CHÍNH SÁCH CHIA ĐỂ TRỊ CỦA VATICAN TẠI VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1945-1954
Chủ đề của mục này nói về bàn tay của Vatican trong việc tái chiếm Đông
Dương vào mùa thu năm 1945 và chính sách chia để trị của Giáo Hội La Mã
được thi hành triệt để trong những năm 1945-1954. Mục này gồm có:
Chương 50: Vatican cấu kết với Pháp dùng chính sách chia để trị và đưa
tín đồ lên nắm quyền. (34)
Chương 51 Giải Pháp Bảo Đại với chính quyền quốc gia và lá cờ vàng ba sọc
đỏ. (44).
Chương 52: Những hành động dã man của quân lính Liên Hiệp Pháp và lính đạo
Việt Nam. (60).
CHƯƠNG 50
VATICAN CẤU KẾT VỚI PHÁP THI HÀNH CHÍNH SÁCH CHIA ĐỂ TRỊ, VÀ ĐƯA TÍN ĐỒ DA TÔ LÊN NẮM CHÍNH QUYỀN
Khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc, Nhật đầu hàng Đồng Minh vào ngày 15/8/1945,
Mặt Trận Việt Minh đã lanh tay chụp lấy cơ hội này, phát động lệnh tổng khởi
nghĩa, đưa người về các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là Hà
Nội vận động nhân dân tham gia cuộc bỉểu tỉnh được tổ chức vào ngày 17/8/1945 với 20
ngàn người(1) tuần hành biểu
dương ý chí cương quyết vùng lên đòi quyền độc lập cho dân tộc và chính thức
cướp được chính quyền vào ngày 19/8/1945, thành lập chính phủ Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hoà, buộc vua bù nhìn Bảo Đại phải bằng lòng thoái vị vào ngày 23/8 (lễ
chính thức thoái vị được tổ chức vào ngày 30/8) và công bố Bản Tuyên
Ngôn Độc Lập vào ngày 2/9/1945 tại Vườn Hoa Ba Đình giữa một biển người
với rừng cờ đỏ sao vàng và biểu ngữ trong một cuộc mít tinh có cả năm trăm
ngàn người (500.000) tham dự.(2)
Việt Nam đã độc lập. Thế nhưng Vatican và chính quyền Pháp vẫn còn nuối tiếc.
Vatican nuối tiếc Việt Nam là chuyện dĩ nhiên vì rằng, như đã trình bày trong
phần Lời Người Viết ở trên, Vatican vốn là thế lực có chủ trương muốn đánh
chiếm Việt Nam làm thuộc địa để cướp đoat tài nguyên, vơ vét cho đầy túi tham,
cưỡng bách dân ta phải theo đạo làm nô lệ cho Giáo Hội La Mã và thi hành chính
sách ngu dân để biến tín đồ thành hạng vong bản phản quốc và mất hết nhân tính,
giống như loài súc siinh. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá đầy đủ
và hết sức rõ rang trong các chương, 3, 4,5, 8, 9, 10 và 13 trong sách Tâm
Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Tất cả các chương sách nèy đều có thể đọc online
trên sachhiem.net. Thí du như Chương 13: http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_13.php
Còn còn nước Pháp thì sao? Tại sao Pháp cũng lại tiến rẻ Việt Nam giống như
Vatican?
Xin thưa, câu trả lời rất đơn giản như sau:
Ngay khi nước Pháp vừa được giải phóng vào tháng 8 năm 1944, Vatican liền
đồng mưu với một tín Ca-tô có thế lực người Pháp là Georges Bidault (1889-1983)
thành lập một đảng Ca-tô có danh xưng là Mouvenment Republic Populaire (MRP)
làm thế lực xung kích nhẩy lên nắm chính quyền để làm lợi cho Vatican:
“Bidault tham dự việc thành lạp Hội Đồng Kháng Chiến Tòan Quốc và sau khi
ông Moulin bị mật vu Đức Gestapo bắt giam, ông (Bidault) trở thành chủ tịch
tổ chức này. Năm 1944, ông cho ra đở bản Hiến Chương Kháng Chiến trong đó
có nêu lên việc mở rộng chương trình cải cách thời hậu chiến. Sau khi Paris
được giải phóng, ông đại diện cho kháng chiến trong cuộc diễn hành chiến
thắng. Ngày 25/8/1944, Charles de Gaulle bổ nhậm nắm giữ chức vụ Tổng Trưởng.
Ông cũng là người sáng lập ra Phong Trào Cộng Hòa Bình Dân”.(3)
Phong Trào Công Hòa Bình Dân chỉ là một trong muôn ngàn xảo ngữ mà Vatican
thưởng được sử dụng từ thế kỳ 4 cho đế ngày nay. Căn cứa vào bàn chắt và nhữcng
việc làm của phong trào này, các nhà sự họ gọi nói là Đảng Ca-tô”, chẳng
hạn sử giả Joseph Buttinger đã gọi như vậy với bằng chức là câu văn dưới đây:
“…Việc chỉ định Diêm (làm thủ tướng) là do áp lực mạnh của Hoa Kỳ đối với
Bảo Đại cũng như đối với người Pháp và sự can thiệp của Hồng Y Spellman qua
các thành viên của Phong Trào Công Hòa Bình Dân Ca-tô.”(4)
Tổng Thống de Gaulle là tín đồ Ca-tô liên kết chặt chẽ với đảng MRP Ca-tô
của ông Ca-tô ngoan đạo Georges Bidault để không chế sân khấu chính trị Pháp
trong mấy năm giữa thập niên. Vì vậy mà Vatican đã có thể dùng Đảng MRP ngồi
ở hậu trường để thể lèo lái chính quyền Pháp đi theo chủ trương tái chiếm Đông
Dương và thực thi chính sách dùng người Việt đánh người Việt chuẩn bị tiến
tới việt thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô lảm phương tiện thì hành kế họach
hóa nhân dân Việt Nam từ trên xuống dưới bằng bạo lực đúng theo thi thần Sắc
Chỉ Romanus Pontifex đã được Vatican ban hành vào ngày 8/1/1454 trong thời
Giáo Hoàng Nicholas V (1447-1455). Nhân tiện đây, chúng tôi xin ghi lại những
ngày tháng lịch sử đáng nhớ cùng những việc làm đại gian đại ác phục vụ cho
mưu đồ bất chính ác này của Vatican qua tay chính quyền Pháp trong những năm
1945-1954 tiến cuộc chiến tái chiếm Đông Dương:
1.- Ngày 16/8/1945, Tướng Jean Leclerc đem một đạo quân từ Pháp qua ngả Madagascar
và Calcutta tới Việt Nam để chuẩn bị cho phóng ra các cuộc hành quân tái chiếm
Đông Dương.
2.- Ngày 17/8/1945, Pháp và Vatican đồng thuận bổ nhậm cựu Linh-mục Thierry
d’ Argenlieu thuộc dòng tu Carmelite nắm giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương – High
Commissioner (một danh xưng mới của chức vụ Toàn Quyền Đông Dương (Gouverneur
Général) trong những năm 1887-1945) lo việc tái chiếm Đông Dương và cũng là
để khích lệ nhóm tín đồ Ca-tô người Việt chống lại chính quyền của nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Mặt Trận Việt Minh lãnh đạo.
3.- Ngày 23//8/1945, chính quyền Pháp De Gaulle bổ nhậm “Đại Tá Cédille
làm Ủy Viên Cộng Hòa Nam Kỳ (Commissaire de la République tại Nam Bộ đã nhày
dù xuống Tây Ninh và được quân Nhật đưa về Sàigòn.” (5)
4.- Ngày 12/9/1945, Tướng Anh Douglas D. Gracey chỉ huy đoàn quân Anh trong
đó có 1.400 quân lính người Ấn Độ với danh nghĩa là giải giới quân Nhật,
nhưng lại bao che cho 1.800 quânPháp đổ bộ vào Saigòn. Cũng
vào ngày này, tại Pháp, Tổng Thống Charles de Gaulle của chính phủ lâm thời
Pháp chỉ định Tướng Mordant làm Tổng Đại Biểu Pháp tại Đông Dương trong khi
chờ đợi Cao Ủy Đông Dương Thierry d’ Argenlieu sang Đông Dương nhậm chức vào
ngày 31/10/1945. Đồng thời, Pháp lại còn thiết lập Uỷ Ban hành động
Giải Phóng Đông Dương đặt dưới quyền điều động của Bộ Trương Các Thuộc Địa
lúc đó là ông René Pleven.
