Về cái gọi là “học thuật” của Ban Mai
trong nghiên cứu Trịnh Công Sơn
Nguyễn Hoàn
http://sachhiem.net/NGHOAN/NgHoan06.php
9 tháng 9, 2009
Sau bài viết
của tôi nhan đề Những sai lệch, thiếu sót trong cuốn sách “Trịnh
Công Sơn vết chân dã tràng” đăng trên báo chí và mạng internet, tác
giả cuốn sách này là Ban Mai đã im lặng (sách do NXB Lao Động, Trung tâm
Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008). Nghĩ rằng Ban Mai
chắc đã nhận ra sai lầm của mình, tôi chưa viết thêm nhiều điều lẽ ra
còn phải viết về bài “Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam”
của Ban Mai in trong cuốn sách này và đăng trên một số trang Web trong
nước và hải ngoại. Gần đây, Ban Mai đã “đánh tiếng”, dĩ nhiên không phải
bằng tranh luận trực tiếp mà bằng lối trả lời phỏng vấn trên mạng, qua
bài “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng-Tạp chí Da Màu phỏng vấn Ban
Mai” do Lê Đình Nhất Lang đặt câu hỏi, đăng trên Web:
http://damau.org.
Tôi không lạ gì chuyện “vẽ đường cho hươu chạy” đã xưa như trái đất này.
Nhưng mới đây, một số trang mạng, một vài tác giả đã tìm cách vào hùa
với Ban Mai, cố “bảo vệ” cho Ban Mai, tôi thấy cần viết tiếp để làm rõ
chuyện Ban Mai đã nhân danh “học thuật” nhằm lợi dụng, xuyên tạc vấn đề
“Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam” như thế nào.
Về
ý kiến cho rằng Ban Mai “sao chép” văn người khác
Trong bài “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng-Tạp chí Da Màu phỏng vấn Ban Mai”,
cả Lê Đình Nhất Lang và Ban Mai đều vội vàng, nhầm lẫn khi cho rằng tôi
đã đưa ra trên các báo một thông tin “nhạy cảm”: “Năm 2006, tác giả
Ban Mai (tức thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Thúy, Trường Đại học Quy Nhơn)
công bố trên một tạp chí của người Việt ở nước ngoài bài viết có nhan đề
Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn. Về
bài viết này, có tác giả từng chỉ rõ Ban Mai “đã sao chép nguyên văn
(hoặc gần như nguyên văn, chỉ sửa đổi một vài từ) nhiều đoạn văn dài”
của người khác, Sau đó Ban Mai biện hộ rằng “đã ghi chú sai sót trong
quá trình làm việc””. Thực tế,
thông tin này nằm trong phần lời dẫn của các báo khi đăng bài viết của
tôi. Giờ đây, tôi không muốn nhắc đến thông tin có tính scandal này của
Ban Mai nữa, vì chính Ban Mai đã từng tự bạch trên mạng hồi tháng 8-2006
rằng, Ban Mai cảm thấy “đau xót vô cùng”, “càng thấy xót xa
và buồn bã đến tận cùng” khi có người phê bình Ban Mai “sao chép”
văn người khác. Nhưng Lê Đình Nhất Lang và Ban Mai đã quy kết cho tôi,
Ban Mai còn cho rằng, tôi đã giới thiệu những sai sót của Ban Mai như
một “phát hiện” của tôi, tôi xin nói ngay với bạn đọc rằng, đấy chính là
phát hiện của ông Vũ Đông Ngọc chứ không phải của tôi. Tôi không hề làm
cái việc đáng chê trách là “sao chép” văn hay cướp công ông Vũ Đông Ngọc
bao giờ.
Ban Mai đã nhắc
lại chuyện cũ thì xin hãy nhắc cho minh bạch, tỏ tường. Sau khi đọc bài
viết “Thân phận con người và tình yêu trong ca từ Trịnh Công Sơn”
của Ban Mai đăng trên báo Văn Học, số 232, tháng 7 và 8-2006 tại Mỹ
(theo Ban Mai, bài viết này tổng hợp từ luận văn thạc sĩ có cùng tựa đề
của Ban Mai và luận văn này đã được chuyển lên thành sách “Trịnh
Công Sơn vết chân dã tràng”), ông Vũ Đông Ngọc đã viết bài phê bình
đăng trên mạng nhan đề “Nghiên cứu về Trịnh Công Sơn-Một luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ tại Việt Nam với số điểm tối đa có vấn đề” (xem
bài đăng lại trên các trang:
http://lethieunhon.com/read.php/2257.htm,
http://tranquanghai. info/index.php?p=213).
