●   Bản rời    

Nguyễn Trường Tộ: Đối Luận với Bà Mai Thị Huyền

Đối luận với Bà Mai Thị Huyền

về Nguyễn Trường Tộ

Bùi Kha

http://sachhiem.net/BUIKHA/BuiKha17_NTT.php

  bản in     ¿   toàn bộ NTT 12-Dec-2011


Nguyễn Trường Tộ,
ảnh dongduongthoibao.net

 

...“Vị thế của Nguyễn Trường Tộ trong bối cảnh lịch sử Việt Nam những năm 60 thế kỷ XIX” là một người Pháp tay trong, tùy theo tình hình của quân đội thực dân Pháp tại Việt Nam để viết những bài chiêu dụ nhằm cứu nguy hoàn cảnh thập tử nhất sanh của chúng. (BK)

 

 

Trên trang nhà (website) Văn Hóa Nghệ An mấy ngày qua có hai bài viết và một bài phỏng vấn về Nguyễn Trường Tộ, tôi thấy các tác giả viết theo thiên kiến không có sử liệu nên sai sự thực. Bài đối luận của tôi cũng không ngoài mục đích là góp phần soi sáng con người thực của Nguyễn Trường Tộ qua sử liệu, nhất là các sử liệu mật để trả lại cho Nguyễn Trường Tộ những gì mà ông mong muốn qua các bản “Điều trần”.

Ông Vĩnh Khánh với bài “Tấm gương và bài học Nguyễn Trường Tộ”. i ngắn, khoảng 670 chữ, ca tụng Nguyễn Trường Tộ thiếu cơ sở. Những sai trái đó cũng có thể tìm thấy trong hai bài còn lại là “Vị thế của Nguyễn Trường Tộ trong bối cảnh lịch sử Việt Nam những năm 60 thế kỷ XIX, Mai Thị Huyền, và bài “Nguyễn Trường Tộ là người yêu nước một trăm phần trăm”, Tiến sĩ, Giám mục Nguyễn Thái Hợp (viết dưới hình thức phỏng vấn).

Do vậy, tôi chỉ đối luận bài thứ hai và bài 3 mà thôi. Để độc giả dễ theo dõi, tôi sẽ đối luận bài cùa bà Mai Thị Huyền trước.

Trong bài “Vị thế của Nguyễn Trường Tộ trong bối cảnh lịch sử Việt Nam những năm 60 thế kỷ XIX”, Tiến sĩ Mai Thị Huyền có nhiều điều bất cập.

1.

Bà Mai Thị Huyền viết: “Thời trị vì của Tự Đức, ông đã giết hại 27 giáo sĩ, 300 thầy tu và 3 vạn giáo dân nước ta. Việc cấm đạo và hạn chế thương nghiệp, triều đình cho rằng đó là biện pháp ngăn chặn hữu hiệu âm mưu xâm lược của các nước phương Tây”.

Vua Tự Đức (ở ngôi: 1847-1883)

Bùi Kha (BK): 27 giáo sĩ thì có thể hiểu được, nhưng 300 thầy tu là những ai ? Thầy tu, thường được dùng để chỉ các tăng sĩ Phật Giáo. Vậy triều vua Tự Đức cũng giết đến 300 thầy tu Phật Giáo sao ? Nhưng độc giả không thấy bà dẫn chứng sử liệu nào cho thấy các con số giáo sĩ và giáo dân bị giết nhiều (30.000) đến thế ? Không ai chấp nhận việc cấm đạo và giết giáo dân, nhưng chúng ta cũng nên nghe ý kiến của hai trong số nhiều người có thẩm quyền hơn về vấn đề này.

- Giáo sư Lý Chánh Trung:Tôi nhắc lại nhận định của vị  trí thức Công giáo [trong cuốn “Tôn giáo và dân tộc”] nầy như sau: ‘Nếu đặt chúng ta vào địa vị các vua triều Nguyễn thời bấy giờ thì chúng ta cũng không thể làm khác hơn được’.