5.- Ngày 23/9/1935, tại Sàigòn, được sự bao che của quân Anh, quân Pháp gây
hấn tấn công Uỷ Ban Kháng Chiến Nam Bộ, mở nhà tù, thả hết những quân lính
Pháp bị Nhật giam, võ trang đám lính này đi tấn chiếm Sàigòn. Lực lương kháng
chiến của nhân dân ta không chống cự nổi, phải rút lui ra vùng ngoại ô và cầm
cự theo chiến thuật du kích. Cuộc chiến giữa một bên là Liên Minh Thánh Pháp
- Vatican Xâm Lược và một bên là nhân dân Việt Nam bùng nổ ở Miền Nam kể từ
ngày này.
Tháng 10/1945, chính phủ Pháp lại chỉ định Tướng Massu, lúc đó đang trú đóng
tại miền Đông nước, đem một trung đoàn sang Việt Nam tăng cường cho thế lực
Liên Minh Thánh Pháp-Vatican đã có sẵn ở đây để chuẩn bị phóng ra những cuộc
hành quân tiêu diệt các lực lượng Kháng Chiến Việt Nam ở miền Nam.
Mới đầu cả chính quyền Pháp và Vatican đều nghĩ rằng có thể tái chiếm Đông
Đương trong một thời gian ngắn khoảng chừng vài ba tháng.
Thế nhưng, thời thế đã đồi thay, hơn 80 năm nằm dưới ách thống trị bạo tàn
của Liên Minh Thánh Pháp và Vatican, người dân Việt Nam đã phải triền miên
kéo lê kiếp sống điêu đứng vì bị áp bức và bóc lột đến tận xương tận tủy khiến
cho hai triệu người phải rơi vào thảm họa chết đói trong mấy tháng mùa Xuân
năm Ất Dậu 1945. Tất cả đã mở mắt cho người dân Việt Nam thấy rằng “không
có gì quý bằng độc lập và tự do” cho nên nhân dân ta đã cương quyết “Thà
chết còn hơn trở lại sống đời nô lệ cho liên minh giặc xâm lăng Pháp và Vatican”,
phải quyết tâm đoàn kết toàn dân như một và cương quyết chiến đấu cho khát
vọng độc lập cúa toàn dân, cho dân ta không còn rơi vào thảm cảnh chết đói
như đã xẩy ra vào mùa xuân năm Ất Dậu, không còn mang mối nhục vong quốc và
bị khinh rẻ là “dân tà giáo”, “dân mọi rợ” nữa. Sự kiện này đã làm những người
chủ chiến trong hàng ngũ lãnh đạo của Liên Minh Thánh Pháp – Vatcan phải ra
chỉ thỉ cho Thierry d’ Argenlieu phải triệt để thi hành chính sách chia để
trị để phá tan sức mạnh đoàn kết của dân ta.
Với chức vụ Cao Ủy Đông Dương, trách nhiệm của cựu Linh-mục Thierry d’ Argenlieu
đối với Liên Minh Thánh Pháp – Vatican là phải tái chiếm và ổn định Đông Dương.
Nhưng đối với riêng Tòa Thánh Vatican là phải triệt để thi hành hành chính
sách chia để trị để củng cố và duy trì quyền lực của Giáo Hội tại Việt Nam.(6) Cũng
vì thế mà trong thời gian tại chức ở Đông Dương từ ngày 17/8/1945 cho đến ngày
15/3/1947, Thierry d’ Argenlieu đã:
1.- Tách rời miền Nam để thành lập nước Cộng Hoa Nam Kỳ vào ngày 2/6/1946(7) và
dùng là cở nền vàn có ba xọc xanh chạy ngang ở chính giữa:
2.-Tách rời Cao Nguyên Nam Trung Bộ để thành lập nước Tây Kỳ
vào đầu năm 1946.
3.- Tách rời hai tỉnh Lai Châu và một Lào Cai để thành lập nước Cộng
Hòa Thái và đưa tên Đèo Văn Long lên cầm quyền.
4.- Tách rời hai tỉnh Lạng Sơn và Móng Cái để thành lập nước Cộng Hòa
Nùng và Vòng Á Sáng được đưa lên cầm quyền.(8)
5.- Tách rời hai giáo khu Phát Diệm và Bùi Chu để biến hai giáo khu
tự trị, chờ cơ hội thuận tiện sẽ biến hai giáo khu này thành hai vương quốc
kitô nằm trong lãnh thổ Việt Nam.
6.- Thành lập đạo quân thập Việt Nam tự tại vùng Bến Tre và Mỹ Tho dưới
quyền chỉ huy của Thiếu Úy Jean Leroy (sau được thăng lên cấp bậc đại tá) với
quân số dần dần lên tới 6,390 người vào năm 1951(9)
cùng với hai đạo quân thập tự tại Phát Diệm, Bùi Chu và nhiếu đạo quân khác
ở trong các xóm đạo ở gần các đồn binh Pháp rải rác trong các vùng tạm chiếm.
7.- Tuyên truyền và thuyết phục giáo dân phải đứng ngoài cuộc nổi dậy của
toàn dân, cảnh cáo và hù dọa những người đi theo Việt Minh.- Biết rằng chống
lại khát vọng giải phóng đất nước của dân tộc Việt Nam là một việc làm
vô cùng gay go, nhất là vào thời kỳ này, cho nên, Toà Thánh Vatican mới ra
lệnh cho bộ máy tuyên truyền ca ngợi và tán dương chế độ thực dân của Liên
Minh Pháp - Vatican để che giấu tội ác đã làm cho nhân dân ta khốn khổ lâm
vào cảnh chết đói tới hai triệu người bằng những luận điệu:
"Chính sách thực dân, dưới mắt các nhà luật học và luân lý học vẫn
là một việc hợp lý, vừa giúp ích nhân loại vừa là hành vi nhân đạo. Chính
sách thực dân giúp ích chung nhân loại mỗi khi: Một dân tộc không đủ tài
lực để khai khẩn những ruộng đất, hầm mỏ, rừng rú mà giời (trời) đã ban cho. Một
dân tộc không thể tự trị nổi cần phải nhờ sức bảo hộ của nước ngoài...
Hơn nữa chính sách thực dân có tính cách nhân đạo ở chỗ: một cường quốc khai
hóa cho một nước mà nền văn minh còn thô sơ."(10)
Bản văn trên đây cho chúng ta hấy rõ Vatican có một cái nhìn khinh thường
và miệt thị dân tộc Việt Nam ta một cách hết sức ngạo mạn và thiếu văn minh.
