 |
06 tháng 6, 2009 |
Như chúng ta đã biết, kể từ sau ngày 30 tháng 4
năm 1975 đến nay, có nhiều chuyện đã được bạch hóa hồ sơ về những ngày cuối
cùng Việt Nam Cộng Hòa, nhờ sách báo cũng như sự giải mật tài liệu của chánh
phủ Hoa Kỳ, nhân đây để tìm hiểu hư thực “Saigon et Moi” như thế nào? xin trích
dẫn lần lượt để quý độc giả cùng nhau thẩm định như sau :
● Mãi đến tháng 4 năm 1991, nguyệt san Diễn Đàn
Việt Nam số 4 phát hành tại
miền Nam nước Đức, do hai nhóm Hướng Việt và Khởi Hành chủ trương & thực
hiện, đăng tóm lược hồi ký của Mérillon Cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam (Những
ngày Cuối cùng của VNCH) từ trang 02 đến trang 07, và viết Lời Toà Soạn (LTS)
như sau :
LTS : Tại khách sạn La Fayette, quận 6, Paris, ông Mérillon, nguyên đại sứ
Pháp tại Việt Nam Công Hòa cho tới năm 1975, đã ra mắt cuốn hồi ký Saigon et
Moi (Sài gòn và Tôi) trước một số cử tọa thượng thặng như 3 vị cựu Thủ tướng
Giscard D' Éstaing, Pierre Mesmer, Jacques Chirac (ông Chirac còn là chủ tịch
đảng Cộng Hòa RPR), Jacques Hunzinger (Ủy viên ngoại vụ đảng Xã Hội Pháp),
Louis Mermas (Chủ tịch Hạ Viện) v.v... Theo một nguồn tin được biết là cuốn
sách này đã bị Bộ Ngoại Giao cho lệnh thu hồi. Rút cuộc, chúng ta chỉ được
thấy một bản tóm tắt dưới đây do một nhân vật tình cờ có được cuốn đó. Chúng
tôi xin đăng bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ, Paris, để biết được ít nhiều thêm
về những việc làm của những vị đã, đang cầm vận mệnh đất nước cũng như những
thế lực ngoại bang trong những ngày hấp hối của Việt Nam Cộng Hòa.
● Báo Viên Giác số 80, phát hành tháng 4 năm 1993 cũng tại nước Đức đã đăng
dề tài nêu trên, từ trang 64 đến trang 69, nhưng có thêm phần Lê Đức Thọ Sỉ
Mạ Tôi và Các Tướng Lảnh Bị Nhốt Tại Bộ Tổng Tham Mưu, nhưng không có LTS,
được biết bài này đã được tạp chí Dân Tộc Việt đăng trước, báo Viên Giác trích
đăng lại với tựa như sau :
18 năm sau ngày Cộng Sản cưỡng chiếm miền Nam, nghe lại lời kể của Đại
Sứ Pháp Về : Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa
(bài này đã đăng quá nhiều báo đăng nên không cần trích ra đây cho mất
thời giờ)
● Trong khi đó, báo Ngày Nay số 109 tháng 4 năm 1993 đăng từ trang 42 đến trang
cuối là 108, phát hành tại Hoa Kỳ cũng đề tài trên, ngoài ra có lồng hình của
ông Nguyễn Hữu Thọ và bà Nguyễn Thị Bình, trong Lời Toà Soạn xin trích dẫn
như sau:
LTS : Ngày 23-03-1985, tại khách sạn La Fayette, quận 6, Paris, ông
Mérillon, nguyên đại sứ Pháp tại Việt Nam Công Hòa cho tới năm 1975, đã
ra mắt cuốn hồi ký Saigon et Moi (Sài gòn và Tôi) trước một số cử tọa thượng
thặng như 3 vị cựu Thủ tướng Giscard D'Estaing, Pierre Hesmer, Jacques
Chirac (ông Chirac còn là chủ tịch đảng Cộng Hòa RPR), Jacques Junzinger
(Ủy viên ngoại vụ đảng Xã Hội Pháp), Louis Mermas (Chủ tịch Hạ Viện) v.v ... Ngay
sau khi biết có tập hồi ký trên, chúng tôi đã nhờ thân hữu tại Paris đặt
mua, nhưng không tiệm sách nào có. Theo một nguồn tin được biết
là cuốn sách này đã bị Bộ Ngoại Giao cho lệnh thu hồi. Rút cuộc chúng ta
chỉ được thấy một bản tóm tắt dưới đây do một nhân vật tình cờ có được
cuốn đó. Chúng tôi xin đăng bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ ở Paris.
