Nguyễn Du của Thế Kỷ 20
Hoàng Nguyên Nhuận
https://sachhiem.net/HOANGNN/Hoang12.php
22 tháng 3, 2008
LTS: Nguyên tựa bài viết là "Giã Từ Nguyễn Du Thế Kỷ 20" của tác giả HNN. Hôm nay đăng lại bài này sau 7 năm Trịnh Công Sơn mất, chữ "Giã Từ" không còn thích hợp nữa, nhưng còn lại ý nghĩa trường tồn hơn: Trịnh Công Sơn như một Nguyễn Du của thế kỷ 20 (SH).
Anh đã sống, đã ca hát với chúng ta một nửa thế kỷ X
X
Và 90 ngày của thiên niên kỷ mới.
(Nguyễn Khoa Điềm)
Nghe Trịnh công Sơn chết, anh chị em chúng tôi âm thầm
chia buồn với nhau, lẳng lặng vỗ về nhau bằng những lời điếu tụng qua điện
thoại, điện thư. Chúng tôi nói với chúng tôi hơn là nói với Trịnh công Sơn,
bởi kẻ mất mát và đáng được an ủi là chúng tôi chứ không phải Trịnh công
Sơn. Một trong những điện thư đầu tiên chúng tôi chia nhau đọc là:
Yêu Bánh Nậm ơi,
Chắc YBN cũng đã nhận được cái @ của Nguyễn đắc Xuân
về Trịnh công Sơn? @ nầy có một câu thật dễ thương. Nguyễn đắc Xuân bảo
Trịnh công Sơn là 'niềm tự hào của thế hệ chúng ta'. Niềm tự hào đó đã ra đi
thật rồi, phải không? Xin mượn lại mấy câu nó viết cho Lưu Kim Cương ngày
xưa để điếu tụng nó:
Anh nằm xuống sau một lần đã viễn du
Đã vui chơi trong cuộc đời này.
Buồn cho nó hay vui cho nó đều vô ích, phải không?
Nó đến, nó đi, tụi mình rồi cũng rứa. Nhưng có lẽ nó hơn mình ở chỗ là nó đã
thật sự viễn du, thật sự rong chơi... Chơi đẹp, đẹp tận láng cho đến phút
cuối cùng
Quán đời rũ mộng tà huy
Gửi buồn vui lại, ra về tay không.
Đừng hỏi tôi ai viết câu đó. Tôi thật vong ân bội
nghĩa, chỉ nhớ câu thơ mà không nhớ người viết. Cầu mong năm, ba trăm năm
nữa, người Việt sẽ không có thái độ vong ân đó mỗi lần rung động vì âm thanh
của ngót năm trăm bản nhạc nó để lại cho đời, như cô rung động vì Nhìn Những
Mùa Thu Đi dạo nào, hay vẫn còn nói được như tôi sáu năm trước đây...
Trong bài Xếp Bút Nghiên Xuống Đường Giải Nghiệp
viết nhân ngày kỵ Thầy Thiện Minh tháng 10.1995, tôi viết: 'Hoàng tôi không
khỏi ngậm ngùi nghĩ đến Trịnh công Sơn khi xem cuốn video Xin Trả Nợ Đời và
đọc mấy quyển sách về Huế như Huế Giữa Chúng Ta của Lê văn Hảo, Ngàn Năm Xứ
Huế của Nguyễn Châu và Đoàn văn Thông và Tuyển Tập Nhớ Huế ... Tất cả đều
không có một lời về Trịnh công Sơn! Nếu Huế là thánh địa của Phật giáo và
nếu bản nhạc Phật Giáo Việt Nam của Lê cao Phan là nhịp đạo hành của thanh
niên Phật tử cho đến khi phong trào Phật giáo bùng nổ năm 1963 - và từ đó
biến thành một phong trào rộng lớn nhân danh dân tộc mà đòi xét lại lịch sử,
thì Trịnh công Sơn chính là nhịp đập con tim của phong trào thanh niên trên
đường vận động hòa bình, độc lập và an lạc cho đồng bào đồng loại. Năm 1963
trong lúc anh chị em chúng tôi lận đận trong tù sau chiến dịch Nước Lũ thì
Trịnh công Sơn vẫn còn mơ màng Nhìn Những Mùa Thu Đi. Đến năm 1964, sau khi
'nhập' Tuyệt Tình Cốc thì Trịnh công Sơn hầu như đã trở thành một người mới.