8.- Mưu đồ bơi ngược dòng lịch sử với dã tâm phục hồi vương quyền nhà Nguyễn
qua việc đưa ông vua gỗ Bảo Đại trở lại chính quyền bằng một quái chiêu
gọi là “Giải Pháp Bảo Đại” với một bức bình phong bằng những danh xưng
hào nhoáng như “Chính Quyền Quốc Gia”, “Chính Nghĩa Quốc Gia”với
ông Bảo Đại làm quốc trưởng và với lá cờ vàng ba sọc đỏ làm biểu
tượng đấu tranh hầu lừa gạt làm cho nhân dân ta lầm tưởng rằng ông Bảo Đại
là người nắm được chính nghĩa tranh đấu cho quyền lợi tối thượng của tổ quốc
và dân tộc. Mưu đồ này được dự tính và tiến hành từ tháng 12/1945 cho đến
tháng 6/1948 thì hoàn thành. Sự kiện lịch sử này đều được sách sử ghi lại
rõ ràng. Sách Việt Nam Niên Biểu 1939-1975 (Tập A: 1939-1946) nói rõ ý đồ
của Vatica qua lời tuyên bố của vị Khâm Sứ đại diện Tòa Thánh Vatican ở Huế
là muốn đem Bảo Đại trở lại cầm quyên lãnh đạo khối tín đồ Gia-tô người Việt
cùng với giới quan lại cũ và những thành phần thuộc giai cấp phú hào về phe
với Liên Minh Thánh Pháp – Vatican đang mưu đồ tái chiếm Đông Dương. Sách
này viết:
"Ngày 28/12/1945: HUẾ: Tổng Giám Mục Antoni Drapier,
đại diện Roma, tuyên bố:
"Gia đình Bảo Đại là gia đình thân Pháp bậc nhất trong dân chúng Việt
Nam (la plus francophile de tois les annmites) và theo ý ông ta, nên cho
Bảo Đại lên ngôi như trướcngày 9/3 (À mon avis, il serait avantageux
pour le calm de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars; DOM
[aix], CP 125). DRAPIER cũng đưa ra giải pháp là có thể sau đó sẽ cho Bảo
Long kế vị, và Nam Phương làm Giám Quốc [Phụ Chính]."(11)
Cũng nên biết là bà Nam Phương Hoàng Hậu (vợ Bảo Đại) và Bảo Long đều là những
tín đồ Da-tô bị đem đến nhà thờ để rửa tội từ thuở còn bế ngửa.
Bản văn này cho chúng ta thấy rõ ý đồ của Vatican là dùng ông Da-tô
Bảo Đại trong chính sách dùng người Việt đánh người Việt và dùng tín đồ Da-tô
cai trị đại khối nhân dân thuộc các tôn giáo khác. Đây là chủ trương cố hữu
của Giáo Hội La Mã và chỉ lộ ra cho chúng ta thấy trong câu nói: “nên
cho Bảo Đại lên ngôi như trước ngày 9/3 (À mon avis, il serait avantageux pour
le calm de rétablir le Roi comme chef régulier avant le 9 mars…” Qua lời
tuyên bố trên đây của Tổng Giám Mục Antoni Drapier vào ngày 28/12/1945, chúng
ta thấy, Giáo Hội công khai tuyên bố ý đồ này từ cuối tháng 12/1945.
Vấn đề đặt ra là TẠI SAO Vatican lại nói đến việc “đưa cậu bé Bảo Long
(mới 10 tuổi) lên làm vua và dùng bà Nam Phương Hoàng Hậu làm nhiếp chánh.”“
Ôn cố tri tân. Chúng tôi xin lấy chuyện đã xẩy ra trong quá khứ để suy ra chuyện
này. Chúng ta nhớ lại, khi có phong trào Tin Lành nở rộ ở Âu Châu vào thế kỷ
16, tại nước Pháp, Vatican cũng đã dùng một nữ tín đồ cuồng tín là Hoàng Hậu
Catherine de Medici (1519-1589) nhiếp chánh cho ấu quân Charles IX (1550-1574),
lúc đó mới có 10 tuổi và biến bà hoàng hậu này thành một nữ bạo chúa lừng danh
với vụ tàn sát tín đồ Tin Lành vào ngày 24/8/1572 mà sách sử gọi là “The
St. Bartholomew’s Day Masscre of 1572”. Cuộc tàn sát cực kỳ dã man này
khởi đầu ở Paris rồi làn tràn ra nhiều nơi trong nước Pháp và kéo dài trong
nhiều ngày (hơn một tuần lễ). Con số nạn nhân bị sát hại lên đến gần hai chục
ngàn người. Xin xem Chương 13 (Mục III, tiểu Mục B với tựa đề là Những Hành
Động Trả Thù Cho Chúa Bằng Cách Tra Tấn và Hành Hạ Nạn Nhân một cách cực kỳ
Man Rợ) để biết rõ vụ tắm máu cực kỳ kinh khủng này. Chương sách này có thể
đọc online trên sachhiẹm.net. http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_13b.php.
Chinh vì vụ tàn sát người Tin Lành một cách cực kỳ man rợ như vậy mà sử gia
Nigel Cawthorn mới đưa Hoàng Hậu Catherine de' Medici (1519-1589) vào cuốn
sách 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch sử nhân loại.(12)
Từ câu chuyện sử dụng Catherine de' Medici làm giám quốc cho ấu quân Charles
IX (1550-1574) của nước Pháp, chúng ta có thể suy ra để nhìn thấy rõ dã tâm
của Vatican đề xuất ý kiến đưa cậu bé Bảo Long lên ngai vàng và dùng bà Nam
Phương Hoàng Hậu là giám quốc.
Ý đồ của Vatican là như vậy, nhưng trong những năm 1945-1954, chính tình nước
Pháp không được ổn định vì chế độ đại nghị và đa đảng. Lúc đó, nước Pháp cứ
độ vài ba tháng lại xẩy ra chuyện thay đổi chính phủ. Hơn nữa, ở chính quốc
cũng như ở Đông Dương, có rất nhiều chính khách cầm quyền đều chịu ảnh hưởng
sâu nặng của tinh thần Cách Mạng 1789. Với những người này, những hành động
tham tàn, gian ác và dã man của Giáo Hội La Mã từ thời Trung Cổ cho đến thời
Cách Mạng tháng 7/1830 vẫn còn đậm nét trong trí nhớ của họ. Vì thế mà họ nhất
định chỉ để cho tấn tuồng “giải pháp Bảo Đại” do Vatican đưa ra được
trình diễn một phần nào thôi, chứ không được toàn vẹn 100% theo như ý muốn
của Vatican.
Sau khi cống bố đề nghị đưa Bảo Đại thành lập chínhy quyền được mấy tháng,
Giáo Hội La Mã ra lệnh cho Khâm Mạng Toà Thánh Đông Dương là Frater Antoninus
Drapier công bố lá thư luân lưu mang số 827/61 đề ngày 15/5/1946 với mục đích
lên án và răn đe giáo dân Việt Nam không được ủng hộ hay tham gia hoạt động
trong các đoàn thể hoặc chính quyền hay quân đội kháng chiến Việt Nam. Dưới
đây là nguyên văn một vài đoạn của lá thư này:
"Mọi người đã hẳn đều có nguyện vọng được người đồng chủng cai trị
mình. Con nhà Công Giáo ao ước có những đấng chăn chiên bản quốc... Nhưng
chỉ có một mình Giáo Hội mới minh xét cho biết đã đến thời phải thực hiện
nguyện vọng đó hay chưa. Vậy ai dùng lời nói hay báo chí để đưa dư luận đi
quá cấp tốc kẻ ấy tự thị muốn đi trước Tòa Thánh Roma và tỏ thái độ xấc ngạo
và bất tuân với đức giáo hoàng.... Nhận thấy ít nhiều giáo hữu Việt Nam,
trong thời buổi ấy đã ăn ở phạm đến quyền của Tòa Thánh, nên chỉ định mấy
điều sau đây:
1.- Chiểu khoản 2.334 luật giáo hội: kẻ nào nhờ đến thế lực phần đời mà
làm ngăn trở quyền cai trị của đấng bề trên phần đạo hoặc trực tiếp hay gián
tiếp thì phải vạ tuyệt thông.
2.- Chiếu khoản 2.331 luật giáo hội: kẻ xúc phạm đến đức giáo hòang, đức
khâm mạng, hay bề trên địa phận chính thức thì tức khắc phải vạ tuyệt thông.
3.- Các hội đòan Công Giáo bất kỳ lấy tên nào làm danh hiệu đều buộc phải
nhận quyền bề trên trong đạo..Nếu mà chối thì phải kể là người ngọai đạo,
tội nhân và phải vạ tuyệt thông nữa."