Tóm lược cuốn hồi ký của MÉRILLON, cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam
Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa
Vũ Hải Hồ
Nếu chúng ta so sánh Lời Tòa Soạn của báo Dìễn Đàn Việt Nam và báo Ngày Nay,
thì thấy tên các nhân vật Pháp khác nhau : Pierre Mesmer/ Pierre Hesmer - Jacques
Hunzinger/ Jacques Junzinger (Ủy viên ngoại vụ đảng Xã Hội Pháp). Đặc biệt
báo Ngày Nay xác nhận đăng thêm : “Ngay sau khi biết có tập hồi ký trên, chúng
tôi đã nhờ thân hữu tại Paris đặt mua, nhưng không tiệm sách nào có”
● Riêng báo Đất Mẹ 56 phát hành tháng 4 năm 1995 tại Houston, Texas USA do ông
Nguyễn Phi Thọ làm chủ nhiệm & chủ bút cũng đăng đề tài trên từ trang 21
đến trang 33, với Lời Toà Soạn xin trích dẫn như sau :
LTS : Nhân ngày 30 tháng 4 năm 1995, tưởng nhớ một kỷ niệm đau buồn
: Miền Nam Việt Nam bị rơi vào tay Cộng Sản, hàng trăm ngàn quân cán chính
phải đi vào vòng lao tù cả đến hàng chục năm. Đây là hậu quả của
một nhóm người không có khả năng lãnh đạo đất nước, đã tự ý quyết định
những giải pháp ngu xuẫn trong những giờ phút hấp hối của VNCH. Lời kể
lại của cựu Đại Sứ Pháp Mérillon chứng minh rằng : Đất nước rơi vào tay
Cộng Sản không phải vì quân lực VNCH yếu kém, nhưng rõ ràng chỉ vì cái
đám “cào cào” vô tài bất tướng, không có khả năng lãnh đạo, hèn nhát trong
tinh thần và quyết định còn thua cả thằng bé đánh giầy 10 tuổi. Chúng tôi
hy vọng rằng, sai hai mươi năm, dân tộc Vìệt Nam ôm mối hận chưa nguôi,
sẽ là bài học cho những ai ở hải ngoại, nếu cảm thấy mình không đủ tài
sức và phong cách, thì đừng vì có tự do mà muốn làm lãnh tụ. Hãy lượng
sức mình trước khi muốn dìu dắt hai triệu ngươì Việt di cư theo mình trong
những mưu đồ bất chánh. Khi tướng Dương Văn Minh nhảy lên làm Tổng Thống,
bất chấp hiến pháp, là ông đã có ý định đầu hàng Cộng Sản chứ không như
ông tuyên bố sau này : Không muốn biến Sàigòn thành một biển máu. Lý do
thứ hai, tướng Minh hy vọng sau khi dâng miền Nam cho Cộng Sản, ông sẽ
có một chỗ ngồi tốt lành trong chính phủ Hà Nội (hoặc có thể trong chinh
phủ MTGPMN), và rồi được CSVN ca ngợi. Hy vọng này phát xuất từ sự tin
tưởng vào người em ruột của ông là tướng Dương Văn Nhật (*) đang phục vụ
trong quân đội Cộng Sản Hà Nội. Nhưng tiếc thay, đại sứ Mérillon đã so
sánh khả năng của tướng Dương Văn Minh chỉ bằng một em bé đánh giầy 10
tuổi, thì tướng Dương Văn Nhật cũng chỉ là một em bé bấn đậu phọng 8 tuổi.
Tướng Nhật chẳng là cái gì trong nhóm lãnh đạo của Hà Nội. Một Dương Văn
Minh đã bị Đại Sứ Pháp so sánh bằng đứa bé đánh giầy 10 tuổi, thì chúng
ta cũng đừng để cho Cộng Sản Việt Nam đánh giá khả năng lãnh đạo người
Việt di cư giống như vậy.
(*) Báo Đất Mẹ và báo Ngày Nay đăng chức vụ em tướng Dương Văn Minh là thiếu
tướng, trong khi các báo Diễn Đàn Việt Nam và Viên Giác đăng chức vụ là thiếu
tá với tên là Dương Văn Nhựt, ngoài ra chỉ có báo Đất Mẹ đăng tên Dương Văn
Nhật ? và nhắc lại lời Đại Sứ Pháp Mérillon để mạ lỵ tướng Minh. Riêng báo
Phụ Nữ Diễn Đàn số 140, năm 1995 trang 71 do Đặng Văn Nhâm viết em tướng Minh
là Đại Tá Dương Văn Nhựt ? Và mãi đến ngày 01-09-1996 báo Tuổi Trẻ chủ nhật,
số 34-96 năm 14 phát hành tại Việt Nam, có đăng xác nhận em của Đại Tướng Dương
Văn Minh là thiếu tá Dương Văn Nhựt tức Mười Ty móc nối Dương Văn Minh để chấp
nhận đầu hàng vào ngày 30-04-1975.
Đại Sứ Pháp Mérillon kể về :
Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa
● Ngoài ra, trong báo Lên Đường phát hành Houston, Texas, U.S.A - hai tháng
1 lần, bộ 1, số 4 từ ngày 15 tháng 4 đến 15 tháng 6 năm 1989 do ông Chính Đạo
làm chủ nhiệm, đăng đề tài trên từ trang 32 đến trang 45, nhưng thiếu phần
Đại Tướng Dương Văn Minh liên lạc với người em Dương Văn Nhựt và bị Đại Sứ
Pháp nói : “... Công việc này không cần đến một đại tướng, trao cho một em
bé đánh giày 10 tuổi cũng làm được”, xin trích dẫn như sau :
Một Giải Pháp “Trái Độn” cho Việt Nam năm 1975?
