|

Không thể lấy thù oán để diệt sân hận
Chỉ có tâm Từ mới dập tắt
lòng sân (Bhrama Vihara)
Kỷ Niệm
Tháng Ba, 2007 là tháng mà tại nhiều nơi trên thế giới, bắt đầu
từ Hoa Kỳ, người ta kỷ niệm năm (5) năm Hoa Kỳ đơn phương tấn công
và chiếm đóng Iraq. Một cuộc tấn công với những lý do không chính
đáng, không được thế giới tán thành hay ủng hộ, mà dường như chỉ cốt
cho thế giới thấy rõ sức mạnh vô địch với sức tàn phá khủng khiếp
của mình, như để răn đe những quốc gia có thể bị coi là thù địch.
Sau 5 năm chiến tranh tàn độc, không chắc sẽ đi đến đâu, với gần
4000 binh sĩ Hoa Kỳ tử trận, chục ngàn bị thương, trên 3 nghìn tỷ (
trillions, tức khoảng 2 tỷ một ngày) chiến phí, người dân thế giới
đã thấy hàng van người dân Iraq bị chết, trên 5 triệu dân phải bỏ
cửa bỏ nhà chạy trốn, nền kinh tế và xã hội Iraq bị phá tan nát, uy
tín của Hoa Kỳ bị rách bươm qua Baghdad Hilton Abu Ghraib, qua
Guatanamo Bay, hay qua những trại giam bí mật của CIA.
Một nhầm lẫn tầy trời! Tại sao vậy? Những người ngưỡng mộ Hoa Kỳ
như là lãnh tụ anh minh của thế giới, một quốc gia làm gương cho các
quốc gia khác, hay như một ông nha sĩ người Úc hồi nào đã nói Hoa Kỳ
là “hiện thân của tinh thần tự do nhân bản của loài người”, đang tự
hỏi "Tại sao Hoa Kỳ lại có thể xấu xa đến thế?", để người dân mọi nơi
trên thế giới mất hết tin tưởng, nể trọng.
Nguyên Nhân
Hoa Kỳ và Chiến Lược Mới
Theo lệnh của Tổng Thống Hoa Kỳ George W. Bush, hay T.T Bush Con,
ngày 21 tháng 3 năm 2003, Liên Quân Anh-Mỹ (Liên Quân) đã mở một
cuộc tổng tấn công vào quốc gia Iraq. Mặc dầu đã gặp một số bất ngờ
không đúng như đã tiên liệu, Liên Quân, với một lực lượng hùng hậu,
một hỏa lực khủng khiếp, vô tiền khoáng hậu, chỉ sau 3 tuần lễ đã
tiến vào Bagdad như vũ bão, đánh tan những đội quân tinh nhuệ nhất
của Iraq, để dẹp tan chính quyền tàn bạo của Tổng thống Saddam
Hussein mà lập nên một chánh phủ khác, dân chủ và thân Tây phương
hơn.
Đây là lần thứ hai, Hoa kỳ đứng ra lãnh đạo một liên quân đánh
Iraq. Khác với lần trước, trận chiến lần này của T.T. Bush Con đã
gây ra rất nhiều bất đồng, nhiều tranh luận trên thế giới. Tổng
Thống Bush Cha, hơn mười năm trước đây, đã được sự chấp thuận của
Liên Hiệp Quốc (LHQ), của gần như hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Ngược lại, chủ trương đánh Iraq của T.T. Bush Con lần này chỉ
được có Anh Quốc, là một trong 5 đại cường ủng hộ. Trừ Hoa Kỳ, ba
đại cường kia, Pháp, Nga và Trung Hoa phản đối. Hoa Kỳ nói là đã có
lối 40 quốc gia khác - phần lớn không muốn tiết lộ danh tính - bày
tỏ lập trường ủng hộ chính sách dùng võ lực đối với Iraq của Hoa Kỳ.
Nhưng mọi người đều hiểu là đại đa số các các quốc gia ấy là những
quốc gia bé nhỏ và đã theo Hoa kỳ không phải vì lý tưởng nhân đạo
của Hoa Kỳ đối với nhân dân Iraq, mà là vì những áp lực kinh tế,
chính trị rất mạnh của Hoa Kỳ.
