|
26 tháng 3, 2009
|
LTS: Bài viết này đã được phổ biến ở giaodiem.com trước năm 2002, và đã được thượng tải trên nhandanvietnam.org. Tuy rằng bài viết được trình bày theo một khung cảnh giả định, nhưng chất liệu được kiến tạo bằng những dữ kiện khá chính xác, xin đăng lại đây để đọc giả thưởng thức. Nhân vật Fanxicô Xaviê T. (thường được viết là Phanxicô Xaviê, phiên âm từ Francis Xavie, người Tây Ban Nha, một nhà truyền giáo tiền phong cho Giáo Hội Roma ở Navarrese) là tên "thánh" của cố Hồng y Nguyễn văn Thuận.
Tác giả từng là một trong những cây viết chủ lực của Tập san Giao Điểm từ thập niên 80, và đặc trách Tổng Biên Tập và Chủ Biên tờ báo mạng www.giaodiem.com từ năm 2001 đến 2006 của tổ chức Từ Thiện Giao Điểm (SH).
{This article eventhough is fictional, all of details and
conversations are based on true facts} (Mặc dù được tiểu thuyết hóa, các chi
tiết và lời đối thoại của các nhân vật được dựa trên tài liệu và sự
kiện có thật.)
Nil novi sub sole (Salomon:
“l’Ecclesiastic”, Không có gì mới lạ dưới ánh mặt trời) Tục ngữ Việt Nam :“Lưới trời lồng lộng
“... Au nom du
Père, du Fils et du Saint - Esprit. Ainsi soit-il”. Hồng y Fanxicô
Xaviê T. đang lẩm bẩm đọc lời kinh cuối, tay làm dấu thánh giá thì
bỗng có tiếng điện thoại reo vang. Ông uể oải đứng dậy, lòng chợt
nghĩ ai mà gọi điện thoại vào đêm hôm khuya khoắt thế này, chắc là
từ dinh thự của Thánh Cha rồi. Có việc gì khẩn cấp rồi đây. Nghĩ đến
đó trong lòng hồng y chợt tê tái, hay là long thể ngài có việc gì
bất tường. Cả mấy tháng nay, sức khỏe Giáo hoàng sút giảm thấy rõ.
Ông đi đứng không vững, tay run rẩy, khi nói miệng phải nhấp nháy cả
chục lần mới mở lời ra. Ông buồn rầu, lo lắng. Miệng Thánh Cha khi
thầm thì như nói một mình, khi muốn thét lên cho bay ra khỏi cổ họng
: “Vade retro, Satana. Vade retro, Satana” (*).
Khuôn mặt ông đỏ bừng lên, rồi từ từ tái lại như chừng hết máu.
Những lúc ấy, hồng y Fanxicô Xaviê T. hoảng hốt, tiến gần bên ông,
cất lên giọng lo lắng thầm thì bên tai cho ông vừa đủ nghe : “Lạy
Thánh Cha, ngài không sao chứ!”. Giáo Hoàng J. Paul II gục đầu xuống
thấp hơn, không nói một lời, khoác bàn tay ra dấu biểu ông đi ra.
Hồng y Xaviê T. rón rén bước lui từng bước nhẹ, rồi biến mất khỏi
cửa phòng.
“Alô, Fanxicô
Xaviê nghe đây!”
“Ngài hãy đến tư
dinh của Thánh Cha ngay lập tức”. Giọng nói của một phụ nữ đứng
tuổi, có lẽ là một mụ nữ tu Ba Lan nào đó trong đội tuyển chọn của
Giáo hoàng từ vùng Kraków, nghe như ra lệnh, chưa kịp nghe tiếng
“dạ” của hồng y thì đã cúp phôn.
