 |
18-Apr-2012 |
I. Tôn Giáo Và Mê Tín:
I. Tôn Giáo Và Mê Tín
II. Phật Giáo Có Mê Tín Không ?
III. Vatican Ca Tụng Trí Tuệ Phật Giáo
IV. Công Giáo Có Mê Tín Không ?
V. Người Công Giáo Có Thực Sự Tin Chúa Không?
VI. Vài Niềm Tin Chính Trong Công Giáo.
A. Bí Tích Rửa Tội.
B. Bí Tích Ban Thánh Thể.
C. Về Cây Thập Giá
VII. Vài Lời Kết:
Nếu chúng ta nghiên cứu về tôn giáo thì chúng ta thấy mọi tôn giáo đều
khác nhau, thuộc các nền văn hóa khác nhau. Có tôn giáo là tôn giáo của trí
tuệ, có tôn giáo là tôn giáo của đức tin, có tôn giáo thờ độc thần, thờ đa
thần, có tôn giáo chủ trương nhân bản và nhân chủ v…v…, cho nên vấn đề là, khi
chúng ta muốn nói về “Tôn Giáo Và Vấn Đề Mê Tín” thì chúng ta phải
quy định đó là tôn giáo nào, tôn giáo đó dạy những gì, và tìm hiểu xem niềm
tin tôn giáo đó thuộc loại nào, có phải là niềm tin dựa trên sự hiểu biết,
hay chỉ là niềm tin mê muội cuồng tín, thiếu suy nghĩ. Từ đó chúng ta mới
có thể quyết định tôn giáo đó có thuộc loại mê tín, lạc hậu hay không?
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều tôn giáo. Trong bài này tôi xin tự
hạn nói về sự mê tín, nếu có, trong hai tôn giáo lớn ở Việt Nam: Phật Giáo,
chiếm khoảng 80% dân chúng, một con số khiêm nhượng, và Ki Tô Giáo, chiếm
khoảng 5-7%.
Trước hết chúng ta cần biết định nghĩa của “tôn giáo” và “mê tín” rồi
từ đó chúng ta mới có thể quyết định sự mê tín có nằm trong hay không nằm
trong tôn giáo nào.
Trong thế giới Tây phương thì nghĩa trong tự điển của “Tôn giáo” (Religion)
là “Niềm tin vào và lòng kính ngưỡng một quyền năng siêu nhiên hoặc những
quyền năng được nhận biết là đấng sáng tạo và chủ thể cai quản vũ trụ. Một
tập hợp những niềm tin, giá trị, và thực hành dựa trên những lời giảng dạy
của một vị lãnh đạo tinh thần” [Belief in and reverence
for a supernatural power or powers recognized as the creator and governor of
the universe. The spiritual or emotional attitude of one who recognizes the
existence of a supernatural power or powers. A set of beliefs, values, and
practices based on the teachings of a spiritual leader.] Quyền năng siêu nhiên hay đấng sáng tạo này những
tôn giáo thờ thần như Do Thái, Hồi Giáo, Ki Tô Giáo, gọi là “Gót” (God)
Tôi xin để Phật Giáo ra ngoài vì Phật Giáo không phải là một tôn giáo theo
định nghĩa của “tôn giáo” như trên. Có thể nói Phật Giáo là một hệ thống
triết lý, một hướng dẫn để con người đi trên con đường thăng tiến tâm linh
dựa trên trí tuệ, dựa trên sự tu tập bản thân, chứ không phải là một “tôn
giáo thờ thần”, đặt nặng vào “đức tin”. Tuy nhiên, ngày nay định nghĩa về
“tôn giáo” đã được mở rộng với nhiều định nghĩa khác nhau nên chúng ta vẫn
có thể coi Phật Giáo là một tôn giáo phù hợp với định nghĩa của một tôn giáo
được coi là lý tưởng (An ideal religion) như sau:
Một sự chẩn đoán về một điều gì đó bản chất sai lầm với tình trạng của
con người, và đưa ra một giải pháp giải thoát con người ra khỏi sự sai lầm
ấy. (A diagnosis of something essentially wrong with the human condition,
and a prescription for salvation or liberation from it.)
Phật Giáo quan niệm bản chất sai lầm trong con người bắt nguồn từ vô minh,
nghĩa là không sáng suốt, không biết đúng sự thật, thí dụ như cho vô thường
là hằng hữu, khổ là hạnh phúc, cái xấu là đẹp, ác là thiện v…v…. Cho nên,
tất cả những phương pháp tu tập của Phật Giáo, thích hợp với mọi căn trí khác
nhau, không ngoài mục đích để cho con người có thể nhìn thấy mọi sự việc,
trong lãnh vực vật chất cũng như tinh thần, như chúng thật sự đúng là như
vậy (To see all things as they really are), và đó gọi là giải thoát.
Còn định nghĩa của mê tín (Superstition) là: Một sự nhẹ dạ cả tin vào
đấng siêu nhiên. Cả tin có nghĩa là tin mà không có bằng chứng nào để xác
minh điều mình tin. (A credulous belief in the supernatural.
Credulous means believing without much evidence to support it.) Một định nghĩa khác
là: Mê tín = Một niềm tin bất kể những bằng chứng trái ngược với niềm
tin đó. Một niềm tin, sự thực hành, lễ tiết bắt nguồn từ sự không hiểu biết
đúng về những định luật của thiên nhiên hay từ đức tin vào ma thuật. Một trạng
thái đầu óc thấp hèn, sợ sệt, bắt nguồn từ sự ngu dốt hay sự phi lý đó. (Superstition:
A belief held in spite of evidence to the contrary. A belief, practice, or
rite resulting from ignorance of the laws of nature or from faith in magic
or chance. A fearful or abject state of mind resulting from such ignorance
or irrationality.)
Điều rõ ràng là, như Steven Weinberg đã nhận định: “Có Tôn Giáo hay
không, chúng ta vẫn có những người tốt làm những điều tốt, người xấu làm
những điều xấu. Nhưng để cho những người tốt làm những điều xấu, thì cần
đến Tôn Giáo” (With or without religion, you would have good people
doing good things and evil people doing evil things. But for good people
to do evil things, that takes religion.) Lịch sử Ki Tô Giáo đã chứng
minh như vậy.
II. Phật Giáo Có Mê Tín Không?
Cốt tủy giáo lý Phật Giáo là gì? Giáo lý Phật Giáo bao trùm mọi mặt trong
thế gian và nằm trong ba tạng Kinh, Luật, và Luận. Không ai có thể kể ra hết
giáo lý Phật Giáo trong vài câu. Tuy nhiên, chúng ta có thể miễn cưỡng thâu
tóm giáo lý Phật Giáo trong hai phần: Phần Tin và Phần Thực Hành.
Phần Tin nằm trong "Kinh Nền Tảng Đức Tin" thường được
biết là Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama (Tỳ Kheo Thích Nhật Từ, Kinh
Tụng Hằng Ngày, Đạo Phật Ngày Nay, Phật Lịch 2546, trang 98-99):
...Này các thiện nam tín nữ Ka-la-ma, nhân đây Như Lai sẽ giảng giải
về 10 nền tảng của đức tin chân chánh:
Một là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó là truyền thuyết.
Hai là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc về truyền thống.
Ba là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được nhiều người nhắc
đến hay tuyên truyền.
Bốn là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó được ghi lại trong
kinh điển hay sách vở.
Năm là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó thuộc lý luận siêu
hình.
Sáu là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều đó phù hợp với lập trường
của mình.
Bảy là, chớ vội tin một điều gì, khi mà điều đó được căn cứ trên những
dữ kiện hời hợt.
Tám là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy phù hợp với định kiến
của mình.
Chín là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được sức mạnh và
quyền uy ủng hộ.
Mười là, chớ vội tin một điều gì, chỉ vì điều ấy được các nhà truyền
giáo hay đạo sư của mình tuyên thuyết.
Này các thiện nam tín nữ, khi nghe một điều gì, các vị phải quán sát,
suy tư và thể nghiệm, chỉ khi nào, sau khi kiểm nghiệm, quý vị thực sự nhận
thấy: "Lời dạy này tốt lành, đạo đức, hướng thiện, chói sáng và được
người trí tán thán, nếu sống và thực hiện lời dạy này sẽ đưa đến hạnh phúc,
an lạc ngay hiện tại và về lâu, về dài" thì lúc ấy quý vị hãy đặt niềm
tin bất động và thực hành theo.
Với Kinh Nền Tảng Đức Tin này, người đời bảo rằng Phật Giáo là
đạo của trí tuệ quả nhiên không sai. Thử hỏi, với Kinh Kalama như trên,
có chỗ nào để cho sự mê tín, tin mà không hiểu mình tin cái gì, lọt vào Phật
Giáo. Tôi hi vọng, trong tương lai, nếu các tôn giáo có thể học của nhau
những điều hay thì ở Vatican cũng như ở tất cả các nhà thờ Ki Tô giáo trên
thế giới đều nên thay thế 10 điều răn của Thiên Chúa, hay Linh Tin Kính của
Công giáo, bằng Kinh Nền Tảng Đức Tin này và treo Kinh này trong
mọi nhà thờ để cho mọi tín đồ đọc, và trước khi giảng đạo nên nhắc lại Kinh
này. Vì đây mới chính là nền tảng đức tin mà theo tôi, có giá trị nhất trong
mọi nền tảng đức tin khác, vì nền tảng này đã tôn trọng phẩm giá và trí tuệ
của con người đúng nghĩa là một con người. Nếu con người từ bỏ thân phận
làm người của mình để "cúi đầu trong vâng phục", "bảo sao nghe
vậy", "chỉ đâu đi đó" thì thực chất không khác gì một con
cừu, rút cuộc cũng chỉ bị đưa vào lò sát sinh mà thôi, theo nghĩa không hẳn
là hủy diệt thân xác mà là hủy diệt đầu óc.
Phần Thực Hành giáo lý Phật Giáo có thể tóm gọn vào 4 câu trong Kinh Pháp
Cú:
Chư ác mạc tác (Việc ác đừng làm: Thâu tóm tinh thần của Tạng Luật)
Chúng thiện phụng hành (Việc thiện phải làm: Thâu tóm tinh thần của Tạng
Kinh)
Tự tịnh kỳ ý (Hãy giữ cho tâm ý thanh tịnh: Thâu tóm tinh thần của Tạng
Luận)
Thị chư Phật giáo (Đó là lời chư Phật dạy)
Chúng ta thấy rõ, Kinh Kalama đã giữ cho người Phật tử khỏi rơi vào vòng
cả tin, mê tín, dị đoan. Còn 4 câu trong Kinh Pháp Cú là những chỉ đạo tổng
quát cho con người trên đường tu tập, tiến đến giác ngộ.
Ngày nay, trước sự phát triển của Phật Giáo, song song với sự suy thoái
của Công giáo trên khắp thế giới, cho nên chúng ta thấy một số tín đồ Công
giáo đang cố gắng vùng vẫy, tìm đủ mọi cách để xuyên tạc Phật Giáo hòng vớt
vát lại phần nào cái đạo mê tín của mình. Họ chụp lên đầu Phật Giáo những
thứ mê tín trong dân gian không hề có trong Phật Giáo như bói toán, đốt vàng
mã, luyện thiên linh cái v..v… Họ cũng còn đưa ra vài trường hợp vô đạo
của một số người mặc áo cà sa, chẳng biết là thật hay giả, để quy kết đó là
Phật Giáo. Nhưng họ có kiếm trong kho tàng Kinh Điển Phật Giáo, kiếm cho
đến ngày cánh chung của Công giáo, thì họ cũng không thể thấy ở đâu trong
đó có dạy những điều mê tín mà họ chụp lên đầu Phật Giáo, hay dạy tác
phong vô đạo của một số người mặc áo cà sa, khoan kể là Kinh Pháp Cú còn viết
rõ, cạo tóc, mặc áo cà sa, nếu không tu theo đúng chánh Pháp, đâu được kể
là bậc Sa Môn.
Phẩm Pháp Trụ: câu 264: Người vọng ngữ về Pháp giới,
dù cạo tóc chưa phải là Sa-môn; huống chi còn chất đầy tham dục làm sao thành
được bậc Sa-môn; 265: Người nào dứt hết các điều ác, không luận lớn
hay nhỏ; nhờ dứt hết các ác, mà được gọi là Sa-môn; 266: Chỉ mang
bình khất thực, đâu phải là Tỳ Kheo! Chỉ làm nghi thức tôn giáo, cũng chẳng
là Tỳ Kheo vậy; 267: Bỏ làm thiện với tâm truy cầu, bỏ ác, chuyên
tu hạnh thanh tịnh, lấy biết giới, biết định, biết huệ mà ở đời, mới thật
là Tỳ Kheo. Phật dạy rõ ràng như vậy, cho nên tất cả những gì tiêu
cực họ chụp lên đầu Phật Giáo thực sự chẳng liên quan gì đến Phật giáo.
Cho nên người Phật tử chỉ cần đặt cho họ một câu hỏi:
“Ở đâu trong Kinh điển Phật
Giáo dạy Phật tử như vậy?
Nếu không hề có thì có liên quan gì đền Phật Giáo?”
III. Vatican Ca Tụng Trí Tuệ Phật Giáo.
Có một thông tin thuộc loại động trời từ Vatican. Đó là một Hồng Y của
Vatican công nhận và ca tụng Phật Giáo là tôn giáo của trí tuệ. Chắc chắn
là ông Hồng Y này biết rõ sự khác nhau giữa một “tôn giáo của trí tuệ” và
“tôn giáo của đức tin”. Sau đây là bản tin về sự kiện này.
https://www.dailystar.com.lb/News/International/2012/Apr-03/169076-vatican-cardinal-hails-buddhist-wisdom.ashx#axzz1sDKmJaDI
Hồng
Y Của Vatican Ca Tụng Trí Tuệ Phật Giáo
(Vatican cardinal hails Buddhist wisdom April 03, 2012 04:33 PM)
Bản dịch này có đăng ở https://sachhiem.net/TONGIAO/tgD/Dailystar.php

Đô Thị Vatican: Ngày thứ ba, trong một thông điệp về ngày lễ Tam
Hợp của Phật Giáo, một Hồng y Ca-Tô Rô-ma đã ca ngợi Phật Giáo vì đã
dạy cho giới trẻ thấm nhuần những giá trị của trí tuệ, từ bi và bất bạo
động.