Lý do chánh thức Hoa Kỳ đã đưa ra trước công luận quốc tế, trong
diễn đàn của LHQ, biện minh cho quyết định của mình phải đơn phương
đánh Iraq, và phải đánh ngay, là vì chính quyền Iraq của Tổng thống
Hussein đang có và dự trữ võ khí giết người hàng loạt (weapon of
mass destruction, WMD), tức là những võ khí hóa học, vỏ khí vi
trùng, võ khí nguyên tử, đặc biệt những hơi độc mà họ đã dùng trước
đây để giết hại chính người bản xứ, gốc Kurd hay theo giáo phái
Shiite. Do đó, Iraq đã vi phạm quyết nghị của LHQ, và là một đe dọa
cho các quốc gia trong vùng, và cả cho Hoa Kỳ vì Iraq có thể trao
các vỏ khí đó cho bọn khủng bố Al Qaida phá hoại Hoa Kỳ. Ngoài ra,
chính quyền Hussein là một chính quyền độc tài, vô nhân đạo, áp bức
nhân dân, cần phải dẹp bỏ, để giải phóng nhân dân Iraq khỏi ách
thống trị này. Hoa Kỳ hứa hẹn sẽ đem tự do dân chủ đến cho nhân dân
Iraq để họ có thể làm chủ lấy chính mình.
Những giải thích trên dường như không được thế giới tin cho lắm.
Không ảnh do ông Ngoại trưởng Hoa Kỳ Colin Powell đưa ra trước LHQ
làm bằng chứng, cho thấy những cơ sở sản xuất/tàng trữ võ khí hoá
học, vi trùng, loại WMD, của Iraq, do phi cơ thám thính Hoa Kỳ chụp
được, đã bị ông Hans Blix, trưởng phái bộ thanh tra võ khí Iraq của
LHQ bác bỏ: Phái đoàn LHQ đã đến tận nơi những cơ sở ông Powell nêu
ra và đã không thấy như Hoa Kỳ đã mô tả. Sự kiện này đã lại được xác
nhận khi Liên Quân tiến đánh Iraq, vào tận thủ đô Bagdad, làm chủ
tình hình các mặt trận mà vẫn không thấy Iraq có, hay dùng đến WMD
để chống trả lại.
Phần lớn các quốc gia ở Trung Đông, tiếp cận với Iraq đều không
thấy Iraq là mối đe dọa cho quốc gia họ. Họ đều không muốn Hoa Kỳ
tấn công Iraq, mà cũng chẳng yêu cầu Hoa Kỳ bảo vệ nước họ. Một số
nước đồng ý cho quân đội Hoa Kỳ sử dụng lãnh thổ để tấn công Iraq là
vì sợ Hoa Kỳ cho vào sổ đen nhiều hơn là sợ Iraq. Thế giới dường như
cũng không tin rằng Iraq, với mấy hỏa tiễn cổ lỗ có tầm hoạt động
rất giới hạn, lại có thể là một mối đe dọa cho Hoa Kỳ được.
Còn đối với những tố giác của Hoa Kỳ rằng Iraq đã và đang trợ
giúp nhóm khủng bố Al-Quaida, kẻ thù chính yếu của Hoa Kỳ, thì thế
giới không thấy Hoa Kỳ đưa ra một bằng chứng cụ thể nào. Các quốc
gia trên thế giới đều thấy và đồng ý với Hoa Kỳ là chính thể Saddam
Hussein là một chính thể độc tài, vô nhân đạo, không tôn trọng nhân
quyền. Nhưng họ không thấy đó là một lý do để đơn phương tấn công
quốc gia này. Vì đó là chuyện riêng của dân Iraq. Vả chăng, mọi
người đã từng thấy nhiều nước khác trên thế giới có chánh thể tàn
bạo, thành tích nhân quyền tệ hại như Iraq mà Hoa Kỳ đâu có động tâm
bao giờ, ngược lại, để bảo vệ quyền lợi của mình, vẫn giữ mối bang
giao tốt đẹp (thí dụ chính quyền Pinochet cùa Chile, chính quyền
Apartheid của Nam Phi, chính quyền Suharto của Nam Dương, chính
quyền Trung Cộng, và oái oăm thay, ngay chính quyền của T.T. Saddam
Hussein cũng đã từng được Hoa Kỳ giúp đỡ để đánh Iran (2), một kẻ
thù của Hoa Kỳ).