Tài năng và tiếng tăm của Trịnh công Sơn từ lâu đã vượt khỏi những biên giới
hạn hẹp của quốc gia và ý thức hệ. Thế nhưng chẳng có người Việt nào trong
các phe đối kháng tả khuynh cũng như hữu khuynh muốn 'chính thức' biết Trịnh
công Sơn là ai cả! Cho đến hôm nay Trịnh công Sơn vẫn còn là kẻ lưu đày trên
quê nhà, một kẻ xa lạ giữa những đồng bào đã trầy da tróc vảy vì đánh đấm ý
thức hệ nhưng vẫn chưa muốn chữa lành vết thương'.
Nhìn Những Mùa Thu Đi ... Mùa thu 1963 ... YBN còn
nhớ không, tụi mình kẹt trong Nha Cảnh Sát Trung Nguyên Trung Phần, nhờ HPNT
mà YBN có bản nhạc đó để ê a âm ư mơ màng. Sướng hí?
Trịnh công Sơn, Vĩnh Kha, Phan đình Bính, Trần triệu
Luật, Trần quang Long, Ngô Kha ... Bây giờ thì tụi nó gặp nhau gặp lại nhau
rồi đó phải không? Tha hồ mà hàn huyên, rong chơi. Khoái quá hí?
Chuyến nầy về nhà, YBN nhớ thay mặt anh chị em đến
thăm mộ thắp cho Trịnh công Sơn nén hương và bảo nó rằng tụi mình cám ơn nó
là cả đời nó, cả công trình âm nhạc của nó đã giúp cho anh em mình tin rằng
có bầm dập te tua đến mấy thì dân tộc mình vẫn dư sức sản xuất những thiên
tài. Xin YBN nói cho nó biết rằng Trịnh công Sơn không chỉ là nhịp đập con
tim của phong trào thanh niên trên đường vận động hòa bình, độc lập và an
lạc cho đồng bào đồng loại phát khởi từ những năm 1960 mà thôi. Trịnh công
Sơn là Nguyễn Du của thế kỷ 20. Nhớ nói với Trịnh công Sơn vậy, nghe YBN.
Ê mình ê mẩy bữa ni đã bớt chưa? Thăm YBN thường an
lạc.
Phong Trang 2.4.2001.
Nhiều @ thầm lặng trao qua gửi về giữa anh chị em chúng
tôi. YBN hứa viết, Cao huy Thuần bảo đang viết, Nguyễn văn Hóa hứa viết.
Nhưng Nguyễn xuân Thu là người viết đầu tiên, những lời chân chất quân tử
Tàu ngất ngơ của người anh em thân thiết này:
@ Nguyễn Xuân Thu:
G. ơi,
Từ hôm qua nghe tin Trịnh công Sơn đã không còn nữa
mình buồn rũ rượi. Bạn bè dần dần kẻ trước người sau rồi sẽ đi hết. Mình
thường nghĩ, nếu trước lúc nằm xuống mà có vài giờ suy nghĩ, thì mình sẽ
nghe nhạc Trịnh công Sơn và nghe một số bài kinh. Mình rất thích nghe giọng
tụng kinh của Thầy Thích Đôn Hậu. Trịnh công Sơn là một thiên tài, một người
vượt lên trên tất cả. Mình không bao giờ quên tâm sự của anh qua bài Viết
Trên Dòng Sông Loire cách đây trên mười năm khi Trịnh công Sơn đi Pháp thăm
lần đầu tiên sau năm 1975. Trái tim của Trịnh công Sơn lớn quá, vĩ đại quá.