Qua bài này, một bài viết mà ông Vũ Đông Ngọc bộc bạch là đã được ông
viết với cảm giác “buồn bã và xót xa”, ông Ngọc khẳng định luận
văn Ban Mai đã sao chép văn người khác, nhân đó, ông đề cập đến vấn đề
đạo đức và kỹ thuật trong thao tác khoa học của người làm nghiên cứu.
Sau khi đọc bài của ông Vũ Đông Ngọc, Ban Mai đã tiếp thu và thừa nhận:
“Cám ơn ông rất nhiều khi có những lời lẽ đúng mực khi phê bình, và
đem tôi làm minh chứng cho trường hợp về đạo đức trong nghiên cứu khoa
học”, “Những điều ông Vũ Đông Ngọc chỉ ra phần nào là chính xác
và đúng như vậy, tôi đã ghi chú sai sót trong quá trình làm việc. Trong
quá trình sắp xếp ý tưởng của mình để kết nối với các nguồn dẫn liệu
theo một bố cục nhất định, có lúc tôi đã sơ suất chưa ghi hiệu đính”.
Ban Mai cũng đã nhận lỗi thay cho thầy hướng dẫn: “Riêng phần sai
sót khi hiệu đính tư liệu tham khảo tôi chịu hoàn toàn trách nhiệm không
liên quan đến người hướng dẫn”.
Trên đây,
tôi đã nêu lại phát hiện của ông Vũ Đông Ngọc về luận văn của Ban Mai
để Ban Mai rõ đấy không phải là “phát hiện” của tôi. Còn đây mới là
“phát hiện” (chữ Ban Mai đã dùng) của tôi mà không thấy Ban Mai nhắc
đến.
Trong bài viết “Những
sai lệch, thiếu sót trong cuốn sách “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng”,
tôi đã nêu ra một đoạn văn trong cuốn sách của Ban Mai sao chép văn Võ
Phiến. Trong cuốn sách “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” (TCSVCDT), ở trang 56, có một đoạn, Ban Mai trích dẫn Võ Phiến và có chú
thích, nhưng với một đoạn văn khác ở cùng trang, Ban Mai đã sao chép văn
Võ Phiến trong “Tổng quan Văn học Miền Nam” đăng trên:
http://www.tienve.org,
vì sao chép nên “khỏi phải chú thích”: ““Những đứa xăm mình”, những
con người ấy cũng một dòng máu như ta thôi. Trong lúc người lính Cộng
hòa đã nhận ra cuộc chiến này “cũng chỉ một trò chơi” thì...phần đông
“Kẻ thù ta ơi” đều “điên say chiến đấu”, đều tin chắc vào chính nghĩa
của cuộc chiến, đều hô hào cổ võ một cách trịnh trọng”.
Cần
nói thêm rằng, trong cuốn sách Trịnh Công Sơn Vết Chân Dã Tràng (TCSVCDT) của Ban Mai, có nhiều
đoạn trích dẫn từ nhiều nguồn nhưng không thấy ghi dấu mở ngoặc kép và
đóng kép, khiến người đọc không phân biệt được chỗ nào là văn Ban Mai,
chỗ nào là văn trích dẫn. Cả Ban Mai khi hiệu đính, ông Đoàn Tử Huyến
(người biên tập cuốn sách của Ban Mai) khi biên tập đã bỏ qua khâu sơ
đẳng này. Vậy mà các ông Đoàn Tử Huyến, Vũ Ngọc Tiến vẫn cố mượn uy các
giáo sư đã chấm luận văn của Ban Mai để “bảo vệ” cho lối “làm khoa học”
kiểu Ban Mai. Đoàn Tử Huyến cho rằng: “Luận văn của chị đã được bảo
vệ trước cả một hội đồng chuyên ngành, gồm nhiều giáo sư, tiến sĩ có uy
tín chuyên môn, vững vàng chính trị” (xem bài Đoàn Tử Huyến trả lời
phỏng vấn của Vietnamnet, nhan đề “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng:
cần đúng luật” đăng trên Vietnamnet ngày 18-8-2009). Vũ Ngọc Tiến
qua bài “Bàn về cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của
Ban Mai” đăng trên: http://www.vanchuongviet.org
cũng viết tương tự rằng luận văn của Ban Mai đã “được Hội đồng các
GS, PGS thẩm định kỹ càng”. Các ông Đoàn Tử Huyến, Vũ Ngọc Tiến cần
gì phải “đánh bóng” cho những cái sai của Ban Mai mà chính Ban Mai đã
nhận lỗi trước ông Vũ Đông Ngọc và bạn đọc từ lâu.