Trong nền "chính trị thực tiễn" hiện đại (realpolitik, một danh
từ hay dùng của ông H. Kissinger), Quyền lợi quốc gia (5) hay của phe
nhóm bao giờ cũng đi trước Lý Tưởng Nhân sinh, hay Hạnh Phúc của bàn
dân thiên hạ. Tuy nhiên, Lý Tưởng Nhân sinh như tự do, dân chủ, độc
lập, hạnh phúc.., bao giờ cũng được đưa ra trước để che dấu hay biện
minh cho những hành động chính trị nhằm mục đích bảo vệ hay khuyếch
trương quyền lợi của chính mình. Còn đối việc đem tự do dân chủ đến
cho các quốc gia nhược tiểu, thì người ta đã thấy Hoa Kỳ đã từng
dựng lên những chính thể có vẻ tự do dân chủ (một thí dụ gần Việt
Nam nhất là chính thể Lol Non ở Căm Bốt vào đầu thập niên 70) nhiều
phần là để bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ hơn là mưu cầu hạnh phúc cho
dân xứ ấy. May ra lần này đối với chính quyền Từ Bi (compassionate)
của T.T Bush Con có thể sẽ khác trước chăng?
Bởi vậy, đại đa số dân chúng cũng như chính quyền tại các quốc
gia trên thế giới (lối 70%) đều tỏ ý chống chiến tranh đơn phương
đánh Iraq do Hoa Kỳ và Anh Quốc chủ trương. Người ta đã thấy, qua
các đài truyền hình, hàng triệu người của hàng chục nếu không nói là
hằng trăm quốc gia trên thế giới, kể cả những đô thị lớn của Hoa Kỳ
và Anh Quốc, biểu tình tuần hành trên các đường phố phản đối cuộc
tấn công đơn phương của Anh-Mỹ đánh Iraq.
Thế nhưng, tại Hoa kỳ, chủ trương đánh Iraq của T.T. Bush Con đã
lại được đa số dân chúng (hơn hai phần ba) ủng hộ. Chiến tranh hay
không chiến tranh đã được dân chúng Thế Giới và dân chúng Hoa kỳ có
những nhận định rất khác nhau, ngược nhau. Bởi lẽ, không những giá
trị về lý tưởng đạo đức đã khác nhau giữa các dân tộc, tùy văn hóa
tập tục mỗi nơi, mà quyền lợi quốc gia đối nghịch nhau trong trường
hợp này lại rất lớn: Iraq có những dự trữ dầu hỏa lớn nhất thế giới,
chỉ sau có Saudi Arabia, một quyền lợi mà các đại cường đều muốn có
lời ăn tiếng nói.
Kinh nghiệm cho thấy phản ứng chính trị của con người ta, bất cứ
ở đâu, ở bất cứ trường hợp nào, phần lớn là bị chi phối bởi tình
cảm, bởi súc động, bởi lòng yêu thương hay ghét bỏ. Trong những
tranh luận chính trị, rất ít khi chỉ bằng lý trí, bằng luận cứ đúng
sai mà có thể làm thay đổi được nhãn quan của người khác.
Do đó, nhiều nhà phân tách, bình luận chính trị đã giải thích sự
ủng hộ Chiến tranh của đa số dân Hoa Kỳ - trong khi đa số dân chúng
thế giới lại chống - bằng lòng ái quốc rất cao của họ, cao hơn dân
chúng nhiều nước khác, là một điều không phải là không có lý. Người
Hoa Kỳ rất tin tưởng ở, do đó luôn luôn sẵn sàng đứng sau lưng, lãnh
đạo của họ, hết lòng hỗ trợ quân đội của quốc gia, nhất là khi Tổ
Quốc lâm nguy hay gặp cơn nguy biến khó khăn. Điều này đã từng sẩy
ra nhiều lần trong lịch sử nước này.
Trường hợp Iraq lần này có khác biệt là Iraq không chắc có là một
mối đe dọa cho nền an ninh của Hoa Kỳ. Nhưng một khi chính phủ, vì
một lý do nào đó, đã nói là chính phủ có đầy đủ lý do để phải đánh
Iraq, thì đa số dân Hoa Kỳ sẽ tin là đúng và sẻ hết lòng ủng hộ.
Giống cừu của ông Panurge không phải chỉ có ở Pháp vào thế kỷ thứ
17, mà còn có ở rất nhiều nơi trên thế giới, kể cả tại xứ Hoa Kỳ rất
mực văn minh thời đại này. Không những thế, cuộc chiến sẽ lại rất
chênh lệch. Hoa Kỳ chắc chắn sẽ đánh tan đánh nát Iraq, nếu muốn.