*
* *
Khi hồng y Xaviê
T. vừa bước vào cửa phòng ngủ của Giáo hoàng J. Paul II thì có đủ
các mặt khách lạ : Hồng y Bernard Law đến từ Boston, một người khoác
áo choàng của giáo hoàng mà Fanxicô Xaviê nhận ra ngay là Cố Đức
Thánh Cha Piô XII, dù đây là lần gặp mặt đầu tiên. Người đứng trong
góc, bên phải của Giáo hoàng là một nữ tu, đứng chấp hai bàn tay
trước bụng. Xaviê T. chợt nhận ra là Mẹ Thánh Pascalina mà ông đã
từng xem hình trong cuốn Kỷ yếu Giáo hoàng tiền nhiệm. Tiếng đồn mối
liên hệ ‘gần gũi’ giữa bà và Giáo hoàng Piô XII, đến độ nhà báo Paul
I. Murphy đã viết một cuốn sách về bà, đặt tên là “La Popessa”.
Đối diện với đức
Thánh Cha Piô XII là hồng y “thiết giáp” Ratzinger. Giáo hoàng đương
nhiệm J.Paul II ngồi trên chiếc ghế bành bọc nhung đỏ, đầu gục
xuống, nét mặt buồn thảm.
Đức Thánh Cha Piô
XII đeo chiếc kính gọng trắng trệ xuống trên chiếc mũi quặp của ông,
tia mắt như hai luồng điện chiếu thẳng vào người J.Paul II, nét mặt
giận dữ:
“Ngài Wojtyla,
ngài có biết rằng ngài đã mở đường cho bọn Giám mục, tu sĩ lộng
hành, vi phạm giáo luật, cải chống lại tòa thánh hay không. Ngài đã
bước đi quá sớm, vượt quá lằn mức, đường hướng mà Giáo hội cần cải
cách. Chúng ta chưa đủ lực để củng cố nội bộ, thì ngài đã công khai
“ăn năn thống hối tội lỗi 2000 năm”, khủng khiếp hơn nữa là ngài dám
công nhận “thuyết Tiến hóa”, ngài dám nói không có thiên đàng địa
ngục, ngài tuyên bố độc thân không phải là vấn đề cho đời sống tu
sĩ. Lạy Chúa tôi. Lạy Chúa tôi. Khủng khiếp. Khủng khiếp.”
“Thưa đức Cha rất
Thánh, nếu không làm như vậy thì sẽ quá trễ, bao nhiêu công sức
trong gần hai chục thế kỷ qua mà Thánh Phêrô đã mở đường xây dựng sẽ
chìm ngập dưới biển Đại Tây Dương. Giáo hội của Chúa sẽ trở thành
một nghĩa địa rác rến, là nơi lui tới của những kẻ nghèo khó đi kiếm
đồ phế thải, của những kẻ vô-gia-cư đi kiếm “cơm thừa canh cặn”.
Giáo hội Mẹ chỉ còn là hình ảnh của một ông già đau yếu, bệnh hoạn
như tôi đây. Thưa đức Cha rất Thánh, bọn khoa học kỹ thuật gia đã
tiến quá sức nhanh, như tốc độ của phi cơ siêu thanh Concorde, trong
khi giáo hội chỉ là cổ tứ mã sơn son thếp vàng lọc cọc tới lui vài
mươi dặm trong khuôn viên của cung điện Vatican City này. Thưa Thánh
Cha, Giáo hội cần tạo ra hiện tượng để bắt kịp với thời gian, hay là
ngài muốn thời gian chôn vùi chúng ta như một hiện tượng ?. Đức
Thánh Cha về với Chúa trước, nên không biết rằng kỹ thuật high-tech
đã đi bằng đôi hia bảy dặm, ngày hôm nay, những gì xảy ra ở chốn
cung đình này, thì chỉ trong vòng vài phút sau khắp hang cùng ngõ
hẻm trên thế giới đều biết. Giáo hội không thể duy trì sự bí mật
được nữa. Giáo hội Công giáo Mỹ, kỹ nghệ Mỹ là nơi cung cấp cho Tòa
Thánh gần một nữa ngân sách nay càng ngày càng tụt cuống đến mức độ
thê thảm. Ngân hàng Tòa Thánh Ambrioso bị phá sản, vốn liếng , tiền
đầu tư của Tòa Thánh bị các bàn tay bí mật thụt két. Chúng ta là
những kẻ trọc phú không tiền bảo chứng. Giáo hội Công giáo Mỹ là
ngọn hải đăng cho con thuyền của Giáo hội, thưa Thánh Cha, càng lúc
càng lu mờ.”