Đã vậy, ông Vũ
Ngọc Tiến lại còn “đi xa hơn” khi quả quyết về một “phát hiện” của Ban
Mai trong cuốn sách TCSVCDT: “Trước Ban Mai, chưa ai tổng hợp ca từ
Trịnh Công Sơn theo các thể loại thơ: 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 7 chữ, 8 chữ,
lục bát và thơ tự do, ca dao, tục ngữ (trang 107- 110)”. Xin mời
ông Vũ Ngọc Tiến đọc bài “Có một nhà thơ tên là Trịnh Công Sơn” của Nguyễn Trọng Tạo (in trong cuốn
“Một cõi Trịnh Công Sơn”,
NXB Thuận Hóa, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2002) viết vào dịp
giỗ đầu Trịnh Công Sơn năm 2002, để thấy trước Ban Mai rất lâu, Nguyễn
Trọng Tạo đã khẳng định Trịnh Công Sơn là một nhà thơ đích thực, sử dụng
nhuần nhuyễn nhiều thể thơ truyền thống và thơ tự do, đặc biệt là sử
dụng tài tình nhiều thể thơ trong một bài thơ.
Về cái
gọi là “học thuật” và về sự xuyên tạc lịch sử
Trong bài trả
lời phỏng vấn của Lê Đình Nhất Lang trên Da Màu, Ban Mai đã nhân danh
cái gọi là “học thuật” để biện hộ cho những cái sai của mình.
Nói về cách
hiểu tác phẩm, Ban Mai nhắc lại điều đã quá quen thuộc của lý thuyết
tiếp nhận văn học: “Trong cùng một tác phẩm nghệ thuật sẽ có nhiều
cách hiểu khác nhau, tùy theo trình độ tiếp nhận tác phẩm của người đọc”.
Nhưng hiểu theo cách gì đi nữa cũng phải trên cơ sở bám vào văn bản tác
phẩm, không được xuyên tạc hoặc gán ghép cho tác phẩm những nội dung xa
lạ mà nó không có. Chẳng hạn, không thể chỉ chuyên chú vào có mỗi từ “nội chiến” trong ca khúc
“Gia tài của mẹ” của Trịnh Công
Sơn để vội cho rằng người nhạc sĩ này coi cuộc chiến tranh Việt Nam
1954-1975 là “nội chiến” như cách của Ban Mai đã làm. Từ “nội chiến” này
được Trịnh Công Sơn viết ra bằng “ngôn ngữ hợp pháp” lúc đó, ngoài nghĩa
hiển ngôn mà ai cũng hiểu nhưng dễ bị xuyên tạc, điều quan trọng là còn
có nghĩa ẩn ngôn của nó nhằm đánh thức, lay động tình tự dân tộc, lương
tri dân tộc trong lòng những người cầm súng cho ngoại bang xâm lược.
Nhạc ngữ phản chiến của Trịnh Công Sơn được viết ra một cách công khai,
“hợp pháp” nên phải dùng nhiều ẩn ngôn, “mật ngữ” mà không dễ gì được
hiểu đúng nếu không đặt chúng trong hệ thống liên văn bản của tất cả các
ca khúc phản chiến của Trịnh Công Sơn.
