Sự Khác Biệt Giữa Nền Đạo Lý Cổ Truyền Với
Nền Đạo Lý Ca-Tô
Chủ đề của chương sách này là nói về sự khác nhau căn bản giữa
hai nên đạo lý vị tha của các dân tộc Đông Phương và nền
đạo lý Ki-tô của Giáo Hội La Mã. Sự
khác nhau này sẽ làm nẩy sinh ra rất nhiều sự khác nhau khác
về lý thuyết, tư duy và hành động. Những sự khác nhau của
hai nền đạo lý được đề cập trong những khía cạnh sau:
Quan niệm khác nhau về thần linh là sự khác nhau căn bản hay nguồn
gốc và trở thành cha đẻ sinh ra tất cả mọi quan niệm khác
nhau về bất cứ vấn đề gì (từ tư duy, tư tưởng, lý
thuyết, cho đến mục đích hay lý
tưởng theo đuổi) giữa một bên là nền đạo
lý Đông
Phương và một bên là Giáo Hội La Mã
hay đạo lý Ki-tô, một nền đạo lý mà
các dân tộc Âu Châu và vùng ven Biển Địa Trung Hải bị cưỡng
bách phải tuân hành và tuân thủ.
A.- Quan niệm vê thần linh của nền
đạo lý vị tha ở Đông Phương:
Các nhà sử học đều cho rằng
nền đạo lý Đông Phương là một nền đạo lý vị tha, vị nhân
sinh, lấy con người làm đối tượng để phục vụ với mục đích
tối hậu và thiết thực là tạo phúc lợi cho con người ở trong
cõi đời này:
Các bậc đại hiền thánh tổ của nền đạo lý vị
tha của các dân tộc Đông Phương quan niệm rằng:
1.- Đối với thần linh - “kính nhi viễn chi”.
Chẳng có ai biết rõ
sự thực về thế giới thần linh thế nào cả, và cũng không có liên hệ gì đến
cuộc sống hàng ngày. Vậy thì chỉ nên “kính nhi viễn chi” đối với thần linh.
Sách Nho Giáo nói rõ như sau:
“Việc quỉ thần là việc cao xa, u ẩn, ta không
thể nào biết cho rõ được, ta chỉ nên lấy lòng thành kính mà đối
với quỉ thần là đủ. Làm ngưởi ở đời, ta cứ biết chăm lo việc nghĩa
của người, chứ biết thế nào được việc quỉ thần mà nói những
điều huyễn hoặc để gây thành những mối mê tín, hại cho việc
nhân nghĩa. Vậy Khổng tử nói rằng, “Vụ dân chi nghĩa, kính
qủi thần nhi viễn chi: Vụ lấy làm việc nghĩa của ngưởi, còn
quỉ thần thì kính mà xa ra.” (Luận Ngữ. ” (Ung Giả, VI.”)[1]
Sách The Ageless Chinese – A History cũng viết:
"Họ (Nho giáo) không quan tâm đến
thế giới thần linh hay các đấng siêu nhiên vì họ cho rằng
những khó khăn của con người chỉ có thể do chính con người
giải quyết được. Sống ở cõi trần gian này họ chỉ mong sao
làm cho nơi đây trở thành một nơi tốt đẹp hơn để sinh sống.
Họ tích cực quan tâm đến công việc chính trị, kinh tế và
quan trọng hơn cả là vấn đề đạo đức hay đạo lý. Về siêu
hình và tôn giáo, nếu cần, thì chỉ nên áp dụng giới hạn
trong các công việc trần tục. Ý thức hệ của họ là lấy con
người làm tụ điểm và mọi khả năng kiến thức là để phục vụ
cho con người.” [2]
Cũng nên biết là quan niệm về thế giới thần linh và đấng thần
linh tối cao mà người Đông Phương gọi là ông Trời, Thượng
Đế hay Ngọc Hoàng hoàn toàn khác với quan niệm về ông Thượng
Đế của đạo Thiên Chúa và đạo Ki-tô.
Đối với người
dân Đông Phương, dù cho rằng ông Trời hay Thượng Đế không can
thiệp vào cuộc sống hay sinh hoạt của con người trong cõi trần
gian này. Nhưng nếu có một ông Trời, họ vẫn cho rằng ông Trời
tất nhiên phải công
minh chính trực, công bằng, nhân ái, thương
những người hiền lưiơng và
ghét những kẻ gian ác. Theo hiểu biết thông thường của người
Á Đông:
a.- Ông
Trời không đòi hỏi người đời phải xây đền thờ, để thờ phượng
chính mình (tức ông Trời), không cần dâng cúng, hối lộ mới ban phép
lành, v.v….
b.-
Những người hiền lành, tạo phước
đức, thì hiển nhiên là sẽ được Trời Phật độ trì. Còn như
vì quá tham, sân, si, nặng lòng hám lợi, háo danh hay làm
những việc ác đức gây tổn thương đến sinh mạng, tinh thần
và tài sản của những người khác, thì sẽ bị quả báo.
Người
Việt Nam ta thường nói là “Trời cao có mẳt”, “bị trời phạt”,
“bị Trời đánh”. Trường hợp mồ mả của Ngô Đình Khả, ba đời
làm Việt gian giết hại biết bao thường dân vô tội, bị trời
đánh[3] ,
và chỉ trong vòng có 20 năm (từ tháng 8 năm 1945) mà có tới
7 người con và cháu của dòng họ Ngô, đều bị chết bất đắc kỳ
tử. Sự kiện này, có thể đưộc coi như là chuyện “bị trời phạt”
và nói văn tắt là “bị quả báo”. Những lời dạy trong nền đạo
lý Đông Phương như “Tích thiện phùng thịện, tích ác phùng ác”,
“Thiện giả thiện lai, ác giả ác báo”, “Thiên võng khôi khôi,
sơ nhi bất lậu” (Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt) là những
bằng chứng bất khả phủ bác nói lên sự thật này.