Đô đốc Charles Rigault de Genouilly

- Đô đốc Rigault de Genouilly, trong một thư mật, ông than phiền về hành động của những người giáo sĩ người Pháp: 

Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Ki Tô, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ (các giáo sĩ, BK). Nếu cũng vì những yếu tố buộc tội đó mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền An Nam trục xuất thì báo chí của người truyền đạo lại kêu la om sòm là họ bị bạo hành” [Bùi Kha, Nguyễn Trường Tộ & vấn đề canh tân”. Nhà xuất bản Văn học, 30.3.2011, tr. 63. Phần tiếng Pháp vui lòng xem Cao Huy Thuan, Christianisme et Colonialisme au Viet Nam 1857-1914, "Đạo Công giáo và chủ nghĩa thực dân Pháp tại Việt Nam, 1857-1914", tr.113].

2.

Bà Mai Thị Huyền: “Từ năm 1861 đến năm 1871, Nguyễn Trường Tộ gửi lên triều đình nhiều bản điều trần, trong đó có “Thiên hạ đại thế luận” (1863), Dụ tài tế cấp bẩm từ (1863), Lục lợi từ (1866), Tế cấp bát điều (1867) với những nội dung cải cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực”.

Bùi Kha: Có lẽ bà chưa đọc kỹ và đối chiếu với sử liệu để biết ông Nguyễn Trường Tộ viết gì trong các bài chiêu dụ nầy. Bài “Dụ tài tế cấp bẩm từ” “Lục lợi từ” là một, viết năm 1864, chứ không phải hai bài khác nhau và viết hai năm như bà nêu trên (Trương Bá Cần “Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo”, 1988, trang 135).

Để rõ ràng tư duy của Nguyễn Trường Tộ qua hai bài Thiên hạ đại thế luận Lục lợi từ, tôi trích vài đoạn và dẫn sử liệu để bà và độc giả thấy tư chất của NTT.

Trong“Thiên hạ đại thế luận” (1863) Nguyễn Trường Tộ viết :

“Mới đây, người Pháp thừa thế đánh xong tỉnh Quảng Đông, đã đưa quân tinh nhuệ xuống phía Nam, làm Đà Nẵng thất thủ. Khi ấy, giả sử ta có 10 vạn quân, cũng không đánh nhau được với họ. Phàm việc binh cốt ở thần tốc, họ đã biết rõ rằng quân ta mới nghe thanh thế họ đã phách lạc hồn xiêu rồi”.

Nhưng trong thực tế, tình hình quân đội viễn chinh Pháp quá thê thảm, còn quân Việt Nam chiến đấu rất kiên cường. Văn thư đề ngày 21/9/1859, Đô đốc R. de Genouilly viết:

 “Càng đi sâu vào tình hình Vương Quốc An Nam, các bức màn càng vén lên, những lời khẳng định dối trá (của các giáo sĩ, BK) càng tan biến, không thể không thừa nhận rằng, cuộc chiến tranh chống lại vương quốc An Nam còn khó hơn cuộc chiến tranh chống lại thiên triều...””.

Nguyên văn tiếng Pháp:

“... À mesure que l'on pénètre dans la situation de l'Emprire annamite, que les voiles se lèvent, que les assertions mensongères disparaissent, il est impossible de ne pas reconnaitre qu'une guerre contre ce pays est plus difficile qu'une guerre contre le Céleste Empire”. (Trích trong Dépêche de l'Amiral Rigault de Genouilly, Archives Nationals, Fond Marine # BB4 769: Cité by CHT, pp.117-118).

Bonard cũng lo âu kêu cứu:

Người An Nam đã tỏ ra dày dạn chiến đấu, họ đã làm đảo lộn vai trò, giờ đây họ tấn công chúng ta ngay những vị trí của chúng ta” (Poyen - Notice sur l'Artillerie de la Marine en Cochinchine - Paris 1893 - tr.81-82. Dẫn theo Thái Hồng trong cuốn Nguyễn Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước, viện KHXH, Trung tâm Hán nôm, tr.263).

Nguyễn Trường Tộ cố thuyết phục dân Việt bỏ súng xuống để Pháp giữ bờ cõi cho mình, như trong rừng nếu có hùm beo thì chồn và cáo không giám bén mảng đến (Thiên hạ đại thế luận, TBC, SĐD, tr.111). Nhưng tình hình thực tế của quân Pháp đến nỗi Đô đốc Charles Rigault de Genouilly cũng phải than thở:

“…Quả thật, tôi thấy cần thiết và hết sức đau đớn xác nhận với ngài về tình trạng tồi tệ về sức khỏe chung. Thiếu tá Levêque, Đại úy Hải quân Virot, phó kỹ sư Delautel đều đã đi Ma-cao và chắc phải đưa về Pháp. Tôi không biết phải đối phó thế nào với các lỗ trống đó. Mỗi ngày lại có nhiều người chết, và thời tiết xấu mà các nhà truyền giáo bảo là sẽ chấm dứt vào đầu tháng 12 vẫn tiếp tục với những trận mưa dầm dề không tưởng tượng nổi. Chỉ nội sự kiện đó, ngài cũng có thể đánh giá về các tin tức đang đến với tôi về mặt này và lòng tin tưởng của tôi đối những cuộc hành quân phải thực hiện.

