đối chuyến viếng thăm của Giáo hoàng John Paul II - FB An Thanh Dang -

● 2024-02-09 - “KHÁT VỌNG NON SÔNG” của VTV1 và chuyện Trương Vĩnh Ký - Nguyễn Ran -

● 2024-02-05 - Góc kể công - Đồng bào Rô ma giáo cũng có người yêu nước vậy! Đúng. - Lý Thái Xuân -

● 2024-02-01 - Câu Lạc Bộ Satan Sau Giờ Học Dành Cho Trẻ 5-12 Tuổi Sắp Được Khai Trương Ở Cali, Hoa Kỳ - Anh Nguyen -

● 2024-01-29 - Giáo hội Rô ma giáo Đức "chết đau đớn" khi 520.000 người rời bỏ trong một năm - The Guardian -

● 2024-01-29 - Một tên Thượng Đế-Chúa ngu dốt về vũ trụ, nhưng thích bốc phét là tạo ra vũ trụ - Ri Nguyễn gửi Phaolo Thai & John Tornado -

● 2024-01-29 - Kinh "Thánh" dạy Con Chiên Giết Tất Cả Ai Theo Tôn Giáo Khác - Ri Nguyễn vs John Tomado -

● 2024-01-29 - Nhân Quyền Ở Nước Mỹ: Vụ Án Oan, 70 Năm Sau Khi Tử Hình Bé George Stinney - - Giác Hạnh sưu tầm -

● 2024-01-29 - NOEL - Ba Giáo Hoàng John Paul II, Benedict XVI, Francis I Thú Nhận Đã Bịp Chiên- Cừu Chuyện Jesus Ra Đời - Ri Nguyen -

● 2024-01-29 - Một dàn đồng ca, ngày càng đặt câu hỏi về quyền lực của Giáo hoàng - John L. Allen Jr. -

● 2024-01-29 - Tỷ lệ phá thai nơi người công giáo lại cao hơn nơi người ngoài công giáo! - Lê Hải Nam -

● 2024-01-29 - Kinh Khải Huyền Cho Biết Jesus Là Một Tên Ác Qủy Đê Tiện, Man Rợ - Ri Nguyễn -

● 2024-01-29 - Vatican Cho Phép Linh Mục Hiếp Dâm Trẻ Con - Đó là chính sách! - Ri Nguyen -

● 2024-01-28 - Quận Utah cấm Kinh Thánh ở các trường tiểu học và trung học cơ sở - Ri Nguyen -

● 2024-01-26 - Chiên Hô Hào Các Bạn Chiên Đừng Đọc Sachhiem.net: "Nhận Diện!" - SH vs Nguyễn Trọng Nghĩa -


▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 >>>