Jean-Louis Tauran, trưởng ban đối thoại liên tôn giáo của Vatican, nói:
“Là Phật tử, quý vị truyền lại cho những người trẻ tuổi trí tuệ liên
quan đến sự cần thiết phải kiềm chế không làm hại người khác, và sống
cuộc đời rộng lượng và từ bi”.
Ông nói rằng khía cạnh này của giáo dục Phật giáo là “một món quà
quý giá cho xã hội”.
Ông ta nói: “Ngày nay, càng ngày càng nhiều trong các lớp học trên khắp
thế giới, các sinh viên học sinh trong các tôn giáo khác nhau ngồi cạnh
nhau”
Ông Hồng Y kêu gọi “sự suy nghiệm sâu sắc hơn” về sự cần thiết “sẵn sàng
tiếp tay với các tôn giáo khác để giải quyết những xung đột”.
Giới trẻ “đặt áp lực trên chúng ta phải phá hủy tất cả những bưc tường
bất hạnh thay vẫn còn ngăn cách chúng ta”
Tháng trước, Tauran lên án sự “ngu dốt” trong những mối liên hệ giữa
Ki Tô Giáo và Hồi Giáo, đặc biệt chỉ trích sự tăng gia bài Hồi giáo ở Âu
Châu".
Ai cũng biết, Công giáo là đạo của “đức tin” (faith), mà theo định nghĩa
thì “đức tin” là: 1) tin vào những gì mà những người có đầu óc suy lý [right
mind] không tin được; 2) tin vào những gì không chắc có thực; 3) tin vào một
đấng siêu nhiên cai quản vũ trụ và muôn loài, những hình thức của mê tín.
Theo Spinoza thì “đức tin chỉ là sự cả tin và thành kiến hợp lại với nhau làm
cho con người thoái hóa từ một sinh vật có đầu óc suy lý xuống thành một dã
thú và hoàn toàn bóp chết khả năng phán xét hợp lý” (Faith
is a mere compound of credulity and prejudices which degrade man from rational
being to beast and completely stifle the power of his rational judgment).
Khi ca tụng trí tuệ Phật Giáo thì Hồng Y Tauran, tuy
không nói rõ ra, nhưng hàm ý cũng đã thú nhận sự mê tín của đức tin trong
Công giáo, bởi vì
trí tuệ đối ngược với đức tin. Thật vậy, nếu giáo dục Phật giáo dựa trên trí
tuệ là “một món quà quý giá cho xã hội” thì giáo dục Công giáo dựa
trên đức tin “có bao nhiêu giá trị cho xã hội?”. Để trả lời câu
hỏi này, chúng ta cần biết Công giáo thực sự có mê tín hay không? Chúng ta
hãy đọc vài tài liệu của giới học giả trí thức Tây phương.
IV. Công Giáo Có Mê Tín Không?
Trước hết chúng ta biết rằng tín đồ Công giáo rất sùng tín đức mẹ Mary
và họ đã lập lên những đạo binh xanh của đức mẹ v..v… Nhưng trong cuốn nghiên
cứu về nhân vật Mary trong Công giáo của Michael Jordan (Mary, Weidenfeld
and Nicolson, London, 2001, trang 304), đã viết về những tín lý và đức tin
trong Công giáo, nhất là về nhân vật Mary:
Tuy nhiên đức tin cũng cần phải có một mức độ đạo đức nào
đó ngoài sự tin vào một nguyên lý trừu tượng. Đức tin cần được xây
dựng trên sự tín nhiệm và tin tưởng, sự trung thực của những hứa hẹn
lương thiện và thẳng thắn, nếu không thì đức tin đó có ích gì. Nếu
đức tin đặt căn bản trên những lời nói láo, dối trá, và những mánh khóe
có tính toán, thì nó trở thành không sao biện minh được và thực ra thì đó
có thể gọi là đức tin hay không? Nếu chúng ta vẫn còn là đàn chiên
quá ngu dốt và mê tín trong đó sự lừa dối về Mary đã bắt rễ và bóp méo
để trở thành một “chân lý không thể sai lầm”, chúng ta có thể tự bào chữa
là đã bị lùa vào trong đó. Nhưng ở bình minh của thế kỷ 21, nhiều
người chúng ta không thể tự cho phép là ngu dốt hay mê tín, và đức tin bị
che mắt của chúng ta phải mở rộng cho những phê bình nghiên cứu đứng đắn. Điều
này đặc biệt đúng khi chúng ta biết rằng có sự tin mù quáng ở trong đó và cái
hiểu của chúng ta về một Mary giả tưởng đã bị kiểm soát bởi những người
đã nhân danh tôn giáo, quyết định bảo vệ quyền lợi và vị thế gia trưởng
trong xã hội của mình.
Đức tin không đồng đều một cách phổ quát. Nhiều
triệu tín đồ Công giáo, thí dụ như ở Nam Mỹ [có nên cho thêm Việt
Nam vào đây không], phần lớn là ít học và đức tin của họ về
Mary vẫn hầu như là đức tin mù quáng. Cũng có những người thuộc
lớp có học thức cao ở trong giáo hội đã biết những mánh khóe lừa dối qui
mô trong giáo hội nhưng vẫn chọn giải pháp duy trì sự tồn tại của chúng..
Hiển nhiên là hệ thống quyền lực bảo thủ Công giáo có
lý do để nuôi dưỡng những huyền thoại về Mary và ủng hộ việc giữ nguyên
hiện trạng của sự sùng tín Mary của họ. Giáo hội Công giáo La mã vẫn
cương quyết duy trì tín lý về tội tổ tông gian lận lồng vào thế giới bởi
người đàn bà đầu tiên, và tồn tại qua “tai họa của Eve”.
Khi thời gian mãn, tôi tin rằng hình ảnh Mary, mẹ của
Giê-su Ki-tô, sẽ mờ đi. Chân dung của bà ta đã đem xuống cho chúng
ta trên những cánh của một huyền thoại lâu đời nhưng ngay cả cái huyền thoại
hay nhất trong các huyền thoại cũng phải mờ nhạt đi trong thời gian… Có
thể có vài chi tiết lịch sử đúng về bà ta nhưng hầu hết chỉ là một chuyện
hoang đường, một sự lừa dối thô thiển. Một phần
là, chuyện hoang đường và lừa dối thô thiển này tồn tại để đáp ứng những
tham vọng của một thiểu số. [1]
Nhưng điều thê thảm trên thế giới là các tín đồ lại cứ tin vào những điều
nói láo. Bởi vậy mà Lady Mary Wortley Montagu (1689-1762),
Văn sĩ Anh, đã nhận định: Trên khắp thế giới, các linh mục có thể nói
láo, và đám tín đồ tin, (Priests can lie, and the mob believe, all
over the world).
Không cuồng tín ngu xuẩn thì làm sao ngày 8 tháng 8, 1961, Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam họp tại Đà Lạt quyết định: “Lập một bàn thờ dâng hiến Giáo hội
và Tổ Quốc Việt Nam cho trái tim vô nhiễm ‘Đức mẹ”” [Nguyễn Đắc Xuân, Tìm
Hiểu Lịch Sử Nhà Thờ La Vang trong cuốn La Vang Giáo Sử, trang
52], bất kể là “Tổ Quốc Việt Nam” có hơn 90% người dân không cần biết và
quan tâm đến “Đức Mẹ” là ai. Hội đồng Giám Mục, trong thời Ngô Đình Diệm
ở Nam Việt Nam, làm như Tổ Quốc là của riêng họ, muốn dâng hiến cả Tổ Quốc
cho một người đàn bà Do Thái mà nền thần học Công giáo đã đôn lên làm Mẹ Thiên
Chúa tuy rằng trên thực tế Thiên Chúa cũng còn chẳng có thì làm gì có mẹ Thiên
Chúa. Vấn đề là, có phải là Mẹ Thiên Chúa hay với những danh hiệu gì gì nữa
thì từ xưa tới nay bà Mary cũng chẳng làm được cái tích sự gì có ích cho thế
giới văn minh ngoài việc làm công cụ cho Giáo hội lợi dụng, khai thác sự nhẹ
dạ cả tin của tín đồ, bắt bà ta phải hiện thân nơi này nơi nọ, hoặc thỉnh
thoảng các con chiên trên thế giới bắt khi nào khóc hay chảy máu mắt thì khi
đó phải khóc hay chảy máu mắt, bắt khi nào phải chảy dầu thì chảy dầu, và
bắt khóc ở đâu thì phải khóc ở đó, dù bà ta là Mẹ Thiên Chúa toàn năng, quyền
phép vô cùng, muốn làm gì cũng được.
Trong bài VATICAN, XƯỞNG SẢN XUẤT PHÉP LẠ - Sự Thật Về Lộ
Đức (Lourdes): https://www.sachhiem.net/index.php?content=showemail&id=86,
Nguyễn Hữu Ba đã tiết lộ màn bịp bợm của Giáo hội để mê hoặc con chiên qua
những “phép lạ” như Mary khóc, Mary chảy dầu v…v… như sau:
Trước khi đọc bài này, tôi xin nhắc cho quý vị nhớ rằng: trước đây, mỗi
năm, Chúa Jésus và mẹ Maria cứ thay phiên nhau khóc lai rai vài nơi trên thế
giới để cho các cha nhà thờ kiếm tiền.

Linh mục Joseph Liem Thanh Nguyen và ... tác phẩm thu tiền
Nhưng kể từ năm 2004 (?) nhân có vụ mấy cha VN ở nhà thờ Inala-Queensland-Úc
Châu "làm cho" mắt mẹ Maria chảy dầu. Và một ông LM người Úc đã "bật
mí" bí mật mà bao nhiêu thế kỷ qua Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ (GHCGHV)
đã làm cho Chúa chảy máu mắt và Mẹ chảy dầu ở bất cứ nơi đâu họ muốn.
Đó là:
Sau khi nắn tượng Chúa hay Mẹ Maria. Họ đã bơm vào đó một lượng dầu, thường
là dầu olive đã nhuộm đỏ hoặc để nguyên. Rồi bịt kín lại.
Một thời gian sau, số dầu đó sẽ thấm vào toàn thể bức tượng và sẽ chảy
ra ở khoé mắt của bức tượng.
Vì toàn thể bức tượng đã được tráng men, dầu không thấm qua được. Chỉ có
đôi mắt đã bị khoét mất lớp men, cho nên dầu mới có thể thấm qua.
Sau đó, mặc dù đám con chiên Công Giáo VN cuồng tín công kích, chửi bới
ông LM đó tới tấp, chính quyền vẫn ra lịnh lấy mẫu “nước mắt của mẹ Maria”
để phân chất. Thì phát giác ra......đấy là DẦU OLIVE
Từ đó, Vatican đã bị bể mánh. Cho nên chúng ta không còn thấy Chúa và Mẹ
khóc ở đâu nữa.

(SH chú thích: Đọc thêm về vụ Đức Mẹ khóc ra dầu và máu https://cathnews.acu.edu.au/405/158.php,
https://www.visionsofjesuschrist.com/weeping473.htm)
Chẳng có ai đặt vấn đề: những vụ hiện thân, hoặc mấy giọt nước mắt ngụy
tạo, hay mấy giọt máu [có nơi được kiểm chứng là máu của đàn ông khi được
đem đi phân tích DNA] trên khóe mắt thì giúp ích được gì cho nhân loại
để giải quyết những vấn nạn về chiến tranh, về thiên tai, về bệnh tật xảy
ra hàng ngày và khắp nơi trên trái đất. Hiển nhiên là bà ta chẳng làm
được cái tích sự gì qua những vụ hiện thân, hay khóc, hay chảy máu mắt, hay
chảy dầu, mà chỉ để cho bàn dân thiên hạ thấy các tín đồ Công giáo, bị lùa
vào thủ đoạn mê hoặc của Giáo hội, vốn đã mê muội tin nhảm tin nhí lại càng
mê muội tin nhảm tin nhí hơn.
Thế mà ngày nay, Linh Mục Đinh Xuân Minh còn vẫn đủ can đảm để nhắc lại một
sự kiện đượm màu sắc cuồng tín và xuẩn động của giáo hội Công giáo La mã tại
Việt Nam: Có phải Giáo Hội Việt nam đã dâng đất nước Việt Nam thân
yêu của chúng ta cho Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội? Và còn đặt câu hỏi: Giáo
Hội Việt Nam có cần thiết dâng nước Việt Nam cho Trái Tim Mẹ Vô Nhiễm Nguyên
Tội nữa không? Tại sao những bậc chăn chiên như LM Đinh Xuân Minh lại
thiếu hiểu biết đến độ không thấy rằng việc dâng nước Việt Nam cho Trái
Tim Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội là hành động xúc phạm đến tuyệt đại đa số
người dân Việt Nam phi Công Giáo, những người không bao giờ có thể chấp nhận
hành động ngu xuẩn vô lối này của giáo hội Công giáo Việt Nam. Ai không cho
hành động “dâng nước Việt Nam…” này là ngu xuẩn và vô lối xin mời lên tiếng.
Chúng tôi tôn trọng niềm tin của bất cứ ai về bất cứ điều gì, kể cả những
niềm tin bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết hoặc ngu dốt. Nhưng chúng tôi dành
quyền phê bình chỉ trích và phản đối những hành động xúc phạm đến những người
không có cùng một đức tin như họ, những hành động bắt nguồn từ sự tin mù quáng
đưa đến những xuẩn động như dâng hiến cả thế giới, hay Nga sô, hay Việt Nam
cho một người đàn bà nhà quê Do Thái như trên.
V. Người Công Giáo Có Thực Sự Tin Chúa Không?
Ở trên Michael Jordan viết: Đức tin cần được xây dựng trên sự tín
nhiệm và tin tưởng, sự trung thực của những hứa hẹn lương thiện và thẳng
thắn, nếu không thì đức tin đó có ích gì.
Các tín đồ Công giáo chắc chắn là phải tin sự trung thực của những hứa hẹn
của Chúa Giê-su của họ. Vậy chúng ta cùng họ hãy đọc những lời hứa hẹn của
Giê-su sau đây.