"Bộ Thánh Vụ Vatican ra thông cáo cho cha mẹ những vị thành niên có
chân trong tổ chức cộng sản đều bị vạ tuyệt thông. Thông cáo này cũng tố
cáo những ai dự vào các tổ chức có mục đích đưa thanh niên vào thuyết duy
vật lôi cuốn."(13)
Luật pháp của tất cả các nước văn minh từ thời Cách Mạng Pháp 1789 cho đến
ngày nay đều quy định là “kẻ nào vi phạm pháp luật thì kẻ đó phải chịu trách
nhiệm với pháp luật.”. Ấy thế mà Đạo Ki-tô thường cao rao là đạo cứu rỗi,
đạo của bác ái, lại trừng phạt cả cha mẹ của các em đã đến tuổi trưởng thành,
ý thức được câu nói “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách” mà đi theo
tiếng gọi của lương tâm gia nhập phong trào tranh đấu cho nền độc lập của
dân tộc. Vì Giáo Hội La Mã đã hành động ngược ngạo như vây, ta có thế áp dụng
câu nói “đừng tin những gì chúng nó nói, hãy nhìn những gì chúng nó làm!”
cho Giáo Hội thì thật là chí lý!.
Song song với dã tâm thâm độc này (bổ nhậm ông cựu Linh-mục Thierry d’ Argenlieu
giữ chức vụ Cao Ủy Đông Dương để khích lệ và lôi cuốn tín đô Ca-tô người Việt
đi theo Liên Quân Pháp – Vatican chống lại tổ quốc Việt Nam), bộ máy tuyên
truyền của Giáo Hội hoạt động mạnh thôi thúc, khích lệ và cổ võ giáo dân hăng
say đi theo Liên Quân Xâm Lăng Pháp – Vatican chống lại tổ quốc Việt Nam. Sự
kiện này được sách Thập Giá và Lưỡi Gươm ghi lại như sau:
“Chính trong những năm khó khăn đó, các vị lãnh đạo cũng như lớp cán bộ
cấp dưới, không sao tránh khỏi những vấp váp sai lầm, quân thù của chế độ
tìm cách làm cho dân chúng mất lòng tin với chính phủ, nhất ra đưa ra “nguy
cơ đỏ” để kích động người Công Giáo. Cụ Hồ Chí Minh là một người Cộng Sản,
nơi nơi cứ đồn ra như thế. Mà đối với đạo Công Giáo thì Cộng Sản là kẻ thù
số một. Bởi thế sớm muộn gì Cộng Sản cũng sẽ tiêu diệt người Công Giáo.
Ở một địa bàn Công Giáo tiêm nhiễm nội dung chống Cộng của thông Điệp Divini
Redemptoris của Piô XI, nên người ta phải sống trong một thứ hoang mang,
thời gian để lại những hậu quả rất nghiêm trọng. Một vài lãnh tụ Công Giáo
đã vạch ra một đường lối xử thế mà nhiều người rồi đây đẫ thấy là xảo quyệt
và gian hùng.” (14)
“Năm 1946, vừa ra khỏi sự câm nín ban đầu – do lo sợ sự phản ứng của người
Công Giáo Việt Nam – đã lên tiếng “hoan nghênh cảnh hừng đông” khi “các toán
quân dũng cảm Pháp đã giải phóng Hà Nội.” Ngành báo chí thừa sai liên kết
với báo chí thực dân, lên tiếng nhằm soi sáng cho tín hữu Việt Nam và Pháp
cảnh giác về nguy cơ Cộng Sản, về cơn kinh hoàng đỏ, về những bách hại tôn
giáo sẽ đổ ập xuống trên Giáo Hội.” (15)
Ngoài việc dồn nỗ lực vào việc đẩy mạnh chiến dịch vừa hù dọa vừa cấm giáo
dân Việt Nam không được tham gia kháng chiến chống lại Liên Minh Thánh Pháp
– Vatican xâm lược, Giáo Hội còn kêu gọi các tu sĩ Ca-tô bản địa tổ chức và
võ trang giáo dân nổi lên chống lại chính quyền Kháng Chiến Việt Nam. Sự kiện
này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại như sau:
"Một tài liệu của Vatican được đưa ra lúc đó gây tác động, dầu muốn
dầu không, cũng có lợi cho quân Pháp. Ngày 1 tháng 7 năm 1949, trả lời những
thắc mắc liên quan đến chính trị thuần nội bộ của riêng nước Ý, Thánh Bộ
Đức Tin tuyên bố rằng: "Những người Cộng Sản đương nhiên bị vạ tuyệt
thông tức khắc, rằng tất cả những ai hợp tác với Đảng Cộng Sản, hoặc bỏ phiếu
cho Cộng Sản, hoặc đọc, xuất bản, phân phối báo chí Cộng Sản, hoặc giúp đỡ
bất kỳ cách nào cho Đảng Cộng Sản, đều bị khai trừ khỏi các bí tích".
Lập tức, quân Pháp đã làm những trận mưa truyền đơn mang nội dung đó của
Thánh Bộ, rải hàng triệu (tờ truyền đơn) xuống các làng công giáo. Người
ta biết rằng vốn liếng thần học của các linh mục và giáo dân Việt Nam thời
đó rất sơ sài, nên họ phải hoang mang giao động trước chỉ thị đó của Vatican. "Roma
đã phán dạy, vậy ai cũng phải tuân theo", họ nói với nhau như thế. Đàng
khác, hàng giáo sĩ vốn đã quen đóng khung giáo dân trong cái rọ trí thức
được bảo vệ rất chắc bởi sách giáo lý Công Đồng Tridetinô và bởi không tìm
ra được những lời đáp thỏa đáng cho những vấn đề do chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa thuần thế và chủ nghĩa Mã-xít đặt ra, nên họ đã cảm thấy lo sợ trước
cuộc Cách Mạng Xã Hội được Phong Trào Việt Minh đề xướng. Thấm nhiễm giáo
lý của Sắc Lệnh "Marari vos" (Chống lại Tân Phái) mà mỗi linh mục
khi chịu chức phải thề tuân thủ, các linh mục và nhất là giáo dân đều bị
lôi cuốn vào cuộc thánh chiến chống Cộng, bắt đầu là về mặt tư tưởng, tiếp
đến là cả bằng quân sự, do chính quân Pháp tuyên truyền cho." (16)
Đồng thời, Giám-mục Lê Hữu Từ cũng cho phổ biến một thư luân lưu đề ngày 12/5/1949
nhắc nhở giáo dân không được tham gia kháng chiến và đe dọa rằng nếu bướng
bỉnh, không "vâng lời bề trên" thì sẽ bị vạ tuyệt thông. Dưới
đây là nguyên văn lời lẽ trong bức thư này:
"Riêng về đảng Cộng Sản, tôi tưởng không cần nhắc lại cho anh em
nhớ rằng hội thánh đã vạ tuyệt thông cho ai vào đảng ấy, đã cấm người có
đạo không được kết bạn với họ."(17)
Dưới đây là mẫu in phạt vạ tuyệt thông có in sẵn của Giáo Khu Phát Diệm để
trừng phạt những giáo dân tham gia kháng chiến:
"Ta Fr. Tađêô Lê Hữu Từ ơn Đức Chúa Trời và do quyền tòa thánh làm
giám mục coi sóc địa phận Phát Diệm và quyền nhiếp chính địa phận Bùi Chu.
Ta đã điều tra đắc thực về tên… đã gia nhập hội bí mật. Ta chiếu theo bộ luật hội thánh khoản 2.335 mà ra vạ tuyệt thông cho tên
ấy.
Ta tuyên bố cho mọi người giáo hữu biết từ giây phút này, tên của tên ấy
phải xóa bỏ đi khỏi hội thánh và hội thánh kể tên ấy không còn được hưởng
quyền lợi gì của người công giáo nữa.
Ta chúc dữ cho tên ấy như Caiin và Giuda đã bị chức dữ vậy.