Giáo hoàng J. Paul
II thều thào, thỉnh thoảng ngưng lại để ho từng chặp. Nghe J.Paul II
nói đến đó, nét mặt Piô XII bỗng trũng xuống, một chút xanh xám hiện
lên trên làn da mỏng trắng, nhưng đôi mắt vẫn hau háu tròn xoe không
chớp mắt. Sơ Pascalina hướng đôi mắt dịu dàng, trìu mến về phía Piô
XII. Mẹ đứng đó trong yên lặng, nhưng tâm tư đang dạt dào trở về với
quá khứ. Sơ Pascalina nhớ lại rất rõ ràng cái ngày xưa cách nay
chừng nữa thế kỷ, nước Mỹ là “mỏ dầu” dẫn vào kho dự trữ của Tòa
Thánh. Chỉ ngay cái hội nhỏ như Knight of Malta của các thầy giảng ở
đây thôi mà mỗi cá nhân đã từng đóng cho hồng y Spellman từ 50 ngàn
đô đến 100 ngàn đô la chỉ để được làm hội viên mà thôi. Cũng có
nhiều cá nhân tiếng tăm, giàu có đã từng đóng cho ông Tổng giám mục
New York cả một số tiền đến 200 ngàn đô chỉ để được làm hội viên
danh dự. Ôi, cái anh chàng ‘broker’ John A. Coleman, người bạn chí
cốt của Spellman không phải đã từng được dân chơi stock ở Wall
Street gọi là “Giáo hoàng của Wall Street” đó sao? Thời vàng son của
quỷ Satăng, và cũng chính những con quỷ satăng này đã từng đưa Giáo
hội tuột dốc không ai kìm hảm nỗi. Ôi, cái bọn Anglo-saxon, cái bọn
melting pot. Satana, Satana, Satana.
Dạo đó, mẹ
Pascalina còn nhớ lại hình ảnh thật rõ ràng, cùng với Paccelli (Piô
XII) khi đến New York gặp gỡ hồng y O’Connell, có mặt cả Spellman,
bên cạnh có chú Scottie trung thành, lông đen tuyền chạy quấn quít
rồi chu mồm sủa quanh chiếc gậy của y. Pascalina chợt hiểu ra một
cách dễ dàng tại sao cái anh chàng lớn lên trong một gia đình nghèo
khó Airít (Irish) di cư này lại có quyền lực, giàu có cả triệu triệu
đô la mau đến thế này. Lời đồn đến tai Pascalina rằng hồng y có hổ
danh “Gangplank Bill” này dùng phi cơ riêng để bay tới lui Bahamas
như đi chợ, đó là một thế giới bí mật của ông ta. Ngày đó, O’Connell
đã tạo dựng cho cháu y là Monsignor J.P.E O’Connell trở thành “ông
chủ” của giáo phận Boston, không may hắn phải bị tống cổ ra khỏi
giáo hội vì xìcăngđan tình dục dơ bẩn. Còn tệ hơn, sau đó lại có một
vụ sát nhân trong nhóm bộ hạ ngay trong dinh thự của hồng y. Thế mà
hồng y đã dùng quyền thế của ông ta để chận đứng giới truyền thông ở
Boston khỏi trưng bày bộ mặt trái trong thế giới đen của giáo phận.
Biết rõ những kẻ
đang khoác trên người chiếc áo vinh hạnh của kẻ làm đồ đệ, con cái
Chúa Giêsu, còn có những hoạt động tội ác vì quyền lực và đồng tiền,
nhưng Pascalina vẫn “kiên cường” tin tưởng vào giáo hội, vào hình
ảnh “Giêsu là hoàng tử của hòa bình”. Niềm tin của Pascalina càng
kiên cố bao nhiêu, lòng yêu mến Piô XII càng dâng cao bấy nhiêu.