Đại Sứ Pháp Mérillon:
Dương Văn Minh Phản Bội
Trần Văn Trà đồng ý hòa hợp với “Big” Minh, nhưng Minh “lẻ tẻ” với Hà Nội?
Vũ Hải Hồ dịch
LTS : Những ngày cuối cùng năm 1974, giữa cao trào chống đối Thiệu ở
miền Nam, người ta không thể không chú ý tới lời tố cáo của Thiệu về “một
âm mưu” giữa bọn “ngụy hòa” và “thực dân Pháp”. Lời tố cáo của
Thiệu không phải vô bằng chứng: Tổng Thống Pháp Giscard d'Éstaing, qua
đường dây Đại Sứ Jean Marie Mérillon và Trần Văn Hữu, đã muốn dàn xếp môt
chế độ chuyển tiếp, trung lập màu hồng cho Nam Việt Nam. Lá bài được người
Pháp “đánh bóng” là cựu Đại tướng Dương Văn “Big” Minh, với sự trợ giúp
của các tướng lãnh từng phục vụ trong quân đội Pháp như : Phạm Văn Phú,
Ngô Quang Trưởng, Trần Văn Đôn .v.v.. Một cựu tướng lãnh nhảy dù Pháp tướng
Gilles, cũng liên lạc với các tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ . v.v..
để thuyết phục họ thành lập một chính phủ liên hiệp với Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam. Bởi thế, chính Đại Sứ Mérillon đã gặp Thiệu và dàn xếp với Tòa
Đại Sứ Mỹ để Thiệu từ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 1975. Đại cương, người
ta chỉ biết như thế. Tuy nhiên, trước khi Lên Đường lên khuôn, cựu Trung
Tá Trần Thiện Hiệu, chủ tịch gia đình TQLC tại Hoa Kỳ, có nhã ý gởi cho
chúng tôi một bản dịch trích từ hồi ký của Đại Sứ Mérillon, xuất bản năm
1985. Dịch giả là ông Vũ Hải Hồ ở Paris. Mặc dù đã tham khảo cuốn hồi ký
của Mérillon cách đây ít năm, chúng tôi không dám đoan chắc ông Mérillon
đã nói hết sự thực hoặc bản dịch trích đăng sát nguyên bản hay không? Dầu
vậy, đây là một tài liệu nên đọc. Trong một số tới, chúng tôi sẽ trở lại
vấn đề này. Chúng tôi cũng tăng số cước chú, rất mong quý vị có kinh nghiệm
hoặc trực hoặc gián tiếp với kế hoạch “trung lập màu hồng” này, tiếp tay
chúng tôi làm sáng tỏ vấn đề hơn.
Nếu cứ tiếp tục trích dẫn các tạp chí như đã dẫn và các sách ví như : Việt
Nam Huyết Lệ Sử của Cao Thế Dung tại trang 849, do Đồng Hương xuất bản năm
1996 và trong sách Đất Việt Người Việt Đạo Việt của Phan
Thiết, do Văn Nghệ
Tiền Phong Xuất bản năm 1996 tại trang Tôi đọc Việt Nam Máu Lửa... 251 cũng
lồng vào đề tài “Saigon et Moi” thì còn nhiều lắm không thể chấm dứt được...
● Và gần đây, người viết đã có dịp đọc bài Việt Nam Cộng Hòa 10 Ngày Cuối Cùng
của Trần Đông Phong trong tạp chí Văn Hóa phát hành tại Nam California Hoa
Kỳ tháng 5, 6 và 7 năm 2003, do ông Lý Kiến Trúc làm chủ nhiệm & chủ bút,
cho nên có điện thư hỏi ông Trần Đông Phong, được tác giả trả lời qua e-mail
đề Wed, 16 Jul 2003 15:50:13 - 0700 (PDT), xin trích dẫn như sau :
“Về câu
nói của cụ Trần Văn Hương với Đại sứ Martin, tôi đã lấy trong bài của Gs Nguyễn
Ngọc An đã được đăng trên báo Thời Luận tại Los Angeles. Tôi hiện có giữ bài
đó. Còn về lời của cụ nói với Đại Sứ Mérillon thì tôi trích trong “Saigon et
Moi” của ông Mérillon. Chúng tôi ở bên này không hề được đọc cuốn “Saigon
et Moi” vì nghe nói đã bị tịch thu ngay sau khi xuất bản, tuy nhiên tại Mỹ
có người có được một bản cuốn sách này và đã đăng trên báo một phần nói về
những ngày sau khi ông Thiệu từ chức. Nhân tiện, tôi cũng xin nhờ ông
nếu có thể thì cho tôi biết thêm về cuốn sách này.”