Anh nằm xuống là một mất mát lớn cho Việt Nam. Mình chưa bao giờ được may
mắn là bạn của Trịnh công Sơn. Đêm nay mình sẽ nghe lại nhạc của anh.
Thăm Lệ Hằng. Mong gặp lại một ngày rất gần đây.
Thân
NXT.3.4.2001.
@ của NVH viết:
Anh G. ơi,
Tối nay Chủ Nhật, ngày mồng Một tháng Tư Tây lịch,
cứ thao thức hoài không ngủ được. Tin Trịnh công Sơn vô nằm nhà thương trong
cơn hấp hối trước đó hai hôm tôi đã đọc trên Internet, nên không thảng thốt
lắm khi nghe tin anh ra đi. Nghe bệnh tình của anh thì cứ nhớ hoài lời của
CHT trong cuốn băng chủ đề Trịnh Công Sơn do Thanh Hải hát ở Paris mấy năm
trước cứ vang vọng trong người: 'Sơn ơi, mày uống rượu nhiều quá, mày quên
tau mất rồi.' Và như thế, cái thân xác phù du của kiếp người đến lúc nào đó
cũng sẽ tan loãng với đất trời.
Hơn hai mươi năm Trịnh công Sơn bầm dập, tơi tả với
quê hương, hai mươi năm đưa hồn, đưa xác, đưa tâm ra mà chống đỡ những 'đòn
thù' cho quê hương đã được đền bù trở lại bằng hơn hai mươi năm sau 'khi đất
nước tôi không còn chiến tranh, mẹ già lên núi tìm xương con mình'. Mẹ già
Việt Nam đã toại nguyện và mẹ đã ra đi trong nụ cười khô lệ để nhìn 'trẻ con
đi hát đồng dao ngoài đường'. Các em cũng đã toại nguyện, bởi lần đầu trong
một trăm năm các em đã được ngẩng cao với trời đất để ca vang bài ca thống
nhất sơn hà. AnhTrịnh công Sơn đã ra đi và trở về như một Kinh Kha thời đại
đã giữ được lời thề với non sông và với cái âm hùng tráng của mình. Cho nên:
'Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi, đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt, trên
hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt, rọi suốt trăm năm một cõi đi về.' Và thế là
anh đã đi và về cùng một chỗ: chỗ quê hương! Tôi xin mượn lại lời của Tuệ
Sĩ, và cùng với các anh chị thắp một nén hương cho anh Trịnh công Sơn, một
người tôi chưa từng gặp mặt:
Không phiền trược cầu mong chi giải thoát
'Cứ vui chơi' nơi cõi Niết Bàn.
Anh G. anh đã làm tôi giật mình nhưng không ngạc
nhiên khi thấy anh ví Trịnh công Sơn như một Nguyễn Du thời đại. Phải rồi,
đấy là ý tưởng đầu tiên và có thể là duy nhất đã đặt cho đứa con Việt Nam
tài hoa, yêu quê hương tha thiết này một vị trí minh bạch nhất của một lời
ca tụng. Thân chúc an lạc. NVH.
Có những người không chịu trao đổi gì, và chỉ tự nguyện
yên lặng mang hoa cho thiên hạ phúng viếng Trịnh công Sơn. Trần Tiễn Tiến là
một. Trần Tiễn Tiến trở thành tạm truyền tin, cần cù chuyển cho anh chị em
hàng chục hàng trăm tin tức nóng hổi từ khắp nơi trên thế giới. Những tin
tức cho thấy cái chết của Trịnh công Sơn đã trở thành một biến cố, cũng lớn
lao như chính cuộc đời và tác phẩm của Sơn. Một trong những @ phúc đáp và
cám ơn Trần Tiễn Tiến có ghi:
T. ơi,
Đã nhận được các @ về Trịnh công Sơn T. ân cần gửi
cho anh. Thế cũng đủ thấy T. thương tiếc Trịnh công Sơn như thế nào. Trong
các @ đó, có bài đọc được, có bài không. Mấy bài của K. chẳng hạn. K chỉ
mượn hoa cúng Phật, dùng Trịnh công Sơn như phấn son tô điểm cho mình mà
thôi phải không T.? K. chỉ dám nhận Trịnh công Sơn như một người thân nhưng
chưa bao giờ dám công khai nói đồng ý với những tư tưởng của Trịnh công Sơn
về dân tộc, về chiến tranh, hoà bình phải không T.?