Ngoài những luận điệu tuyên truyền của bọn văn nô Ca-tô cùng với thông điệp
của Giáo Hoàng Pius XII và những lời dạy dỗ cùng những lời hù doạ bằng những
lệnh cấm như trên, tất cả các giám mục Đông Dương còn được lệnh phải nỗ lực
phổ biên sâu rộng lệnh nghiêm cấm giáo dân, không được ủng hộ hay gia nhập
hàng ngũ kháng chiến đang chiến đấu đánh đuổi Liên Minh Pháp - Vatcian để đòi
lại núi sông cho dân tộc.
Dù là Vatican đã thuyết phục, đã dụ khị, đã hăm dọa và răn đe giáo dân không
được tham gia kháng chiến chống lại Liên Minh Thánh Xâm Lăng Pháp và Thập
Ác Vatican, và dù là đã được phỉnh gạt là "dân Chúa" và "sống
đạo theo đức tin Kitô", cũng vẫn có rất nhiều giáo dân đã thức tỉnh,
ý thức được quyền lợi tối thượng của dân tộc. Cũng vì thế mà có rất nhiều
người cương quyết lên đường đi theo tiếng gọi của lương tâm, cương quyết rời
khỏi mái ấm gia đình và xóm đạo để cùng chìm nổi với đại khối nhân dân, cùng
với nhân dân đi đòi lại núi sông cho dân tộc. Tiêu biểu cho những người này
là Linh-mục Phạm Bá Trực, Linh-mục Nguyễn Thần Đồng, Linh-mục Nguyễn Văn Tường,
Linh-mục Đậu Quang Lĩnh, Linh-mục Lê Đình Hiền, Linh-mục Hồ Thanh Biện, Linh-mục
Lương Miinh Ký, Linh-mục Nguyễn Bá Kính, Linh-mục Võ Thành Trinh, Linh-mục
Nguyễn Bá Luật, và rất nhiều giáo dân như Nguyễn Bá Sang, Mai Lão Bang, v.v…
trong đó có những người sau này được phái vào miền Nam hoạt động chống lại
các chế độ đạo phiệt và quân phiệt Ca-tô tay sai của Vatican cho tới ngày
30/4/1975. Những người này, nhân dân miền Nam đều biết cả. Người viết xin miễn
nêu danh tính họ ra đây.
Phải thành thật nói rằng những tu sĩ và giáo dân trên đây là những người yêu
nước và còn có lương tâm con người. Họ đã đứng về phía đại khối dân tộc để
cùng chìm nổi với quê hương. Đây là một hành động vô cùng sáng suốt và dũng
cảm. Nói về những hành động cao cả này của họ, Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại
lời ca ngợi tinh thần yêu nước của họ do giáo dân trí thức Dương Văn Đàm tuyên
bố với nguyên văn như sau:
"Phải thú thật rằng, những phần tử giáo sĩ chọn con đường kháng chiến
vì nền độc lập và tự do của dân tộc, đã chứng tỏ tinh thần hy sinh và dũng
cảm đáng ca ngợi. Họ đã ra đi kháng chiến chẳng phải để được một vị trí nào
trong xã hội, hay là được tiền bạc gì, chẳng qua họ đã trở lại đứng về phía
nhân dân bằng những việc làm cụ thể, sống đức tin không chỉ trên tòa giảng
ở giữa tiếng hát và chuông reo, nhưng là trên con đường mòn Hồ Chí Minh,
ống quần sắn cao, lưng mang ba lô, nhằm thực hiện "thần học xả thân", "thần
học những thực tế của nhân dân" (Chính Nghĩa, 21/3/1971)" (19)
Điều khôi hài là những hành động hy sinh cao cả chiến đấu cho nền độc lập
của tổ quốc và dân tộc Việt Nam của họ lại bị Giáo Hội La Mã lên án và trừng
phạt họ bằng những bản án "treo chén" hay "phạt vạ
tuyệt thông". Sách Thập Giá Và Lưỡi Gươm ghi lại hành động bất nhân
và ngạo ngược này của Tòa Thánh Vatican với nguyên văn như sau:
"Mặc dầu thế, sấm sét của hàng giáo phẩm vẫn tiếp tục giáng xuống
đầu họ. Linh-mục này hay linh-mục nọ đã bị treo chén vì những hoạt động yêu
nước, linh-mục này hay linh mục khác đã bị phạt vạ vì đã bí mật ủng hộ kháng
chiến." (20)
"Cũng cần nhắc qua nỗi khốn khó về tâm lý của những người Công Giáo
kháng chiến này. Sau Thư Chung của các giám mục năm 1951, họ bị anh em đồng
đạo của mình kết án là "giáo gian", xua đuổi không tiếp rước và
nếu họ bị đám lính "Công Giáo" bắt được, thì bị tra tấn chẳng khác
gì Tòa Án Tôn Giáo ngày xưa. Nhiều lần những giáo dân bảo thủ cực đoan đã
đóng sập cửa nhà thờ ngay trước mũi các linh mục kháng chiến, cấm không cho
họ dự thánh lễ, thậm chí lượm đá ném họ với những lời chửi rủa thậm tệ là "đồng
minh của xa tăng."(21)
8.- Võ Trang Giáo Dân.- Kể từ đầu năm 1947, các tu sĩ quản nhiệm xóm
đạo hay cai quản các giáo khu được các đấng bề trên giao phó trách nhiệm phải
lợi dùng hoàn cảnh thuận lợi để tổ chức nam nữ thanh niên thành những đội
quân thập tự và phải cố gắng quyên góp và kêu gọi giáo dân đóng góp tiền bạc,
lén cử người đi mua vũ khi về trang bị đội quân thập tự trong xóm đạo hay trong
giáo khu. Các đội quân thập tự này nằm tiềm phục chờ cơ hội thuân lợi thì nổi
lên chống lại chính quyền kháng chiến, không cho các cán bộ và bộ đội của chính
quyền Việt Minh vào họat động hay trú đóng trong xóm đạo hay giáo khu, và nếu
mạnh hơn, thì mở các cuộc hành quân ruồng bố các làng lương chung quanh. Riêng
tại giáo khu Phát Diệm, việc này được giao phó cho Giám-mục Lê Hữu Từ lo liệu
cho cả giáo khu và các xóm đạo trong vùng quản nhiệm. Sự kiện này được Linh-mục
Trần Tam Tỉnh ghi lại trong cuốn Thập Giá Và Lưỡi Gươm như sau:
"Với sự ủng hộ của Giám-mục Chaize Hà Nội, các Giám-mục Artaraz Bắc
Ninh, Ubierna Thái Bình, Cooman Thanh Hóa, Gomez Hải Phòng, và phép lành
của Giam-mục Drapier, (Khâm Mạng Tòa Thánh), Giám-mục Lê Hữu Từ quyết định
vũ trang cho giáo hữu của mình. Người ta có thể đọc trong tập Hồi Ký của
ông như sau: "Vào thời ấy, hoàn cảnh bắt buộc chúng tôi phải có một
lực lượng tự vệ hùng mạnh để có thể "nói chuyện" với chính phủ
Cộng Sản. Vì thế, lợi dụng tình hình, chúng tôi đã có các toán du kích địa
phương và lợi dụng đường lối chiến tranh nhân dân do ông Hồ Chí Minh công
bố, tôi đã xin phép được mua súng đạn. Hồ Chí Minh không thể từ chối tôi
việc này, bèn đề nghị tôi gặp ông Phan Anh, Bộ Trưởng Quốc Phòng, đã được
ông Hồ mớm cho việc tìm lý do, ra những điều kiện, để đừng phải cấp cho tôi
giấy phép. Nhưng với cái phép miệng, tôi đã gửi người lên Móng Cáy mua vũ
khí.