Còn ông Thượng Đế hay Chúa của đạo Thiên Chúa hay đạo Ki-tô
như thế nào? Thật là quái đản và vô cùng khủng khiếp! Xin
xem Mục B trong Phần 1 này ở dưới.
2.- Bọn thày cúng và đồng cốt (hay tu sĩ, giáo sĩ)
chỉ là những quân bất lương, mượn danh thần linh để lừa bịp người
đời hầu thủ lợi.
Bọn
người này thường bịa đặt ra những điều hoang đường, láo khoét
dựa vào quyền năng tưởng tượng của thần linh, ma quỉ
để mê hoặc những người yếu bóng vía mà tin theo. Gian ác và ghê
gớm hơn nữa, chúng còn cấu kết với bọn cường hào ác bá hay cường
quyền địa phương, tạo thành một thế lực chính trị hầu để (1) áp
chế và bóc lột nhân dân dưới quyền, và (2) khủng bố, giết hại những
người dám phơi bày những việc làm gian ác này của chúng ra trước
ông luận. Vì vậy mà các bậc đại hiền ở Đông Phương chủ trương rằng
chính quyền cần phải đặt ra một cơ quan đặc biệt có trách nhiệm quản
lý hạng người lưu manh khốn kiếp này. Sách Nho Giáo nói rõ vấn đề
này (xem chú thích) [4]
B.- Quan niệm về thánh thần ma quỉ của Giáo Hội La Mã hay
đạo Ki-tô:
Khác với nền đạo lý vị tha của các dân tộc Đông Phương, Ki-tô
giáo luôn khẳng định và xác quyết rằng, con người (1) sinh
ra là đã mang sẵn cái tội do ông bà tổ của loài người là Adam
và Eva truyền lại, gọi là “tội tổ tông”, và (2) có bổn
phận phải triệt để tuân hành tất cả những lời phán dạy của
giáo hội để chuộc lại cái tổ tông bịa đặt này. Giáo
Hội La Mã đã dồn nỗ lực vào đúc kết những điều hoang đường
đó thành
một nhu liệu gọi là thánh kinh.
Điều tại hại nhất và nguy hiểm là Giáo Hội này
(1) thành lập một bộ máy tuyên truyền với danh nghĩa là Thánh
Bộ Đức Tin để ngày ngày tìm mọi cách lừa bịp người đời khắp nơi trên thế giới, và (2) thi hành chính
sách ngu dân và nhồi sọ ở các quốc gia mà quyền lực của giáo hội đã vươn
tới.
Để có thể cưỡng bách nhân
dân dưới quyền phải thờ phượng ông thượng đế
mà chính họ đã bịa đặt ra, họ cần phải có một tổ chức gọi
là giáo hội thống nhất,
có thực quyền giống như một chính quyền của Đế Quốc Lã Mã thời
bấy giờ (khi Giáo Hội La Mã được cho ra đời) và đặt dưới quyền
chỉ đạo với quyền lực truyệt đối của một cơ quan đầu não gọi
là Toà Thánh Vatican hay giáo triều Vatican (curia).
Thói
đời, được đằng chân lân đằng đầu. Cho nên, khi có cơ hội, họ tranh
đấu để cho quyền lực của giáo hội phải đứng trên quyền lực của các
chính quyền thế tục. Bằng chứng bất khả phủ bác cho sự kiên này là
lời tuyên bố của Giáo Hoàng Leo I (440-461) :
“Quyền hành của giáo hoàng phải bao trùm lên tất cả quyền
hành của các nhà cầm quyền thế tục.” (… But more than
that, he has declared the authority of the Roman bishop over
all temporal rulers as well.” [5]
Nhờ có quyền lực sẵn trong tay (kể từ thế kỷ 4), giáo hội La
Mã đã:
1.- Khẳng định một cách võ đoán rằng
thần thánh (quỉ thần) có tác dụng mạnh mẽ đến cuộc sống của
con người:
Hơn thế nữa, giáo hội còn xác quyết rằng ông
thần Jehovah (xem Thiên
Chúa Jehovah Của Đạo Do Thái Mai-Sen, tác giả Charlie Nguyễn)
là vị thần thượng đẳng trong thế giới thần linh. Ông ta có
quyền năng vô biên, đã tạo nên vũ trụ và đã dùng đất sét
nặn ra ông bà tổ tiên của loài người. Chính cục đất sét
Adam đã phạm tội bất tuân lời dạy của tên ác thần
đó, dám ăn trái cấm gọi là trái cây hiểu biết tốt xấu, cho
nên mới bị ông ta trừng phạt bằng bản án truyền tử lưu tôn
mà giáo hội gọi là cái “tội tổ tông”.
Ông thần này độc ác như vậy mà không biết TẠI SAO giáo hội
lại chọn ông ta làm đối tượng thờ phượng và lập đạo (tôn giáo)
cổ võ người đời cũng phải xây nhà thờ và phải thờ phương ông
ta ?
Điểm đáng nói là vấn
đề giáo hội dồn hết nỗ lực vào việc tìm ra cả trăm phương ngàn
kế để cưỡng bách nhân dân dưới quyền phải thờ phượng ông thượng
đế độc ác này theo phương cách thờ phương của giáo hội, nghĩa
là phải theo cái đạo của giáo hội lập ra. Nếu
không theo, sẽ có vấn đề. Vấn đề như thế nào, chúng tôi sẽ
trinh bày ở trong các phần kế tiếp ở sau.
Nền tảng lý thuyết cho cái đạo này là
thuyết sáng tạo (creationism). Cái thuyết hoang đường này là
một tập hợp của những chuyện hoang đường huyễn hoặc về quyền
năng biến hóa cùng với những lời phán dạy đầy những ác tính
vô cùng ghê gớm, cực kỳ khủng khiếp để gán cho ông thần này
và được hệ thống hóa thành cái gọi là hệ thống tín lý Ki-tô.