Với phương
pháp nghiên cứu liên văn bản, nếu đặt từ “nội chiến” bên cạnh những từ
ngữ khác như: “nô lệ da vàng”, “người cúi xin”, “lưu vong”,
“tôi đòi”, “lao tù”…sẽ thấy Trịnh
Công Sơn đã bóc gỡ lớp vỏ ngôn từ “nội chiến” nhờ vào những từ ngữ khác
đầy bi phẫn để nhấn mạnh yếu tố ngoại bang xâm lược trong chiến tranh
Việt Nam. Vượt qua ý niệm “nội chiến”, nhạc Trịnh đã thể hiện đầy thống
thiết khát vọng hàn gắn vết thương chia cắt đất nước ở sông Bến Hải,
Quảng Trị, băng bó thịt xương của hai miền đất nước bị tàn sát bởi đạn
bom của ngoại bang xâm lược:
“Người
nô lệ da vàng
Bước
đi đi về biển xanh
Đi
khâu vá con sông
Việt
Nam hai mươi năm liền
Thịt
xương phơi trên đôi miền”
(Đi
tìm quê hương)
Vượt qua
ý niệm “nội chiến”, nhạc Trịnh đã hát lên niềm tin, khát vọng vượt thoát
thảm cảnh “nô lệ” ngoại bang xâm lược của những người dân Việt bằng
quyết tâm “chống cướp đất”, “quyết lòng giữ nước”, “chờ diệt mối thù chung”:
“Dù
trăm năm dài ngày đêm dân ta cứ quyết chiến đấu mãi
Đánh
trăm quân thù
Mặt
đất âm u đang dọn ngày về trong câu thề máu xương
…Ta
nối nối tay cất tiếng cười thách đố ai cướp đất này”
(Chưa
mòn giấc mơ)
“Dân
ta thề quyết lòng giữ nước”
(Đừng
mong ai, đừng nghi ngại)
“Bắc
Nam hai miền những đứa con ngang tàng
Sao
không chờ diệt mối thù chung”
(Tuổi
trẻ Việt Nam)
Do không bám
chắc vào toàn bộ ca từ nhạc Trịnh, do chỉ xuất phát và tập trung khai
thác xoay quanh ca từ “nội chiến”, thiếu đi một cái nhìn liên
văn bản, Ban Mai đã phân tích phiến diện, sai lệch ý nghĩa nhạc phản
chiến của Trịnh Công Sơn, không thấy hết giá trị đóng góp của dòng nhạc
này cho khát vọng hòa bình, thống nhất của dân tộc.
Đã không bám
chắc vào văn bản, Ban Mai lại đi “cảnh tỉnh” về nguy cơ “thoát ly văn
bản” trong nghiên cứu: “Ngôn ngữ nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nằm
trong văn bản, phải xét trong ngữ cảnh cụ thể, bước ra ngoài văn bản
ngôn ngữ nghệ thuật sẽ có ý nghĩa nội dung khác”. Khi nêu lên điều
này, Ban Mai đã tự mâu thuẫn với chính mình. Trong nghiên cứu văn bản
nghệ thuật, dĩ nhiên là phải bám chắc vào văn bản nhưng không được “cô
lập” văn bản như mẫu vật trong phòng thí nghiệm mà phải đặt văn bản
trong bối cảnh nó ra đời chẳng hạn để “soi tỏ” toàn vẹn những giá trị
của nó. Cách làm này, Ban Mai đã học được ở nhà nghiên cứu Bùi Vĩnh
Phúc, ngay trong “Lời mở đầu” của cuốn sách TCSVCDT, Ban Mai đã
dẫn: “Mặc dù coi những ca từ của Trịnh Công Sơn là những văn bản
chính để khảo sát, nghiên cứu, chúng tôi còn muốn dựa vào một thứ “siêu
văn bản” khác. Đó là hoàn cảnh xã hội, không khí thời đại, bầu khí quyển
triết học, chính trị trong đó những ca từ của ông ra đời, và sự giáo dục
cá nhân của chính con người nghệ sĩ. Tất cả những điều ấy cũng là những
loại “văn bản khác”, qua đó, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần vào việc giúp
nhìn rõ hơn chân dung tác giả, cũng như phát hiện phần chìm của tảng
băng trong ngôn ngữ Trịnh Công Sơn” (1). Sao điều hay ho này, Ban
Mai đã học được ở người khác mà vội “quên” nhanh vậy?