T. có thì giờ đọc nhiều, liên lạc nhiều, anh mong T.
để ý xem những ý kiến hay bài viết nào về Trịnh công Sơn đặt những vấn đề
như:
1. Vinh danh Trịnh công Sơn như một
thiên tài yêu nước, vượt trên mọi xung khắc chính trị.
2. Lập đài kỷ niệm Trịnh công Sơn ở
nơi nào đó trên quê hương.
3. Làm một công trình gì đó để tưởng
nhớ Trịnh công Sơn.
4. Vận động đặt tên đường Trịnh công
Sơn ở Huế và TP Hồ Chí Minh ...
5. Thực hiện một tuyển tập tưởng
niệm Trịnh công Sơn của những người bạn, những người chấp nhận tư tưởng và
lòng yêu nước, yêu hòa bình của Trịnh công Sơn.
Có những ý kiến như vậy thì ghi nhận, phổ biến, tham
khảo, trao đổi... anh nghĩ là hay hơn nữa đó, phải không T.? Nếu được T. hỏi
những người quen xem họ nghĩ sao về những điểm đó. Thăm T. thường an lạc,
tinh tấn.
Anh. 5.4.2001.
Đó là những nén hương đầu tiên anh chị em chúng tôi âm
nguyện cắm lên mộ Trịnh công Sơn.
Chúng tôi xin phép Thầy Thích Phước Ân Giám Viện chùa
Phước Huệ tổ chức kỵ 49 ngày cho Trịnh công Sơn. Ông Thầy này nhìn xa thấy
rộng mà cũng chịu chơi nữa mới cho chúng tôi phép đó. Bởi không ai cấm được
những kẻ ở trong cũng như ngoài chùa chỉ nhìn thấy cái chót mũi của mình nên
vẫn không ưa Trịnh công Sơn vì lý do này hay lý do khác. Cặp Vọng-Tuyền được
giao cho công việc nặng nhọc này. Cái khó là tìm cho được những người tự
nguyện hát cho Trịnh công Sơn chứ không phải cho chính mình hay cho khán
giả. Vọng-Tuyền đã làm được chuyện khó khăn đó.
Buổi lễ đông đảo nhưng âm thầm lần đầu tiên một số ca
nhạc sĩ Sydney đã thực sự cất tiếng hát với lời thì thầm từ đáy lòng: 'Anh
Sơn ơi, tôi thương tiếc quý trọng anh vì lời ca tiếng nhạc này đây... '
Những tiếng hát chân thật, xuất thần dành cho Sơn nghe, như lời ru một người
vừa nằm xuống vĩnh viễn, như lời an ủi vỗ về người sống đang xót xa vì mất
Sơn.
Nói là khóc Sơn nhưng có lẽ là để khóc cho những người
đang ở lại là chúng tôi nhiều hơn. Sơn nó đâu cần những giọt nước mắt này
khi Sơn đã biết hai năm rõ mười sống chết chỉ là 'hạt bụi hóa kiếp thành ...
cát bụi'.
Từ đó đến nay, một vài nguyện ước của chúng tôi đã được
hình thành. Còn quá nhỏ nhoi so với tấc lòng tiếc thương của chúng tôi đối
với Trịnh công Sơn, một hiện thân rất Việt Nam của ước vọng hòa bình cho
Việt Nam.