Hơn nữa, trong các Lời Toà Soạn đã dẫn có nhắc đến những nhân vật Pháp tham
đự lễ ra mắt quyển sách ngày 23-3-1985 viết không đúng, bởi vì ông Valéry Giscard
d'Éstaing (đã làm Tổng Thống Pháp 1974-1981, chớ không phải cựu Thủ Tướng Pháp),
ông Pierre Messmer chớ không phải Pierre Mesmer hay Pierre Hesmer, ông Pierre
Messmer này làm Thủ Tướng Chánh Phủ từ 1972-1974 thời Tổng Thống Georges Pompidou
(1969-1974). Riêng ông Jacques Chirac đã từng làm Thủ Tướng Chánh Phủ (1974-1976)
thời Tổng Thống Valéry Giscard D’Éstaing và (1986-1988) thời Tổng Thống François
Mitterrand (1981-1995) và đương thời làm Tổng Thống Pháp từ 1995 đến 2007...
Còn ông Louis Mermaz làm Chủ Tịch Hạ Nghị Viện Pháp từ ngày 2-7 năm 1981 đến
1-4-1986 mới đúng tên, chớ không phải tên Louis Mermas... v.v..
Sở dĩ tôi nêu ra đây đế thấy cái sai có thể vì sơ xuất họ tên và chức vụ của
các nhân vật uy tín trong chánh quyền Pháp để sáng tỏ vấn đề. Hơn nữa, sự trích
dẫn các tạp chí, các sách và bài viết vừa qua người viết không nhầm mục đích
để bêu xấu ai hết, mà để chứng minh quyển “Saigon et Moi”
của Jean Marie Mérillon, Cựu Đại Sứ Pháp tại miền Nam không có, không biết người viết LTS lấy ở đâu
mà tham khảo?
● Để chứng minh quyển “Saigon et Moi” không có, xin quý độc giả tìm đọc tác
phẩm “Những Ngày Cuối Cùng Của Ngô Đình Diệm”, tác giả là Giáo sư sử học Hoàng
Ngọc Thành và Bà Thân Thị Nhân Đức, trang 622 và 623, phần Phụ Lục có bản phóng
ảnh thư và chữ ký của ông Mérillon, đề ngày 12-11-1990, đại sứ Pháp tại Nga,
phủ nhận quyển sách nói trên.
Xin trích dẫn nguyên văn trang 622 như sau :
1. Bức thư trả lời của cựu đại sứ Jean Marie Mérillon tại Sàigòn năm 1975,
phủ nhận ông là tác giả quyển “Saigon et Moi” hay bất cứ sách nào khác về Việt
Nam. Nguyên nhân là chúng tôi đã không tìm mua được sách “Saigon et Moi”, khi
qua Ba Lê năm 1989, nên liên lạc với ông Jean Marie Mérillon khi ấy làm đại
sứ Pháp tại Mạc Tư Khoa. Xin nhắc lại là các báo Việt tại Pháp có đăng bản
tóm tắt của sách “Saigon et Moi” như bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ ở Ba Lê
và việc ra mắt sách ngày 23-3-1985 tại khách sạn La Fayette, quận 6, trước
một số cử toạ gồm những nhân vật như cựu Tổng Thống Giscard d'Éstaing, Jacques
Chirac, Pierre Mesmer. v.v..
Và trích trang 623 nguyên văn thơ ông Jean Marie Mérillon
gởi Giáo sư tiến sĩ Hoàng Ngọc Thành, đã được sách Ki tô giáo : Từ thực chất đến huyền thoại đăng
lại nơi trang 237 do Văn Hóa xuất bản, Văn Nghệ phát hành năm 1996 tại Hoa
Kỳ, do Nguyễn Hồng Ngọc viết và báo Văn Nghệ Tiền Phong 464, phát hành năm
1995 tại trang 85 do ông Lê Xuân Nhuận viết như sau :
Répuplique Française
--------------
Ambassade De France
En Moscou, 12th November 1990
U.R.S.S
--------------
L'Ambassadeur
Dear Dr. Thanh,
Your letter of the 22nd October has just reached me. I was most touched by
it and very pleased to hear from you.
As fas as the book “Saigon et Moi” is concerned, I must make a point particularly
clear. I did not write this book nor have I written any other about Vietnam;
therefore the work that you are enquiring about is not mine. However, I am
intrigued by this publication and should be glad to have any information relating
to it.
Should I visit California, I shall not fait to take advantage of your kind
invitation to a Vietnamese dinner.
Wishing your new book every success, I remain.
- Yours sincerely,
- Jean Marie Mérillon
-
- Dr. Hoang Ngoc Thanh
- 4926 Rice Drive
- San Jose, CA 95111
Và bức thơ này, đã được báo Phụ Nữ Diễn Đàn số 140, trang 71 phát hành năm
1995 tại Hoa Kỳ do ông Đặng Văn Nhâm viết, đã chuyễn dịch sang Việt Ngữ xin
trích dẫn như sau :
Cộng Hòa Pháp Quốc, Mát Cơ Va, ngày 12 tháng 11 năm 1990.