Theo các nhà sử học, giáo hội gán cho ông thần linh Jehovah
này (tín đồ Ki-tô người Việt gọi là Chúa Bố Jehovah hay Chúa
Jesus Ki-tô) tới 23 thuộc tính hoàn toàn trái ngược với cá
tính thật của ông Chúa Jehovah qua những lời phán truyền và
những chuyện kể trong các quyển "thánh kinh". Những thuộc tính
bịa đặt đó mô tả ông ta như một vị thần toàn năng mà
người đời chỉ có thần phục, chứ không thể nào hình dung được
ông ta. Đó là:
“phép
tắc vô cùng, vĩnh hằng, thánh thiện, bất diệt, bao la mênh
mông, không bao giờ thay đổi, không thể hiểu được, không thể
mô tả được, vô tận, vô hình, công chính, thương yêu, nhân từ,
cao cả nhất, khôn ngoan nhất, toàn năng, toàn trí, có mặt khắp
nơi, nhẫn nại, toàn hảo, cung cấp tinh thần và vật chất cho
con người, tối cao, chân thật” (almighty, eternal, holy, immortal,
immense, immutable, incomprehensible, ineffable, infinite,
invisible, just, loving, merciful, most high, most wise, omnipotent,
omniscient, omnipresent, patient, perfect, provident, supreme,
true.)
Trong những thuộc tính trên được kể ra trên đây, chúng ta
không thấy có một ác tính nào của ông Thương Đế hay Chúa Bố
Jehovah và Chúa Con Jesus. Tuy nhiên, chúng ta có
thể biết được hàng rừng những ác tính cực kỳ kinh tởm của hai
bố con ông thượng đế này qua các sách Deuteronomy (19:21),
Exodus (21: 23-25), Dân Số (25:3-5,31:1-54), Leviticus 24:19-20,
26: 1-43), Phục Luật (6:14, 7:1, 2 và 16, 12: 2-3, 13:6-9.
18: 4 và 20, 20:14-16, 22: 13-21 và 23), Xuất Hành (13:12,
20 11, 22: 20.) và (Matthew 10:33-37).
Tại sao có sự mâu thuẩn giữa con người thật và các thuộc tính
gán cho hai bố con ông Thượng Đế Jehovah và Chúa con Jesus
như vậy?
Lời giải đáp hữu lý nhất và thích hợp nhất cho thắc mắc này
là giáo hội rất tham lam, muốn có cả hai điều:
a.- Vừa muốn biến Cha Con ông Thượng đế của giáo hội
thành một phúc thần có tài năng biến hoá vô biên để phỉnh gạt, lừa
bịp và dụ khị những người kém hiểu biết, nhưng hám lợi, háo
danh.
b.- Vừa muốn giữ lại các bản tính xấu như ganh ghét,
độc tài, dâm ô và tàn ác (như thấy trong thánh kinh) của Cha Con
ông Thượng đế này để làm một thứ hung thần ác quỷ, hay làm ông kẹ
để hù dọa và khủng bố tinh thần những người
nhẹ dạ yếu lòng, hoặc hèn nhát.
Nhờ vậy mà giáo hội mới có thể gom những người đã theo đạo
thành một khối nhân sự đông đảo gồm cả hai loại người trên
đây thành một khối gọi là tín hữu Ki-tô của giáo hội.
Có thể vì cái
bản chất ngu dốt, này mà giáo hội đã
gọi họ là “đàn chỉên” (bầy cừu non), một loài thú ngu đần hơn tất
cả các loài thú 4 chân khác. Rồi sau đó, giáo hội tổ chức cái khối
tín đồ này thành một thế lực, và dùng nó để củng cố quyền lực tiến
lên mưu đồ tranh bá đồ vương. Đây là sự thực bất khả phủ bác và
được sách Roman Catholicism ghi nhận như sau:
“Giáo hội Ca-Tô Rô-ma tự khoác lên mình từ “thánh”, nhưng
thật ra qua các thời đại và trong quyền lực của giáo hội
Rô-ma, sự kiện là giáo hội đã phạm phải những tội ác khủng
khiếp nhất, thực hành nhân danh tôn giáo, gồm có giết
người, cướp bóc, bạo hành đủ mọi hình thức, hối lộ, gian
xảo, lừa dối, và hầu hết mọi tội ác mà con người biết đến.
Những tội ác như vậy không phải là chỉ do những giáo dân
của giáo hội gây ra, mà là do các giáo hoàng, hồng y, giám
mục, và linh mục, mà như sự nghiên cứu về lịch sử của giáo
hội sẽ chứng tỏ, không còn chối cãi gì được nữa, họ đều là
những kẻ ác.” [6]
Nhờ có một khối tín đồ vừa ngu dốt và hung hăng, háo chiến,
cho nên giáo hội mới có thể theo đuổi mưu đồ bá
chủ toàn cầu và nô lệ hoá nhân loại bằng hệ thống thần học
Ki-tô trên đây. Vấn đề này đã được trình bày khá rõ ràng và
tương đôi đầy đủ trong Chương 3 và Phần 1 trong Chương 13,
sách Tâm
Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương
sách này có thể đọc online trên http://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_0.php.
2.- Tổ chức một khối nhân sự chuyên môn: giáo sĩ.
Để có thể duy trì xí nghiệp kinh doanh buôn thần bán thánh,
giáo hội cần phải có khối nhân sự đa năng trong nhiều lãnh
vực với danh nghĩa là giáo sĩ. Khối nhân sự này được huấn
luyện rất thành thạo về công việc do thám và quản trị nhân
dân theo chính sách chuyên chính và đế quốc.