Cuối cùng, để
né tránh hiện thực lịch sử, né tránh sự thật về chiến tranh Việt Nam mà
Ban Mai đã tìm cách xuyên tạc, Ban Mai “phát kiến” ra thứ “học thuật”
tách lịch sử, tách chiến tranh ra khỏi đề tài của văn học nghệ thuật.
Đưa ra những lập luận kỳ quặc sau đây, Ban Mai cho đó là những “kiến
thức cơ bản về lý luận văn học” cần lưu ý: “Đối tượng của chính
trị là lịch sử, đối tượng của văn chương là tác phẩm”, “Trong
lãnh vực văn học nghệ thuật, chiến tranh chỉ là một thi pháp (poetics).
Là thi pháp, tức là nghệ thuật. Một sự thể hiện, chứ không phải là hiện
thực. Một cuộc chiến tranh có thể mang tính chính nghĩa hay phi nghĩa;
nhưng một tác phẩm viết về chiến tranh thì chỉ có
vấn đề hay hoặc dở mà thôi. Trong các tác phẩm xuất sắc
viết về chiến tranh, chúng ta dễ dàng nhận thấy tác phẩm Chiến tranh và
Hòa bình của Leo Tolstoy không phải là tác phẩm thể hiện hiện thực lịch
sử đúng nhất mà là tác phẩm viết hay nhất về cuộc chiến tranh Nga-Pháp”.
Thực ra, lịch
sử đâu phải chỉ là đối tượng của chính trị, lịch sử và hiện thực cuộc
sống nói chung còn là đối tượng của văn học nghệ thuật. Tách hiện thực
chiến tranh ra khỏi đối tượng phản ánh, khám phá của văn học nghệ thuật,
để từ đó cho rằng, trong văn học nghệ thuật, “chiến tranh chỉ là một
thi pháp” là một sự nhầm lẫn ghê gớm về học thuật. Theo các nhà
nghiên cứu, thi pháp là tổ hợp những đặc tính thẩm mỹ nghệ thuật, phong
cách của một hiện tượng văn học, các thành tố nghệ thuật và mối quan hệ
giữa chúng. Hiểu theo nghĩa rộng, thi pháp bao gồm cả những vấn đề loại
hình, thể tài, những nguyên tắc, phương pháp phản ánh thực tại và các
phạm trù không gian, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, điểm nhìn
nghệ thuật, quan niệm nghệ thuật về con người…“Chiến tranh” là một trong
những đề tài của văn học nghệ thuật, còn “thi pháp” là cách viết. Viết
về chiến tranh bằng cách nào, bằng phương thức thể hiện nào, đấy mới
chính là thi pháp. Ở đây, Ban Mai đã lẫn lộn hoặc đánh tráo khái niệm
“chiến tranh” với “thi pháp”, “đề tài” với “cách viết”, nhằm “chạy trốn”
việc luận bàn về đề tài chiến tranh trong văn học nghệ thuật, với những
vấn đề đặt ra như chiến tranh chính nghĩa hay phi nghĩa, sự thể hiện
hiện thực lịch sử trong tác phẩm có đúng không…do Ban Mai đã “lỡ” viết
sai về đề tài chiến tranh trong nhạc Trịnh chăng?