Người dân Hoa Kỳ biết rất rõ sức mạnh của nước mình, tất nhiên cảm
thấy rất phấn khởi và hãnh diện khi có dịp tỏ ra cho bất cứ ai, bất
cứ quốc gia nào, sức mạnh vô địch của nước mình, huống hồ đây lại là
một nước Iraq nhỏ nhít, lại dám đe dọa một đại cường là Hoa Kỳ, như
chính phủ đã nói. Sự biểu dương sức mạnh lần nảy chắc ăn và chẳng
mấy nguy hiểm gì (risk free), chẳng cần phải suy nghĩ đắn đo nhiều.
.
Trong khi đó lòng hoài nghi của mọi người trên thế giới đối với
mục đích thực sự của Hoa Kỳ, trước khi, hay cả sau khi Hoa Kỳ mở
cuộc tấn công, vẫn ám ảnh nhiều người. Người ta đã đưa ra rất nhiều
giả thuyết khác, ngoài những lý do chánh thức Hoa Kỳ đã đưa ra, giải
thích tại sao Hoa Kỳ lại nhất định đánh Iraq. Những lý do này có thể
tóm tắt như sau:
1. Để kiểm soát được các mỏ dầu hỏa tại
Iraq
- Giả thuyết này rất
phổ thông, nhất là tại các nước miền Trung Đông, thuộc khối Ả Rập.
Giả thuyết này lại càng được nhiều người tin chắc, khi thấy Hoa Kỳ
đã cấp ngay một khế ước đầu tiên, trong khi chiến tranh còn đang
tiếp diễn, cho đại công ty dầu hỏa Halliburton, Texas (của Phó Tổng
thống Dick Chenney) để rập tắt những đám cháy tại các mỏ dầu hỏa,
chuẩn bị sẵn sàng khai thác trở lại. Tin này được đăng trên các hãng
truyền thông ngoại quốc (thí dụ tờ Finacial Times, Anh Quốc
04/12/03) mà không được phổ biến tại Hoa Kỳ, có lẽ vì lòng ái quốc
cao của những người làm thông tấn tại Hoa Kỳ. Các hãng thông tấn của
Hoa Kỳ đã bị người Anh (đồng minh của Hoa Kỳ trong trận đánh Iraq)
cho là đã thiên vị trong khi làm phóng sự cuộc chiến.(3)
2. Để có một chân đứng tại vùng Trung Đông - với giả thuyết này,
Hoa Kỳ sẽ rất có lợi cả về phương diện cbính trị, kinh tế lẫn quân
sự
a) về chính trị và kinh tế, Hoa Kỳ sẽ không sẽ không còn sợ áp
lực về dầu hỏa của Saudi Arabia và nhóm OPEC nữa.
b) về quân sự, Hoa
kỳ sẽ có một thế đứng rất mạnh, dễ dàng đương đầu với những bất ổn
tại vùng này, nhất là để giải quyết vấn đề căn bản cho An Ninh quốc
gia của Hoa kỳ, là cuộc tranh chấp Do Thái-Palestine.
3. Để bành trướng địa bàn hoạt động chống và diệt nhóm khủng bố
Al-Qaida - Sự có mặt thường trực của Hoa Kỳ tại Trung Đông sẽ giúp
Hoa Kỳ rất nhiều trong chiến dịch bài trừ nhóm Al-Qaida.
4. Vì đố kỵ cá nhân giữa T.T Bush v à T.T Hussein
- T.T. Bush đã
nhiều lần bầy tỏ công khai lòng căm giận, thù ghét T.T Hussein, mà
ai cũng biết là trước đây đã có âm mưu ám sát cựu T.T. Bush Cha.
Không thể biết được lý do nào là động cơ chính yếu thúc đẩy T.T
Bush Con lấy quyết định đơn phương đánh Iraq, dù không có chấp thuận
của LHQ. Rất có thể là động cơ ấy là tổng hợp của nhiều hay tất cả
các lý do trên. Vả chăng, như đã nói ở trên, xu hướng hay lòng tin
chính trị thay đổi nơi mỗi người tuỳ theo cảm tình và lòng xúc động
cá nhân mỗi người. Người viết chỉ trình bầy ra để mỗi người tuỳ
"tâm" thẩm định.