Dù thế nào đi nữa, thưa ngài Thượng Thư, chúng ta đang nhanh chóng tuột dốc đến kiệt quệ và đến lúc phải bất động tại Đà Nẵng. Mọi phương cách để cải thiện tình trạng quân sĩ đều đã được sử dụng hết và không kết quả. Các y sĩ trước tình trạng bệnh tật đã kết luận là người Âu không nên làm việc gì trong khí hậu này, nhưng làm sao được khi ở đây, phải làm những việc cần thiết cho sự phòng vệ, xây cất bệnh viện, lều trại v.v... Đó là một cái vòng luẩn quẩn khiến chúng ta phải điên đầu” (Thư khố Quốc gia, tài sản Hải quân, B 84769, dẫn theo CHT, SĐD, Paris, 1968, bản ronéo, tr.108).

Trước tình hình nguy ngập như trên, ngày 8/4/1859, một chỉ thị khác của Bộ Hải quân và Thuộc Địa gởi cho Đô đốc R. de Genouilly như sau:

Vì thế, Hoàng thượng tin cậy ở kinh nghiệm và sự sáng suốt của Ông trong mọi quyết định, với lực lượng dưới quyền Ông điều khiển, có nên theo đuổi việc thiết lập nền bảo hộ trên Vương quốc An Nam không; hay chỉ nên cưỡng bức Chính phủ họ, nhờ vào việc chiếm đóng Đà nẵng và nhiều cứ điểm khác mà Ông đã chiếm hay sẽ chiếm được. Cùng với việc phong tỏa một hay nhiều cảng ở Nam Kỳ để đi đến sự ký kết một hiệp ước trên nền tảng kế hoạch 25/11/1857; hay cuối cùng là chúng ta đành bỏ các vị trí mà chúng ta chiếm đóng và từ bỏ hẳn mọi mưu toan rõ ràng ngoài tầm các phương tiện hoạt động mà Ông có” (Thư khố Quốc gia, tài sản hải quân, BB4 1045. CHT, Sđd, trang 118&119).

Nguyên văn tiếng Pháp:

“Sa Majesté s'en rapporte donc à votre expérience et à votre sagacité pour décider si avec les forces placées sous votre commandement, il convient de poursuivre l'établissement de notre protectorat sur l'Empire annamite; s'il est préférable de se borner à peser sur son gouvernement par l'occupation de Tourane et de tels autres points dont vous avez pu ou vous emparer, ainsi que par le blocus d'un ou de plusieurs ports de Cochinchine, pour arriver à conclure un traité sur les bases du projet du 25 Novembre 1857; ou enfin s'il faut nous résigner à abandonner les positions que nous occupons et à renoncer complètement à une entreprise, décidément hors de proportion avec les moyens d'action dont vous disposer” (Instruction du Ministre de la Marine et des Colonies 8-4-1859, Archives Nationales, Fonds Marine, BB4 1045).

Đó là một số trong nhiều bằng chứng cho thấy, nếu quân dân Việt Nam không HÒA với Pháp, như Nguyễn Trường Tộ khuyên, thì có thể Pháp đã bỏ về nước ngay từ đầu. Giả thiết Nguyễn Trường Tộ không cố ý giúp Pháp, nhưng những ý kiến sai lầm trầm trọng đến như thế có nên bị khiển trách, hay nên ca tụng vô tội vạ như bà Mai Thị Huyền và một số người khác?

■ Trong Lục Lợi Từ mà bà Mai Thị Huyền nhắc đến trên đây, bà cũng viết không có bằng chứng. Dưới đây là một trong nhiều thí dụ để bà thấy sự “cố vấn” tai hại của Nguyễn Trường Tộ.