Trong khi kẻ chiến bại loay hoay gậm nhấm tiếc hận, kẻ
chiến thắng say sưa độc quyền vinh quang thì Trịnh công Sơn đã đi qua cầu
tuyệt vọng để tìm lại chính mình, để tìm lại yêu thương bình thường. Tiếng
súng im, máu xương thôi đổ rồi, Sơn mới tìm được từ tâm hỉ xả đó chứ khi đất
nước đang còn chìm trong khói lửa thì hình như không. Từ tâm của Sơn dấy
động, Sơn tìm được sức mạnh để tha thứ cho đời khi Sơn thực sự cheo leo bên
bờ vực thẳm của tuyệt vọng. Đã hẳn là tuyệt vọng với đời. Thực ra thì những
kẻ chiến đấu hăng say, kẻ chết ngoài mặt trận thực sự là kẻ yêu hòa bình và
chia sẻ những tâm tư của Trịnh công Sơn, chia sẻ niềm tuyệt vọng đầy hi vọng
của Trịnh công Sơn. Chiến tranh khủng khiếp, nhưng chưa phải là tuyệt vọng,
bởi người ta vẫn còn hi vọng chiến tranh chấm dứt, vẫn còn mong hòa bình sẽ
chấm dứt khổ đau. Nhưng hòa bình rồi mà còn những nỗi khổ đã gây ra chiến
tranh thì đúng là hết thuốc chữa! Nỗi niềm tuyệt vọng của Sơn là tuyệt vọng
hậu chiến, nỗi tuyệt vọng nẩy sinh từ chiến thắng như những chùm gai nhọn
trái cựa. Nhưng đụng đáy rồi thì chỉ còn nước hoặc chìm lỉm hoặc trồi lên.
Trịnh công Sơn đã trồi lên, với từ tâm bao la vô lượng: 'những ngày tuyệt
vọng cùng cực, tôi và cuộc đời đã tha thứ cho nhau ... '
Trịnh công Sơn là hiện thân thơ ca của phong trào đấu
tranh của thanh niên sinh viên học sinh Huế bùng nổ từ Mùa Hạ 1963. Phong
trào đó đã đẻ ra Trịnh công Sơn và Trịnh công Sơn đã nuôi dưỡng phong trào
đó cho đến ngày nằm xuống.
Năm 1964, chiến cuộc thực sự leo thang và phong trào
phản chiến của thanh niên sinh viên học sinh thành thị cũng leo thang theo
kể từ đó với biểu tình, bãi khóa, hội thảo, đêm không ngủ... Phong trào này
đã sản xuất cả ngàn bài thơ, bài văn. Nhưng ca nhạc thì chỉ có một. Trịnh
công Sơn!
Trịnh công Sơn đã lặp lại quyết tâm chân thật của Phùng
Quán:
Yêu ai cứ bảo rằng yêu
Ghét ai cứ bảo rằng ghét
để trở thành người đầu tiên ghi lại mối hận chiến
tranh và ước vọng hòa bình của người Việt qua bài Ca Dao Mẹ:
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ để lại cho con
Gia tài của mẹ là nước Việt buồn
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ một rừng xương khô
Gia tài của mẹ một núi đầy mồ
Dạy cho con tiếng nói thật thà
Mẹ mong con chớ quên màu da nước Việt xưa
Mẹ trông con mau bước về nhà
Mẹ trông con, lũ con đường xa
Ôi lũ con cùng cha quên hận thù
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ ruộng đồng khô khan
Gia tài của mẹ nhà cháy từng hàng
Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu
Một trăm năm đô hộ giặc Tây
Hai mươi năm nội chiến từng ngày
Gia tài của mẹ một bọn lai căng
Gia tài của mẹ một lũ bội tình
Dạy cho con tiếng nói thật thà
Mẹ mong con chớ quên màu da nước Việt xưa
Mẹ trông con mau bước về nhà
Mẹ trông con, lũ con đường xa
Ôi lũ con cùng cha quên hận thù
Mấy cụm từ 'gia tài của mẹ', 'một ngàn năm nô lệ', 'một
trăm năm đô hộ' đã được lặp đi lặp lại như những tiếng búa oán than nện vào
đầu những người lầm lạc. Ý thức phản chiến của Trịnh công Sơn thật đơn sơ,
đó là người Việt không thể làm theo ngoại nhân để hận thù hành hạ chém giết
người Việt. Hai bên đương chiến người Việt đều có phần lỗi trong khi dùng lý
thuyết và súng đạn ngoại nhập để tìm hòa bình bằng chiến tranh, tìm chiến
thắng bằng máu xương của đồng bào anh em. Sơn nặng lời gọi họ là 'lai căng',
'bội tình'. Đây là lần đầu tiên - và có lẽ là lần duy nhất, Sơn nổi tam bành
lục tặc trên dòng thơ nhạc.