Mark 16: 15-18: Người [Giê-su, sau khi chết, nhỏm giậy, và
trước khi đeo hỏa tiễn bay lên trời] nói với các người theo ông ta: "Anh
em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ
tạo. 16 Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu rỗi; còn ai không tin, thì
sẽ bị kết án. 17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân
danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ. 18 Họ
sẽ bắt rắn độc trong tay, và dù có uống nhằm thuốc độc, thì cũng chẳng sao.
Và nếu họ đặt tay trên những người bệnh, thì những người này sẽ được lành bệnh."
Matthew 21: 18-21: 18 Sáng sớm, khi trở vào thành, Người cảm thấy
đói. 19 Trông thấy cây vả ở bên đường, Người lại gần nhưng không
tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Người nói: "Từ nay, không bao
giờ mày có trái nữa! " Cây vả chết khô ngay lập tức. 20 Thấy
vậy, các môn đệ ngạc nhiên nói: "Sao cây vả lại chết khô ngay lập tức
như thế? " 21 Đức Giê-su trả lời: "Thầy bảo thật
anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm
được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: "Dời
chỗ đi, nhào xuống biển! ", thì sự việc sẽ xảy ra như thế.
22 Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì
anh em sẽ được."
Chúng ta, những người ngoại đạo, hẳn là không đến nỗi ngu muội để mà tin
vào những lời hứa hẹn vô trách nhiệm bất khả thực hiện như trên của một người
vô đạo đức, tư cách thấp kém như trên [chỉ vì lúc trái mùa, cây vả không
ra trái để cho ông ta ăn lúc đói, dù ông ta có thể biến một mẩu bánh thành
trăm mẩu bánh v…v…, nên ông ta nổi giận nguyền rủa cho cây vả chết khô ngay], nhưng
tôi hi vọng các tín đồ Công giáo Việt Nam hãy sẵn sàng thử nghiệm đức tin
của họ, thí dụ như uống chơi một liều thuốc độc, hay đặt tay lên một người
bị bệnh ung thư vào thời kỳ cuối xem bệnh nhân có lành bệnh hay không v…v….
Nếu không thì đức tin của họ chỉ có trên đầu môi chót lưỡi, thuộc loại mù
lòa tin bướng tin càn. Vì vậy nên Michael Jordan mới nhận định:
Nếu đức tin đặt căn bản trên những lời nói láo, dối trá, và những
mánh khóe có tính toán, thì nó trở thành không sao biện minh được và thực
ra thì đó có thể gọi là đức tin hay không?
VI. Vài Niềm Tin Chính Trong Công Giáo.
Vậy thì chúng ta hãy xét đến vài niềm tin chính trong “đức tin công giáo”
xem chúng thuộc loại trí tuệ hay mê tín. Giáo hội đưa ra 7 “bí tích”, những
lễ tiết mà Giáo hội bí đặc, không thể giải thích được rõ ràng, nhưng bắt các
tín đồ phải tin, không tin thì không được lên thiên đường. Và vì ham hố một
cái bánh vẽ trên trời, nên các tín đồ cứ nhắm mắt mà tin. Do đó, tất cả những
“bí tích” mà Giáo hội Công giáo đưa ra đều thuộc loại mê tín cả, những bí
tích mà John Walters đã liệt vào hạng “mê tín tàn bạo” (sadistic superstition)
và mục đích của những bí tích đó chỉ là để tạo quyền lực cho giới chăn chiên
trên đám tín đồ kém hiểu biết ở dưới. Sau đây tôi xin viết chi tiết về vài
“bí tích” chính.
A. Bí Tích Rửa Tội.
Người Công giáo mang những đứa con sơ sinh chưa biết gì ngoài việc bú, ị,
ngủ, tè và khóc, đến nhà thờ cho các ông linh mục “rửa tội”, rất có thể là
một ông linh mục đã phạm tội ấu dâm, hay ăn cắp, hay nghiện tượu, hay đồng
giống luyến ái (gay) v…v…, cái tội nó không hề có. Mang con nít đi rửa
tội có phải là mê tín hay không khi mà thuyết sáng tạo đã sụp đổ và tội tổ
tông truyền xuống từ Adam và Eve chỉ là những huyền thoại cổ xưa của dân tộc
Do Thái. Ngày nay, giới trí thức Tây phương đã coi việc mang con nít đi rửa
tội là một tội ác đối với nhân loại. Chúng ta hãy đọc tài liệu sau:
Hai luật sư người Đức có cùng sinh quán với giáo hoàng Benedict XVI
đã đệ đơn lên Tòa Án Xử Tội Ác Quốc tế ở Le Hague, truy tố Benedict XVI
về 3 tội ác chống nhân loại. Một trong những tội ác này là duy trì bí tích
rửa tội con nít chưa đủ lý trí để thu nạp tín đồ với sự đe dọa các bậc cha
mẹ là không mang con đi rửa tội thì sẽ bị tuyệt thông và chúng sẽ bị đầy
đọa trong ngọn lửa vĩnh hằng nơi hỏa ngục.
https://richarddawkins.net/articles/595374-charges-initiated-against-pope-for-crimes-against-humanity [2]
Chúng ta hãy đọc thêm nhận định của một số lãnh đạo Công giáo về cái gọi
là “Bí tích rửa tội” con nít:
Trước hết là nhận định của linh Mục Joseph McCabe về bí tích rửa tội.
Linh mục đã làm lễ này cho tín đồ trong 25 năm. Sau cùng ông đã viết sách
trình bày những điều ông nhận xét về Công Giáo La Mã. Ông viết rất nhiều,
về đủ mọi khía cạnh của Công Giáo. Ngoài ra, ông còn viết một bộ Sử Thế
Giới, bộ Sử này đã được nhiều đại học Mỹ dùng làm sách giáo khoa trong
nhiều năm. Đoạn sau đây là trích từ cuốn Sự Thực Về Giáo Hội Công Giáo:
"Bí tích rửa tội là để cho các trẻ sơ sinh...vì một lý do rất
nghiêm trọng. Mọi hậu duệ của Adam đều mang cái tội của Adam và phải chịu
trừng phạt. Mới đầu người ta tin tưởng rằng, đàn ông, đàn bà, trẻ con nào
không được nước rửa tội rửa sạch cái tội tổ tông đó đi thì sẽ bị đầy đọa
trong hỏa ngục vĩnh viễn. Niềm tin này thật là quá đáng, ngay cả đối với
con người trong thời Trung Cổ, và các nhà Thần học bèn sửa đổi... Ai
không rửa tội thì không được lên Thiên đường, Giáo hội bám chặt vào
điều này. Nhưng những đứa trẻ ngây thơ vô tội không phải xuống hỏa ngục.
Chúng bị đầy vào một nơi u ám, cánh tay hiện đại nối dài của hỏa ngục, và
có thể sung sướng ở đây, nhưng chúng không bao giờ được thấy "nhan
thánh Chúa" hoặc gặp lại cha mẹ chúng.
Do đó, đứa trẻ được mang vội tới nhà thờ chiều ngày Chủ Nhật ngay
sau khi sanh. Nếu nó bị cảm lạnh và chết thì cha mẹ không được than khóc.
Nó đã đi thẳng lên thiên đường, nơi tuyệt đối không có tì vết nào...Tuy
nhiên, ngày nay nước rửa tội đã được làm ấm, và rồi cái lễ kỳ quặc bắt
đầu..."
"Ông (linh mục) nhổ vào đầu ngón tay rồi bôi vội lên miệng và mắt
đứa bé và nói "Ephetha" (bằng tiếng Do Thái). Ông ta cho ít muối
vào miệng đứa bé; đương nhiên nó vùng vẫy chống lại và khóc lên. Ông
ta nghiêm trọng ra lệnh cho bất cứ những con quỷ nào trong nó ra khỏi nó
và đi đến - bọn Tin Lành hay bất cứ đâu. Rồi ông đổ ít nước, đã được
trừ quỷ và ban phép lành rất kỹ, lên đầu đứa bé (phải hết sức cẩn thận
đổ nước lên da đầu chứ không chỉ trên tóc, nếu không đứa bé sẽ không bao
giờ được lên thiên đường); và rồi cái án phạt khủng khiếp treo trên
đầu nó, vì một nhân vật hoang đường tên là Adam ăn một trái táo hoang đường
trong một cái vườn hoang đường dưới triều Vua Khammurabi ở Babylon, đã được
ân huệ (của Chúa) hủy bỏ."
Thật khó mà có thể thảo luận bí tích số 1 này một cách nghiêm túc. Nhổ
nước bọt và quỷ, dầu thánh và nước thánh, đèn cầy thắp sáng và hộp thu tiền,
đã đủ hoang đường rồi, nhưng cái nguyên lý chủ yếu của lễ rửa tội này
thật là không thể chịu được. Ngay cả ý tưởng đọa đầy tương đối nhẹ những
đứa trẻ không rửa tội (vào một nơi u ám, cánh tay nối dài của hỏa ngục
như đã viết ở đoạn trên. TCN), với tất cả sự thích hợp với thời đại
mới, cũng quá ngu xuẩn để có thể viết lên thành lời. Ngày nay có những
học giả Công giáo coi chuyện Adam và vườn Eden như là "một huyền thoại
thích thú." Tuy vậy, bí tích này vẫn là giáo điều xác định rõ ràng
và bắt buộc của giáo hội, rằng đứa trẻ nào sinh ra đời, (trừ Mary -
đây chính là nghĩa thực của "thụ thai vô nhiễm") đều phải
mang "cái tội của Adam", và phải trải qua những nghi thức kỳ lạ
tôi đã mô tả." [3]
Cũng vì nhận rõ được tính chất hoang đường và lỗi thời của "bí tích
rửa tội", của vai trò "chuộc tội" và "cứu rỗi" của
Giê-su, mà trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết, Giám
mục John Shelby Spong đã dành riêng chương 6 để viết về đề tài Giê-su
Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ (Jesus as Rescuer:
An Image That Has To Go). Trong chương này, Giám Mục Spong viết như sau:
"Nhân loại chúng ta không sống trong tội lỗi. Chúng ta không sinh
ra trong tội lỗi. Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì vết tội tổ tông
trong lễ rửa tội. Chúng ta không phải là những tạo vật sa ngã, mất đi
sự cứu rỗi nếu chúng ta không rửa tội. Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm
vụ khôi phục tình trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín trước
thời -Darwin và một sự vô nghĩa sau thời -Darwin." [4]
Ngoài ra, học giả Công giáo Henri Guillemin, trong cuốn Cái Giáo Hội
Khốn Nạn coi “bí tích rửa tội” chỉ là trò ma thuật. Tác giả nhận xét
về bí tích “rửa tội” và bí tích “ban thánh thể” trong Công giáo như sau:
"Ngày nay, người nào nói đến "Rô-Ma" là nói đến Vatican,
đến Tòa Thánh, đến Giáo hội Ca-Tô trong trung tâm quyền lực của họ... Đối
với những nhà tiên tri, Rô-Ma chính là biểu tượng của các thói xấu và những
sự ô nhục, và Sách Khải Huyền trong Thánh Kinh đã biến thành phố của các
vua La mã khi xưa thành con "quái vật có 7 đầu và 10 sừng", "con
điếm nổi danh", "mẹ đẻ của những sự đồi bại "...
Cái giáo hội mà ngày nay đang suy sụp , bị ngự trị bởi một giáo hoàng
thuộc thời Trung Cổ [John Pauk II], và theo ý tôi, dù ông ta có
thay đổi kỹ thuật (để lừa dối tín đồ) đi chăng nữa, cũng không
thể làm gì được để ngăn chặn sự tàn lụi một cách dứt khoát và mau chóng
trong thiên niên kỷ thứ ba, ít ra là dưới cái dạng thái Rô-Ma của nó, một
giáo hội phải dùng đến ảo thuật để thực hiện hai "bí tích chính" của
mình. Mới đầu, với một chút nước và vài câu đối thoại
khôi hài, Giáo hội giật đứa trẻ sơ sinh ra khỏi móng vuốt của con quỷ giam
cầm đứa trẻ trong cái "tội tổ tông" (tác giả muốn nói đến
bí tích "rửa tội". TCN), rồi, bằng vài lời lẩm bẩm, giáo hội
gài vào trong một mẩu bánh thân thể, thân thể thực sự bằng xương bắng thịt
của Giê-su Ki Tô để cho tín đồ dùng qua đường ăn uống (tác giả muốn
nói đến bí tích "ban thánh thể". TCN). [5]
Bây giờ chúng ta hãy đọc về lễ tiết “rửa tội” với chi tiết để xem có phải
đích thực đó là một cái lễ kỳ quặc (theo Linh mục Joseph McCabe)
với những câu đối thoại khôi hài (theo Henri Guillemin) không.
Sách Giáo Lý Công Giáo (Katholischer Katechismus), bản dịch của Hoài
Chiên và Nguyễn Khắc Xuyên, nhà in Zieleks, Texas, xuất bản năm 1991, viết
về Nghi Thức Rửa Tội cho con nít như sau, trang 149-151. Chỉ cần đọc nghi
thức này chúng ta cũng có thể nhận ra thực chất của "bí tích" này
ra sao. Tuy nhiên, tôi xin kèm theo vài nhận xét cá nhân để cho vấn đề sáng
tỏ hơn. Nguyễn Khắc Xuyên là Tiến Sĩ Thần Học của Công giáo nên chúng ta có
thể tin tưởng bản dịch này là đúng. Phần chữ nghiêng là nghi thức rửa tội,
phần chữ thẳng và nhỏ hơn là bình luận của tôi.
1. Nghi thức ngoài cửa nhà thờ:
1. Những câu hỏi đầu tiên:
Linh mục (LM): Con tên gì?
Cha, Người đỡ đầu (NĐĐ): xưng tên thánh đứa trẻ...
LM: Con xin gì cùng giáo hội Chúa?
NĐĐ: Con xin đức tin.