Nói về công việc làm (job description) của các ông giáo sĩ
của giáo hội, nhà trí thức Catô Phan Đình Diệm ghi lại như
sau:
"Giáo Hội hậu Trentô có hai bộ mặt,
hai hạng linh mục. Tại Âu Châu, 90% linh-mục chuyển sang
ngành thày tế lễ và nhà cai trị. Nơi cõi ngoài Âu Châu thì
10% linh mục theo chân phong trào con buôn chiếm thuộc địa,
đi truyền giáo phương xa, vừa là thày tế lễ vừa là nhà truyền
giáo. Linh mục nhà truyền giáo đi trước, linh mục thày tế
lễ và cai trị theo sau. Ấy vậy, bản tính Giáo Hội Trentô
[Giáo Hôi La Mã từ sau Công Đồng Trent (1545-1563)] là tế
lễ và cai trị, chứ không phải là truyền giáo. Tế lễ và cai
trị là cứu cánh và là đỉnh cao sinh hoạt của Giáo Hội. Bộ
tham mưu chiến lược Trentô quyết định phương án thần học
này."[7]
Khả năng chuyên môn của khối nhân sự này sẽ được trình bày
đầy đủ trong Chương 7 ở sau. Riêng về con số của khối nhân
sự này, sách Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm viết:
"Giáo Hoàng là đầu não của cả một
hệ thống giáo sĩ đông đảo gồm 4000 (4 ngàn) hồng y và giám
mục. Đội ngũ quản lý hay cán bộ thừa hành cấp dưới (managers)
là các linh mục lên tới tổng số 400.000 (4 trăm ngàn)!" [8]
Điểm đặc biệt là khối giáo sĩ khổng lồ này bắt
buộc phải sống đời độc thân, nghĩa là không có vợ con
chính thức. Lý do là để phòng ngừa các ông giáo sĩ có thể
chuyển nhượng hay bòn rút của cải và tài sản của giáo hội
tại các giáo khu và giáo phận do họ quản lý với đầy đủ quyền
hành và quyền lực như một thứ lãnh chúa ở các nơi đó. Vấn
đề này sẽ được trình bày đầy đủ trong Chương 15 ở sau.
3.-Biệt đãi giới tu sĩ bằng chính sách bao
che để cho họ sống đời bê bối, thối tha, loạn luân, dâm
loạn
Những tệ nạn này đã có từ thời giáo
hoàng trong thời Trung Cổ. Có như vậy thì họ mới cảm thấy thích
thú cái nghề làm linh mục và tích cực làm tay sai đắc lực cho
giáo hội. Chủ trương này của giáo hội đã được
chính thức thi hành hành từ thời trung cố vào những năm khởi đầu
triệt để thi hành chính sách cưỡng bách phải tu sĩ phải sống
đời độc thân. Nếu tu sĩ nào đã có gia đình thì phải từ bỏ gia
đình (nhưng không có nghĩa là không sống chung với phụ nữa). Cựu
giáo-sĩ Peter de Rosa viết trong cuốn Vicars Of Christ như sau:
"Về phần các giáo sĩ, họ bị cưỡng
bách phải chọn lựa hoặc là được chính thức lập gia đình thì không
được làm giáo sĩ, hoặc là được làm giáo sĩ thì không được chính
thức lập gia đình. Cách chọn lựa hay nhất là làm giáo sĩ và
sống chung với bạn gái mà không cần phải có hôn thú."[9]
Với chủ trương như vậy, dĩ nhiên là giáo hội cũng có
chính sách phải bao che họ vào khi họ những hành động tội ác của
họ bị phơi bày ra trước ánh sáng công luận. Sự thật là như
vậy, nhưng tất cả đều bị bộ máy tuyền truyền (Thánh Bộ Đức
Tin) bưng bít một cách vô cùng siêu việt. Tuy nhiên, bàn tay
không che nổi mặt trời. Rút cục, sự thật ghê tởm này cũing
được phơi bày ra trước ánh sáng công lý và công luận như trong bản
văn sau đây:
“Năm 2001, Giáo hoàng Bê-nê-đích (khi còn là Hồng
Y Ratzinger coi Thánh Bộ Đức Tin) đã viết một thư luân lưu
gửi cho tất cả các Giám mục Công giáo để ra lệnh giữ “Bí
mật cấp độ Giáo hoàng” về những tố cáo liên quan đến lạm
dụng tình dục trẻ em. Ông đã ra lệnh cho các Giám mục phải
gửi tất cả những hồ sơ đó về La-Mã, vậy thì ý kiến cho rằng
ông không biết gì về chuyện linh mục loạn dâm qủa là một
sự vô nghĩa lý. Lá thư nầy của ông không đề cập gì đến chuyện
các Giám mục phải báo với cảnh sát về các kẻ lạm dụng tình
dục nầy. Nhà thần học Công giáo đáng kính, ông Hans Kung
đã nói là Giáo hoàng phải cùng chịu trách nhiệm về sự che
dấu và Giáo hoàng Bê-nê-đích đã không có lời xin lỗi về sự
thiếu sót của chính ông trong cuộc khủng hoảng lạm dụng
tình dục các trẻ em.”[10]
Tình trạng các ông linh mục hiếp dâm trẻ em vị thanh niên
và phụ nữ một cách vô tội vạ và được giáo triều Vatican dung
dưỡngvà bao che như vậy đã làm cho người dân ở trong vùng
có các ông quạ đen cư ngụ hay thường lui tới, lo sợ không biết
ngày giờ nào vợ con họ sẽ trở thành nạn nhân của lũ khốn kiếp
này.
Chuyện đáng buồn nhất là các chính quyền
thế tục thì lại tỏ ra bất lực, hay vì một lý do gì đó
mà họ cố tình làm ngơ, làm như là không biết gì đến những
hành động tội ác này của chúng.
Người dân trong vùng đạo chỉ còn phương cách là “phòng bệnh
hơn là chữa bệnh” tương tợ như những nhà nuôi chó thường đề
bảng "Coi chừng chó dử!" Vậy tại sao chúng ta không
thể dựng những tấm bảng bên
lề các đường lưu thông gần nơi bọn hắc y dâm tặc này cư ngụ, đại
khái như sau:
“Phụ
nữ và trẻ em coi chừng có thể bị hãm hiếp,
ở đây có các giám mục và linh mục thường lui tới!”