Trong mùa điếu tụng khi Trịnh công Sơn vừa nằm xuống,
cả hai phe cựu thù đã nhắc đến gần hết 500 bản nhạc của Trịnh công Sơn để ca
ngợi hay đàm tiếu Trịnh công Sơn. Trừ bài Ca Dao Mẹ là không phe nào nhắc
đến. Phải chăng vì bản nhạc đã làm cho người ta cảm thấy thẹn thùng hối hận?
Chắc Trịnh công Sơn cũng ước mong sự thống tâm đó là vật xúc tác cho một
tiến trình anh em tìm lại nhau trong'vòng tay lớn' như Sơn hằng ước mơ.
Sơn lìa đời trong niềm ước mơ dang dở, trong ý thức
rằng hòa hợp hòa giải dân tộc cho đến nay vẫn còn là con đường dài gập ghềnh
như Sơn nói: 'chúng ta đã đấu tranh. Đang đấu tranh. Và có thể còn đấu tranh
lâu dài... Chỉ còn lại niềm tin sau cùng! Niềm tin vào tuyệt vọng, vào chính
mình và tình người. Một tình người đã được giải hoặc, được gạn lọc đi những
trang triết lý, những luận điệu phỉnh phờ chỉ biết rao bán đủ loại đói kém,
chết chóc, thù hận nô lệ, vong thân...' Đó là những lời Sơn viết tháng
11.1992, mười bảy năm sau ngày Sơn lên đài phát thanh Sài Gòn hát bài Nối
Vòng Tay Lớn.
Niềm tin sau cùng?! Tuyệt vọng, tự thân và tình người,
phải chăng đó là ba vế niềm tin của Trịnh công Sơn? Như Khổ đế, Giác ngộ và
Từ bi của người Phật tử?
Đứa trẻ trong nôi nhớ tiếng hát của mẹ hơn lời nói của
cha bởi vì con người nguyên sơ thoát đi từ kiếp cầm thú đã hát trước khi
nói. Trịnh công Sơn đã xóa được lằn ranh giữa nói và hét, hét và hò, hò và
ngâm, ngâm và hát... Cất tiếng lên chỉ còn là lời ca. Tâm thức uyên nguyên
của nhân loại là nhạc. Trịnh công Sơn đã đem cái tâm thức uyên nguyên đó để
thở than và vỗ về nỗi đau của đồng bào, và khổ đế của phận người chao đảo
theo những nghiệt ngã của lịch sử. Nhạc và lời của Trịnh công Sơn rất thật,
thật đến độ siêu thực. Đó là thiên tài của Trịnh công Sơn. Trịnh công Sơn là
của tất cả và chẳng là của ai cả.