Nghĩ tới đó, Pascalina sung sướng tới nỗi da gà. Piô từng nhẹ nhàng
thót bên tai Pascalina như chưa từng nói với ai trên cõi trần thế
này khi Pascalina giận dữ: “Mỗi lần căng thẳng đối phó với hoàn cảnh
khó khăn, bực bội khi nghe những lời nặng nề của “bà” đi nữa, nhưng
sau đó máu sôi sùng sục trong ta nguội dần, ta luôn luôn nhận thức
rằng bà đã đúng làm sao ấy.”
Nhớ cái ngày đức
Thánh Cha Piô XII quyết định sẽ công bố sự khải thị (vision) đã gặp
Chúa Giêsu, Pascalina đã can ngăn:
“Thánh Cha, người
đời hay có máu hoài nghi. Người ta sẽ diễu cợt là Giáo hội Thánh là
điên rồ. Họ sẽ dị nghị chuyện phép lạ đó là do sức khỏe và tuổi tác
già nua của ngài tạo ra.”
Piô chận ngang
lời:
“Vài người sẽ cho
ta là bệnh hoạn, vài người sẽ nghi hoặc, nhưng sẽ có hàng ngàn người
tin. Họ có đủ đức tin để tin những gì ta nói.” Thế rồi quyết định
công bố phép lạ “khải thị Chúa Giêsu” được loan truyền đến tai hồng
y Tisserant, kể cả Spellman ở xa cả ngàn dặm. Một hôm trong lúc chờ
đợi Piô XII ban lệnh thánh cho một nhóm mục vụ đặc biệt, hồng y
Tisserant và các bộ hạ của ông tiến đến gần mẹ Pascalina, buột
miệng:
“Này bà, có phải
câu chuyện “phép lạ” đó đúng sự thật không?” Hồng y Tisserant nói
bằng giọng của kẻ cả, uy quyền. Chung quanh nhiều hồng y khác đưa
mắt nhìn vào Pascalina, lạnh lùng như thách thức. Pascalina biết
mình sẽ thua trước đám đàn ông này, dù đôi môi đang mấp máy vì giận
dữ. Mẹ Pascalina đứng bất dậy khỏi bàn, cũng bằng ánh mắt lạnh lùng,
trả lời:
“Thưa ngài, nếu có
gì đáng phàn nàn, xin nói với đức Thánh Cha!”.
Hồng y Tisserant
không chịu thua, gằn từng tiếng một:
“Này bà, thời gian
còn lại của bà đếm được từng ngày thôi đó.” Nói xong, ông ta quay
lưng bỏ đi, để lại mẹ Pascalina đứng đó như trời trồng, đôi chân bà
tưởng không còn đứng vững nữa.
Khi Piô XII trở
lại chỗ cũ của tìm Pascalina, bà ta nói với ông qua từng cơn xúc
động:
“Tại sao ngài muốn
vội vã tung tin phép lạ ngay lúc này. Ngài có biết rằng sẽ có bao
nhiêu sự chống đối ở ngay chốn cung đình này không?”
Piô thảng thốt
trước những lời của Mẹ Pascalina, ông ta muốn Mẹ Pascalina nói cho
ông biết ngay những gì đã xảy ra, đã đẩy bà tới cơn giận dữ như vậy.
Sau khi nghe được câu chuyện, không nói một lời, Piô cầm lấy cái
phôn gọi Tisserant.
“Pacelli đây. Ông
Tisserant, đến ngay văn phòng tôi lập tức.”
Chưa bao giờ
Pascalina nghe một lối nói lạnh lùng, đanh thép như vậy thốt ra từ
miệng của Thánh Cha. Chỉ vài phút sau, các quan hồng y đã tề tựu
đông đủ trước mặt Piô. Họ lần lượt cúi xuống hôn lên chiếc nhẫn
Fisherman của Piô.