Đại Sứ Quán Pháp tại Nga Xô
Tiến sĩ Thành thân mến,
Tôi vừa nhận được thơ ông đề ngày 22-10. Tôi xúc động nhiều và rất vui mừng
nhận được tin ông. Hiện nay, liên quan đến quyển sách “Saigon et Moi”, tôi
cần phải đặc biệt xác định rõ vấn đề là tôi đã không viết quyển ấy và cũng
không viết bất cứ điều gì khác về Việt Nam. Do đó, điều ông nói ấy không phải
chuyện của tôi. Tuy nhiên, tôi cũng tò mò về chuyện xuất bản sách này và cảm
thấy thú vị được biết tin tức liên quan đến chuyện ấy. Nếu tôi đến thăm California,
tôi sẽ không quên lời mời thân ái đến dùng bữa cơm Việt Nam của ông. Mong ước
quyển sách mới của ông thành công mọi mặt. Tôi vẫn luôn là người bạn chân thành
của ông.
Jean Marie Merillon
(ký tên)
● Hơn nữa, trên báo Ngày Nay số 341, phát hành tại Houston, Hoa Kỳ ngày 15 tháng
4 năm 1996 từ trang A5 đến A7 và lại được báo Thời Báo (Bắc California- Hoa
Kỳ) đăng lại toàn bộ bài viết của Ngự Sử, ở trang Tạp Ghi, xin trích dẫn như
sau :
Giới Thiệu của Yên Mô
Tháng 4 năm 1989 có tin loan báo đại sứ Pháp tại Việt Nam thời 1975 đã cho
ra mắt sách hồi ký “Saigon et Moi” với nhiều tình tiết éo le và rất là có vẻ
hợp lý. Năm 1995 khám phá ra là “Con Cá Tháng 4”. Bài viết đặc biệt sau đây
của tác giả Ngự Sử tại Texas đăng trên Ngày Nay quả thực là những tài liệu
mà chúng tôi thấy cần giới thiệu với bạn đọc Bắc California.
YÊN MÔ
LTS : Ngự Sử là bút hiệu của một nhà ngoại giao thời Việt Nam Cộng Hòa
từng phục vụ tại nhiều nhiệm sở ở Á Châu. Ông định cư ở Houston từ cuối
năm 1975.
Con cá tháng 4 lớn nhất của người Việt di tản dựng đứng lên cuốn “Saigon et
Moi” gán cho Đại Sứ Pháp ở Việt Nam Mérillon là tác giả.
Tất cả những chi tiết quanh vụ ông nhà báo Vũ Hải Hồ nào đó đã tạo dựng ra
việc Đại Sứ Pháp ở Việt Nam thời 1975 Jean Marie Mérillon viết hồi ký “Saigon
et Moi” để bênh Việt Nam Cộng Hòa, kết tội người Mỹ bỏ rơi miền Nam. Bản dịch
tác phẩm trên của ông Vũ Hải Hồ hồi 1989 đã được rất nhiều báo Việt ngữ hải
ngoại đăng đi đăng lại vào mỗi dịp 30 tháng 4. Mới đây, cựu Đại Sứ Pháp ở việt
Nam Mérillon xác định ông không viết cuốn sách đó (Saigon et Moi) và cũng chưa
hề viết một cuốn sách nào khác về Việt Nam cả. So sánh việc dựng đứng lên cuốn
“Saigon et Moi” với việc ngụy tạo cuốn “Người Việt Cao Quý” trước đây của nhà
văn Việt Cộng nằm vùng Vũ Hạnh đảm nhận qua chỉ thị của Trần Bạch Đằng (Ngự
Sử).
Xin trích đoạn những phần liên quan đến ông Vũ Hải
Hồ tạo dựng quyển “Saigon et Moi” do ông Ngự Sử viết như sau :
. . . Trong tình huống thao thức trăn trở như thế, thì như nắng hạn gặp mưa,
đùng một cái vào đầu năm 1989, cộng đồng di tản được tin người Đại Sứ biết
quá nhiều Jean Marie Mérillon đã long trọng cho ra mắt ngày 23-03-1986 cuốn
hồi ký “Saigon et Moi” tại khách sạn La Fayette, quận 6 Paris, trước một cử
tọa gồm các chính khách hàng đầu của Pháp như : Giscard d'Éstaing, Jacques
Chirac, Pierre Mesmer... Nhưng, sau đó cuốn sách này bị Bộ Ngoại Giao Pháp
lập tức thâu hồi? Nhưng may mắn thay, một Việt kiều còn giữ được một cuốn và
một ông Vũ Hải Hồ nào đó đã dịch ra và phổ biến cho báo chí hải ngoại vào đệ
nhất tam cá nguyệt 1989. Ông Vũ Hải Hồ đã tiết lộ những chi tiết ra mắt sách
kể trên trong phần đầu của bản dịch, nhưng không hiểu vì lý do gì ông lại không
cho biết các chi tiết liên hệ đến hình thức nội dung của cuốn sách (bìa mõng
hay dầy, bao nhiêu trang, bao nhiêu chương, có hình ảnh ảnh gì, nhà xuất bản
nào? .v.v.) Bản dịch của ông cũng không nói rõ là trích đoạn hay tóm lược tác
phẩm của Mérillon. Nhìn chung, bản dịch của ông Vũ Hải Hồ xem ra có vẽ là một
bản tóm lược, lời văn đôi lúc có vẻ trúc trắc, luộm thuộm, dữ kiện lắm khi
xem ra không ăn khớp và lạc lõng, nhưng tình tiết thì hấp dẫn, có lúc ly kỳ
như tiểu thuyết gián điệp, đôi khi lại mùi mẫn như tuồng cải lương. “Saigon
et Moi” qua ngòi bút dịch thuật đã được phổ biến đúng thời điểm (gần tháng
4 đen) nên đã lập tức trở thành một “instant hit”, được nồng nhiệt đón nhận
bởi các cộng đồng người Việt di tản trên khắp năm châu Chẳng khác nào bài thơ
“ông đồ” của Vũ Đình Liên được chiếu cố trường kỳ trên các báo Việt vào mỗi
dịp Tết, mỗi năm cứ đến dịp tháng 4 đen là thế nào cũng có hàng chực tờ báo
tranh nhau đăng tải “Saigon et Moi” do Vũ Hải Hồ dịch với những lời bàn khi
thi lâm ly, lúc thì thống hận. Phần lớn phản ứng đầu tiên của độc giả di tản
là thấy “đã” quá, đúng y chang như mình nghĩ . Người nào người nấy cảm thấy
dường như bao nhiêu dồn nén ấm ức từ hồi bỏ xứ ra đi đến giở đã được giải tỏa.