Máy bay Mỹ rãi chất độc Da Cam |
Máy bay Mỹ thả bom Napalm |
Lính Mỹ tra tấn một bà già
|
Ai hợp tác với ngoại quốc, bịt mắt dân làng bắt đi bất kể con thơ tay bồng tay bế ? |
Một tác
phẩm hay viết về lịch sử, về chiến tranh, đặc biệt là hay vào cỡ kiệt
tác như tiểu thuyết trường thiên “Chiến tranh và hòa bình” của
đại văn hào Nga Lép Tônxtôi, trước tiên phải là tác phẩm “thể hiện
hiện thực lịch sử đúng nhất” đã, bởi trong văn học nghệ thuật,
không hề có cái Mỹ mà xa rời cái Chân, cái Thiện. Để miêu tả đúng lịch
sử, Tônxtôi đã sử dụng rất nhiều tài liệu, đã đi thăm chiến trường
Bôrôđinô và vẽ nên bản đồ ghi lại việc bố trí quân đội Nga và Pháp trước
và trong khi giao chiến. Theo phân tích của các nhà nghiên cứu, Tônxtôi
đã dùng nghệ thuật để khám phá sự thật lịch sử: “Tôi cố gắng viết
lịch sử của nhân dân” (2). Nếu Tônxtôi viết về chiến tranh, ở đây
là cuộc chiến tranh yêu nước của nhân dân Nga chống lại đội quân
Napôlêông xâm lược mà không cần quan tâm đó là cuộc chiến tranh chính
nghĩa hay phi nghĩa, Tônxtôi có thể đã mắc bệnh sùng bái mù quáng
Napôlêông như thói thường thanh niên châu Âu thế kỷ XIX đã mắc phải (xin
lỗi đại văn hào) chứ sao Tônxtôi lại đã miêu tả Napôlêông như con người
“nhỏ bé, vô nghĩa”, “tên đao phủ của các dân tộc”
được? Vậy ở đây, nên hiểu những điều mà Ban Mai nêu trên là “kiến
thức cơ bản về lý luận văn học” hay phải gọi đích xác đấy chính là
“những lỗ hổng tai hại về lý luận văn học”?
Nhân danh “học
thuật thuần túy”, Ban Mai cho rằng: “Nghiên cứu dưới góc nhìn chính
trị lấy lịch sử ra chứng minh là việc làm trái với học thuật”. Biện
hộ cho Ban Mai, ông Đoàn Tử Huyến (bài đã dẫn) cũng nói: “Trao đổi
về học thuật thì phải dùng học thuật để nói chuyện chứ không nên qui
chụp chính trị”. Sự thật, Ban Mai đâu có làm “học thuật thuần túy”.
Lợi dụng việc nghiên cứu về Trịnh Công Sơn, Ban Mai đã tìm cách xuyên
tạc lịch sử và phủ nhận ý nghĩa của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc
1954-1975. Điều này thể hiện rất rõ qua bài viết “Trịnh Công Sơn và
chiến tranh Việt Nam” của Ban Mai đăng trên Web của Hội Văn hóa
Trịnh Công Sơn ở Pháp:
http://www.tcs-home.org,
nhất là với những đoạn đã được lược đi khi làm sách TCSVCDT.
Trong bài này,
Ban Mai viết bừa rằng cả một thế hệ thanh niên nhận lãnh sứ mệnh yêu
nước là bi kịch, trong đó kể cả nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm với cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” được phát hiện, xuất bản ở trong nước và
nước ngoài những năm qua gây “chấn động” mạnh mẽ trong lòng đông đảo bạn
đọc: ““Kẻ thù ta ơi” là một thế hệ tươi sáng, họ là những học sinh,
sinh viên đầy nhiệt huyết, được đào tạo từ nhỏ về lòng yêu nước, yêu
nước ở đây đồng nghĩa với ý thức của chủ nghĩa cộng sản về nhiệm vụ và
sứ mệnh. Yêu nước ở đây đã gắn liền với một thể chế. Đây lại là một bi
kịch khác. “Nhiệm vụ của ta là phải đấu tranh cho lẽ phải. Mà đã đấu
tranh thì phải bỏ sức lực, phải suy nghĩ và phải hy sinh những quyền lợi
cá nhân, có khi là cả cuộc đời mình, cho lẽ phải chiến thắng (Nhật ký
Đặng Thùy Trâm)”. Ban Mai còn “cao giọng” phủ nhận sạch trơn ý
nghĩa của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, giải phóng dân tộc, coi đó
là “binh đao điên loạn”: “Tại sao từ một cuộc kháng chiến chống Pháp
ban đầu, vì lý tưởng chung của dân tộc - đánh đuổi ngoại xâm - lại đưa
đất nước vào con đường chia cắt, đẩy thành một cuộc chiến tranh ý thức
hệ cốt nhục tương tàn. Liệu có thứ triết thuyết hay chủ nghĩa cao cả nào
có thể biện minh cho những quyết định lịch sử - đẩy anh em cùng giống
Lạc Hồng lao vào cơn binh đao điên loạn này chăng? Vì lý tưởng hay vì
cuồng vọng lợi quyền? Lịch sử mai sau rồi sẽ phán xét”.