Khối tác phẩm đồ sộ của Trịnh công Sơn, tình yêu thương
mà Việt Nam và thế giới dành cho Trịnh công Sơn, cái đám tang lớn nhất Miền
Nam, - không hơn thì cũng bằng đám táng Phan bội Châu, Trần văn Ơn, Quảng
Đức, Nhất Linh... Cái mức độ nhớ, thuộc và thích của quần chúng dành cho
nhạc Trịnh công Sơn... Một trăm năm chưa dễ có một thiên tài nghệ thuật.
Trịnh công Sơn là một. Trịnh công Sơn là thiên tài ca nhạc của Việt Nam thế
kỷ 20. Nguyễn trọng Tạo - người đồng bào bên kia vỹ tuyến đã biết đến Trịnh
công Sơn từ những ngày đất nước còn chia đôi trong máu lửa và nước mắt, gọi
Trịnh công Sơn là 'tài danh Việt Nam thế kỷ 20'. Bởi vì theo Nguyễn trọng
Tạo...
Về lượng, Trịnh công Sơn là người được hát nhiều nhất,
có kỷ lục dĩa, băng trong ngoài nước, suốt hơn 40 năm qua. Và 'tên những bài
hát của anh biến thành những tên quán của yêu thương và hâm mộ: Biển Nhớ, Hạ
Trắng, Diễm Xưa, Mưa Hồng, Nguyệt Ca, Ru Tình, Ướt Mi, Tình Nhớ, Quỳnh
Hương, Nối Vòng Tay Lớn, v.v... Còn tên anh thì được ghi trong bộ từ điển
Bách Khoa Pháp: Encyclopédie de Tous les Pays du Monde. Tên tuổi Trịnh công
Sơn luôn hiện diện trên những trang báo hút hồn bạn đọc. Âm nhạc của anh
vang lên từ các tụ điểm ca nhạc, trên sân khấu lớn, trong quán hàng, trên xe
ôtô, len lỏi vào tận giường ngủ của mỗi nhà, dầm dề như mưa Huế quê anh, bất
tận như điệu thơ lục bát không bao giờ chấm dứt.
Về phẩm, Trịnh công Sơn là một cuộc đời hóa thân vào
nghệ thuật xưng tụng thân phận và tình yêu của mọi kiếp người... len lỏi vào
tận tâm hồn sâu thẳm của người Việt, đánh thức tình yêu quê hương xứ sở. Và
Nguyễn trọng Tạo đã nói tiếp tại sao Sơn là tài danh Việt Nam thế kỷ 20: Nếu
đem in 500 bài hát của anh, ta sẽ có một tập Thơ Trịnh công Sơn dày ngót
nghìn trang.Và ta không ngạc nhiên rằng khi được nhờ chọn một số bài thơ
tình hay nhất thế kỷ, nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến đã tâm đắc tiến
cử lời ca Đêm Thấy Ta là Thác Đổ của Trịnh công Sơn. (Nguyễn trọng Tạo -
Trịnh công Sơn người tình vĩnh cửu - Trịnh công Sơn Một Người Thơ Ca Một Cõi
Đi Về, nxb Âm Nhạc, TTVH Ngôn Ngữ Đông Tây, Hà Nội 2001).
Trịnh công Sơn là Nguyễn Du thế kỷ 20. Nhưng khác với
Nguyễn Du là Sơn đã không hề băn khoăn chuyện 300 năm sau còn ai nhớ để nhỏ
cho mình giọt lệ? Sơn không băn khoăn mà cũng không sợ phải chăng vì còn ca
nhạc Việt Nam là còn Trịnh công Sơn, cũng như còn thi văn Việt Nam, còn ngôn
ngữ Việt Nam, là còn Nguyễn Du?
Cũng có thể Trịnh công Sơn không màng đến giọt lệ của
người đời sau bởi vì nhạc của Trịnh công Sơn chỉ toàn là nước mắt. Mấy trăm
bản nhạc của Trịnh công Sơn có bản nào vui đây? Hình như là không. Những bản
tưởng như vui nhất cũng thoáng những nét sầu. Như trong cõi đời này, không
một loài hoa màu xanh nào mà không phả chút tím buồn man mác!