Có người cho rằng, giới tu sĩ áo đen và trí thức con chiên
còn trung thành với Vatican là những người học cao hiểu rông,
nếu không muốn nói là thông kim bác cổ. Xin thưa rằng, vấn
đề này xin để cho chính những người thức
Catô đã phản tỉnh nói cho chúng ta biết. Một trong những người
này là ông Charlie Nguyễn nói về kiến thức của giới tu sĩ Ca-tô
như sau:
“Cái gọi là sự học vấn của các trường
tôn giáo hoặc sự uyên bác của học sĩ Ulama thực chất chỉ là môn
học “tán hươu tán vượn” về những điều huyền hoặc của thần học
(theology). Thần học Hồi Giáo cũng tương tự như thần học của
Do Thái Giáo hoặc Ki-tô Giáo. Thần học là một môn học đầy tính
chất hoang tưởng, viển vông và nhảm nhí. Càng đi sâu vào thần
học, con người càng lún sâu vào “ốc đảo tâm linh”, xa rời
thực tế và đầy đặc những định kiến sai lầm. Những mảnh bằng
“Tiến Sĩ Thần Học” là những giấy chứng chỉ công nhận sự ngu
xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ đến khi có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ
đó mới cảm thấy xấu hổ là đã được cấp những mảnh
bằng về thần học mà thôi.”[11]
Vấn đề này sẽ được chúng tôi trình bày đầy đủ với nhiều chi
tiết trong hai Mục V và VI gồm các Chương 12,13, 14, 15, 16
và 17.
4.- Tổ chức một bộ máy hành chánh do tập đoàn giáo sĩ đảm
nhiệm để quản lý tín đồ và nhân dân dưới quyền:
Vì là
một đế quốc mà chính quốc là Vatican và các thuộc
địa là các giáo khu hay giáo phận cùng các quốc gia theo chế độ đạo
phiệt Catô hay chế độ giáo hoàng (papacy), cho nên Giáo Hội La Mã
cần phải có một bộ máy hành chính để quản lý tín đồ và nhân dân dưới
quyền. Bộ máy hành chính này được tổ chức rập khuôn theo mô hình
bộ máy cai trị của Đế Quốc La Mã trong thế kỷ 4 và được cải tiến
để thích nghi với hoàn cảnh biến chuyển theo thời thế.
Hiện
nay, bộ máy cai trị của Giáo Hội La Mã hay Vatican được tổ
chức theo mô hình của Đế Quốc Pháp trong thời tiền bán thế
kỷ 20. Cựu giáo-sĩ
Malachi Martin viết trong cuốn Rich Church, Poor Church như
sau:
"Bộ máy cai trị của Giáo Hội La Mã thường được gọi
là Tòa Thánh Vatican. Gọi như vậy là không đúng với sự thật
và chỉ là một cách gọi vắn tắt của danh xưng "Quốc
Gia Thành Phố Vatican". Giáo Hoàng là nhà lãnh đạo nắm
quyền chuyên chế tuyệt đối của quốc gia này. Là một quốc
gia có đầy đủ chủ quyền, Vatican có lãnh thổ, cảnh sát, các
tòa án, nhà tù, hệ thống thuế khóa, sở bưu chính và con niêm,
sở đúc tiền, báo chí, văn phòng báo chí, sở cứu hỏa, sở an
ninh, công chức, hệ thống ngân hàng, đại sứ và ngọai giao
đoàn. Tuy nhiên, vì bị bao quanh bởi kinh thành La Mã cho
nên các dịch vụ trong quốc gia này được phối hợp với các
dịch vụ của kinh thành La Mã.
Bộ máy cai trị của Vatican là cơ quan hành pháp nằm dưới
quyền chỉ huy trực tiếp của giáo hoàng và được coi như là
cánh tay mặt của ông. Cơ quan hành pháp này có hai chức năng:
Chức năng thứ nhất là quản lý các công việc chính quyền trong
Quốc Gia Vatican và chức năng thứ hai là trông coi tất cả
các việc tôn giáo cùng mọi công viêc đời của toàn thể giáo
hội. Bộ máy cai trị của Vatican còn được gọi là giáo triều
Vatican và được tổ chức thành các bộ, phòng, sở, văn phòng
và ủy ban giống như các cơ quan chính quyền thế tục.
Trên nguyên tắc, hầu hết, trong thực tế, các giáo khu đều
độc lập đối với Tòa Thánh La Mã về vấn đề tài chánh và quản
trị tài chánh. Các ông giám mục đều có đầy đủ quyền hành
trong giáo khu của họ. Là những người đại diện của giáo hội
tại giáo khu của họ, các ông giám mục được tín nhiệm và
trao cho quyền kiểm soát mọi tài sản, động sản, bất động
sản, v.v... của giáo hội. Dĩ nhiên, cứ 5 năm một lần, họ
phải thân hành đến Tòa Thánh Vatican để tâu trình về những
việc làm trong giáo khu của họ đã tiến hành như thế nào
và kết quả ra sao. Họ phải giữ tình giao hảo vời vị sứ thần
của Tòa Thánh ở quốc gia của họ. Ở Hoa Kỳ, vị sứ thần của
Tòa Thánh Vatican cư ngụ trong thành phố thủ đô Washington.
Điều đáng để ý là các ông giám mục là một nhà cai trị trong
giáo khu của họ. Hàng năm, mỗi giáo khu phải gửi số tiền
khổng lồ gọi là Peter's Pence về Vatican. Đây là loại thu
nhập hàng năm trong toàn thể giáo hội. Thỉnh thoảng, Tòa
Thánh Vatican lại đòi các giáo khu phải đóng góp thêm và
còn đưa ra "chỉ tiêu" nữa.... Tuy nhiên, về công
việc quán lý nội bộ, Tòa Thánh để cho các giáo khu được
tự trị.