Nhưng có một điều chắc chắn đã xẩy ra mà đã có ảnh hưởng rất lớn
đến - nếu không phải là nguyên nhân sâu xa của - chiến dịch đánh
Iraq trên. Đó là ngày 20 tháng 9, năm 2002, ngày mà chính phủ Hoa Kỳ
đã soạn thảo song và trình bầy trước Quốc Hội Hoa Kỳ bản cương lĩnh
chính trị mệnh danh là Chiến Lược An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ (Chiến
Lược) - the National Security Strategy of the United States of
America. Đây là một bản cương lĩnh chính trị xác định đường lối mới
của chính phủ Hoa Kỳ trên chánh trường quốc tế. Bản cương lĩnh này
là kết tinh sự nghiên cứu của những cố vấn thân cận nhất của T.T.
Bush, như Dick Cheney, Condolessa Rice, Donald Rumsfeld, Paul
Wolfowitz... là những thành viên của nhóm nghiên cứu (think tank)
cực hữu The Hoover Institute of War, Revolution and Peace và
American Enterprises Institute.
Công cuộc nghiên cứu này được hình thành sau biến động 9/11 để
đối phó với nhóm khủng bố Al Qaida. Hoa Kỳ không muốn đóng vai thụ
động để bị khủng bố như trước, mà phải truy kích, lùng diệt kẻ địch
(tương tự như chiến lược "truy lùng và tận diệt" - search and
destroy - của Đaị Tướng Westmoreland năm nào), bất kể ở đâu, bất cứ
trường hợp nào. Quan niệm "phải đơn phương đánh trước" (unilateral,
pre-emptive attack) được khởi xướng. Quốc gia nào giúp đỡ hay chứa
chấp Al Qaida sẽ bị coi là thù nghịch của Hoa Kỳ và sẽ có thể bị đơn
phương tấn công luôn. Hơn thế nữa, Hoa Kỳ đã lại biết rất rõ cái
cương vị rất hãn hữu của mình, sau sự tan rã của chính quyền Cộng
Sản và Liên bang Sô Viết khổng lồ. Hoa Kỳ đã đương nhiên trở nên
quốc gia lãnh tụ vô địch, một thứ Vỏ Lâm Bất Bại Bá Chủ Thiên Hạ, bỏ
xa các quốc gia khác về mọi phương diện. Ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên
các quốc gia trên thế giới - một thế giới càng ngày càng nhỏ lại vì
tiến bộ giao thông và tin học - thật rộng lớn, trùm khắp mọi lãnh
vực, nhất là kinh tế, tài chánh, quân sự, và cả văn hoá. Có thể nói
là không một quốc gia nào trên thế giới lại dám điên khùng tự mình
gây hấn với Hoa Kỳ trước. Có chăng, chỉ vì bị dồn vào thế chặng
chẳng đừng như Cuba chẳng hạn.
Cái ưu thế vô tiền khoáng hậu ấy, tại sao mình (tức Hoa Kỳ) lại
không tìm cách bảo vệ nó? Tại sao mình (tức HK) lại không lợi dụng
cái ưu thế đó mà củng cố cái địa vị Bá Chủ của mình? Tại sao mình
(tức HK) lại để cho người khác dành cái ngôi Bá Chủ ấy? Tại sao lại
phải tùy thuộc, dựa dẫm, nhờ vả vào các nước khác, khi mà mình (HK)
có thể một mình làm lấy được mọi việc? Tại sao mình (HK) lại tự ràng
buộc vào những cam kết, hứa hẹn chẳng có ích lợi cho mình bao nhiêu?
Tại sao mình (HK) lại phải nể nang ai, sợ ai?
Tất cả những câu hỏi đó đã đưa đến bản Cương Lĩnh Chính Trị ngày
20 tháng 9, năm 2002.
Bản Chiến Lược này đã được Bác sĩ Y Khoa H. Jack Geiger, Chủ Tịch
Tổ Chức các Y Sĩ Trách Nhiệm Xã Hội, đả tóm lược trong một bài ngắn
gọn rất đáng chú ý đăng trên nhật báo New York Times ngày 27 tháng
9, năm 2002 và lược dịch như sau:
Bản Lược Dịch
1) Chính phủ Bush, với
Chiến Lược mới, đã không nhận mọi Hợp Tác Quốc Tế, không phải để thu
mình đứng riêng một mình một cách tiêu cực. Ngược lại, Chiến lược
này là một bản tuyên ngôn tỏ ý định muốn thống trị thế giới.