Bài Lục Lợi Từ (Kế hoạch làm cho dân giàu nước mạnh), viết ngày 18/7/1864, Nguyễn Trường Tộ viết:

Cho đến thời Minh, bước tiến Âu Tây ngày một lên cao vùn vụt, đến nỗi không có chỗ để thử cái tài dũng của họ nữa. Do đó, họ chuyển dần về phía Tây, và bỗng nhiên tìm được Tây Châu (tức là Tân Thế Giới) và chiếm lấy làm đất của mình, khai thác vùng đất đai mấy ngàn năm hoang vu, cải tiến phong tục tập quán mấy ngàn năm hủ lậu. Lúc đầu người dân bản xứ còn xem họ như thù địch, dần dần đã chịu gần gũi và ngày càng trở nên thân thiết, những người dân ở đây đã học được hết những kỹ xảo của người phương Tây, cho nên không đầy 100 năm sau đã đuổi được người phương Tây ra khỏi đất mình. Những nước phụ thuộc phương Tây xưa kia nay trở thành những nước thân phương Tây. Các nước ấy đã nhờ phương Tây mà thay đổi những tập quán cũ để trở thành giàu mạnh, người phương Tây cũng nhờ vào nguồn lợi ở đó để chu cấp cho mình. Xưa thì nghiến răng căm thù, nay đã thành tình nghĩa anh em tốt đẹp bền bỉ (TBC, Sđd, tr. 136-137).

Tân Thế Giới mà Nguyễn Trường Tộ muốn nói, là Hoa Kỳ ngày nay và cách đây hơn 200 năm, không phải như Nguyễn Trường Tộ mô tả.

Tổng quát, dân Hoa Kỳ được hợp thành bởi các đợt di dân như sau:

a. Thành phần đầu tiên là các thổ dân da đỏ, gọi là American Indians, sống từ lâu trên đất hoang vu và trù phú này.

b. Thứ hai, là thành phần phạm pháp ở các quốc gia khác bị chính phủ họ đuổi ra khỏi nước cho đỡ gánh nặng.

c. Thành phần thứ ba, có đầu óc phiêu lưu, mạo hiểm và thích làm giàu, từ Âu châu đi tìm vàng và khai thác tài nguyên trù phú trên vùng đất mới.

d. Thành phần cuối, là những người bỏ xứ ra đi để tránh tình trạng ngược đãi tôn giáo hoặc chính trị.

Về mặt chính trị, số người mới trên vùng Tân Thế Giới (Hoa Kỳ ngày nay) dần dần tách rời ra khỏi, và chống lại, sự thống trị của người Anh. Sau những năm chiến tranh, người Hoa Kỳ nhờ sự giúp sức của Pháp và Hòa Lan, nên họ đã thắng Anh Quốc và tuyên bố độc lập vào ngày 4/7/1776 đến nay (1998) đúng 222 năm. (Xin xem thêm Nguyễn Hiến Lê, “Lịch sử thế giới”, trang 444-446).

Như tôi đã nhận định, những bản Điều trần của Nguyễn Trường Tộ luôn luôn đi song hành với tình hình chính trị của quân Pháp lúc bấy giờ. Thật vậy, Nguyễn Trường Tộ viết bài Điều trần này vào tháng 6/1864, là lúc mà dân Nam Kỳ sử dụng kế hoạch “nhà không đồng vắng”, không chịu hợp tác với Pháp. Còn triều đình thì sau khi ký Hòa ước 1862 nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp, nhưng vua Tự Đức cố trì hoãn không chịu phê chuẩn hiệp ước. Đoạn trích dẫn dưới đây sẽ cho thấy dân Việt đã tỏ thái độ như thế nào đối với Pháp. Từ đó, chúng ta sẽ thấy lợi hay hại lúc Nguyễn Trường Tộ khuyên nên thỏa hiệp. Phải chăng đó là một sự đi đêm hay trúng kế thực dân?

Chesneaux trong cuốn “Đóng góp vào lịch sử dân tộc Việt Nam” để thấy rõ tình hình ở Nam Kỳ rồi đối chiếu với lời khuyên của Nguyễn Trường Tộ:
Ngay khi vừa phê chuẩn, triều đình Huế đã cho biết, bằng những tư liệu rất chính xác, rằng triều đình không thừa nhận việc nhượng ba tỉnh Nam Kỳ là dứt khoát, vĩnh viễn.