Từ năm 1947, các dòng tu và các giáo khu đều sử dụng các
cơ quan tài chánh của Tòa Thánh Vatican để đầu tư vào các
dịch vụ kinh tài."[12]
C.- Kết Luận:
Qua phần trình A và B trên đây, chúng
ta thấy rằng người dân trong xã hội của nền đạo lý tam giáo
đồng nguyên của các dân tộc Đông Phương coi nhẹ các đấng thần
linh, và cho rằng tôn giáo là quyền riêng tư của cá nhân. Bất
kỳ cá nhân nào, dù là nắm quyền lực lãnh đạo quốc gia đi nữa,
cũng không thể nhân danh thần linh hay tôn giáo để bịa đặt
ra điều này điều nọ rồi đòi hòi hay cưỡng bách một hay nhiều
người khác phải tin theo và tuân thủ. Trái lại, trong xã hội
Ca-tô hay đạo Ki-tô, tôn giáo tin Thượng đế (Chúa) là điều
phải có. Kẻ nào dám cho rằng không có, hay không tin ông Thượng
đế đó, hoặc không tuân thủ những gì giáo hội đòi phải tin, thì
sẽ bị gán cho là vô đạo, tà đạo, vô giáo dục, man di, mọi rợ, chống
Chúa, báng bổ thần thánh, chống phá tôn giáo, vân vân..., hoặc
vô thần, cộng sản, sẽ bị tóm cổ và bị thiêu sống nếu có thể.
Như vậy ta có thể nói rằng, (1) nền đạo lý tam giáo đồng nguyên
của các dân tộc Đông Phương là một nền đạo lý nhân bản, vị
tha, vị nhân sinh, và (2) xã hội Ki-tô giáo không có đạo lý
mà chỉ có tôn giáo. Thứ tôn giáo phi nhân bản, phản
nhân luân, bất nhân và cực kỳ man rợ này biến con người làm nô lệ
cho tôn giáo, mà thực ra là làm nô lệ cho Giáo Hội La Mã. Đây là
một sự thực bất khả phủ bác. Chính vì thế mà văn hào Voltaire
mới gọi tôn giáo này là “cái tôn giáo ác ôn”, học giả
Henri Guillemin gọi Giáo Hội La Mã là “cái giáo hội khốn
nạn”. Như vậy, Nếu gọi đạo Ca-tô Rôma là đạo lý, THÌ phải
gọi nó là “đạo lý vị kỷ”, “đạo bịp” và “đạo máu” đúng như học
giả Charlie Nguyễn đã nói.
II.- Sự Khác Nhau Về Phương Cách Truyền Bá Tư Tưởng
Phương cách truyền bá tư tưởng ở đây được hiểu là chính sách
giáo dục và truyền đạo. Phương cách truyền bá tư tưởng của
nền đạo lý Đông Phương là giáo dục nhân bản, vị tha, tự do
và khai phóng.
Trái lại, Giáo Hội La Mã lại (1) chủ trương thiết lập hẳn
một cơ quan tuyên truyền gồm những chuyên viên chuyên nghề
sử dụng những xảo ngữ và thuật ngữ với những danh xưng hàm
chứa những ý nghĩa cao cả và tốt dẹp để phỉnh gạt và lừa bịp
người đời.
A.- Phương cách truyền bá tư tưởng trong nền đạo lý vị tha của Đông Phương:
1.- Với niềm tin là “hữu xạ tư nhiên hương”,
sự truyền bá những
tư tưởng cao đẹp của xã hội Á đông, như tam giáo, có tính cách
phổ biến tự do, và cũng không có những xảo ngữ hay thuật
ngữ, hoa ngôn để phô trương cái vẻ bề ngoài của một đạo giáo nào
cả. Trong 14 điều dạy của Phật, chỉ toàn dạy thực tế cho phúc lợi
của người đời, không có câu nào ca ngợi cá nhân ông Phật cả. (xem
"Hai Bài Dạy Của Hai Miền Văn Hóa" của Lý Thái Xuân ở http://sachhiem.net/LTX/LythaiTG01.php)
2.- Không có bộ máy tuyên truyền để đảm
trách công việc truyền bá tư tưởng, và cũng không cần
phải huy động toàn thể đạo hữu tích cực tham gia vào công
việc này. Lý do là những nguyên tắc hay quy luật đạo lý Đông
Phương có những đặc tính vị tha, vị nhân sinh, không nhằm
để phục vụ cho một lớp người đặc biệt nào, nhưng có lợi chung
cho tất cả mọi người trong xã hội. Vì lẽ này mà tất cả mọi
người đều coi đó như là nếp sống văn hóa tốt đẹp
cần phải có, cần phải giữ gìn.
3.- Chính sách giáo dục nhân bản, tự
do và khai phóng: Vì những đặc tính kể trên mà các quốc gia
theo văn minh tam giáo luôn luôn:
a.- Chủ trương lấy con người làm đối tượng để rèn luyện thanh
thiếu niên phải nhận thức được trách nhiệm hay bổn phận của
chính mình đối với (a) mọi người trong gia đình, (b) xóm làng
(c) quốc gia dân tộc, và (d) cộng đồng thế giới.
b.- Tất cả các quy tắc đạo lý đều có mục đích
giúp cho mọi người ý thức được rằng trật tự xã hội bắt nguồn
từ sự tu tập bản thân. Phải dứt bỏ mọi thứ tham, sân, si để
có thể hành xử sao cho vừa mắt ta ra mắt người (kỷ sở bất
dục, vât thi ư nhân), phải yêu chuộng hoà bình (dĩ hòa vi quý),
coi mọi người trong thiên hạ như anh em trong một nhà (tứ hải
giai huynh đệ), khiêm nhường, biết rõ sư hiểu biết hay kiến
thức của mình dù cao sâu đến đâu đi nữa cũng có giới hạn (sơn
hữu ngoại sơn, thiên hữu ngoại thiên, cao nhân tất hữu cao
nhân trịu,và tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư). Do đó, phải
luôn luôn học hỏi đón nhận tất cả mọi tư tưởng cao đẹp đến
từ bất cứ phương trời hay nền văn hóa nào (nhật tân, nhật nhật
tân, hựu nhật tân).