2) Với Chiến Lược này, chính phủ Bush đã từ bỏ những Hiệp Ước
Quốc Tế đã ký kết về tài giảm binh bị, về tài giảm phòng thủ chống
hỏa tiễn, về cấm thử nghiệm võ khí hạch tâm, và tự kiềm chế không
tấn công ai trước. Chính phủ Bush tuyên bố sẽ đơn phương tấn
công trước bất cứ nước nào bị coi là mối đe dọa cho Hoa Kỳ. .
3)
Chính phủ Bush tuyên bố sẽ không cho phép quốc gia nào có thể đạt
được sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ. Chúng ta (tức HK) sẽ khuyên bảo họ
chớ làm chuyện này. Chính phủ Mỹ đề nghị một nền kinh tế toàn cầu
quản trị bởi những cơ chế do chúng ta (tức HK) kiểm soát như Quỹ
Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) và Ngân Hàng Quốc Tế (WB)
4) Tóm lại chính quyển Bush xác quyết Chủ Quyền Hoa Kỳ phải ở
trên chủ quyền các nước khác. Hoa Kỳ là Vô Thượng(4)
Nguyên bản tiếng Anh
1- The Bush administration's new
national security strategy (front page, Sept.20), despite its
rejection of international cooperation, is the very opposite of
isolationism. It is a declaration of intent for global domination.
2- It abandons longstanding treaties and agreements on
nonproliferation, antiballistic missile defense, comprehensive
nuclear test bans and no-first-strike understandings. It announces
that we will strike pre-emptively and unilaterally against any
nation that we define as a threat.
3- It declares that no other nation may attempt to equal our
military strength: we will "dissuade" it. It proposes a global
economic policy to be administered by instruments we control, the
International Monetary Fund and the World Bank.
<4- In sum, it asserts that American sovereignty trumps all other
nationalsovereignties -- America uber alles(4).
H. JACK GEIGER, M.D. Brooklyn,
Sept. 20, 2002
The writer is a founding member and former president, Physicians
for Social Responsibility |
Bạn đọc nào có muốn xem toàn văn bản Chiến Lược này, có thể tìm
thấy trong mạng lưới Internet dưới địa chỉ của Tòa Bạch Ốc .
(https://www.whitehouse.gov/nsc/nss.html)
Bản Chiến Lược được công bố ra đã làm sửng sốt rất nhiều giới
lãnh đạo, nhiều người làm chính trị trên thế giới. Ngay tại Hoa Kỳ,
Thượng Viện cũng đã hết sức sửng sốt như thể đã bị "tê liệt không
biết phải làm sao" (We stand passively mute in the United States
Senate, paralyzed by our own uncertainty, seemingly stunned by the
sheer turmoil of events.) theo lời của Thượng Nghị Sĩ Robert Byrd.
TNS Byrd là một trong số hiếm hoi các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã có một
phản ứng gay gắt về chuyện này. .
Sau A Phú Hãn, T.T Bush đã quyết định đơn phương đánh Iraq. Quyết
định này ắt phải nằm trong Chiến Lược nói trên. Nhiều người phân vân
không biết sau Iraq sẽ xẩy ra chuyện gì? Ai sẽ bị (đơn phương) coi
là "mối đe dọa cho Hoa Kỳ?". Bắc Hàn? Iran? Syria? hay một nơi nào
khác?
Chiến Lược này đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong lịch sử
Hoa Kỳ, cũng như lịch sử thế giới. Hạnh phúc của Nhân Loại, phần nào
sẽ tùy thuộc vào Hoa Kỳ, vào những nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, vào cái nhìn
của họ về Quyền lợi của Hoa Kỳ đối với Hạnh Phúc của người dân các
nước khác. Đây là một trách nhiệm rất lớn, rất nặng nề. Trong cương
vị T.T Hoa Kỳ, tức là người có quyền uy cao nhất thiên hạ, nắm quyền
sinh sát hàng triệu sinh linh trong tay - ba triệu dân Palestine có
thể là một thí dụ - T.T Bush Con ắt phải cảm thấy nhiều lúc, ngoài
lòng hãnh diện, men say sưa của vai trò Thiên Hạ Đệ Nhất Nhân -
trọng lượng của Lương Tâm của một người có tinh thần trách nhiệm.