B-52 của Mỹ trải thảm bom |
Nhặt xác "thù" |
Thảm sát tại thôn Mỹ Lai, Quảng Ngãi 1968)
Viết đến đây,
tôi không thể không nhớ đến sự việc vừa qua, ngày 21-8-2009, trung uý
William L. Calley, người đã tham gia trực tiếp và chỉ huy lính Mỹ gây ra
vụ thảm sát kinh hoàng Mỹ Lai (làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng
Ngãi) hơn 40 năm trước, vụ thảm sát giết hại hơn 504 dân thường làm chấn
động lương tri nước Mỹ và nhân loại, nay Calley sau nhiều năm im lặng đã
phải nói lời “tự phán xét” muộn màng về tội ác của mình trước công
chúng: “Đó không phải là một ngày để dễ cho qua đi. Không ngày nào
tôi không ăn năn hối hận với những gì đã xảy ra ở Mỹ Lai. Tôi hối hận
với những người Việt Nam đã bị giết hại, với gia đình họ và với những
binh lính Mỹ đã dính líu tới vụ việc. Tôi rất xin lỗi" (3). Đấy,
Ban Mai chẳng cần gì phải đợi đến “lịch sử mai sau” đâu, trung
uý William L. Calley đã “mở mắt” cho Ban Mai “tự phán xét”.
Vĩ
thanh: Hãy nghe chính Trịnh Công Sơn nói về nhạc phản chiến của Trịnh
Công Sơn
Trở lại với
vấn đề học thuật, trong nghiên cứu về Trịnh Công Sơn, ngoài việc khảo
sát ca từ nhạc Trịnh ra, cần phải dựa vào những loại “văn bản khác”
nhằm “góp phần giúp ta nhìn rõ hơn chân dung, diện mạo của Trịnh
Công Sơn” (4) như cách của Bùi Vĩnh Phúc đã làm mà Ban Mai đã “học”
nhưng “học” không thấu đáo. Xin dẫn ra đây một loại “văn bản khác” mà
nếu dựa vào đó, người ta không dễ gì lợi dụng đề tài Trịnh Công Sơn để
xuyên tạc Trịnh Công Sơn và xa hơn là xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự
thật chiến tranh Việt Nam.
Loại “văn
bản khác” đó là những lời của chính Trịnh Công Sơn nói về nhạc phản
chiến của mình. Trong bài “Xin nối một vòng tay” của Lưu Trọng
Văn viết dưới hình thức một cuộc trò chuyện tâm tình với Trịnh Công Sơn,
Trịnh Công Sơn đã bộc bạch mục đích làm nhạc phản chiến của mình là để
chống chiến tranh phi nghĩa: “Khi người ta ý thức được về chiến
tranh chính nghĩa bảo vệ Tổ quốc thì không thể có tiếng nói chống lại”
(5). Khi Lưu Trọng Văn chia sẻ: “Phản chiến…nhưng đã có lúc ông bị
hiểu lầm”, Trịnh Công Sơn trả lời: “Nhưng tôi luôn tự hào rằng
rất nhiều lính của Thiệu đã bỏ ngũ vì nghe bản nhạc “Người con gái da
vàng” của tôi”, “Nói cho cùng thì…Trương Lương thổi sáo đâu phải cho
quân mình buông kiếm. Đâu phải tự dưng chính quyền Sài Gòn ra lệnh cấm,
tịch thu các bài hát của tôi. Ông xem cái lệnh cấm số 33 ngày 8-2-1969
này…” (6).