"Tuy vậy, việc chuyên chở vũ khí được tiến hành một cách bí mật và
phải dùng mưu mẹo mới qua được. Nhiều lần xe ô tô của tôi chở vũ khí đã có
thể qua các trạm gác vốn được kiểm soát rất nghiêm nhặt, vì tôi đưa ra cái
thẻ "Cố Vấn Tối Cao Của Chính Phủ" và tôi nhất quyết không cho
khám xe. Tôi nói với bọn cảnh sát: Chủ tịch đã chọn tôi làm Cố Vấn vì Người
tin tưởng ở tôi; nếu Người không tin tôi, tôi sẽ từ chức. Và bởi vì tôi là
Cố Vấn Tối Cao của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, chẳng ai có quyền khám xét tôi mà
không có lệnh rõ ràng của Chủ Tịch. Một khi súng và đạn dược đã tới nơi yên
ổn, tôi thông báo cho Ủy Ban Nhân Dân và cảnh sát biết rằng, tôi đã mua vũ
khí với sự đồng ý của Hồ Chí Minh.
"Khi súng ống và đạn dược về đến Hải Phòng thì bị quan Pháp giữ lại,
bọn này chỉ chịu trao cho tôi khi chính tôi phải đích thân can thiệp và bọn
họ còn cấp thêm súng đạn (để mua chuộc tôi). Tuy nhiên, nguyên tắc của tôi
là nhận khí giới từ bất cứ phía nào, kể cả phía Nga hay Tầu Cộng Sản để chống
lại Cộng Sản. Tôi đã vay tiền nơi Đức Cha Gomez, một người Tây Ban Nha giám
mục Hải Phòng và đã xin Ngài vui lòng hỗ trợ tôi trong chuyện này. Sau khi
đã bàn hỏi Đức Khâm Mạng Drapier (Sứ thần của Tòa Thánh Vatican ở Việt Nam),
Ngài đã cho tôi mượn một khoản tiền lớn (1.000.000 đồng) và đã cung cấp cho
tôi một lượng súng đạn quan trọng".
Vì Cụ Hồ Chí Minh đã nhường cho vị Cố Vấn Lê Hữu Từ việc quản lý thị trấn
Phát Diệm (một bề chỉ 1 km và bề kia dài 3 km), giám-mục đã biến nó thành "khu
an toàn" có quân lính riêng canh gác. Khu an toàn này sẽ trở nên cứ
điểm, qui tụ những kẻ chống lại Cụ Hồ Chí Minh, hoặc làm chỗ núp ẩn cho bọn
hoạt động chính trị, bọn mưu đồ lật đổ v.v...
Cũng lúc đó, quân Pháp, sau khi đã chiếm phần lớn các tỉnh quanh Hà Nội,
bắt đầu gặp phải cuộc kháng cự kiên quyết mạnh mẽ của du kích và của dân
chúng. Cái hy vọng tái chiếm nhanh cả nước bị lu mờ..."(22)
.
9.- Triệu tập các giám-mục tại Đông Dương nhóm họp khẩn cấp để hợp soạn
một lá thưchung với nội dung vừa ra lệnh, vừa kêu gọi tín đồ
Da-tô Việt Nam phải từ bỏ hàng ngũ kháng chiến và mạnh bạo đứng về hàng ngũ
Liên Minh Thánh Xâm Lược Pháp – Vatican chống tại tổ quốc Việt Nam. Đây là
một trong những muôn ngàn hành động của Vatican chống lại dân tộc và tổ
quốc Việt Nam một cách vô cùng trắng trợn và hết sức thổ bỉ. Sự kiện này
đều được sách sử ghi lại rõ ràng. Sách Việt Nam, Niên Biểu 1939-1975 (Tập
B: 1947-1954) ghi lại sự kiện này như sau:
“5/11/1951: SÀIGON: Khai mạc Hội Nghị Các Giám Mục
Đông Dương [cho tới ngày 10/11/1951].
9/11/1951: HÀ NỘI: Hội Nghị Các Giám Mục Đông Dương, dưới
sự chủ tọa của của John Dooley:
Ra một thư chung, với chữ ký của 14 tổng giám mục và giám mục: Dooley,
Jean Baptiste Chabalier (Pnom Penh), Thục (Vĩnh Long), Jean Cassaigne (Sanh,
Sàigòn), Marcel Piquet (Lợi, Qui Nhơn), Jean Marie Maze (Kim, Hưng Hóa),
Anselme Taddé Từ (Phát Diệm), Pierre Marie Chi (Bùi Chu),Jean Baptiste
Urrita (Thi, Huế), Dominique Hoàng Văn Đoàn (Bắc Ninh), Joseph Marie Trịnh
Như Khuê (Hà Nội), Fr. Felice Pérez (Hiên, Hải Phòng), Fr. Bernard Illomera
(Yên, Thái Bình), Paul Renaud (Ái, Kontum).
[Đ]ức Thánh Cha của chúng ta đã tuyên bố rằng tuyệt đối không bao giờ có
thể vừa theo Cộng Sản vừa theo Ki-tô giáo được, và người Ki-tô giáo nào gia
nhập đảng cộng sản thì thực tế tách rời khỏi giáo hội. Chẳng những Thánh
Cha cấm các bạn không được gia nhập đảng cộng sản mà còn không thể cộng tác
với họ hay dưới bất kỳ hình thức nào giúp đỡ họ nắm chính quyền.”(23)
Dưới đây là nguyên bản Thư Chung bằng tiếng Pháp và bản dịch Việt ngữ của
Giuse Phạm Hữu Tạo, chủ bút tờ Đông Dương Thời Báo (P. O Box 671091, Houston,
Texas 77267-1091).
Lettre Commune Des Ordinaires Réunis A Hanoi
(texte original en francais)
9 novembre 1951
Nos bien chèrs frères,
Les ordinaires des Missions du Vietnam réunis à Hanoi sous la présidence de
son Excellence Monseîgneur le Délégué apostolique, ont jugé qu'il est de leur
devoir de coordonner leurs efforts en vue de coopérer plus efficatement à l'oeuvre
de pacification des coeurs et restauration chrétienne qui s'impose à l'heure
actuelle.
Les Êvêques du Viêtnam, émus de la confusion qui règne dans les esprits, croient
de leur devoir de préciser la notion de la Patrie. Le Patriotisme, c'est l'amour
de la Patrie, et la Patrie étymologiquement, c'est la terre des ancêtres. La
Patrie, c'est donc une extension de la famille, l'une comme l'autre se rattachent
à la vertu de piété, et par conséquent nous ne pouvons que l'encourager et
le développer au même titre que les autres vertus chrétiennes. La notion chrétienne
de Patrie n'exclut pas les autres nations que nous devons aimer aussi parce
que nous sommes tous fils du même Dieu.
Animé par le sentiment de notre grave responsabilité devant Dieu et d'une
grande affection pour vous tous, nos très chers frères, nous estimons qu'il
est de notre devoir de vous mettre en garde contre le très grand danger du
communisme athée, qui est le plus grand danger existant de nos jours. Le communisme
est la négation de Dieu, la négation de toute religion, la négation de l'existence
d'une âme immortelle, la négation des droits de la personne humaine et de la
famille. Il y a la plus entière opposition entre l’Église Catholique et le
communisme à tel point que notre Saint Père le pape a déclaré qu'il est absolument
impossible d'être à la fois communiste et catholique et que tout catholique
qui adhère au parti communiste est par le fait même séparé de L’Église. Non
seulement, il vous est interdit d'adhérer au Parti Communiste, mais vous ne
pouvez pas coopérer avec lui ou faire quoi que ce soit qui puisse de quelque
facon amener le Parti Communiste au pouvoir.
Le danger est si grave et les conséquences possibles si terribles que nous
nous sentons obligés de vous mettre en garde aussi contre les détours et les
ruses employés par les communistes pour tromper le peuple, ruses qui ne servent
que les seules fins des communistes.
En premier lieu, ils font preuve d'un grand zèle pour les réformes sociales
et mettent en avant leur doctrine comme un remède aux maux sociaux de nos jours.