“Đứng dậy !”. Piô
thét lên như ra lệnh, rồi đưa tay chỉ về phía Pascalina và nói:
“Hãy đến nói với
Mẹ Pascalina lời xin lỗi ngay tức thời.”
Lần lượt các hồng
y đối diện trước mặt Pascalina, đầu cúi xuống, nói những lời xin
lỗi. Trong giây phút đó, Pascalina biết rằng mình sẽ trở thành một
nhân vật bất khả xâm phạm ngay nơi ngự trị đầy uy quyền của bọn đàn
ông này.
* * *
Hồng y Fanxicô
Xaviê T. khép nép đứng gần cánh cửa ra vào, tay vòng trước ngực, đầu
cúi xuống kính cẩn.
Piô XII quay sang
phía hồng y Bernard Law, truyền lệnh:
“Hồng y Law, hãy
báo cáo cho ta tình hình kiện tụng mấy con quỷ Satăng tới đâu rồi ?”
Hồng y Law mấp máy
môi mấy cái rồi mở lời:
“Thưa Thánh Cha,
tình hình rất tồi tệ. Ngày 18 tháng 5, linh mục Alfred J.
Bietighofer chủ giáo xứ Connecticut đã tự treo cổ trong phòng ngủ
tại bệnh viện tâm trí Silver Spring. Tháng trước một tu sĩ ở bang
Ohio tự sát bằng súng khi bị cáo buộc tội xâm phạm tình dục với một
bé gái. Ngày 16 tháng 5, linh mục Mauric Blackwell, giáo xứ
Baltimore bị nạn nhân Dontee D. Stokes bắn trọng thương và đang điều
trị tại bệnh viện Maryland Shock Trauma Center. Linh mục Kevin
Clohessey tại giáo xứ Jefferson City, bang Missouri bị em ruột là
David Clohessey truy tố là kẻ đi xâm phạm tình dục trẻ em trong
nhiều năm qua. Có lẽ đây là một trong những án lệ tủi hổ nhất cho
giáo hội, vì em của linh mục Kevin cũng từng là nạn nhân bị sách
nhiễu tình dục.
Ngày 10 tháng 5,
bà sơ Rita D. Monahan kiện hồng y William H. Keeler thuộc giáo phận
Baltimore về tội đồng lõa và đã dùng tiền hối lộ để dập tắt vụ kiện
tụng linh mục Tom R. Schwind đã hiếp dâm bà ngay tại nhà linh mục
chủ giáo xứ Park Heights.
Hôm qua ngày 18
tháng 5, hồng y William H. Keeler đã đổi thái độ, không còn chấp
nhận quyết liệt bảo vệ giáo hội như trước nữa. Vào buổi lễ Mass lúc
12 giờ trưa trước các tu sĩ trẻ và một làn sóng ống kính truyền
hình, Keeler đã chính thức xin lỗi nạn nhân Dontee D. Stokes và gia
đình anh ta.
Thưa Thánh Cha, về
ngân sách tài chính để trả cho nạn nhân và các vụ án, đã thiếu hụt
trầm trọng, các hãng bảo hiểm chỉ trả một phần thôi, Tòa Thánh cũng
không còn khả năng tiếp tục trang trãi chi phí được nữa, các giáo xứ
nơi chứa chấp quỷ satăng phải tự lo liệu lấy. Có nhiều giáo xứ đang
chuẩn bị khai vỡ nợ, hoặc bán đấu giá các cơ ngơi. Khắp 50 tiểu bang
nước Mỹ, ở đâu cũng có bùng lên nhiều vụ kiện tụng tu sĩ phạm dâm.
Thưa ngài, đây là một trận đại hồng thuỷ, một cơn địa chấn tàn khốc
đang lay động tận gốc rễ giáo hội. Giáo hội dù có thể sẽ còn tồn
tại, nhưng sẽ không bao giờ giữ được bộ mặt như trước nữa.