Vấn nạn về cái chết tức tưởi của miền Nam Việt Nam xem ra đã có thể nhờ tác
phẩm này mà tìm ra giải đáp.
....
Sự đón nhận đầy thiện cảm của cộng đồng di tản hải ngoại với bản dịch này
do đó cũng dễ hiểu. Có lẽ vì vậy, không mấy ai lưu ý tới các dữ kiện không
phù hợp với thực tế, mặc dù vào thời điểm bản dịch lưu hành đã có nhiều tài
liệu sách báo liên hệ đến những ngày cuối cùng của miền Nam Việt Nam đã được
xuất bản, khiến việc kiểm chứng không đến nỗi khó khăn. Hơn nữa, tên của
vị Đại Sứ Pháp đã tạo một tác dụng tâm lý khiến độc giả chấp nhận các dữ
kiện trong tác phẩm không chút thắc mắc.
. . .
Ngoài vấn đề các dữ kiện không phù hợp với thực tế như đã dẫn, cái thắc
mắc căn bản nhất là sự ra mắt của một cuốn hồi ký chính trị của một nhân
vật ngoại giao quan trọng như như vậy, lại được tổ chức long trọng như ông
Vũ Hải Hồ tiết lộ, mà sao không được đăng tải trên bất cứ một tạp chí văn
học chính trị nào của Pháp cững như Hoa Kỳ? Ở một nước có truyền thông tự
do như Pháp, liệu có thể có việc thu hồi toàn bộ một cuốn sách đã ra mắt
trước một cử tọa gồm có các vị tân cựu nguyên thủ quốc gia như vậy không?
Báo chí Việt Ngữ tại hải ngoại phần vì thiếu phương tiện, phần vì dễ chấp
nhận các bài vở soạn sẵn mà lại hợp tâm ý độc giả, nên sáu bảy năm cứ bổn
sao soạn lại không cần thắc mắc gì cho mệt. Mãi đến năm 1994 khi cuốn “Những
Ngày Cuối Cùng của Tổng Thống ngô Đình Diệm” của ông Hoàng Ngọc Thành và
Bà Thân Thị Nhân Đức xuất bản tại Hoa Kỳ, trong phần phụ bản (trang 622-623)
có in môt bức thư đề ngày 12-11-1990 của ông Jean Marie Mérillon, phủ nhận
ông là tác giả của cuốn “Saigon et Moi”. Lý do là vì năm 1989 ông Hoàng Ngọc
Thành qua Paris tìm mãi không ra quyển sách đó, ông đành liên lạc với chính
tác giả là ông Mérillon lúc đó đang là Đại Sứ Pháp tại Mạc Tư Khoa. Trong
bưc thư ông Đại Sứ Mérillon viết :
“Riêng về cuốn sách ‘Saigon et Moi’, tôi xin khẳng định
rõ ràng là tôi không viết cuốn sách đó và cũng chưa hề viết một cuốn sách
nào khác về Việt Nam cả. Do đó tác phẩm mà ông hỏi không phải của tôi. Tuy
nhiên, tôi cũng tò mò muốn biết tác phẩm ấy và rất mong muốn nhận được các
tin tức liên quan đến nó”
Mặc dù đã có sự xác nhận trên giấy trắng mực đen nhự vậy, một số báo hải
ngoại phát hành thượng tuần và trung tuần tháng 4-1995 vẫn còn rải rác in
lại bản dịch của ông Vũ Hải Hồ với nhiều lời bàn Mao Tôn Cương.