Ils se cachent aussi sous le masque du patriotisme et cherchent par leur prétendu
zèle pour le bien être de leurs compatriotes à rallier le peuple sous leur
bannière. Mais ce ne sont là que des moyens pour atteindre leurs fins inavoués
et une fois au pouvoir, ils installent une dictature impitoyable. Ce ne sont
plus les intérêts des pauvres et des ouvriers, ni les intérêts de la Patrie
qui comptent, ce sont uniquement les intérêts du communisme. Ainsi dans les
pays sous le joug communiste, règnent la suppression de tout les biens et la
persécution des milliers de nos frères catholiques, ces derniers vivent dans
la terreur, ils dépérissent en prison, payant même de leur sang leur fidélité
à la foi.
Alors résistez, très chers frères, ne vous laissez pas tromper, soyez fidèles
à notre Dieu. Veuillez, soyez vigilants, restez ferme dans la foi.
Et vous, chers prêtres, enseignez la doctrine sociale de l'Église, instruisez
les peuples des vertus chrétiennes de charité et de justice. Prêtres et fidèles,
vivez intensément votre vie chrétienne selon les maximes de L'Évangile. La
charité des premiers chrétiens a amené la conversion du monde: la charité,
c'est à dire supporter son prochain, lui pardonner, lui vouloir et réellement
lui faire du bien. L'amour du Christ a vaincu la haine, votre charité vaincra
la haine des enemis de Dieu. Que voire voie soit toujours un témoignage pour
Dieu, le Christ et l’Église.
Pour conclure, nous vous répétons encore avec saint Paul: “Veillez, restez
ferme dans la foi, soyez vigilants, soyez forts, tout ce que vous faites, faites-le
dans la charité” (I Cor. XVI, 13-14).
Nous demandons à nos prêtres de lire la présente lettre dans les Églises et
leurs Oratoires. A tous, prêtres et fidèles, nous donnons de tout coeur notre
bénédiction paternelle. Grace et paix vous soit données de la part de Dieu,
notre Père, et du Signeur Jésus Christ.
Hanoi, le 9 novembre 1951
- John Dooley, Délégué apostolique en Indochine.
- Jean Baptiste Chaballier, Vicaire apostolique de Phnom-Penh.
- Pierre Ngô Đình Thục, Vicaire apostolique de Vĩnh Long.
- Jean Cassaigne (Sanh) - de Saigon.
- Marcel Piquet (Lợi) - de Qui Nhơn.
- Jean Marie Maze (Kim) - de Hưng Hóa.
- Anselme Tadée Lê Hữu Từ - de Phát Diêm.
- Jean Baptiste Urritia - de Huế.
- Pierre Marie Phạm Ngọc Chi - de Bùi Chu.
- Domonique Hoàng Văn Đoàn - de Bắc Ninh.
- Joseph Maide Trịnh Như Khuê - de Hanoi.
- Fr. Félice Pérez (Hiên) - Provicaire apostolique de Haiphong.
- Bernard Illomera (Yên) - Provocaim apostoloque de Thái Bình.
Paul Renaud (Ái) - Provicaire apostolique de Kontum.
Thư Chung Của Các Giám Mục Công Giáo La Mã Họp tại Hà Nội
(bản dịch của Giuse Phạm Hữu Tạo)
Ngày 9 tháng 11 năm 1951
Anh em thân mến,
Chúng tôi, những giám mục của Hội Truyền Giáo tại Việt Nam họp tại Hanoi,
dưới quyền chủ tọa của Đức Ông Khâm Mạng Tòa Thánh, thấy bổn phận của chúng
tôi là phải kết hợp những nỗ lực để công tác hữu hiệu trong sự mưu tìm an bình
cho lòng người và phục hoạt đạo Chúa hiện nay.
Là những giám mục tại Việt Nam, xao xuyến trước sự hỗn loạn đang đè nặng trên
tâm hồn giáo dân, nghĩ rằng bổn phận của chúng tôi là phải xác định rõ ràng
ý niệm Tổ Quốc! Ái quốc là tình yêu dành cho Tổ quốc, tổ quốc theo ngữ học
là mảnh đất của tổ tiên. Vì vậy, tổ quốc chính là sự nối tiếp của gia đình,
cả hai ràng buộc với nhau trong sự sùng kính, nên chúng tôi phải khuyến khích
sự phát triển ngang nhau với những lẽ đạo khác. Ý niệm của đạo về Tổ Quốc không
hề bỏ ra ngoài các quốc gia khác mà chúng ta phải yêu mến vì tất cả chúng ta
đều là con cái Chúa!
Tác động bởi trách nhiệm nặng nề của chúng tôi trước Chúa và với một tình
yêu lớn dành cho anh em, chúng tôi thấy cần phải nhắc nhở các anh em hãy cảnh
giác trước hiểm họa Cộng sản vô thần là một hiểm họa lớn nhất trong thời đại
chúng ta, Cộng sản chối bỏ Chúa, chối bỏ tín ngưỡng, chối bỏ linh hồn bất diệt,
chối bỏ nhân quyền và gia đình. Lại còn có sự chống đối toàn diện ác liệt giữa
Cộng sản và giáo hội, đến nỗi đức thánh Cha đã phải tuyên bố quyết liệt rằng
không thể nào có thể vừa là Công giáo vừa là Cộng sản. Và người Công giáo khi
gia nhập đảng Cộng sản, bằng hành vi ấy đã xa lìa giáo hội. Không những anh
em bị cấm không được gia nhập đảng Cộng sản, mà anh em còn không được cộng
tác để làm bất cứ điều gì để có thể đưa đảng ấy lên cầm quyền. Hiểm họa quá
lớn và những hậu qủa rất ghê sợ, nên chúng tôi cũng buộc lòng phải cảnh giác
anh em trước những lèo lái hay xảo thuật Cộng sản đã dùng để lừa bịp dân chúng
chỉ nhằm chiếm đoạt được mục tiêu của họ.
Trước hết, họ đã chứng tỏ có nhiều nhiệt tình để cải cách xã hội và đề ra
lý thuyết như là phương thuốc chữa trị những tệ đoan xã hội. Họ không che dấu
mặt nạ yêu nước và cũng tìm cách đặt ra sự nhiệt tình làm như lo cho hạnh phúc
đồng bào để quy tụ dân chúng dưới mầu cờ của họ. Nhưng đó chỉ là những phương
tiện nhắm đạt tới những mục tiêu không tưởng của họ và khi cầm quyền rồi, họ
áp đặt một nền độc tài tàn nhẫn. Không còn nữa những phúc lợi của người nghèo
hay của giới công nhân lao động, cũng chẳng còn quyền lợi gì của tổ quốc nữa,
mà chỉ còn quyền lợi của Cộng sản thôi. Bởi vậy, ngự trị trong các nước Cộng
sản là sự tước bỏ mọi phúc lợi và sự đàn áp hàng ngàn anh em Công giáo, những
người này phải sống trong sợ hãi, chết rũ trong tù ngục, phải đổ máu ra để
bảo vệ đức tin.
Vậy xin anh em hãy chống cự, đừng bị mắc lừa, hãy trung thành với Chúa! Xin
hãy thức tỉnh và sống mạnh bằng đức tin. Và qúy vị, những linh mục, hãy giảng
dậy học thuyết xã hội Công giáo, dậy cho giáo dân những đức tính Công giáo
về bác ái và công bình. Linh mục và giáo dân hãy sống đạo theo đúng với những
lời dậy trong Thánh kinh. Đức bác ái của những người Công giáo đầu tiên là
hoán cải thế giới. Đức bác ái là giúp đỡ đồng loại, tha thứ cho họ và thực
sự làm những điều tốt cho họ. Tình yêu của đấng Ki-tô đã thắng hận thù, tình
yêu của anh em cũng sẽ thắng kẻ thù của Chúa. Ước gì con đường anh em đi là
sự làm chứng cho Chúa, đấng Cứu Thế và Giáo hội.
Để kết thúc, chúng tôi xin nhắc lại với anh em lời nói của thánh Phao-lồ:
“Xin hãy vững mạnh trong đức tin, hãy thức tỉnh và hãy mạnh dạn trong mọi
việc của anh em làm trong tình bác ái!” Chúng tôi xin các linh mục đọc thư
này trong các nhà thờ và nhắc nhở trong bài giảng. Với các linh mục và các
anh em, chúng tôi ban phép lành thần phụ của chúng tôi. Xin Chúa Trời là Cha
của chúng ta, và đấng KiTô ban ơn sủng và sự bình an cho các anh em.