Giáo hoàng J. Paul
II, tai lắng nghe, nhưng đầu vẫn gục xuống, bất động như một pho
tượng Quasimodo. Giáo hoàng tiền nhiệm Piô XII bóp chặt hai nắm tay,
nét mặt không một chút cử động, nhưng trong ánh mắt bừng lên nét căm
hờn. Bỗng ông quay sang hồng y Ratzinger nói như truyền lệnh:
“Hồng y Ratzinger,
ngài hãy đọc lại cho ta những điều luật thánh nào có thể đem ra áp
dụng trong trường hợp nguy biến này nhắm giảm bớt mức thiệt hại cho
uy tín và tài sản của giáo hội ?.”
“Đức Thánh Cha rất
trọng, các chuyên gia của giáo hội sau khi nghiên cứu về
“Pedophilia” đã đưa ra nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng tựu trung
đã có vài kết luận như sau: “Pedophilia có nguyên nhân từ môi trường
sống, và nguyên nhân sinh học. Chúng ta cần biết rằng nạn Pedophilia
từng xảy ra với một phần “hợp tác” của đứa trẻ. Một đứa trẻ có thể
có liên hệ yêu thích được ‘xâm phạm’ tình dục. Thứ hai, về sinh học,
thưa Thánh Cha, còn có giả thiết cho thấy thủ phạm có khuynh hướng
dễ kích thích ở bọng đái (utero theory), ngoài ra còn là sự bất bình
thường về mức testoteron, chromosom, hormon trong máu. Những khám
phá về Cat Scan (soi hình não bằng hệ thống màn điện tử) hay PET
(Position Emission Telegraph) cho thấy có sự thay đổi hoá chất não
khi thủ phạm bị kích thích tình dục. Một số cá nhân, sex là một thứ
nghiện như nghiện thuốc phiện. Ngoài ra, thưa ngài, còn là nguyên
nhân thuộc lãnh vực tâm lý nữa. Có một vài trường hợp có thể dùng
thuốc để trấn thống cơn dâm như Depopravera, Hydroxprogesteron
Acetate, nhưng thưa ngài đây không phải là sự chửa trị cho
Pedophilia, nó chỉ được áp dụng như một hình thức có còn hơn không
thôi. Thưa ngài, vấn nạn Pedophilia nó chứa đựng một sự bí mật nào
đó mà chỉ có Chúa chúng ta mới biết nỗi.
Về luật Canon,
chúng ta cần triển khai và áp dụng như điều luật thánh 221,
tu sĩ không cần phải xưng thú tội lỗi. Điều 1446, cần phải
kêu gọi đức tin, đặc biệt giám mục phải tìm mọi cách tránh né vấn đề
pháp lý với các con cái Chúa càng nhiều càng tốt.
Luật Canon 695
– 702, chúng ta cần thận trọng tìm cách duy trì sự cơ động
trong tiến trình thời gian đưa tới sự quyết định thi hành các giải
pháp hành chính cho các tu sĩ phạm tội, vừa bảo vệ quyền lợi của một
tu sĩ, đồng thời tạo sự thăng bằng giữa dư luận đạo lý bức bách của
cộng đồng.
Thưa Thánh Cha, từ
đó, theo luật thánh 1350, chúng ta cần duy trì các văn kiện
liên hệ trong kho dự trữ mật. Những lá thư buộc tội tu sĩ không có
ký tên cần phải huỷ diệt ngay . Những hồ sơ cá nhân tu sĩ không được
phép kèm theo các văn bản có liên hệ tới các hành vi phạm pháp. Phải
đào bới từng chi tiết một trong các hồ sơ cá nhân. (**)
Những hồ sơ cá
nhân đã bị trát tòa thì không được xâm phạm tới nữa, nếu không sẽ bị
buộc là chúng ta tìm cách gian lận công lý. Nếu phát hiện những chi
tiết nào mà cấp lãnh đạo giáo hội địa phương thấy rằng không nên cho
công chúng biết thì phải tức thời gởi ngay hồ sơ đó về Hội đồng Giám
mục, bởi chúng ta có quyền miễn tố (immunity) để bảo vệ bất cứ cái
gì có thể nguy hiểm, hay nghi ngờ là nó nguy hiểm.”