(Đứa trẻ sơ sinh chưa biết nói, trí tuệ chưa phát triển, chưa có khả năng
hiểu biết, được cha mẹ hay người đỡ đầu thay mặt nó, cưỡng bách nó phải xin
đức tin (faith) trong khi điều mà nó cần khi trưởng thành là lý trí, là trí
tuệ để nhìn sự vật như chúng là như vậy. Đầu óc của đứa trẻ đã bị ô nhiễm
ngay từ khi sơ sinh, vì như trên đã nói, đức tin là con đường đi tới mê tín.
Chẳng trách là đa số tín đồ Ca-Tô khi lớn lên trở nên cuồng tín vì đầu óc
đã bị uốn nắn và điều kiện hóa để tin mà không cần biết, không cần hiểu, vào
những điều phi lý ngay từ khi vừa mới chào đời)
LM: Đức tin sinh ích lợi gì cho con?
NĐĐ: Sinh sự sống đời đời.
(Sự sống đời đời trong Ca-Tô Giáo đặt căn bản trên huyền thoại về "tội
tổ tông", và tin vào khả năng "cứu rỗi" của Giêsu, sự hiện
hữu của một Thiên đường, nơi Chúa ngự. Nhưng trước những khám phá của khoa
học, huyền thoại Adam và Eve về tội tổ tông nay đã không còn một giá trị trí
thức nào, vì trái đất đã có tuổi ít ra là 13.7 tỷ năm, con người đã xuất hiện
trên trái đất cách đây cả triệu năm, chứ không phải mới được Thiên Chúa Ki
Tô "sáng tạo" ra cách đây khoảng 6000 năm như những lời "mạc
khải" không thể sai lầm của Thiên Chúa được ghi lại trong Thánh Kinh.
Và gần đây, Giáo hoàng John Paul II đã công nhận thuyết Big Bang về nguồn
gốc vũ trụ và thuyết Tiến Hóa về nguồn gốc con người, và tuyên bố là không
làm gì có Thiên đường ở trên các tầng mây. Do đó, sự sống đời đời trên thiên
đường, cái bánh vẽ ở trên trời (A-pie-in-the-sky = từ của Linh Mục Ernie Bringas)
của Giáo hội đưa ra, nay đã không còn ý nghĩa, dù vẫn còn vô cùng hấp dẫn
đối với những tín đồ muốn lên thiên đường với một giá rất rẻ, chỉ cần xin
đức tin với một linh mục.)
2. Nghi thức trừ quỷ:
Từ khi có tội tổ tông thì quỷ Sa tăng, có quyền khuấy khuất nhân loại.
Bởi vậy, linh mục thổi ba lần trên mặt đứa nhỏ và truyền cho Sa Tăng phải
rút lui, nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần.
[Đây là lần thứ nhất ông Linh mục đuổi quỷ Satan để cho Chúa Thánh
Thần vào thay thế. Đây cũng là điều mê tín nhất trong những
điều mê tín: rằng Sa Tăng, cũng là một tạo vật của Chúa Cha, có thật và
là nguồn gốc của những sự xấu ác, có quyền khuấy khuất nhân loại, và có
sẵn trong mọi người từ khi sơ sinh.
Đây cũng là tín điều man rợ nhất
và xúc phạm nhất đối với những người không theo đạo Công giáo. Tín
điều này, chỉ có thể có trong đầu óc của những tín đồ Công giáo, cho rằng:
bất cứ đứa trẻ nào sinh ra cũng đều bị Sa Tăng ngự trị trong người, nếu
không đuổi Satan ra khỏi thân thể đứa bé bằng những nghi thức "rửa
tội" hoang đường, phản khoa học, phi lý trí, thì Satan sẽ còn ở lại
với đứa trẻ suốt đời. Đông phương cho rằng: "Nhân
chi sơ, tính bản thiện". Trái lại, Công Giáo của Tây phương quan niệm "Nhân
chi sơ, tính bản ác".
Lịch sử đã chứng minh rằng, không thiếu
gì người Công Giáo, những người đã chịu lễ rửa tội, từ Giáo hoàng trở
xuống, tệ hại và ác độc hơn những người ngoại đạo. Khi rửa tội thì
Sa Tăng đã rút lui, nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần. Vậy Chúa Thánh
Thần chính là nguồn gốc của những sự xấu ác trong những con người xấu
ác khi đã trưởng thành này. Không thiếu gì người
ngoại đạo suốt đời không làm điều gì xấu ác, trái với lương tâm. Điều
này chứng tỏ rằng, Satan (nếu có) trong những người ngoại đạo, những người
chưa rửa tội, còn tốt gấp bội lần Chúa Thánh Thần đã thay thế Satan trong
những tín đồ Công giáo xấu ác sau khi đã rửa tội.)
3. Ghi dấu Thánh giá:
Linh mục vẽ dấu thánh giá trên trán và ngực đứa nhỏ.
(Để làm gì và có tác dụng gì? Không thấy giải thích)
4. Nghi thức đặt tay:
Linh mục giơ bàn tay phủ lên đầu đứa nhỏ, chỉ dấu Chúa Ki Tô chinh
phục nó.
(Chúa Ki Tô ở trong bàn tay của linh mục? Cùng một lúc ở trên thế gian này
có biết bao nhiêu đứa trẻ đang bị cưỡng bách rửa tội. Chúa "quyền phép
vô cùng" như Tề Thiên Đại Thánh nên có thể cùng lúc nằm trong bàn tay
của vô số linh mục trên khắp thế giới để chinh phục những đứa trẻ sơ sinh
chưa biết gì, chưa hiểu gì? Mà chinh phục đứa trẻ sơ sinh để làm gì? Để
sau này lớn lên làm tôi tớ hèn mọn của Chúa như Linh mục Trần Lục tự nhận
và được khắc trên tấm mộ bia của ông? Các bậc cha mẹ mang con đi rửa tội
không muốn cho con mình làm người tự do, có trí tuệ, chỉ muốn con mình được
một người Do Thái đã chết cách đây gần 2000 năm chinh phục làm tôi tớ hèn
mọn. Thật là tội nghiệp cho những đứa trẻ này.)
5. Ban muối:
Linh mục ban muối cho đứa nhỏ. Muối giữ cho khỏi hư thối, chỉ rằng
đức tin gìn giữ khỏi sự tội.
(Đức tin có thực sự gìn giữ khỏi sự tội không? Tội đây tuyệt đối không phải
là tội của con người trong đời sống hàng ngày, vì thực tế cho thấy đức tin
đâu có gìn giữ tín đồ khỏi tội lỗi đâu? Vậy tội đây là "tội Tổ Tông".
Nhưng, như trên đã nói, "tội Tổ Tông" chỉ là một huyền thoại của
dân Do Thái cổ xưa, cho nên lễ tiết "ban muối" trở thành vô nghĩa,
đượm màu mê tín của người dân Do Thái bán khai)
6. Lại trừ quỷ:
Linh mục lại truyền cho Satăng lần nữa, phải ra khỏi đứa nhỏ. Ngài
vẽ dấu thánh giá trên trán, bởi vì dấu đó là ấn tích của Chúa Ki Tô, đoạn
truyền cho Satăng không bao giờ được làm mất dấu ấn tích đó.
(Đây là lần thứ hai ông Linh mục đuổi Satan ra khỏi đứa trẻ.Trong
nghi thức trừ quỷ lần đầu, Linh mục đã ra lệnh cho Sa Tăng phải rút lui nhường
chỗ cho Chúa Thánh Thần. Một là Sa Tăng coi thường lệnh của Linh mục chẳng
có uy lực gì, hai là Chúa Thánh Thần đã biến thành Sa Tăng trong thân thể
đứa trẻ nên Linh mục lại phải đuổi Sa Tăng ra khỏi đứa trẻ lần nữa. Điều
thứ hai này có thể đúng hơn vì khi lớn lên, đứa trẻ vẫn có thể làm ác, dù
rằng mọi hành động, suy nghĩ của đứa trẻ sau này đều được Chúa Thánh Thần
chỉ đạo. Khó mà có thể đổ tội cho Sa Tăng được nữa. Mặt khác, đứa trẻ chưa
biết nghe. Linh mục nói gì nó có hiểu gì đâu, nhiều khi đang nói thì nó
ị đùn, tè dầm, hay khóc oe oe. Mà có thật là có Satan trong người đứa bé
không? Thật tội nghiệp cho một đứa bé ngây thơ trong trắng, hồn nhiên, vô
tội, bị cái niềm tin quái gở làm ô nhiễm nó. Nếu có Satan thì Satan cũng
không ở trong đứa bé. Theo một nghĩa nào đó, chính Satan nằm trong linh mục,
người đã tin vào những điều hoang đường của thời bán khai, cưỡng nhét Satan
vào đứa bé để có cớ mà đuổi Satan ra, một quyền lực giả dối tự tạo để ngự
trị trên đầu óc của đám tín đồ.)
7. Rước vào nhà thờ:
LM đặt dải khăn quàng của ngài trên mình đứa nhỏ, rồi đưa vào nhà
thờ Chúa, vừa đi vừa đọc: Con hãy vào nhà Chúa để thông phần sự sống đời
đời cùng Chúa Ki Tô.
(Lại sống đời đời. Cái bánh vẽ trên trời này kể ra cũng hấp dẫn. Nhà thờ
được gọi là nhà Chúa. Nhưng trên thế giới đã có biết bao nhà thờ, kể cả những
nhà thờ danh tiếng ở bên Ý, bị bão lụt, xét đánh, động đất v..v.. hủy hoại.
Vậy có thật nhà thờ là nhà Chúa không? Trong thư tố cáo linh mục Giuse
Nguyễn Ngọc Dũng ở giáo phận Toulon của cô Lữ Thị Thu Nga chúng ta có
thể đọc: “Thánh giá bằng gỗ ông ấy đeo trên cổ cũng bị “lê lết” trên
người con. Có những lần hứng chí ngay trước khi dâng Thánh lễ - dù chỉ
còn 10 phút - ông ấy cũng đè con ra để thỏa mãn thú tính nhục dục.” Vậy
đây là chuyện trong nhà Chúa hay trong nhà quỷ dâu xanh.
8. Trước giếng rửa tội.
- Mọi người cùng đọc Kinh Tin Kính và Lạy Cha.
- LM lại còn truyền cho quỷ lần nữa phải dứt bỏ đứa nhỏ; để tâm hồn
em bé trở nên Đền thờ Chúa hằng sống ngự.
(Đây là lần thứ ba trong lễ tiết rửa tội ông linh mục đuổi Satan ra
khỏi người đứa trẻ. Nhưng đã hai lần Linh Mục truyền nó phải rút
lui nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần rồi cơ mà. Hai lần trước Chúa Thánh Thần
đã vào thay thế chỗ của Satan, vậy đâu còn Satan trong người đứa bé, do đó
ông linh mục đuổi Satan thực ra là đuổi Chúa Thánh Thần alias Satan. Hay
thiệt.)
- LM vừa sờ vào tai, lỗ tai của đứa nhỏ vừa đọc: "Ephêta", nghĩa
là: "hãy mở ra" có ý chỉ: hãy mở tâm hồn đón rước Chúa.
(Ông linh mục có vừa sờ vào tai, lỗ tai của đứa nhỏ vừa đọc "Ephêta" thì
đứa nhỏ cũng chẳng hiểu Ephêta là cái quái gì. Bố nó còn chẳng hiểu nữa là
nó, vừa mới sinh ra đời, chưa hề học cái ngôn ngữ chết (dead language) là
tiếng Latinh, hoặc tiếng Do Thái (Linh mục Joseph McCabe cho biết ông thường
đọc Epheta bằng tiếng Do Thái (in Hebrew). Dù ông có đọc bằng tiếng Việt
nó cũng chẳng hiểu. Vậy hành động của ông có tác dụng gì đối với nó? Mà
thực ra, ông nhét Chúa vào tâm hồn trong trắng của nó chứ nó đâu có tự nguyện
mở tâm hồn để đón rước Chúa đâu.)
- LM hỏi: "Con có bỏ Sa tăng không? Có bỏ mọi việc dối trá nó làm
không? Người đỡ đầu trả lời thay: Con xin bỏ.
(Ông Linh mục ơi, ông đã truyền cho Sa Tăng phải bỏ đứa trẻ, đi sang phía
Tin Lành hay đi đâu đó (xin đọc tài liệu của linh mục Joseph McCabe), nhường
chỗ cho Chúa Thánh Thần mấy lần rồi? Satan ở đâu nữa mà ông còn phải hỏi
đứa con nít còn khóc oe oe chưa biết nói, chưa hiểu gì, một câu hỏi ngớ ngẩn
như vậy? Mà Bố nó trả lời chứ đâu có phải là nó trả lời. Nhỡ nó không muốn
bỏ Sa Tăng thì ông làm gì nó? Thực tế ở ngoài đời cho thấy, từ Giáo hoàng
trở xuống cho đến tín đồ cùng đinh, trong số này có thể có cả ông nữa, không
thiếu gì người khi lớn lên không muốn bỏ Sa Tăng qua những hành động phi luân
lý, phi đạo đức của họ.)
- LM lấy dầu thánh xức trên ngực và vai đứa nhỏ chỉ rằng nó sẽ có sức
mạnh chống nổi Sa tăng.
(Thật hoang đường. Chính ông còn không đủ sức chống Sa Tăng nằm đầy trong
Giáo hội, nhất là trong Vatican, làm sao mà chút "dầu Thánh", cái
dầu mà chính ông đã xức khi nhỏ, có tác dụng chống Sa Tăng? Ông có biết trong
giáo hội của ông có bao nhiêu Giáo hoàng, Hồng Y, Tổng Giám Mục, Giám mục,
Linh mục phạm tội giết người, nghiện rượu, đàng điếm trai gái, cưỡng bách
tình dục trẻ em, đồng giống luyến ái, bị bệnh AIDS v...v... không? Mặt khác,
ông có biết rằng việc làm của ông vô giá trị hay không? Vì Thánh Kinh
đã viết rõ, dầu Thánh chỉ để xức cho người Do Thái, không được xức cho người
ngoài, xức cho người ngoài là vô hiệu lực (Exodus 30: 22-33). Thỉnh ông
hãy đọc lại Thánh Kinh đi.)
9. Ở Giếng Rửa Tội:
Ở giếng rửa tội, LM còn bảo người đỡ đầu tuyên xưng đức tin lần nữa.