Có người trách Trịnh công Sơn là 'không có chính trị,
là lẩn thẩn vẩn vơ thế nào ấy'. Thực sự, chính trị của Sơn là đứng trên cả
hai phe đối chiến. Sơn khổ đau đòi đoạn khi nhìn vào trong và thẹn thùng xấu
hổ khi nhìn ra ngoài. Nhưng Trịnh công Sơn chỉ hổ thẹn mà không cuồng nộ,
không lồng lộn giận dữ. Hay nói như Hồ thị Hải Âu 'Âm nhạc của Trịnh công
Sơn là kết hợp của những âm thanh đã siêu thoát, làm lay động nơi sáng láng
nhất của sự giác ngộ con người như tiếng kinh cầu'.
Nghĩ lại lời mắng mỏ của Trịnh công Sơn:
Gia tài của mẹ một bọn lai căng
Gia tài của mẹ một lũ bội tình
rồi đọc mấy lời phúng điếu của những nhân viên Bộ
Chính Trị như Nguyễn Minh Triết, Mai Chí Thọ, Hữu Thọ, Nguyễn Khoa Điềm xưng
tụng Trịnh công Sơn là ... 'một nhạc sĩ, một nghệ sĩ lớn tài ba, độc đáo...
nhà sư phạm về tình yêu bao la, rộng lớn đối với đất nước, đối với nhân
loại, đối với vạn vật... để lại mãi mãi cho đời những cống hiến cho đất
nước, cho đồng bào và bè bạn... Anh đã bỏ rơi chúng ta trước ngưỡng cửa thế
kỷ XXI ... ' và so sánh những lời ca ngợi đó với những băn hăn cay đắng lầm
bầm bùa chú của những người tự nhận là quốc gia chiến bại rằng Trịnh công
Sơn phản chiến thiên cộng, là đâm sau lưng chiến sĩ, là cộng sản, là việt
cộng, là cách mạng 30... Hoàng tôi không khỏi than thầm rằng: Tội nghiệp
những người anh em này thua những người anh em kia là phải!
Đối diện với những khổ đau mất mát phung phí của chiến
tranh, có những người quá giận hờn mà quên hổ thẹn. Hoàng tôi là một. Trịnh
công Sơn giận ít hơn thẹn, buồn nhiều hơn bực. Do đó mà Trịnh công Sơn khoan
dung hơn Hoàng tôi mỗi khi nghĩ về cuộc chiến, hát về chuyện nhân gian chưa từng độ lượng. Sơn phải cao cả lắm mới nghĩ được rằng 'Trên những
trang giấy tinh khôi chúng tôi không bao giờ còn thấy bóng dáng của những
đường kiếm mưu đồ, những vết dao khắc nghiệt... Sông vẫn chảy đời sông. Suối
vẫn trôi đời suối. Đời người cũng để sống và hãy thả trôi đi những tị hiềm'.
Đất nước cần những người biết khoan dung và hổ thẹn như
Trịnh công Sơn. Hoà bình dân tộc và nhân loại cần những người biết khoan
dung và hổ thẹn như Trịnh công Sơn. Đó là bài học Trịnh công Sơn đã dạy cho
Hoàng tôi.
Phong Trang tháng 8.2001.
[Phồn Hoa Kinh, tr.515-527, Văn Mới, Ca, 2003]
PS: Hoàng tôi biết dùng cụm từ ‘Nguyễn Du thế kỷ 20’ làm anh Duy buồn vì anh nghĩ cụm từ ấy phải dành cho anh mới phải. Nhưng anh Duy đâu biết rằng ý nghĩ của tôi đã lợn cợn vì bài Bến Xuân- Đàn Chim Việt cũng như thế đứng chính trị của anh trong suốt bao niêu năm qua mà tôi đã nhẹ nhàng trách anh bằng
những bài viết sau đây

Trang Thời Sự