Còn dân chúng Việt Nam, họ cũng không có thái độ ôn hòa hơn sau khi hiệp ước được phê chuẩn, hoặc sau những lời hứa hoa mỹ của ông Đô đốc toàn quyền. Họ không chấp nhận chế độ thực dân. Với sự đồng ý ngầm ngày càng rõ rệt, mặc dầu lặng lẽ của triều đình Huế, những phong trào nổi dậy chống thực dân Pháp tại Nam Kỳ ngày càng phát triển.

Nông dân vẫn thù địch với Bonard và những người thay chân ông. Phần lớn các quan lại từ chối hợp tác với chế độ mới. Họ bỏ ra đi dần, mặc dầu Bonard đã cố gắng nhiều để xoa dịu họ và giữ lại một phần lớn các phong tục tập quán địa phương, vì những cố gắng đó mà ông Đô đốc toàn quyền bị các tên thực dân và các giáo sĩ phê trách quyết liệt”.

Theo như nhà sử học Cultru nói: “Tầng lớp có khả năng cai trị thì, hoặc vắng mặt, hoặc xấu bụng. Đó là cuộc ra đi hàng loạt của các bậc sĩ phu và của dân chúng, rời bỏ các tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị người Pháp chiếm đóng, để về vùng tự do, ở miền Tây, và tổ chức kháng chiến.

Thái độ bất hợp tác chung khắp nơi đó buộc các Đô đốc toàn quyền, muốn duy trì bộ máy hành chính Pháp tại Nam kỳ, chỉ còn sử dụng được một số tối thiểu những công chức Việt Nam (phiên dịch, thư ký...) mà thôi. Và duy chỉ có những phần tử kém hạnh kiểm nhất trong dân, tình nguyện đứng ra phục vụ cho những ông chủ mới…

Đề Đốc Rieunier, về sau, nói rằng:

Chúng tôi chỉ có những giáo dân và bọn du thử du thực”.

...

Những phong trào cách mạng lớn tiếp tục, chú ý nhất là các phong trào Quản Định, Thủ Khoa Huân, Thiên Hộ Dương, Quản Lịch, Quản Thanh, không ngừng giương cao ngọn cờ kháng chiến, và gây nhiều khó khăn cho bọn chiếm đóng. Những sĩ phu và quan lại từ chối làm việc với Pháp, những nông dân rời bỏ vùng quê bị giặc chiếm; chẳng ai ngạc nhiên khi thấy ở vùng tự do tất cả những người kháng chiến đó đều được nhân dân ủng hộ nhiệt tình.

Đọc đến đây chắc hẳn độc giả đã thấy rõ rằng, Nguyễn Trường Tộ khuyên nên hợp tác với Pháp là đi ngược lại ý muốn của toàn dân Việt Nam từ triều đình đến quần chúng, và rất có lợi cho chương trình ổn định tình hình và kiện toàn guồng máy cai trị của kẻ xâm lăng.

Còn 5 điều làm cho dân giàu nước mạnh, Nguyễn Trường Tộ viết hoàn toàn sai sử liệu, sai thực tế. Mời độc giả và bà Mai Thị Huyền đọc tác phẩm “Nguyễn Trương Tộ & vấn đề canh tân”, Bùi Kha, SĐD, từ trang 88-112).

3.

Bà Mai Thị Huyền viết “theo Nguyễn Trường Tộ chỉ là ta còn thiếu vốn và kỹ thuật mà thôi, nên hợp tác với nước ngoài trên lĩnh vực khai thác để lấy kinh nghiệm. Tổ chức đào kênh từ Hải Dương đến Huế để phát triển thương nghiệp”.

Bùi Kha:Bà lại viết sai bối cảnh lịch sử rồi ca tụng nhầm về Nguyễn Trường Tộ. Thật vậy, ông viết bài Thiên hạ đại thế luận năm 1863, lúc Pháp đã chiếm ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, tình hình quá rối ren thì hợp tác với người nước ngoài là nước nào? Ai cho hợp tác. Hợp tác với thực dân Pháp ư? Không thể, vì thực dân:

“Họ xem ta như trâu như chó,
Họ xem mình như cỏ như rơm,
Cỏ thì nhổ cỏ trâu làm thịt trâu” (Phan bội Châu).

Chứ làm gì Việt Nam ta có được cái quyền ngang hàng với thực dân Pháp để hợp tác?