- LM đổ nước ba lần thành hình thánh giá trên đầu kẻ chịu phép rửa
tội, vừa đổ vừa đọc lời rửa tội.
- LM lại xức dầu thánh trên đỉnh đầu đứa nhỏ đã trở nên giáo hữu được
dự phần con cái trong gia đình Chúa Kitô.
- LM trao áo trắng cho đứa nhỏ mà nói rằng: Con hãy nhận lấy áo trắng
này. Ước gì con sẽ giữ mãi cho tinh truyền, tới ngày ra trước tòa Chúa
Giêsu Kitô, Chúa chúng ta mà lĩnh sự sống đời đời.
(Thánh Kinh viết rằng, Chúa sẽ trở lại trần để lập tòa phán xét nhân loại
ngay khi vài môn đồ của Chúa còn sống. Sau đó thì Chúa biệt tăm. Đến nay
đã 2000 năm, người ta đã tiên đoán ngày Chúa phán xét bao nhiêu lần rồi, và
lần nào cũng sai. Lời hứa "lĩnh đời sống đời đời" trước Tòa Chúa
rút cục chỉ là những lời hứa hẹn vô trách nhiệm của giới chăn chiên, lừa dối
những tín đồ đầu óc thấp kém, cả tin.)
- LM lại trao cho đứa nhỏ cây nến thắp sáng mà bảo:
Con hãy nhận lấy ngọn nến sáng này. Hãy giữ luật Chúa, bảo vệ ân sủng
đã nhận khi chịu phép rửa tội. Như vậy, tới ngày Chúa đến ban tiệc cưới đời
đời, con sẽ có thể cùng các thánh ra đón rước Người, đi vào triều đình thiên
quốc, hưởng phúc đời đời.
Đoạn LM chúc lành bình an cho đứa nhỏ.
(Miễn phê bình)
Bản văn của nghi thức rửa tội đã chứng minh rằng “bí tích” rửa tội vô
giá trị vì không có gì chứng tỏ là cái "tội tổ tông" hoang đường
đã được rửa sạch, quyền lực của Linh mục chỉ là giả tạo để lừa dối tín đồ
vì không có gì bảo đảm là Sa Tăng đã rút lui nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần
trừ phi chúng ta hiểu rằng Sa Tăng và Chúa Thánh Thần tuy hai mà là một, theo
như tinh thần bản văn và những thực tế ở ngoài đời. Thật vậy, sách Giáo
Lý Công Giáo viết, trang 153:
"Khi chịu phép rửa tội rồi, ta được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa
Thánh Thần tới ngự trong tâm hồn. Người giáo hữu trở nên đền thờ Chúa ngự."
Như vậy thì ai chịu trách nhiệm về những hành động xấu xa, ác độc, vô luân
v..v.. của một số giáo hoàng, giám mục, linh mục và vô số con chiên sau khi
tất cả những người này đã rửa tội và được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh
Thần ngự trong tâm hồn? Đổ tội cho Sa Tăng chăng? Nhưng như vậy thì rõ ràng
là cả ba Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần họp lại cũng không chống nổi
Sa Tăng, vậy bày đặt ra chuyện "toàn năng" với "cứu rỗi",
với "ban cho đời sống đời đời" v...v... làm gì? Có phải chỉ là
để lừa dối những kẻ nhẹ dạ, cả tin, không có đầu óc suy luận hay không?
Trước những tài liệu nêu trên của linh mục McCabe và của học giả Công giáo
Guillemin, và trước bản văn mô tả nghi thức rửa tội trong sách Giáo Lý
Công Giáo của Việt Nam mà tôi vừa bình luận ở trên, các tín đồ Công giáo
Việt Nam ngày nay đứng trước một vấn đề nan giải, vì họ bắt buộc phải chấp
nhận điều sau đây.
Nếu tin vào hiệu năng của bí tích rửa tội qua quyền phép ảo thuật của
linh mục hay giám mục mô tả trong nghi thức rửa tội, thì tất cả những tội
lỗi của Công Giáo đối với nhân loại là tội của Chúa Ba Ngôi, vì sau khi rửa
tội, Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần đã thay SaTăng tới ngự trong tâm
hồn của các tín hữu Công giáo. Người giáo hữu đã trở
nên đền thờ nơi Chúa ngự. Những hành động của các tín đồ Công giáo, do đó,
đều không phải là do Sa Tăng có quyền khuấy khuất, vì Sa Tăng đâu có còn trong
người nữa, mà chính là do sự hướng dẫn tâm linh của Chúa Thánh Thần. Vả chăng,
giáo hội thường dạy các con chiên: Giáo hoàng là do sự mạc khải linh ứng của
Chúa Thánh Thần cho các hồng y trong việc tuyển lựa giáo hoàng, giáo hoàng
được Thánh linh chỉ đạo, không thể sai lầm về đức tin hay đạo đức, và giáo
hội là nhiệm thể của Chúa Ki Tô cho nên không thể sai lầm. Nhưng nay giáo
hoàng đã chính thức xưng thú 7 núi tội lỗi mà giáo hội đã phạm đối với nhân
loại và xin được tha thứ. Và chúng ta cũng đã biết đạo đức của một số Giáo
hoàng trong lịch sử giáo hội là như thế nào. Vậy, đúng ra điều này phải được
giải thích là chính Chúa Thánh Thần ngự trong các giáo hoàng, trong các tín
đồ Công giáo, trong giáo hội, đã là nguồn gốc của mọi tội lỗi mà giáo hội
cũng như những cá nhân trong giáo hội gây ra.
Qua sự phân tích bí tích rửa tội ở trên, chúng ta đã thấy tất cả những
sự lừa dối của giáo hội trong sách lược ngu dân, mê hoặc tín đồ bằng những
điều hoang đường, phi lý, phi lô-gic, phản khoa học, mâu thuẫn v..v.. mà con
người trong đời sống hiện đại, với những kiến thức của nhân loại ngày nay,
không thể nào chấp nhận được. Tất cả các bí tích của Công Giáo đều có mặt
Thánh Linh hay Chúa Thánh Thần trong đó. Chúa Thánh Thần đã biến thành công
cụ của các giám mục, linh mục v..v.., vì các ông này muốn sai Chúa Thánh Thần
đi đâu là Chúa Thánh Thần phải đi đó. Đặc biệt hơn nữa, giáo hội tuyên bố
rằng, trong ngày hạ trần hay hiện xuống, nghĩa là 35 ngày (ngũ tuần) sau ngày
Chủ Nhật mà Giê-su sống lại, Chúa Thánh Thần đã hiện xuống ngự và ở lỳ trong
giáo hội cho tới ngày nay. Chẳng vậy mà sách Giáo Lý Công Giáo viết,
trang 95:
Đức Chúa Thánh Thần hằng ở cùng Giáo hội và hoạt động trong đó.
Người (Chúa Thánh Thần là Người?) soi sáng cho Giáo hội khỏi
xa chân lý. Người thánh hóa Giáo hội bằng đổ ơn xuống
tràn đầy.
Vậy các “tiến sĩ Thần học” trong giáo hội giải thích làm sao về cái lịch
sử chứa 7 núi tội ác của giáo hội mà giáo hoàng John Paul II cùng “tòa thánh”
đã xưng thú trước thế giới, trong đó có các tội ác của tập thể Công giáo,
của nhiều cá nhân giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, cho
tới con chiên? Có cách nào giải thích ngoài điều chấp nhận những tội ác này
là do hoạt động của Chúa Thánh Thần đổ ơn xuống tràn đầy để thánh hóa giáo
hội? Nếu không chấp nhận điều này thì phải chấp nhận là chẳng làm gì có Chúa
Thánh Thần “hằng ở cùng giáo hội” và “soi sáng cho giáo hội” hay “thánh
hóa giáo hội”. Tất cả những luận điệu thần học mà giáo hội đưa ra chỉ
là sản phẩm của một số người rất thế tục với mưu đồ thống trị đầu óc con người
đằng sau cái chiêu bài thần thánh, khai thác sự yếu kém tâm linh của quần
chúng thông thường. Do đó, bản chất của Giáo hội Công Giáo không ngoài
gì khác là một tổ chức thế tục buôn thần bán thánh mà giới chăn chiên đã dùng
mọi thủ đoạn để mê hoặc đầu óc yếu kém của các tín đồ. Ai không đồng
ý xin mời lên tiếng.
Tại sao chuyện Chúa Thánh Thần ngự xuống nơi con nít, theo lệnh truyền của
linh mục, lại là chuyện chuyện hoang đường? Bởi vì thực tế cho thấy những
chuyện này không đúng như chuyện hoang đường về Thánh Linh giáng lâm trong
Thánh Kinh. Sách Giáo Lý Công Giáo trích dẫn đoạn sau đây trong
Thánh Kinh, Công Vụ Các Sứ Đồ 2: 1-4:
Đến ngày lễ ngũ tuần, các môn đệ Chúa đều họp mặt đông đủ. Thình
lình có tiếng động từ trời như luồng gió mạnh thổi vào đầy nhà. Các môn
đệ thấy những chiếc lưỡi bằng lửa xuất hiện, đậu trên đầu mỗi người. Tất
cả đều đầy dẫy Thánh Linh, mỗi người bắt đầu nói một ngoại ngữ do Thánh
Linh chỉ bảo.
Thời buổi này, có ai còn có thể tin được chuyện quái gở như vậy không.
Thứ nhất, tiếng động từ trời thì chỉ có thể vang tới chứ không thể thổi tới.
Vang tới to hay nhỏ là tùy theo cường độ của tiếng động chứ không phải là
như luồng gió mạnh thổi vào. Không có gió thì tiếng động vẫn vang tới như
thường. Luke (tác giả của sách Công Vụ Các Sứ Đồ) không hiểu gì về khoa học
nên mới viết như trên. Thứ nhì, Thánh Kinh, những lời mạc khải không thể sai
lầm của Chúa, Chúa Cha hay Chúa Con hay Chúa Thánh Thần cũng vậy vì ba chỉ
là một, cho rằng trái đất phẳng dẹt như cái đĩa, không biết đến cả một nửa
địa cầu, vậy Chúa Thánh Thần làm sao biết được tiếng nói của các sắc dân ở
phía bên kia địa cầu mà chỉ bảo tiếng nói của họ. Thứ ba, trong ngày lễ ngũ
tuần, nghĩa là 35 ngày sau khi Giê-su sống lại, thì có bao nhiêu môn đồ họp
hành. Tất cả những người nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay đều đồng thuận là
Giê-su không có quá 12 môn đồ. Vậy trên thế giới có bao nhiêu thứ tiếng khác
nhau và 12 môn đồ trên, mỗi người phải nói bao nhiêu thứ ngoại ngữ, trong
đó có những ngoại ngữ mà chính Thánh Linh cũng không biết đến sự hiện hữu
của những ngoại ngữ này. Thật là chuyện hoang đường quá sức tưởng tượng,
thế mà vẫn có người tin và cho vào sách Giáo Lý Công Giáo.
Nhưng điều đáng nói là dấu hiệu khi Chúa Thánh Thần ngự xuống là dưới dạng
các lưỡi lửa trên đầu mỗi người, nếu chúng ta có thể tin được cái chuyện có
tính cách mạ lỵ đầu óc con người này. Vậy có ai thấy những lưỡi lửa này hiện
trên đầu của những đứa con nít trong lễ rửa tội chưa? Kết luận? Tất cả
chỉ là trò lừa dối của giới chăn chiên ru ngủ những đầu óc không có khả năng
suy luận. Tin cũng được, nhưng tới một mức độ nào thôi chứ, cứ tin bướng
tin càn bất kể là điều mình tin nó hoang đường, phi lý tới đâu thì thật quả
là đáng tội nghiệp.
Trên đây, tôi đã phân tích và trình bày tất cả những sự hoang đường phi
lý và mâu thuẫn trong những bí tích rửa tội. Tất cả những bí tích khác trong
Công Giáo La Mã đại loại đều như vậy cả. Điều lạ đối với tôi là mấy ông trí
thức Công Giáo Việt Nam như Tiến sĩ Thần Học Nguyễn Khắc Xuyên viết về bí
tích rửa tội trong Sách Giáo Lý Công Giáo mà không hề nhận ra những
điều kỳ quặc hoang đường, những lời đối thoại khôi hài trong đó. Không hiểu
đầu óc của họ thuộc loại nào. Có vẻ như một đọc giả ở Úc đã nhận xét khá
đúng: một khi đã rửa tội vào Công giáo rồi thì phần lớn những giây thần kinh
suy tư đã bị hủy diệt mất, chỉ còn lại những phần vô dụng, không biết gì hơn
là nhắc lại như con vẹt những điều Giáo hội nhồi nhét vào trong đầu.
B. Bí Tích Ban Thánh Thể.
Bây giờ chúng ta hãy thử duyệt qua vài nhận định về cái lễ tiết “ban Thánh
thể” , một lễ tiết quan trọng bậc nhất của Ki Tô Giáo. Các tín đồ Công Giáo,
khi ăn một cái bánh nhỏ mà họ thường được dạy là “bánh thánh”, tin rằng mình
đã thực sự ăn thịt và uống máu Chúa Giê-su. Như vậy có phải là một hành vi
mê tín, dị đoan không? Họ tin rằng một mẩu bánh làm bột thường, sau khi được
ông linh mục hoa tay làm phép, lẩm bẩm vài câu bằng tiếng La-Tinh, mẩu bánh
đó đã được thánh hóa và trở thành đích thực là thịt và máu Chúa của họ. Đó
là niềm tin dựa vào “trí tuệ” hay chỉ là niềm tin mù quáng, nghe theo những
lời lừa bịp của giới chăn chiên. Đối với người ngoại đạo chúng tôi, đó là
những hành vi mê tín, dị đoan và man rợ hơn bất cứ hành vi mê tín dị đoan
nào khác.