Ratzinger đọc một
hơi dài đến sùi bọt mép bằng tiếng Latinh, vừa dứt lời thì Piô XII
phán:
“Tốt lắm, tốt lắm.
Lạy Giêsu Maria, hội thánh của con cái Chúa vẫn còn một bộ luật đầy
“đỉnh cao trí tuệ” của loài người. Được rồi, chút nữa đây, các ngài
lui ra, để ta cùng với Mẹ Thánh Pascalina hội ý thêm với Giáo hoàng
đương nhiệm.”
Vừa lúc đó, Piô
XII quay lưng lại, bất chợt như phát hiện một điều lạ. Đưa đôi mắt
cú vọ nhìn thẳng vào hồng y Fanxicô Xaviê T., ông hỏi:
“Còn cái ông mang
sắc phục hồng y da vàng mủm mỉm này là ai đây ?”
Giáo hoàng J. Paul
II chợt ngẩng đầu lên một chút, buột miệng:
“Thưa Thánh Cha,
đó là đứa con yêu dấu mới của Tòa Thánh, ngài Fanxicô Xaviê T. được
tôi phong chức năm ngoái. Ngài là cháu của đức Tổng giám mục Ngô
Đình đó.”
“À ha, đây là một
vinh dự cho nhà ngươi đó, dòng họ Ngô Đình nhà ngươi đã đem lại bao
nhiêu là ô nhục cho Tòa Thánh, ngươi hãy vì ân sủng cao sang này mà
phải biết làm thế nào để đền ơn đáp nghĩa cho Tòa Thánh, cho Giáo
hội Mẹ, nhà ngươi biết không ?”
Giáo hoàng Piô XII
gằn từng tiếng, mắt long lên chỉ còn nữa tròng trắng.
Fanxicô Xaviê T
gập đầu ba bốn bận tỏ dấu ăn năn thống hối, sợ sệt.
“Lạy Đức Thánh Cha
quyền uy vô biên. Tạ ơn Mẹ Maria vô cùng hiển thánh. Tạ ơn Chúa
Giêsu vô vàn mến yêu. Con xin nhận tội. Con xin vâng lời. Tạ ơn đức
Cha hiển thánh.”
Fanxicô Xaviê T
chưa kịp dứt lời, Piô XII đưa mắt ra hiệu cho Mẹ Pascalina.
Pascalina nhẹ gật đầu ngầm hiểu ý.
“Extra omnes !
Extra omnes !” (Mọi người hãy đi ra ngoài!)
Giọng Piô XII vừa thốt
ra như một mệnh lệnh, vừa đưa tay khoát ra sau lia lịa.
Trừ Piô XII, Giáo hoàng
đương nhiệm J.Paul II, Mẹ Pascalina còn lại trong phòng, các vị hồng
y nhẹ nhàng, nhưng vội vã biến mất sau cánh cửa đánh sầm một tiếng.
* * *
Lúc hồng y Fanxicô Xaviê T vừa bước ra khỏi
dinh thự của Giáo hoàng J. Paul II thì trời vừa bừng sáng. Có tiếng
chuông từ nhà thờ Basilica vang lên từng hồi, như tiếng chuông báo
tử. Hồng y chợt rùng mình nhận ra đó là cơn ác mộng đầu tiên giữa
người sống và kẻ chết ở cõi âm giữa đêm hè năm 2002 của Giáo hoàng
đương nhiệm, mà ông là một chứng nhân.
Nguyễn
Hạnh Hoài Vy
Báo GIAO DIỂM,
mùa Hè 2002
NDVN, ngày 19/3/09
(*) "Vade
retro, Satana": Quỷ Satăng hãy lùi lại!
(**) Theo văn phòng các luật sư của nguyên đơn, các
vị ‘bề trên’ của Giáo hội CG đã xử dụng các giáo luật trong bộ luật
‘Canon Law’ của Vatican để “obstruction of justice”, “Midwest Canon
Law Society 1990” {Plaintiff’s Deposition Exhibit, C.E. 6:2799