Hiện tượng ngụy tạo một dịch phẩm từ một “tác phẩm ngoại ngữ ma”, làm chúng
ta không khỏi liên tưởng tới một vụ tương tự xảy ra trước đây 30 năm tại
Sàigòn. Đó là dịch phẩm “Người Việt Cao Quý” do cô Hồng Cúc dịch và do nhà
Cảo Thơm ấn hành vào khoảng thượng bán niên 1965 tại Sàigòn. Điểm tương đồng
giữa dịch phẩm “Người Việt Cao Quý” và dịch phẩm “Sàigòn và Tôi” là :
Dịch phẩm chỉ được phổ biến sau khi nguyên tác ra đời từ 4 đến 5 năm. Nguyên
tác ‘Người Việt Cao Quý’ ở Ý từ năm 1960, bản dịch được phổ biến năm 1965.
Nguyên tác “Sàigòn và Tôi” ra mắt tại Pháp từ năm 1985, bản dịch ông Vũ Hải
Hồ phổ biến trên báo chí hải ngoại vào năm 1989. Không một người Việt nào
ngoài một “đệ tam nhân” vô danh hoặc dịch giả “Sàigòn và Tôi” thấy nguyên
tác.
Cô Hồng Cúc cho biết bản gốc tiếng Ý in trên một tờ báo văn hóa nào đó tại
Ý, một người bạn của cô dịch ra tiếng Pháp và gửi về Việt Nam cho cô (chưa
ai ngoài cô Hồng Cúc thấy bản tiếng Pháp đó).
Ông Vũ Hải Hồ được một “việt kiều” cho coi ké nguyên tác và nhờ đó dịch
ra tiếng Việt. Nguyên tác viết bởi một người Tây phương đã sống lâu năm tại
Việt Nam và có cảm tình với đất nước và dân tộc Việt.
“Người Việt Cao Quý” theo dịch giả, có tên Ý là “Per Comprendere il Vietnam
e Vietnamita” viết bởi “Pazzi” một người Ý đã ở Việt Nam khoảng 20 năm và
đã có đủ thì giờ hiểu người dân kỳ diệu và khả ái này.
“Sàigòn và Tôi” có tên Pháp là “Saigon et Moi”, theo dịch giả viết bởi cựu
Đại Sứ Pháp Mérillon, người đã có rất nhiều kỷ niệm và có nhiều quan hệ mật
thiết với Việt Nam. Người đã chọn Sàgòn làm bạn hữu tâm giao.
“Người Việt Cao Quý” được đăng làm nhiều kỳ trên báo “Đất Tổ” ở Saigòn,
sau đó được in thành sách bởi nhà xuất bản Cảo Thơm.
“Sàigòn và Tôi” được phổ biến rộng rãi trên các báo chí hải ngoại chưa được
in thành sách. Dịch giả thường lấy một bút hiệu ít người biết của một cây
bút quen thuộc.
Điểm khác biệt duy nhất giữa “Người Việt Cao Quý” và “Sàigòn và Tôi” là
:
- Tác giả “Người Việt Cao Quý” có một lý lịch bất minh.
- Tác già “Sàigòn và Tôi” là một nhà ngoại giao Pháp nổi tiếng.
. . . .
Điểm qua làng văn làng báo hải ngoại không thấy có một nhà văn nhà báo lấy
bút danh là Vũ Hải Hồ. Xét kỹ thì thấy nó có trùng với một trong những bút
hiệu mà soạn giả cải lương kiêm ký giả Trần Trung Quân đôi lúc sử dụng trong
khi làm tờ Sàigòn Thời Báo tại Houston, Texas trong những năm 1985-1988.
Ký giả Trần Trung Quân rời Hoa Kỳ về Pháp vào khoảng cuối năm 1988. Bản dịch
“Saigon et Moi” được phổ biến từ Pháp vào đệ nhất tam cá nguyệt năm 1989.
Vũ Hải Hồ là ai? ..... (toà soạn tạm không đăng phần này). Với một người
có những biệt tài như vừa kể, thì việc dàn dựng một tác phẩm về tháng 4 đen,
thực chẳng khó khăn gì. Trên thực tế có khá nhiều dữ kiện có thể dựng thành
một khung vững chãi cho một vỡ kịch đầy tình tiết éo le như “Saigon et Moi”
Các sơ hở nếu có chỉ vì kiến thức chính trị giới hạn của ông đã bị năng khiếu
hư cấu vô bờ lấn át. Với tất cả ưu nhược điểm của ông, chủ đích dàn dựng
“Saigon et Moi”, có lẽ nhằm trong ý hướng diễn nghĩa những ngày bi thảm cuối
cùng theo như ông nghĩ là đã xảy ra. Cũng có thể, trong cơn ngẫu hứng động
cỡn tháng 4 (April Fool), ông đã thả ra một “con cá tháng tư” (Poisson d'Avril)
: “Saigon et Moi”, đem những ngày tang tóc ra để mua vui vài trống canh?!