Trước hết là nhận định của một tín đồ Công giáo đạo gốc Việt Nam, ông
Charlie Nguyễn. Trong cuốn Công Giáo: Huyền Thoại & Tội Ác,
ông Nguyễn viết, trang 9 – 11:
Cũng như tại các nhà thờ Công giáo ngày nay, các linh mục làm lễ MISA,
có nghĩa bữa tiệc tế thần Jehovah (Đức Chúa Cha) bằng thân xác của Đức Chúa
Con (Jesus). Sau khi Chúa Cha ăn thịt Chúa Con xong thì đến phiên các cha
cố và giáo dân cùng chia nhau ăn bánh thánh và uống rượu nho mà họ gọi là
“rước lễ” hoặc “Phép Mình Thánh Chúa” (Corpus Christi). Giáo lý Công
giáo buộc mọi tín đồ phải tin rằng lúc rước lễ là lúc họ đang ăn thịt
thật và uống máu thật của Jesus đã chết thối cách đây gần 2000 năm!
Đó là nghi lễ tôn giáo trọng đại của những người tự hào là “văn minh” đang
sống trong một nước “mọi rợ” phương Đông là nước Việt Nam! Nhờ phúc đức
của ông bà tổ tiên nhân hậu để lại nên dân tộc Việt Nam chỉ có khoảng 5-7%
dân số hồ hởi phấn khởi chạy theo nền văn minh khoái khẩu món thịt người
(Cannibal). Số còn lại 93% dân số Việt Nam may mắn đều là dân “mọi rợ”
(theo nghĩa “mọi rợ” của sách kinh Công giáo dưới cặp mắt cú vọ của các
cố đạo thừa sai cũng như dưới cặp mắt mơ huyền của các cố đạo bản xứ mất
gốc.)
Theo sử gia Hislop thì cái ý nghĩ quái đản về sự ăn thịt Chúa
của người Công giáo là học đòi tục lệ của tà giáo mọi rợ ăn thịt người... (The
idea of eating the flesh of God was of cannibalistic inception)..
Sử gia trứ danh Durant, với những bộ sử lớn lao của ông đã được dịch ra
rất nhiều thứ tiếng trên thế giới, đã viết: “Niềm tin về sự biến
thể của bánh và rượu thành thịt và máu của Chúa Jesus trong nghi lễ Công giáo
La mã là một trong những nghi lễ cổ xưa nhất của những tôn giáo thời ăn lông
ở lỗ” (The belief in transubstantiation as practiced in the Roman Catholic
Church is one of the oldest ceremonies of primitive religion. – The Story
of Civilization: The Reformation, p. 749)
Có thể có một số người Công Giáo Việt Nam, vốn không bao giờ sử dụng đến
đầu óc, cho rằng Charlie Nguyễn chẳng qua chỉ là một “phản đồ” tầm thường,
không đáng kể. Không hẳn vậy, nhận định của Charlie Nguyễn rất sát với những
nhận định của một số linh mục và học giả Công giáo như chúng ta sẽ thấy sau
đây.
Học giả Công giáo Joseph L. Daleiden, sau khi nghiên cứu về những niềm
tin trong dân gian cổ xưa, đã viết trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng như
sau:
Đã có một thời tôi tin vào cái tục lệ sơ khai mà Cicero đã viết trong
thế kỷ thứ nhất trước thời đại thông thường (thật lâu trước khi Ki-Tô
Giáo thực hành tục lệ này): “Làm sao mà một người có thể đần độn
đến độ có thể tưởng tượng được rằng cái mình ăn đúng là Thiên Chúa?”
Điều biện bạch duy nhất của tôi là, đó là trước khi tôi phát triển khả
năng suy lý mà ngày nay tôi có. Hơn nữa, tôi không có cách nào để biết
rằng (vì
nền giáo dục đặc biệt Công giáo. TCN) những nhà nhân chủng học và các
sử gia đã truy nguyên ra rằng, sự thực hành cái lễ tiết ăn thịt Thiên
Chúa đã là tín ngưỡng của con người trong buổi sơ khai, tin rằng mình
có thể có được những uy lực của những vật mà mình ăn.
Sau cùng, tôi đã bị lừa bởi trò bịp trong môn nghĩa ngữ học rất thịnh
hành trong bộ môn giả khoa học là siêu hình học. Từ “biến thể” (trong
lễ ban thánh thể, cho rằng bánh và rượu sẽ biến thành thịt và máu Chúa do
sự phù phép của linh mục. TCN) gây nên sự khá kinh sợ cho những đầu
óc chất phác. Khi từ này lại do một người có thẩm quyền như một linh
mục, mô tả tại sao bánh và rượu có thể đổi cái “thể” mà không đổi “tính
chất” thì rất dễ làm cho người ta tin. Hơn nữa, ai mà chẳng thích trò ảo
thuật. Nó chắc chắn là hấp dẫn hơn là đi đào sâu vào triết lý thực nghiệm
của David Hume hay sự phân tích sắc xảo của Ludwig Feuerbach. Chính hai
người này đã là những người đầu tiên vạch rõ điều hiển nhiên như sau: cho
rằng một vật (thể) hiện hữu mà không có thuộc tính (tính chất) thì cũng
ngớ ngẩn như là cho rằng ngược lại, nghĩa là có “tính chất” mà không có
“thể”. (hãy chỉ cho tôi một cái “không có gì (nothing) mà lại dài”, hoặc
“không có gì mà lại xanh hay cứng). Do đó, không có những vật thể hiện
hữu riêng biệt nào có thể “biến thể” một cách có tính cách ảo thuật. (Tác
giả viết đoạn này quá ngắn gọn nên hơi khó hiểu. Vấn đề tác giả muốn nói
là: bánh và rượu có những tính chất riêng của nó, thí dụ như bánh thánh
thì có vị của bột, và rượu thì có vị ngọt hoặc hơi chát của rượu. Tín đồ
ăn bánh và uống rượu chỉ thấy vị (tính chất) của bánh và rượu, chứ không
thấy vị của thịt và máu Chúa, cho nên chuyện “biến thể” là chuyện không
tưởng. TCN). Một lần nữa, các nhà thần học đã thành công trong việc
làm mê mẩn đầu óc con người bằng những từ vô nghĩa. Tất cả những bí
tích, giống như những ngày lễ, biểu tượng của Ki Tô Giáo, chỉ là những
toan tính đơn giản để thích nghi với những tín ngưỡng dân gian. Đối với
những người không có thiên kiến, có đầu óc suy lý, thì chúng ta có tràn
ngập những bằng chứng để đi tới kết luận này. [6]
Linh mục Joseph McCabe cũng có cái nhìn khác về lễ ban Thánh Thể vì trong
thời gian trên 25 năm, ông ta đã làm lễ này không biết bao nhiêu lần trong
các nhà thờ. Trong cuốn Sự Thực Về Giáo Hội Công Giáo ông viết
như sau:
Bí tích ban Thánh Thể - nghĩa là, giáo điều về sự "hiện diện
thực" của Chúa Ki Tô trong bánh và rượu đã được Thánh hóa - đích thực
là niềm tin chính của Giáo Hội Công Giáo ...Vì trên cái sở hữu vô gíá về
một đời sống thực của Thượng đế trong họ, và trên cái bản chất kỳ lạ của
chế độ giáo hoàng, mà các tín đồ Công Giáo có thái độ ưu việt nực cười đối
với tất cả phần còn lại của nhân loại. Và bí tích này là một trong những
niềm tin ấu trĩ và điên rồ nhất được duy trì trong một tôn giáo văn minh.
Giáo điều về lễ ban Thánh Thể của Giáo Hội thường không được rõ ràng.
Không phải vì Giáo hội trình bày sai nhưng vì sự kiện là: một người ngoại
đạo không tin được rằng bất cứ một con người hiện đại có học thức nào lại
có thể tin được những điều như vậy. Họ biết Giáo hội dạy rằng có sự
hiện diện đích thực của Thiên Chúa trong bí tích ban Thánh Thể. Đã quen
thuộc với niềm tin rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, họ không thấy một ý
nghĩa trí thức to lớn nào trong bí tích này. Họ không biết, và không thể
bị thuyết phục, rằng những tín đồ Công Giáo tin, và giáo hội của họ đoan
chắc một cách giáo điều rằng, cái ở trước mắt họ rõ ràng là bánh và rượu,
sau vài lời Thánh hóa, lại không phải là bánh và rượu, mà là chính nhục
thân sống của Chúa Giê-su Ki-Tô, từ đầu tới chân.
Trong buổi đầu của thời Trung Cổ, cũng như trong nhiều triệu tín đồ
Công Giáo vô học ngày nay, giáo hội không cần tới một sự giải thích nào về
sự biểu hiện của bánh và rượu, cũng như không cần tới một toan tính giải
thích nào về tại sao nhục thân của Chúa Ki Tô cùng lúc ở trên thiên đường
và hàng triệu nơi khác trên trái đất. Đối với những đầu óc như vậy, họ có
thể tin bất cứ điều gì. Mọi giải thích cũng rườm rà như mọi lý luận.
Thật là rất thuận tiện. Bằng một hoạt động siêu nhiên, trong buổi
lễ, cái "thể" vô hình của bánh và rượu được thay thế bằng cái "thể"
của nhục thân thực, sống động của Chúa Ki Tô. Còn về tại sao nhục
thân của Chúa Ki Tô có thể cùng lúc ở hàng triệu nơi khác nhau, và toàn
bộ nhục thân này hiện hữu trong một mẩu bánh, thì câu trả lời là - hãy
cúi đầu tuân phục bí nhiệm của sự "biến thể".[7]
Trong đoạn trên, Linh mục Joseph McCabe đã chứng tỏ đức tin Công giáo
về "bí tích ban Thánh Thể" là phi lý trí, vì nếu dùng lý trí để
suy luận thì không ai còn có thể tin vào những điều hoang đường kỳ quặc như
vậy. Cũng vì vậy mà chúng ta thấy trong cuốn " Huyền Thoại Về Những
Thiên Chúa Cuối Cùng: GiaVê và Giêsu" ("Mythology's Last Gods:
Yahweh and Jesus", p. 16), Tiến sĩ William Harwood, một tín đồ Công
giáo phải mất ba năm mới tỉnh ngộ và bỏ được những niềm tin phi lý sau khi
nghiên cứu lịch sử các tôn giáo trong đế quốc La Mã và khám phá ra rằng "bí
tích" ăn thịt uống máu Chúa (Eucharist) mà ông đã tin và thọ hưởng bí
tích này hàng tuần và trong nhiều năm, đã có từ 3000 năm trước khi Giêsu ra
đời, và rằng các Thiên Chúa hay Thượng Đế (Gods) chỉ là những chuyện
tưởng tượng y như những chuyện thần tiên kể cho trẻ con nghe. (Dr.
Harwood..discovered that the "god-eating" ritual in which he participated
weekly as a believing Christian had existed three thousand years before Jesus'
birth. Not for three years, however, could he fully abandon the disproved beliefs
to which he had been emotionally committed, and acknowledge that gods are
as imaginary as fairies)
Học giả Công Giáo người Pháp Henri Guillemin cho bí tích này là một trò
ảo thuật của giáo hội bày đặt ra và viết trong cuốn Cái Giáo Hội Khốn
Nạn (Malheureuse Église, 1992) như sau:
"Bằng vài lời lẩm bẩm, giáo hội gài vào trong một mẩu bánh thân
thể, thân thể thực sự bằng xương bắng thịt của Giê-su Ki Tô để cho tín đồ
dùng qua đường ăn uống (tác giả muốn nói đến bí tích "ban thánh
thể". TCN)".
(Au moyen de quelques syllabes, elle insère, dans un fragment de pain, le
corps, le corps physique de Jésus-Christ voué à une consommation buccale et
stomacale...)
Đặc biệt hơn cả có lẽ là những suy tư sâu thẳm từ nội tâm của Linh mục
Charles Chiniquy trong cuốn 50 Năm Trong “Giáo Hội” Rô-Ma (50
Years in the “Church” of Rome, Chick Publications, 1985) về tín điều “biến
thể” của giáo hội Công Giáo, hay lễ “ban mình Thánh Chúa” hay “ban Thánh thể”
. Chúng ta hãy đọc vài đoạn của ông trong cuốn sách trên, nội dung kể lại
cuộc đời của ông trong giáo hội Công Giáo. Khi được phong chức Linh Mục ông
cảm thấy hãnh diện hơn ai hết. Ông viết, trang 70:
Tôi được phong chức Linh Mục trong nhà thờ Quebec, bởi Tổng Giám Mục
Signaie ở Canada. Vị sứ giả này của giáo hoàng, bằng cách đặt tay lên đầu
tôi, ban cho tôi quyền năng biến cải một mẩu bánh thành thân thể, máu,
linh hồn và thần tính thực sự của đức Giê-su Ki Tô! Giáo hội không
thể sai lầm của tôi đã đặt tôi lên địa vị, không chỉ ngang bằng với Thiên
Chúa Cứu Thế của tôi, mà thực ra còn trên cả Ngài! Từ nay về sau, không
những tôi chỉ ra lệnh cho Ngài, mà còn tạo ra Ngài, không phải là bằng
đường lối tâm linh hay huyền nhiệm, mà là bằng một sự hấp dẫn mạnh mẽ cá
nhân thực sự tạo ra con người Ngài…
Tự bắt mình phải tin rằng mình có thể biến đổi một mẩu bánh thành
Thiên Chúa đòi hỏi một cố gắng siêu đẳng về ý chí, và sự hủy diệt hoàn toàn
khả năng hiểu biết, đến độ là, sau sự cố gắng đó, trạng thái linh hồn giống
như là chết hơn là sống.