4.- Tôn giáo không hề là "vấn đề" trong hôn nhân.
Dân tộc Đông Phương không bao giờ có vấn đề xâm lấn quyền
tự do tôn giáo của người khác. Cũng vậy, trong xã hội tam
giáo, không hề có chuyện lợi dụng việc hôn nhân
để chèn ép hay cưỡng bách người phối ngẫu phải từ bỏ tín ngưỡng
cổ truyền của gia đình và phải cam kết sống theo nếp sống tam
giáo đồng nguyên rồi mới được làm lễ thành hôn. Nhờ vậy mà
trong xã hội Đông Phương không hề xẩy ra những việc làm tội
ác, phá nát hạnh phúc gia đình do sự khác nhau về tôn giáo
gây ra, như Giáo Hội La Mã và tín hữu Ca-tô đã, đang và sẽ
còn tiếp tục làm.
5.- Về chính trị, nền đạo lý Đông Phương
chủ trương lấy dân làm gốc.
Ngay từ thời Nho giáo (khoảng thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên)
Á Đông đã quan niệm “Ý dân là ý trời”, “dân chi sở hiếu,
hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi. Thử chi vị dân chi phụ mẫu”
Dù là trong thời quân
chủ cực thịnh bất kể là trung ương tập quyền hay lập hiến,
cách đây hơn 2 ngàn năm, người dân Đông Phương đã có nếp sống
văn hoá “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân
vi khinh” rồi, và:
”Nếu ông vua mà áp bức nhân dân thì ông ta không còn xứng đáng
được đối xử như là vua nữa. Cá nhân ông ta không còn thiêng
liêng nữa, và trừ khử ông vua đó không còn là một tội ác.
Nổi loạn giết một tên bạo chúa như vậy không những là một
việc làm hợp lý mà còn là một việc làm đáng được ca tụng,
và người đứng ra trừ diệt tên bạo chúa đó xứng đáng được đưa
lên nắm quyền lãnh đạo đất nước, cai trị muôn dân.” [13]
Sách Triết Học Đông Phương ghi như sau:
"Dục vi quân, tận quân đạo, dục
vi thần, tận thần đạo, nhị giả giải pháp, Nghiêu Thuấn nhi
dĩ dĩ hỷ” (Lý Lâu Thượng).
[”Làm vua thì phải hết đạo làm vua, làm tôi thần thì phải
hết đạo làm tôi thần”].
”Quân chi thị thần như thủ túc,
tắc thần thị quân như phúc tâm. Quân chi thị thần như khuyển
mã, tắc thần thị quân như quốc nhân. Quân chi thị thần như
thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù” (Lý Lâu Hạ). [“Vua
phải biết coi nhân dân như chân tay thì nhân kính trọng vua
như bụng như lòng, nhưng nếu vua coi nhân dân như chó ngựa
thi nhân dân coi vua như một người dân thường trong nước,
và nếu vua coi nhân dân như đất như cỏ, thì nhân dân sẽ coi
vua như giặc như thù.” [14]
Tuy nhiên các tư tưởng vẫn nằm trong thế thụ động, chưa có cơ hội đủ nóng
để tạo ra một cơ chế chính quyền thay thế cho hệ thống Vua quan. Mãi đến thế
kỷ thứ 17, phong trào Lý Trí ở Âu Châu (do chống lại sự áp đặt tôn giáo của
La Mã) được chấp cánh bằng phong trào Cách Mạng Dân Chủ đưa đến Cách Mạng
Pháp vào thế lỷ 18. Từ đó một cơ chế dân chủ mới bắt đầu thay đổi các guồng
máy chính trị, lan rộng ra nhiều nước trên khắp thế giới.
Chú thích:
[1] Trần Trọng
Kim, Nho Giáo - Tập I (Sàigòn: Tân Việt, 1952?),
tr 88-89.
.” Dun J. Li, The Ageless Chinese – A History (New York:
Charles Scribner’ s Sons, 1978), p. 67. Nguyên văn: ”They
were not interested in the supernatural forces either because
they believe that man's problems could only be solved by
man himself. They were in this world, and they wished
to make it a better place to live. They dealt extensively
in politics, economics, and most importantly, ethics.
Their interest in metaphysics and religion was confined
to applying them if possible to the more mundane, worldfly
affairs. Theirs was a “man-centered” ideology to which
all branches of knowledge must submit themselves.”).
[3] Nguyễn
Trân, Công và Tội (Los Alamitos: Xuân Thu, 1992),
tr. 483-484
[4] Trần Trọng
Kim, Nho Giáo – Tập I (Sàigòn: Tân Việt, 1952),
tr. 45-46.
"Phàm người đời đã bị cực khổ mà lại học hành không
có, việc hay dở không biết thế nào, tất là phải chìm đắm
vào những điều mê hoặc và tin những việc quái lạ. Vu là người
con gái và hích là người con trai làm nghề đồng bóng, tức
là bọn đồng cốt thày cúng, thày pháp, v.v... lấy điều cát
hung, họa phúc, dùng những phương thuôc huyễn hoặc mà đánh
lừa những người ngu dại, đem sự thần thánh ma quỉ mà dọa
nạt người thường để làm nghề kiếm ăn. Ở nước Tầu, về đời
Thượng Cổ, bọn vu hích có thế lực rất mạnh, thậm chí nhà
nào cũng thờ quỉ, thờ thần. Cổ thư nói rằng, "dân thần
tạp nhụ, gia vi vu sử: Dân với thần lẫn lộn, nhà nào nhà
ấy cũng có vu sử." Nhà vua thấy thế mới sai quan định
rõ việc thần và việc người để ngăn cấm bọn vu hích làm mê
hoặc lòng người. Thiên Lữ hình trong Kinh Thi nói rằng: "Mệnh,
Trọng, Lê tuyệt địa thiên thông, võng hữu giáng cách: Vua
sai họ Trọng, họ Lê định điển lễ rõ ràng, để phân biệt việc
người việc thần, không cho người ta nói bậy là thế nào thần
cũng giáng, hay dùng cách không chính đáng mà cũng cảm cách
được đến thần." Đế vương đời trước cho dân mê tín những
sự yêu quái, là vì không hiểu rõ cái chính lý của trời đất,
không phân biệt điều thiện điều ác, cứ hay tìm mối họa phúc
ở chỗ mơ màng mờ mịt. Vậy nên định rõ việc thờ cúng để chính
lòng người và làm cho rõ đạo thường.