Có lẽ vì cảm thấy cái trách nhiệm định mệnh của mình, cũng như
cảm thấy sự khiếp sợ đã gây ra khắp thế giới vì Chiến Lược "đơn
phương đánh phủ đầu" và "bất cần thiên hạ di nghị" của mình - mà
nhiều người đã thấy đó là một Chủ Nghĩa Đế Quốc mới - T.T Bush Con
đã nhiều lần lên tiếng nói rằng Hoa Kỳ, đại diện bởi ông, sẽ rất "từ
bi" rông lượng (compassionate). Có thật là như vậy không thì quá sớm
để trả lời. Cho đến bây giờ, chưa có gì chứng tỏ T.T Hoa Kỳ là hiện
thân của một vị Bồ Tát Từ Bi, mà cũng chẳng phải là một Sa Tăng Ác
Quỷ như một số vị lãnh đạo quốc gia đã bị ông gọi như vậy, hay một
số đạo sư Muslim đã gọi ông như vậy. Bây giờ ông mới chỉ là một nhà
lãnh đạo được dân bầu ra để bảo vệ và phát triển quyền lợi của tổ
quốc ông.Tất nhiên mọi người đều rất kỳ vọng vào điều này, bởi vì
lòng Từ Bi của T.T. Hoa Kỳ, nếu được thể hiện, sẽ như nước Cam Lồ
tưới vào cái không khí ngột ngạt của nền chính trị thế giới đang sôi
sục vì Quyền Lợi (5). (dầu hỏa), vì hận thù (Do Thái/Ả Rập), vì thi
đua võ trang, nhất là võ khí hạch tâm, vì phá hoại môi sinh để kiếm
lợi, vân vân.
Nhiều người nghĩ rằng hạnh phúc thế giới sẽ tùy thuộc nhiều vào
cái nhìn của Hoa Kỳ đói với Quyền Lợi của mình và của người, hơn là
lòng Từ Bi của T.T. Hoa Kỳ. Bởi vì Từ Bi thì dễ nói hơn là dễ làm,
trong khi Quyền Lợi thì hiển lộ diện tiền.
Trong đạo Phật, chữ Bi hay là Từ Bi là cái hạnh căn bản, đầu tiên
của người muốn làm đệ tử của Phật. Kẻ hành trì "tự tâm phát hiện
lòng thương chân thật. Lòng thương này được biểu lộ trong hành động,
ngôn ngữ chia vui sớt khổ cho nhau...Những khi hoạn nạn, những đau
buồn của người khác nên coi là hoạn nạn đau buồn của chính ta, cố
gắng tìm cách giải cứu...." (H.T. Thích Thanh Từ). Từ Bi không thôi
sẽ không đủ. Chữ Bi phải được theo sau bằng hai chữ Trí và Dũng mới
nói lên hết tinh thần Phật giáo. Dù con người cố gắng làm điều lành,
nếu thiếu trí tuệ phán đoán thì chưa hẳn việc làm đã là lành. Và một
khi đã làm điều lành thì cần có một tâm dũng mãnh quyết tâm làm cho
bằng được, bất chấp trở ngại khó khăn.
Khó lắm thay!

(1) Từ Bi (compassion) và Ác Quỷ (evil) đã là hai danh từ rất thời
thượng trong nền chính trị Hoa Kỳ hiên đại.
(2) Một phương châm trong nền chính trị thực tiễn hiện đại: "Bạn
của bạn ta chưa chắc có thể là bạn ta (thí dụ: ông Arafat là bạn của
ông Nelson Madela, một người bạn của Hoa Kỳ, nhưng chắc chắn Arafat
không phải là bạn của Hoa Kỳ), nhưng kẻ thù của kẻ thù của ta lại
rất có thể là bạn ta (thí dụ Iraq là kẻ thù của Iran, một kẻ thù của
Hoa Kỳ. Do đó Hoa kỳ giúp đã giúp đỡ Iraq để đánh Iran là điều tự
nhiên)"
(3) Ông Greg Dyke, Tổng Giám Đốc đài BBC đã tỏ ra rất ngạc nhiên
và kinh hoàng (surprise and shocked) trước giọng điệu thiên vị của
các hãng thông tấn lớn truyền hình và truyền thanh của Hoa Kỳ khi
làm phóng sự chiến trường Iraq. Ông cho rằng, từ ngày có biến đông
9/11 "các nhà làm thông tấn Hoa Kỳ đã quấn cờ Hoa Kỳ vào người" và
đã lẫn lộn tinh thần khách quan vô tư của người làm thông tấn với
lòng nhiệt thành thiên vị của người ái quốc. Các hãng thông tấn lớn
như NBC, Fox News từ chối bình luận về lời tố giác của ông Dyke.