Tôi đã từng tự thuyết phục là tôi đã làm một việc thánh thiện và siêu
phàm nhất trong cuộc đời của tôi trong khi, thực ra tôi đã mang tội có tính
cách xúc phạm nhất là thờ hình tượng. Mắt tôi, tay và môi tôi, miệng và
lưỡi tôi, tất cả mọi giác quan và khả năng hiểu biết của tôi đều nói với
tôi rằng cái mà tôi thấy, cầm trong tay và ăn, không gì khác hơn là một
mẩu bánh, nhưng những tiếng nói của giáo hoàng và giáo hội của ông ta lại
bảo tôi rằng đó chính là thân thể, máu, linh hồn, và thần tính thực sự của
Giê-su Ki Tô. Tôi đã từng tự thuyết phục là tiếng nói của những giác quan
và của khả năng hiểu biết của tôi là tiếng nói của Satan, và tiếng nói
dối trá của giáo hoàng là tiếng nói của Thượng đế của Chân lý. Hàng
ngày trong cuộc đời của mình, mọi linh mục của giáo hội Rô Ma đều phải đối
diện với sự lầm lạc điên rồ kỳ lạ đó, nếu muốn tiếp tục làm linh mục của
giáo hội Rô Ma.”[8]
Quý đọc giả có thể đọc thêm bài: BÁNH THÁNH: Nhân Chuyện Chúa Giê-su
Bị Chuột Hẩu Sực, bản dịch bài "The God of Rome (Jesus) Eaten by
Rats" By Fr. Charles Chiniquy trong cuốn “50 Years in the “Church”
of Rome” [https://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN73.php]
Bàn về bí tích ban thánh thể, David Hume, một triết gia nổi tiếng của Tô Cách
Lan (Scotland) phát biểu như sau:
Trong tất cả các tôn giáo thì tôn giáo vô lý và vô nghĩa nhất là tôn giáo
mà những người hiến thân cho Chúa, sau khi đã tạo ra Chúa, lại đi ăn thịt
Chúa của họ. (Of all religions, the most absurd and nonsensical is that
whose votaries eat, after having created, their deity.)
Nhưng Linh mục Cao Phương Kỷ của Công giáo Việt Nam thì viết về “Phép Ban
Thánh Thể” như sau:
Đây là Giáo Lý Cao Cả Nhất trong Đạo, là Mầu Nhiệm Đức Tin,
vì là Lời Truyền Phép Lạ Thánh Thể, biến bánh thành “Thánh Thể CHÚA GIÊSU”,
và rượu thành “Máu Thánh CHÚA GIÊSU”. Đây chính là Một PHÉP LẠ vô cùng Nhiệm
Mầu, chỉ có THIÊN CHÚA mới làm được, và nhân loại phàm hèn cần
ĐỨC TIN (“sola Fides sufficit”, Thánh Tomas).
Chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa trí thức Công giáo Tây phương và trí
thức Công giáo Việt Nam. Các vị lãnh đạo Công Giáo có lối giảng đạo rất lạ
kỳ, bất cứ cái gì không giải thích được đều “giải thích” đó là mầu nhiệm của
Thiên Chúa, mầu nhiệm đức tin, và bắt tín đồ cứ phải nhắm mắt mà tin, tin
cả những điều không thể tin được. Ở đây cũng vậy, Linh mục Cao Phương Kỷ “giải
thích” Phép Thánh Thể là Một PHÉP LẠ vô cùng Nhiệm Mầu, chỉ có THIÊN
CHÚA mới làm được. Giải thích như vậy thì cũng như không, vì ít
ra trong thời đại này, cũng phải vạch rõ sự mầu nhiệm là ở chỗ nào, bằng cách
nào mà biến bánh thành “Thánh Thể CHÚA GIÊSU”, và rượu thành “Máu Thánh CHÚA
GIÊSU”? Thí dụ như: lấy một mẩu bánh phân chất, xong rồi đưa cho Linh
mục Cao Phương Kỷ lẩm bẩm vài tiếng La-Tinh để thánh hóa nó, xong rồi mang
đi phân chất lại ngay xem có gì khác nhau không, và chứng minh rằng trong
đó có thịt của Giê-su, nghĩa là có các DNA cũng như “gen” của Giêsu. Mà đâu
có phải là chỉ có THIÊN CHÚA mới làm được, mà chính là các linh mục
tự cho mình cái quyền làm được, nghĩa là biến bánh thành “Thánh Thể CHÚA GIÊSU”.
Chúa
chết lâu rồi, và từ ngày chết đi có làm gì đâu. Điều đáng nói là nhân
loại không phải toàn là những kẻ phàm hèn cần ĐỨC TIN như Linh mục
Cao Phương Kỷ viết. Họ cần những lời giải thích rõ ràng, có cơ sở. Những
kẻ phàm hèn cần ĐỨC TIN chỉ gồm có một thiểu số trong số hơn 6 tỷ
người hiện hữu trên thế giới, và chỉ gồm có nhiều nhất là 7% trong số hơn
80 triệu dân Việt Nam. Vậy linh mục Cao Phương Kỷ lấy cái phàm
hèn cần ĐỨC TIN của mình và của đám tín đồ ra làm cái phàm
hèn cần ĐỨC TIN của cả nhân loại thì đúng là viết bậy, viết
mà không biết mình viết cái gì. Nhưng hầu như mấy ông linh mục đều như
vậy cả.
Người Công Giáo thường có lối viết rất cường điệu, chẳng hạn
trong tờ Hiệp Nhất gần đây, đã viết bà Maria là “Nữ Vương
Của Việt Nam” bất
kể là chỉ có 7% dân Việt Nam coi Maria là Nữ Vương của họ, còn 93% coi bà Maria
chỉ là cô gái ngoan, không phải là thế gian sự thường, theo một tục
ngữ của Việt Nam.
C. Về Cây Thập Giá.
Người Công giáo hàng ngày làm dấu cái mà họ gọi là “thánh giá”, tin rằng
đó là biểu tượng “cứu rỗi”, nhưng không hề biết là cây gỗ hình chữ thập dùng
để đóng đinh Chúa Giê-su chỉ tượng trưng cho một loại hình phạt tra tấn và
hành quyết man rợ nhất của La Mã khi xưa. Nếu trong lịch sử loài người, chỉ
có một mình Giê-su bị đóng đinh trên cái giá chữ thập thì may ra, may ra thôi,
còn có người có thể tin đó là một biểu tượng “cứu rỗi” nếu họ nhắm mắt tin
theo nền thần học của Ki Tô Giáo. Những Tân Ước viết rất rõ là Giê-su bị
đóng đinh trên giá hình chữ thập cùng lượt với hai tên ăn trộm ở hai bên.
Ngoài ra trong lịch sử còn có không biết bao nhiêu người cũng đã bị hành quyết
như vậy. Vậy cái giá nào gọi là “thánh giá”, tại sao chỉ tôn sùng một cái
giá mà Giê-su bị đóng đinh trên đó trong khi thực sự chẳng ai biết cái giá
đó là cái nào, có gì khác biệt với các giá khác không. Và cái giá đó thánh
ở chỗ nào.
Thật vậy, cái giá bằng gỗ hình chữ thập mà Giê-su bị đóng đinh trên đó không
phải là “thánh giá” như người Ca-tô Việt Nam thường dùng, cho rằng để vinh
danh Chúa của họ. Bởi vì, hình phạt đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập là
một cực hình của đế quốc La Mã dành cho những kẻ nô lệ phạm tội, trộm cắp,
giết người, phản loạn v..v.. Thánh Kinh viết rõ, (Luke 23: 32,33; Matthew
27: 38)) Giê-su bị xử đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập cùng lượt với hai
tên tội phạm, trộm cướp (criminals, robbers) khác.

Không có lý do gì để chúng ta tin rằng cái giá gỗ mà Giê-su bị đóng đinh trên
đó khác với những giá gỗ cùng loại trong thời đó. Bản văn bằng tiếng Anh viết
là Giê-su “was crucified” chứ không phải là “was
nailed on the holy cross”. Mà “crucify” trong tự điển có
nghĩa là: 1. Xử tử hình bằng cách đóng đinh hoặc trói trên một giá hình
chữ thập (To put to death by nailing or binding to a cross); 2. Đối
xử một cách độc ác, hành hạ (To treat cruelly; torment). Cho nên, chẳng
có gì có thể gọi là “thánh” ở đây cả. Công Giáo đã thêm vào từ “holy” để thánh
hóa một vật thuộc một cực hình tàn nhẫn và dã man nhất của nhân loại. Người
ta đã tôn sùng một biểu tượng của sự tàn ác, cố tình quên đi sự khủng khiếp
kết hợp với cây thập giá. Thật vậy, chúng ta hãy đọc một đoạn nói về cực hình
này của Russell Shorto trong cuốn Sự Thực Trong Phúc Âm:
Được đưa vào nghệ thuật Ki Tô qua nhiều thế kỷ, cực hình đóng đinh
trên thập giá đã trở thành một kiểu trình bày ước lệ cao - đến độ như là một
vật đẹp đẽ, làm cho ta khó mà có thể tưởng tượng được sự khủng khiếp thực sự
của nó. Nhưng thực tế là một cái gì khác hẳn. Trước hết, chúng ta hãy xét
đến ý nghĩa khủng khiếp của nó trong một xã hội mà nhân phẩm - ngay cả nhân
phẩm của một nông dân - là đức tính cao nhất. Mang ra nơi công cộng - kết
tội, phơi trần truồng (Nghệ thuật Ki Tô thường đóng thêm cái khố vào
cho Giê-su trên thập giá. TCN) và chết dần trong hấp hối - là hình phạt
dã man hơn sự hành quyết nhiều.
Rồi có cả sự tra tấn. Thường là nạn nhân bị trói vào cột rồi bị quất,
hoặc bằng một cây roi ngắn gồm có nhiều sợi dây da trên có đính những hạt bằng
chì hay những mẩu xương, hoặc bằng gậy. Nạn nhân thường bị đóng lên giá hình
chữ thập ở ngay dưới đất rồi giá được dựng thẳng đứng lên. Đinh thường được
đóng qua bàn tay hay cổ tay và bàn chân. [9]
Trong bài “Cái Khố Của Jesus Trên Thập Giá”, Charlie Nguyễn, một
trí thức Công giáo đạo gốc, đã viết về cây thập giá với nhiều chi tiết hơn
như sau:
Thập giá là một dụng cụ giết người hết sức dã man,
thường được các đế quốc cổ Hy Lạp và cổ La Mã sử dụng. Đây
là một loại cực hình đặc biệt mà người La Mã và Hy Lạp chỉ dùng riêng cho
các nô lệ hoặc dân các nước thuộc địa nổi loạn chứ không áp dụng cho các
công dân của họ. Trước khi bị đóng đinh, các tội nhân không phân biệt
nam nữ, đều bị lột trần truồng, tuyệt đối không có một mảnh vải nhỏ nào
che thân. [Do đó, cái khố Giê-su mang trên cây thập giá là sản
phẩm nghệ thuật sau này để che đậy (cover-up) sự kiện Giê-su là người Do
Thái đã cắt bì, theo giám mục Peter de Rosa trong cuốn Vicars of Christ.
TCN] Khi bị treo trên thập giá, sức nặng của cơ thể làm cho các vết
đinh đóng trên tay chân bị căng xé khiến tội nhân bị đau nhức cùng cực nhưng
không chết. Tội nhân phải sống để chịu những cơn đau buốt liên tục hành
hạ trong một thời gian dài. Chỉ khi nào tội nhân kiệt sức không thể nâng
đầu lên được nữa thì đầu sẽ cúi gằm xuống khiến cằm đụng vào ngực. Lúc đó
tội nhân sẽ từ từ bị nghẹt cổ họng và chết vì ngộp thở (air-suffocation)
chứ không chết vì bị chảy hết máu. [Một hình ảnh khủng khiếp của nạn
nhân trên cây thập giá như vậy mà người ta vẫn thản nhiên đeo lủng lẳng
trên cổ đủ mọi cỡ lớn nhỏ của cây thập giá đó, và dựng nó lên ở khắp nơi,
thật là khó hiểu. TCN]
Địa điểm hành hình tội nhân bằng thập giá thường ở những nơi công
cộng như dọc đường lộ hoặc trên đồi cao để công chúng dễ thấy. Hình phạt
xử tử bằng thập giá vừa là một hình phạt về thể hình giống như lăng trì
(rất đau đớn và chết chậm) nhằm mục đích khủng bố tinh thần đám dân nô
lệ và vừa là một nhục hình nhằm sỉ nhục tội nhân vì suốt trong một thời gian
dài tội nhân bị phơi thân trần truồng trên thập giá truớc mặt công chúng.
Lịch sử Tây phương ghi nhận nhiều vụ hành hình bằng thập giá. Vào
thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên, hoàng đế Alexander the Great của Hy Lạp
đã xua quân tiến chiếm thành Tyre. Vì bị dân thành chống cự, Alexander
đã ra lệnh đóng đinh 2000 dân của thành này. Vụ thứ hai
rất nổi tiếng xảy ra năm 71 trước Công Nguyên, đó là vụ viên tướng La Mã
Marcius Crassus ra lệnh đóng đinh 6000 nô lệ có liên quan trong cuộc nổi
loạn của nô lệ Spartacus. Sáu ngàn cây thập giá mang xác người đã được dựng
lên dọc theo con đường vài chục dặm từ Cupua đến Rome!
Cây thập giá, biểu tượng của một loại hình phạt thuộc loại dã
man nhất của nhân loại mà người La Mã dùng để hành hình các tội phạm trong
xã hội, trở thành cái gọi là “Thánh giá”, là một chuyện có tính cách sỉ
nhục đầu óc con người ngày nay.
Chúng ta thấy rằng, nếu những luận điệu thần học Ki Tô Giáo về tội tổ tông
và do đó kéo theo những giáo lý về “chuộc tội”, “cứu thế” và “cứu rỗi” của
Giê-su chẳng qua chỉ là những huyền thoại mà Ki Tô Giáo bày đặt ra để huyễn
hoặc đầu óc con người thì tất nhiên cây thập giá mà Giê-su bị đóng đinh trên
đó không có ý nghĩa gì khác là một dụng cụ trong một loại hình phạt ác độc
cổ xưa, và tuyệt đối không có gì là “thánh” ở đó cả.
Hơn nữa, cây Thập ác đó, đối với những người hiểu biết, chỉ là một biểu tượng
của một cách hành hình tội phạm man rợ nhất của người La Mã trong lịch sử
nhân loại, và đối với những người hiểu biết và nhạy cảm, nó chỉ có tác dụng
gây lên một ấn tượng ghê sợ và kinh tởm. Người dân hiểu biết về lịch sử cây
Thập ác đó, mỗi khi nhìn thấy nó ở đâu, lại không khỏi rùng mình ghê sợ vì
liên tưởng đến cái loại hình phạt dã man đó và sự đau đớn vô cùng tận của
những người bị hành hình bằng cách đóng đinh trên cây thập giá.