Trong
bài phỏng vấn Trịnh Công Sơn của Ngô Ngọc Ngũ Long, nhan đề
“Một cõi
riêng thuần khiết cùng cuộc đời”, Trịnh Công Sơn đã hào hứng kể lại
những năm tháng “xuống đường” tham gia phong trào đô thị tranh đấu đòi
hòa bình và chính phong trào này đã nuôi nguồn cảm hứng cho những ca
khúc Da Vàng của nhạc sĩ: “Bắt đầu từ những năm 70, tôi bị cuốn hút
vào phong trào tranh đấu của sinh viên - học sinh, đó là những tháng
ngày tôi sống hết mình và say sưa nhất, tôi viết trong niềm phấn khích
mãnh liệt của những đêm không ngủ và chứa chan niềm hy vọng. “Ta phải
thấy mặt trời” được hát tại giảng đường Đại học Huế, hát trong những
ngày đấu tranh sôi bỏng nhất. Bạn bè tôi lúc ấy tôi biết rất rõ chí
hướng của họ, và kính phục họ” (7). Phong trào tranh đấu đòi hòa
bình này đã góp phần cùng dân tộc đi tới ngày thống nhất đất nước, như
Trịnh Công Sơn đã nhấn mạnh trong ca khúc “Trong mỗi đời riêng”
viết năm 1980:
“Qua
chiếc cầu xưa nhớ anh Trỗi ngày nào
Qua
những đường xưa nhớ tiếng hát tự hào
Dậy
mà đi dậy mà đi
Xưa
trong phố này từng quặn đau bao nỗi đời
Dậy
mà đi ta cùng dậy mà đi
Có
những ngày ấy mới có phút giây này”
Đúng,
“có những ngày ấy mới có phút giây này”, nhạc Trịnh trước và sau
năm 1975 là một sự liền mạch, tiếp nối thủy chung sau trước, một sự liền
mạch chỉ có được do người nhạc sĩ tài hoa này luôn “Về trong suối
nguồn” (tên một ca khúc Trịnh Công Sơn) của một dân tộc yêu chuộng
hòa bình, khát khao độc lập, thống nhất. Trước sức sống bất tận của mạch
nguồn này, bao nhiêu thứ váng bọt “lợi dụng nhạc Trịnh”, “xuyên tạc
Trịnh Công Sơn”, “xuyên tạc lịch sử” đều tiêu tan.
Nguyễn
Hoàn
(bổ túc 8-2010: ảnh tư liệu của sachhiem.net minh họa)
(1) Ban Mai,
Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng, NXB Lao Động, Trung tâm Văn
hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2008, tr. 12.
(2) Dẫn theo
Nguyễn Hải Hà, Thi pháp tiểu thuyết L.Tônxtôi, NXB Giáo dục, Hà
Nội, 2006, tr. 71.
(3) Theo Báo
điện tử Vietnamnet, ngày 22-8-2009.
(4) Bùi Vĩnh
Phúc, Trịnh Công Sơn ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật, NXB
Văn hóa Sài Gòn, 2008, tr. 28.
(5), (6) Trịnh Công Sơn - Rơi lệ ru người, Lê Minh Quốc sưu tầm và tuyển
chọn, NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2005, tr. 92, 93.
(7) Trịnh
Công Sơn - Rơi lệ ru người, Sđd, tr. 79, 80.
Những bài viết khác cùng tác giả:
Chiều kích đặc biệt của con người ...(Nguyễn Hoàn)
Con Người Minh Triết Trong Nhạc Trịnh Công Sơn (Nguyễn Hoàn)
Festival Huế (Nguyễn Hoàn)
Gặp Chủ Nhiệm Đề Án Mới Trên Hành Lang Kinh Tế Đông Tây (Nguyễn Hoàn)
Mẹ Gio Linh - Mẹ Việt Nam (Nguyễn Hoàn)
Những sai lệch, thiếu sót trong “Trịnh Công Sơn, vết chân dã tràng” (Nguyễn Hoàn)
Thượng Thư Bộ Lễ Lê Trinh (Nguyễn Hoàn)
Trường Sa trong thơ Trần Đăng Khoa (Nguyễn Hoàn)
Tư tưởng đổi mới của TBT Lê Duẩn (Nguyễn Hoàn)
Về cái gọi là “học thuật” của Ban Mai trong nghiên cứu Trịnh Công Sơn (Nguyễn Hoàn)
Để hiểu đúng câu Kiều về chữ “tâm” của Nguyễn Du (Nguyễn Hoàn)
“Lao động, tình thương và lẽ phải” của Lê Duẩn (Nguyễn Hoàn)
___________________
Bài liên quan:
- Xung quanh những mơ hồ và sai lầm (Nguyễn Hòa) http://sachhiem.net/NGHOAN/NguyenHoa01.php