Tuy vậy, lòng người vẫn bị những vật dục làm mờ tối đi,
thành ra thế lực của bọn vu hích càng ngày càng mạnh. Về
sau vua phải đặt: "Tư vu chưởng quần vu chi chính lệnh:
Quan tư vu cai quản và sai khiến bọn vu nhân" (Chu Lễ:
Tư vu). Xem thế biết rằng đạo thánh hiền tuy là công chính,
nhưng vẫn không có thế lực bằng cái thuật của bọn vu hích.
Vì đạo của thánh hiền chỉ riêng cho những người đi học mà
thuật của bọn vu hích thì lan ra khắp cả bàn dân thiên hạ."
[5] Malachi
Martin, The Decline and Fall Of The Roman Church (New
York: G.P. Putnam’s Sons, 1982), p. 64.
[6] Loraine
Boettner, Roman Catholicism (Phillipsburg, New Jersey:
The Presbyterian Reformed Publishing Company, 1962), p
27. She (The Roman Church) applies to herself the term
“holy”, but the fact is that through the ages and in her
official capacity The Roman Church has been guilty of the
most atrocious crimes, practice in the name of religion,
including murder, robbery, persecution of all kinds, bribery,
fraud, deception, and practically every other crimes known
to man. Such crimes have been practiced not merely by church
members, but by popes, cardinals, bishops, and priests
who, as a study of church history will show, undeniably
were evil men.”
[7] Phan Đình
Diệm. “Kiến Nghi 5 Về Đông”, (tr 5). Tháng 6/1988. tanvien@kitohoc.com.
Ngày 19/9/1999.
[9] Peter
de Rosa, Vicars Of Christ (Dublin, Ireland: Poolbeg
Press Ltd., 2000), p. 402: Nguyên văn: ("For their
part, priests were forced to choose between having a wife
and having a carreer. The middle course was to choose a
concubine.”
Nguyên văn: “In 2001, Pope Benedict wrote a letter to all
Catholic Bishops, which ordered "Papal secrecy" concerning
allegations of child sex abuse. He instructed the Bishops
to report all such cases to him in Rome, so the idea that
he did not know about sex abuse by priests is nonsense.
His letter did not tell Bishops to report the abusers to
the police. The esteemed Catholic theologian, Hans Kung,
said the pope bears co-responsibility for the cover-up
and that Benedict has failed to apologize for his own personal
shortcomings during the child sex abuse scandal.”
[11] Charlie
Nguyễn,Thực Chất Đạo Công Giáo Và Các Đạo Chúa (Garden
Grove, CA: Giao Điểm, 2003), tr. 355-356.
[12] Malachi
Martin. Rich Church, Poor Church (New York: G. P. Putnam's
Sons, 1984), p 86-87.Nguyên văn:
“hat clerical bureaucracy is commonly described as "the
Vatican." But this is really a misnomer, being a
shortened form for the State of Vatican City. The pope
is its absolute ruler. As a full sovereign state, it
has it own borders, police, judiciary, jails, taxes,
stamps, coinage, newspapers, press office, fire department,
security services, civil service, banking system, ambassador,
and accredited diplomatic corps. However, because it
is surrounded by Rome and the State of Italy, its municipal
services necessarily work in conjunction with those of
Rome."
The bureaucracy of the Vatican is the pope's executive
right arm, and under his command, it has a double function:
to administer the temporal affairs of the State of Vatican
City and to administer the spritual and temporal affairs
of the entire church. The Vatican bureaucracy - called
Curia - is organized into sections corresponding to the
ministries, offices, and services: tribunals, secretariats,
and commissions.
In principle and, very largely, in practice, each diocese
is independent of Rome in its fiscal and monetary adminstration.
Each bishop has complete power in his territory; as the
official representative of the Church there, he holds
in trust and controls the property of the Church - liquid
asset, real restate, and so on. He must, of course, visit
the Vatican every five years in order to give an account
of how his diocese is doing, and he must maintain friendly
relation with the pope's representatives in his country
- in the United States this is the pro-Nuncio who lives
in Washington. In the final account, the bishop is the
business manager of his his diocese. The largest amount
of money that goes to the Vatican from the diocese is
Peter's Pence, and annual collection made throughout
the Church. From time to time, the Vatican will require
additional contributions and "quotas."... But
between Rome and dioceses, the business connection is
not very tight. Each diocese is, in effect, autonomous.Since
1947, both religious orders as well as diocese have made
use of the Vatican' financial agencies in order to obtain
the best investment possible for their funds."
[13] Bernard B. Fall, The
Two Vietnams (New York: Frederick
A. Praeger, 1963), p. 18. Nguyên văn: “If
the sovereign oppressed the people, he no longer deserved
to be treated as the sovereign. His person was no longer
sacred, and to kill him was no longer a crime. Revolt
against such tyranny not only was reasonable but was a
meritorious act and conferred upon its author the right
to take over the powers of the sovereign.”
[14] Dương
Thành Lợi, Triết Lý Quốc Trị Đông
Phương (Toronto,
Canada: Làng Văn, 1997 ), tr. 90.