Hanoi, ngày 9-11-1951
ký tên : 14 giám mục (9 gốc Pháp, 5 gốc Việt)
KẾT LUẬN: Phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rõ dã tâm thâm độc Giáo
Hội La Mã trong nỗ lực thi hành chính sách chia để trị với độc kế xé nước ta
ra làm nhiều mảnh nhỏ và tích cực sử dụng nhóm thiểu sô con chiên người Việt
làm lực lượng nòng cốt và xung kích để chống lại đại cuộc kháng chiến đánh
đuổi Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican của nhân dât ta để đòi lại chủ quyền
độc lập cho dân tộc.
CHÚ THÍCH
(1) Về con số người tham dự
cuộc biểu tình vào ngày này, người viết căn cứ vào các sách sử: (1) Ngô
Van, Việt Nam 1920-1945, tr 314; Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam Máu Lửa, tr 42-44;
Phạm Văn Son, Việt Sử Toàn Thư, tr. 706-707; Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc
Dân Đảng, tr.255-256; Đoàn Thêm, Hai Mươi Năm Việc Từng Ngày, tr. 10-11.
(2) Joseph Buttinger, Vietnam:
A Political History (New York: Frederick A. Praeger, 1968, p. 210.
(3) Georges Bidault - From
Wikipedia, the free encyclopedia: http://en.wikipedia.org/wiki/Georges_Bidault.
Nguyên văn: “Bidault participated in the forming of the Conseil
National de la Résistance and, after the Gestapo captured Moulin,
he became its new chairman. In 1944 he formed a Resistance Charter that
recommended an extensive post-war reform program. After the liberation
of Paris he represented the Resistance in the victory parade. Charles
de Gaulle appointed him as a foreign minister of his provisional
government in 25 August. He was the founder of the Mosuvement
Républicain Populaire (MRP).”
(4) Joseph Buttinger, Vietnam:
A Dragon Embattled (New York: Frederick A Praeger, Publishers. 1967),
p 848. Nguyên văn: “…the nomination of Diem was brought about by strong
U.S pressure on Bao Dai and the French, and the inervention of Cardinal
Spellman via members of the Catholic Mouvement Républicain Populaire.”
(6) Hoàng Cơ Thụy, Việt
Sử Khảo Luận , cuốn 4 (Paris: Nam Á, 2002), tr 2090. Trang sách
này viết :” Một cuộc trao đổi giữa Sàigòn và Paris trong tháng 4/1946
cho thấy rằng: Paris tuy không phản dối, song cũng khuyên nhè nhẹ Saigòn nên
có thái đọ trung lập, chỉ đứng lam trọng tài giữaa Nam Bộ và Bắc Bộ;
còn d’ Argenlieu thì nhất định giữ Nam Bộ cho Pháp, căn cứ vào tuyên
ngôn ngày 24/3/1945 và vào tình trạng pháp lý của Nam Kỳ “vẫn còn là
một thuộc địa Pháp”, vậy ông có toàn quyền hành động (Dev. 1988 tr 183-187).
(7) Joseph Buttinger, Ibid.,
p.250. Trang sách này vi?t “On June 1, only twenty hours after Ho
left for Paris, d’ Argenlieu “recognized” the Republic of Cochinchina in
the name of France, neglecting to mention that this clear violation of
the March agreement had not been authorized by Paris. Trong cuốn Việt
Nam Máu Lửa, (Los, Alamitos, CA: Xuân Thu, 1980?) nơi trang 135, tác giả
Nghiêm Kế Tổ ghi nh?n: “Từ 3/6 /1946, Chính Phủ của Nam Kỳ
Quốc đầu tien đa thành lập:…” Trong khi dó, trong cuốn The Two Vietnams
(New York: Frederick A. Praeger, 1964) tác gi? Bernard B. Fall noi ghi
nh?n trang 73-74 nhu sau: “On May 30, d’ Argenlieu, without
authorization from Paris, recognized the Republic of Cochinchina as s “free
state” with its own armmy, finamces, etc., in exactly the same terms as
Republic of Viet Nam had been recognized on March 6! On June 2,Cochichina
proclaimed itself a “republic” and, on the following day, signed a convention
with Cédile, the French Commisioner for Cochinhna.”
(8) Võ Nguyên Giáp, Nhữ?ng
Năm Tháng Không Thể Nao Quên (Hà Nội: QĐND, 2001), tr. 286. Trang
sách nay viết: “Vài ngày sau, những vụ khiêu khích mới lại nổ ra ở biên
giới Viêt-Hoa. Mùng 10 tháng Tám (1946), quân Pháp vô cớ tiến công bộ
đội ta ở Tiên Yên, Ðầm Hà. Ngày 13, chúng đua bọn thổ phỉ vào đóng tại
Lạng Son. Chúng khieu khích đồng bao ta ở Vịnh Hạ Long va vùng ven biển
H?ồg Gai. Cùng thời gian, lại có tin quân Pháp tại Son La tiến xuống
phía nam. Không lâu truớc đó, Đác-giăng-li-o đa để lộ ý muốn lập ngay
tại miền Bắc một “nuớc cộng hòa Nùng Thái” cùng một kiểu v?i nước
công hoà Tây Nguyên. Những hoạt động của địch cùng lúc xẩy ra chạy
dài theo biên giới, tạ vùng biển đến miền núi, từ Đông sang Tây, nói
len âm mưu nay đang bắt đầu.” Sách Viet Nam: History, Documents and Opinions
on a Major World Crisis (New York:Fawcett Publications, Inc. , 1965),
noi trang 64, tác Marvin E. Gettlemen viết: “But if the place
of Vietnam within the Frenh Union could only be guessed at during the
French-Vietnamese negotiations, each side had its own definite idea of
the Indochinese Federation. The Vietnamese saw it as a little more than
a formal link between the several independent parts of Indochina; the
French wanted it to be a real entity with considerable power through
which France would continue to exercise a decisive control over Vietnam
(with or without Cochin China), Laos, and Cambodia. They used federation
as an excuse for attempts to break up Vietnam, proposing the establishment
of a separate Moi state in 1946. Two year later, they encouraged
a minority groups in Tonkin to proclaim itself a separate Thai state.
Within the framework of federation hopefd to counterbalance the power
of the Republic (of Vietnam) by keeping Cochin China separate, by maintaining
French influence in Laos and Cambodia, and by insisting on direct French
voice in working the federal machinery. Thus, on independence, as on
unity, the French and the Vietnamese were diametrically opposed during
the spring and summer of 1946.
(9) Chính Đạo, Việt Nam
Niên Biểu Nhân Vật Chí (Houston, TX: Văn Hóa, 1997), tr 199-200.
(10) Quang Toàn & Nguyễn
Hoài, Những Hoạt Động Của Bọn Phản Động Đội Lốt Thiên Chúa Giáo Trong
Thời Kháng Chiến 1945-1954 (Hà Nôi: Nhà Xuất B?n Khoa Học, 1965), tr.
21. (Ðoạn văn tren đây trích ra từ cuốn sách có tựa đề là "Người
Công Giáo Trước Thời Cuộc của tác gỉa Phao-lô Trung Chính viết ngày
28/3/1948, nhà in Lê Bảo Tịnh xuất bẩn tại Phát Diệm, 1950, trang 161.)
(11) Chính Đạo, Việt Nam
Niên Biểu 1939-1975 (Tập A: 1939-1946) (Houston, TX: Văn Hóa, 1997),
tr 295.
(12) Nigel Cawthorrn, Tyrants
History’s 100 Most Evil Despots & Dictators (London: Arcturus,
2004), p. 68.
(13) Quang Toàn & Nguyễn
Hoài, Sdd., trang 17 &18.