Riêng đài phát thanh Clear Channels thì cải chính tin đài BBC cho
rằng đài đã tổ chức những cuộc xuống đường để ủng hộ chiến tranh.
Nhưng đài công nhận đã chỉ có một cá nhân phát ngôn viên của đài đã
khuyến khích mọi người xuống đường mà thôi. Nhưng đó không phải là
chủ trương của đài.
(4) Tiếng Đức, có nghĩa là "trên hết tất cả" (vô thượng), là một
cụm từ được dùng rất nhiều dưới thời Đúc Quốc Xã
(5) Ông Henry Kissinger, một chính trị gia lỗi lạc của thế kỷ đã
nói "Giữa các quốc gia chẳng có cái gì gọi là tình Hữu Nghị cả mà
chỉ có Quyền Lợi":
Cầu Nguyện
Cũng trong tháng 3 này, một nhà
lãnh đạo tinh thần Hoa Kỳ đã làm chấn động chính giới, với những bài
thuyết pháp nẩy lửa. Mục sư Jeremiah Wright, người đỡ đầu tâm linh
của ứng cử viên Tổng Thống sáng giá Barack Obama, đã nói lên hai
điều mà người dân Hoa Kỳ chẳng muốn nghe, chẳng muốn nghĩ tới. Một
là Hoa Kỳ đã đối xử rất tàn tệ với những người công dân da mầu và
nạn kỳ thị mầu da vẫn còn âm ỷ. Hai là Hoa Kỳ đã gây ra biết bao tội
ác, giết hại cả triệu người trên thế giới, từ Hiroshima, Nagasaki
đến Việt Nam, lại ủng hộ những chính sách khủng bố ở tầm mức quốc
gia, đối với dân Palestine, dân Nam Phi, chẳng khác bao nhiêu cuộc
khủng bố 9/11 năm nào. Đối với lời tố cáo thứ nhất, cộng đồng Hoa Kỳ
đã có nhiều người lên tiếng, kể cả Barack Obama, phần nhiều là để
phản đối. Nhưng đối với lời tố cáo thứ hai, chỉ có một sự im lặng
đồng lõa, một sự im lặng sấm sét chói lọi nói lên một sự thật không
ai muốn biết: Hoa Kỳ đã từng reo rắc khủng bố tại nhiều nơi trên thế
giới , như Noam Chomsky, giáo sư trường MIT đã từng lên tiếng. Và
bây giờ đây, thảm cảnh lại đang xẩy ra tại Iraq, không biết bao giờ
mới chấm dứt.
Làm thế để làm gì vậy? Chỉ vì Hoa Kỳ có quá nhiều quyền lợi lớn
lao phải bảo vệ, mà lại có sức mạnh tàn phá kinh khủng để bảo vệ
những quyền lợi đó, sẵn sàng mang ra xử dụng. Từ đó, Hoa Kỳ đã có
một cái “Ngã” quá lớn - America uber alles, H. Jack Geiger, M.D -
với một lòng kiêu mạn tràn đầy, không còn chỗ cho tình Thương chân
thật, cho tấm lòng sót thương cho cả vạn người Trung Đông đã “bỏ xác
trôi sông, chết ngoài ruộng đồng, chết rừng mịt mù, chết thật lạnh
lùng, mình cháy như than” (Trịnh Công Sơn)
Kỷ niệm 5 năm cuộc chiến Iraq, người Hoa Kỳ thấy nên phải làm gì? Sám
hối thì không bao giờ có trong Từ Điển chính trị cả. Nhưng còn Cầu
nguyện. Hãy cầu siêu cho hàng vạn vong linh những người, Ả Rập xấu số,
từ Palestine qua Iraq được siêu thoát. Hãy, cầu an cho cả triệu người
vùng Trung Đông đang sống vật vờ khắc khoải tại các trại tỵ nạn, sớm
được trở về quê cha đất tổ để được an cư lạc nghiệp như mọi người.
Tháng 3, năm 2008
|