Trong thế giới tự do ngày nay, không ai cấm ai gọi cái hình cụ thập giá để
đóng đinh người trên đó là “thánh giá”. Nhưng cũng trong thế giới tự do này,
không ai cấm ai bày tỏ quan điểm của mình về thực chất cây thập giá đó trong
lãnh vực học thuật. Khi xưa, trong thời đại dân trí còn thấp kém và nặng lòng
mê tín, cây thập giá liên hệ đến những huyền thoại “chuộc tội” và “cứu rỗi”
của Giê-su, cho nên đối với những tín đồ Ki Tô Giáo, từ “thánh giá” đối với
họ có một ý nghĩa nào đó. Nhưng ngày nay, trước sự tiến bộ kiến thức của nhân
loại, trước những khám phá bất khả phủ bác của khoa học, vai trò “cứu thế”
của Giê-su cũng như huyền thoại “cứu rỗi” đã bị chính những người trong Ki
Tô Giáo nhổ bật gốc rễ và vứt bỏ, từ “thánh giá” đã không còn ý nghĩa, và
do đó, trong lãnh vực học thuật, nó đã trở về nguyên vị là biểu tượng ác độc
của một loại hình phạt man rợ của con người trong thời đại chưa khai hóa.
Như Michael Jordan đã viết ở trên: Nhưng ở bình minh của thế kỷ 21,
nhiều người chúng ta không thể tự cho phép là ngu dốt hay mê tín, và đức tin
bị che mắt của chúng ta phải mở rộng cho những phê bình nghiên cứu đứng đắn.
VII. Vài Lời Kết:
Qua phần phân tích và phê bình ở trên, chúng ta thấy rõ tôn giáo nào thuộc
loại trí tuệ và tôn giáo nào thuộc loại mê tín. Nhưng vì bị nhồi sọ kỹ nên
người Công giáo vẫn cho mình là ở trong một “hội thánh” còn tất cả các tôn
giáo khác đều thuộc loại mê tín ma quỷ. Thật là tội nghiệp. Nhưng xét cho
cùng, vấn nạn trên không phải hoàn toàn thuộc phần các bậc lãnh đạo Công Giáo,
mà phần lớn là ở các tín đồ thấp kém đã để cho các “bề trên” của họ dẫn dắt
như là dẫn dắt đàn cừu vậy. Không hiểu đến bao giờ họ mới tỉnh cơn mê, đầu
óc của họ mới mở mang để nhận ra sự thật trong mấy câu thơ của nhà đại văn
hào Pháp Victor Hugo trong thế kỷ 19 mà tôi cho rằng ngày nay vẫn còn thích
hợp:
Ngày nay, người dẫn dắt đàn chiên của Ngài trong bóng tối
Không phải là kẻ chăn chiên, mà là tên đồ tể đó, Chúa ạ!
(Ce qui mène aujourd’hui votre troupeau dans l’ombre
Ce n’est pas le berger, c’est le boucher, Seigneur!)
Victor Hugo, Les Châtiments, liv. 1, 2
[Remark: Những tên đồ tể này không hủy diệt thân xác mà hủy
diệt đầu óc.]
Trần Chung Ngọc
Ngày 15 tháng Tư, 2012
Chú thích:
[1][Yet faith also needs to involve some measure of morality beyond belief
in a pure abstract principle. It needs to be built on trust and confidence,
the fidelity of promises given honestly and openly, otherwise there is no point
in having it. If faith is founded on lies, deceit and calculated manipulation,
then it becomes impossible to justify and there even a question mark against
whether it can reasonably be called faith. Were we still the largely
ignorant and superstitious flock in whom the Marian deception first took root
and in whom it became twisted into an “infallible truth”, we might have an
excuse for being taken in by it. But at the dawn of the twenty-first
century, many of us can no longer claim to be ignorant or superstitious and
our blinkered faith becomes open to more serious criticism. This is particularly
true when we know that bigotry is involved and that our understanding of a
fictious Mary has been controlled by men with vested interests, determined
to safeguard their own patriarchal social position in the name of religion.
Faith is not universally practised at the same level. Millions
of Catholics, in South America for example, are largely uneducated and their
faith in Mary remains almost a blind one. There are also ranks of highly
educated men in the church who know the extent of the manipulation and deceit
and choose to perpetuate it…
The conservative male hierarchy of Roman Catholicism clearly
has reason to nurture the Marian myth and to support the status-quo in her
cult. The Roman Catholic Church remains firmly committed to the dogma
of original sin foisted on the world by the first woman, and perpetuated through
“the curse of Eve”…
In the fullness of time, I believe that the image of Mary, the mother of
Christ, will grow dim. Her portrait has been carried down to us on the
wings of an enduring myth but even the best of myths tend to fade with the
passage of time… She may be able to claim some element of historical truth
but she is mostly a fable, a gross deception. In part, it has been perpetrated
to suit the self-seeking demands of the few.]
[2]
Charges initiated against Pope for crimes against humanity
By PATSY MCGARRY, RELIGIOUS AFFAIRS CORRESPONDENT - IRISH TIMES
Added: Thursday, 24 February 2011 at 7:37 AM
TWO GERMAN lawyers have initiated charges against Pope Benedict XVI at
the International Criminal Court, alleging crimes against humanity.
Christian Sailer and Gert-Joachim Hetzel, based at Marktheidenfeld in the
Pope’s home state of Bavaria, last week submitted a 16,500-word document
to the prosecutor of the International Criminal Court at the Hague, Dr Luis
Moreno Ocampo.
Their charges concern “three worldwide crimes which until now have not
been denounced . . .
They claim the Catholic Church “acquires its members through a compulsory
act, namely, through the baptism of infants that do not yet have a will of
their own”. This act was “irrevocable” and is buttressed by threats of excommunication
and the fires of hell.
[3]
(Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, pp. 64-65:
The sacrament of baptism is for infants... For a very serious reason. Every
child of Adam has incurred the sin of Adam, and must pay the penalty. At
first it was drastically held that every man, woman, or child who had not
this stain "washed away" in the waters of baptism would burn in
hell for ever. That was too much even for medieval human nature, and the
theologians made a compromise...The unbaptized cannot enter heaven. The
Church sticks to that. But the innocent babes do not go to hell. They go
into a sort of dim modern extension of the underworld, and may even be happy
there; but they will never "see God", or see their parents again.
So the babe is rushed to the church on the first Sunday afternoon after
its birth. If it caches a fatal cold, the parent must not grieve. It has
gone straight to heaven, absolutely spotless. The church, and often the
water, are, however, now warmed, and the weird ceremony proceeds...
You spit on your finger, and daub the babe's mouth and eyes, and say to
it "Ephetha". You put some salt into its mouth; which it generally
resents in the usual manner and tone. You talk very severely, in bad Latin,
to whatever devils there may be in the pink morsel, and bid them to go -
to Protestants or anywhere. Then you pour a shell of water, very highly
exorcized and blessed, over its head (taking extreme care that it touches
the skin, not merely the hair, or the babe will never go to heaven); and
the dreadful sentence which overhung it, because a legendary being named
Adam ate a legendary apple in a legendary garden in the reign of King Khammurabi
of Babylon, is mercifully cancelled.
It is difficult to discuss sacrament No. 1 seriouly. Spittle and devils,
holy oils and holy water, lighted candles and collecting boxes, are bad enough,
but the essential principle of the thing is intolerable. Even the comparative
damnation of the unbaptized, with "every modern convenience", is
too stupid for words. There are Catholic scholars now who regard Adam and
Eden as "a beautiful legend"...Yet it is still the emphatic and
obligatory teaching of the Church that every child born (except Mary - that
is the real meaning of the "Immaculate Conception") shares "the
sin of Adam". and must be put through the extraordinary performance
I have described.)
[4] [John Shelby Spong, Why
Christianity Must Change or Die, pp. 98-99: We human beings do not
live in sin. We are not born in sin. We do not need to have the stain
of our original sin washed away in baptism. We are not fallen creatures
who will lose salvation if we are not baptized... A savior who restores
us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition and
post-Darwinian nonsense.]
[5]
[Henri Guillemin, Malheureuse Église: Qui dit "Rome" aujourd'hui
désigne le Vatican, le Saint-Siège, l'Église catholique dans son centre et
son gouvernement... Rome, pour les prophètes, c'est le symbole même des vices
et des infamies, et l'Apocalypse fait de la ville des Césars la "Bête" immonde, "aux
sept têtes et dix cornes", la "prostituée fameuse", "la
mère des abominations".
Cette Église, qui aujourd'hui s'effondre, est régie par un pontife de type
médiéval qui, même s'il amendait sa technique, ne peut plus rien, à mon sens,
pour empêcher de disparaitre, pratiquement et assez vite, au cours du troisième
millénaire, du moins sous sa forme "romaine", une Église qui, pour
ses deux "grands sacrements", recourt à la magie. Elle arrache
d'abord, avec un peu d'eau et la comédie d'un dialogue, le nouveau-né aux
griffes du Démon refermées sur lui par le "péché originel", puis,
au moyen de quelques syllabes, elle insère, dans un fragment de pain, le
corps, le corps physique de Jésus-Christ voué à une consommation buccale
et stomacale...]
[6]
(Joseph L. Daleiden, The Final Superstition, p. 131: I once believe
in that primitive custom of which Cicero wrote in the first century B.C.E
(long before Christianity adopted the practice): “How can a man be so stupid
as to imagine that which he eats to be a god?” My only excuse is that it
was before I had developed what slight powers of critical reasoning I now
possess. Also, I had no way of knowing that anthropologists and historians
had traced the practice of the ritualistic eating of a god to the primitive
belief that we acquire the powers of the creatures we eat.
Finally, I was fooled by the semantic trick so prevalent in the pseudoscience
of metaphysics: the confusion of words with things. The word “transubstantiation”
is pretty awe-inspiring to an unsophisticated mind. When it is backed by
the weight of an authority figure, such as a priest who describes how the
“substance” of the bread and wine can change without a change in “properties”,
it is easy to be taken in. Besides, everyone likes a magic show. It is
certainly more entertaining than plowing through the empiricist philisophy
of David Hume or the critical analysis of Ludwig Feuerbach. It was these
two men who first pointed out the obvious: for a thing (substance) to exist
without its attributes (properties) is as silly an idea as the opposite notion
- a property without a thing. (Show me along nothing, or a hard, green nothing.)
Therefore, there are no separately existing substances that could undergo
a magical transubstantiation. Once again theologians successfully bewitched
minds with meaningless words. All the sacraments, like the feasts and symbols
of Christianity, were simple attempts to accommodate pagan beliefs. The
evidence for this conclusion is overwhelming to unbiased, rational minds.)
[7]
(McCabe, Joseph, The Truth About The Catholic Church, pp. 66-68:
The sacrament of the Eucharist - that is, the doctrine of the "real
presence" of Christ in the consecrated bread and wine - is quite the
central belief of the Catholic Church...It is on this priceless possession
of a real live god in their midst, and on the miraculous nature of their
papacy, that Catholics affect their amusing air of superiority to all the
rest of mankind. And it is one of the most childish and foolish beliefs
that was ever preserved in a civilized religion.
The doctrine of the Church is not generally understood. This is not due
to "misrepresentation" but to the fact that a non-Catholic does
not find it credible that any educated modern man or woman should believe
such things... He is aware that Catholics profess the "real presence" of
God in the Eucharist. Being accustomed to the belief that God is everywhere,
he sees no intellectual enormity in this. He does not know, and can hardly
convinced, that Catholics believe, and their Church sternly and dogmatically
insists, that in what seems to the eye to be bread and wine, there is, after
the words of consecration, no bread and wine at all, but the living body
of Jesus Christ down to the last eye-lash and toe-nail.
In the earlier Middle Ages, as among the uneducated Catholic millions today,
no explanation of the appearance of bread and wine was needed; nor was it
necessary to attempt any explanation how the human body of Christ could be
simultaneously in heaven and in a million places on the earth. To such minds
anything is possible. Explanation is as superfluous as argument.
This was very convenient. By a supernatural operation, in the mass, the
invisible "substance" of the bread and wine is replaced by the "substance" of
the real, living body of Christ...As to how the body of Christ could be in
a million places at once, and could exist in its full proportions in a crumb
of bread, the answer was - bow to the mystery of "transubstantiation.".)
[8]
(I was ordained in the Cathedral of Quebec by the Right Reverend Signaie,
Archbishop of Canada. This delegate of the pope, by imposing his hands on
my head, gave me the power of converting a real wafer into the real substantial
body, blood, soul and divinity of Jesus Christ!..My infallible Church placed
me, not only in equal terms with my Saviour and God, but in reality above
Him! Hereafter I would not only command, but create Him, not in a spiritual
and mystical, but in a real, personal and most irresistible way…
To make one’s self believe that he can convert a piece of bread into God
requires such a supreme effort of the will, and complete annihilation of
intelligence, that the state of the soul, after the effort is over, is more
like death than alive.
I had persuaded myself that I had done the most holy and sublime action
of my life, when, in fact I had been guilty of the most outrageous act of
idolatry! My eyes, my hands and lips, my mouth and tongue, and all my senses
and intelligence, were telling me that what I had seen, touched, eaten, was
nothing but a wafer; but the voices of the pope and his Church were telling
me that it was the real body, blood, soul and divinity of Jesus Christ.
I had persuaded myself that the voices of my senses and intelligence were
the voices of Satan, and that the deceitful voice of the pope was the voice
of the God of Truth! Every priest of Rome must come to that strange folly
and perversity, every day of his life, to remain a priest of Rome.)
[9] [Russell Shorto, Gospel’s Truth, p.
198: Over centuries of incorporation into Christian art, crucifixion has become
highly stylized - a thing of beauty, even - that it is difficult to imagine
the true horror of it.. But the reality was something else. Consider, first,
the horror it meant in a society where personal dignity - even a peasant’s
dignity - was the highest virtue. To be made a public spectacle - convicted
of a crime, exposed naked, and dying in agony - was punishment far beyond mere
execution.
Then there is the torture. It generally included being bound to a post and
flogged, either with a short whip consisting of several leather tongs beaded
with lead or bone tips, or with sticks. The victim was usually mounted to the
crossbar on the ground and it was then hoisted up and attached to the upright.
Nails were usually driven through the hands or wrists, and the feet..]
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>