Ngự Sử
tháng Tư 1996
● Trong khi đó, báo Ngày Nay số 341 phát hành tại Houton Hoa Kỳ, ngày 15 tháng
4 năm 1996, còn có ghi Lời Toà Soạn, xin trích dẫn như sau :
LTS : Trong phần kết của bài trên, tác giả Ngự Sử đã dựa trên một số dữ
kiện trong quá khứ (ở hải ngoại) về biệt tài tạo dựng dưới hình thức phóng
sự của một nhà báo (hiện ở Pháp). Nhà báo này đã cho xuất bản ít nhất
hai tác phẩm liên quan tới các biến cố chính trị trong cuộc chiến Việt Nam
vào thời đệ nhất Cộng Hòa cũng như nhiều bài phóng sự giả tưởng khác về các
vụ hải tặc Thái Lan hiếp phụ nữ thuyền nhân Việt Nam... Ông Ngự Sử đã kết
luận rằng người có tên Vũ Hải Hồ nào đó đã tạo dựng ra cuốn sách ma “Saigon
et Moi” chinh là nhà báo chuyên viết phóng sự chính trị giả tưởng nêu trên.
Tuy nhiên, vì một vài vấn đề khá tế nhị trong giai đoạn hiện nay. Ngày Nay
xét thấy chưa phải lúc để công bố phần kết luận bài viết của tác giả Ngự
sử.
● Kế đến, khoảng tháng 10 năm 1996, quyển sách PÉTRUS TRƯƠNG VĨNH KÝ tuyển tập
của Cửu Long Lê Trọng Văn ra đời, nơi trang 3, Lời Mở Đầu cũng có nhắc đến
ngụy tạo sách “Saigon et Moi” đo Vũ Hải Hồ dịch, xin trích dẫn như sau :
. . . Rồi các tài liệu, tác phẩm ngụy tạo được tung ra như “Trong Lòng Địch”
của Trần Trung Quân, “Ai Giết Hồ Chí Minh” cũng của Trần Trung Quân. Hồi ký
Đại Sứ Pháp Mérillon “Saigon et Moi” của Vũ Hải Hồ tức Trần Trung Quân. v.v..
Đó là một số sách báo đã vô tình đăng báo hoặc tiếp tay trích dẫn quyển “Saigon
et Moi” không có do ông Vũ Hải Hồ tức Trần Trung Quân dịch, để lồng vào tác
phẩm mà tôi đã mạn phép trích dẫn vừa qua.
● Để biết thêm những ngày cuối cùng Việt Nam Cộng Hòa, xin mời quý độc giả tìm
đọc hồi ký của Ông Nguyễn Bá Cẩn, cựu Chủ Tịch Hạ Nghị Viện và cựu Thủ Tướng
Chánh Phủ VNCH đã phát hành tác phẩm dày gần 600 trang tại California Hoa Kỳ
vào đầu tháng 9 năm 2003. Đặc biệt nơi tiểu mục : 4. Riêng VNCH còn bị Hoa
Kỳ hy sinh để đổi lấy Trung Đông từ trang 530 đến trang 552 được tóm lược như
sau :
Năm 1954 Hoa Kỳ không sẳn lòng dùng B52 (*) để giúp Pháp tiêu
diệt lực lượng của tướng Võ Nguyên Giáp tại Điện Biên Phủ làm cho Pháp đầu
hàng và tháo chạy bởi hội nghị Genève để Hoa Kỳ vào thay thế, từ đó Pháp lúc
nào cũng cay cú suốt thời gian quân đội Hoa Kỳ chiến đấu bên cạnh VNCH, đồng
thời sẵn sàng yểm trợ giúp đỡ CSVN, nhất là trong thời gian hội đàm Paris.
Năm 1975 Hoa Kỳ hoàn thành kế hoạch hy sinh Việt Nam Cộng Hòa để đổi lấy Trung
Đông và người Mỹ muốn ra đi không để lại bằng chứng, thì Pháp có cơ hội bằng
vàng để nhảy vào giờ thứ 25, ngõ hầu tìm giải pháp liên hiệp hoà giải hòa hợp
cho miền Nam Việt Nam bằng một chính phủ trung lập để thủ lợi. Nhưng Pháp không
nắm vững được điều kiện tất yếu của dán cờ lúc bấy giờ, nên đành thảm bại một
lần nữa tại Việt Nam.
Nước Pháp thù hận Hoa Kỳ từ năm 1954 cho dến ngày nay thời Tổng Thống Jacques
Chirac, nhưng về mặt ngoại giao lúc nào cũng nương tựa vào nhau để sanh tồn,
tuy nhiên mỗi khi có dịp Hoa Kỳ nhờ Pháp nhưng không có quyền lợi cho Pháp,
thì Pháp luôn luôn chống đối, ví như để đánh nước Irac vừa qua, thì chính Tổng
Thống Jacques Chirac của nước Pháp là một trong những nước chống Hoa Kỳ mạnh
nhất. Đó là bằng chứng cho thấy hai nước Pháp và Hoa Kỳ vẫn còn thù hận, bởi
vì tranh giành quyền lợi với nhau.
nguồn https://www.giaodiem.com/doithoaiIV/12_saigonetmoi.htm, tháng 12 quý bốn năm 2003
(*) Chú thích của SH:
Có lẽ phải đọc là B29 (thay vì B52).
Xin đọc thư ngắn: "Tìm Hiểu Hư Thực “Saigon et moi” .... - Kiểm chứng: B-29 thay vì B-52" - Dương
Quân -