Còn việc “Tổ chức đào kênh từ Hải Dương đến Huế để phát triển thương nghiệp”.

Nếu bà suy nghĩ thì sẽ thấy từ Hải Dương gần Hải phòng đến Huế là khoảng 300 km, với dân số, kỹ thuật máy móc và tài chánh hiện nay, nhà nước chúng ta có thể đủ sức để đào một con kênh vượt núi băng đèo như thế không? Hơn nữa, thời bấy giờ có nạn vua nhà Nguyễn bắt dân lao dịch việc xây lăng tẩm quá khổ sở. Thợ nổi dậy, biến cố này có tên là nạn “Chày vôi” với hai câu thơ còn lưu truyền:     

“Vạn niên là vạn niên nào,
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.”

Như thế, việc đề nghị đào kênh từ Hải Dương vào Huế là quá không tưởng, không bao giờ có thể thực hiện đươc, ngay cả nên kinh tế và kỷ thuật tân tiến ngày nay. Đó là chưa nói, phải chăng việc tổ chức đào kinh là một âm mưu để dân chúng có lý do thêm để nổi loạn quy mô rộng lớn gấp cả triệu lần nạn Chày vôi. Ngoài thì giặc Pháp tấn công. Trong thì lòng dân bất mãn nổi loạn, thì e rằng việc Pháp chiếm trọn vẹn cả giang sơn lại càng nhanh và ít đổ máu! Một trong những “cao kiến” vô cùng tai hại của Nguyễn Trường Tộ được ba Huyền ca tụng là thế.

4.

Mai Thị Huyền lại tiếp: Ông đề nghị “Chăm lo trợ cấp xã hội bằng việc lập các viện Dục Anh (chăm sóc trẻ mồ côi) và trại Tế Bần (chăm sóc người già)”.

Bùi Kha:Bà viết một vấn đề sử, nhưng bà không đối chiếu lịch sử thời BẤY giờ mà bà liên tưởng lịch sử thời BÂY giờ, nên mọi việc đều sai lầm cả (chữ  BÂY, có dấu SẮC, hoặc không dấu mà làm thay đổi cả một tiến trình nhận thức sai lầm trầm trọng).

Chương trình Viện dục anh và Trại tế bần là điều thứ tám trong 8 điều (Tế cấp bát điều) Nguyễn Trường Tộ đề nghị phải làm gấp. Lập viện dục anh và trại tế bần. Cách trình bày của Nguyễn Trường Tộ rất hợp nhân đạo lúc nuôi dưỡng những trẻ mồ côi. Nhưng cái dụng tâm của Nguyễn Trường Tộ trong đề nghị này là gì? Trả lời:

“Nếu triều đình cho rằng, việc này nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay” (Tế cấp bát điều, TBC, Sđd, tr. 276).

Kết quả được những gì?

Xin mời độc giả xem phần Nhận xét dưới đây:

Nếu đứng ở vị trí lịch sử đất nước ta ngày nay để xét, thì các hội từ thiện có người phương Tây nhúng tay vào không có nhiều âm mưu (trồng người) như thời Nguyễn Trường Tộ. Người nước ngoài ngay cả thường dân họ cũng được Trị ngoại pháp quyền. Còn các linh mục, giám mục lại có quyền đặc biệt hơn nữa. Ngay cả Linh mục Việt Nam như Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Trương Vĩnh Ký cũng là những kẻ bồi Tây mà lịch sử đã cho thấy.

Do đó, nếu lúc bấy giờ mỗi tỉnh có một viện dục anh và trại tế bần do các linh mục, bà sơ người Tây phương điều khiển sẽ tạo nên một màng lưới gián điệp và quân sự toàn cõi Việt Nam. Và lúc đó thì kế hoạch đồng hóa của Puginier và của Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, rất dễ đạt được kết quả, và vấn đề Pháp hóa người Việt cũng sẽ được rút ngắn thời gian. Đó là chưa kể tình trạng các giáo sĩ điều khiển các cơ sở từ thiện nầy dựa vào thế lực của Pháp để phản loạn qua một số dẫn chứng dưới đây:

Thí dụ 1: Vụ Xuân Hòa của Linh mục Ân (người Việt Nam) đã dựa vào chức linh mục và dựa thế người Pháp cho phép những kẻ mới theo đạo ở làng Xuân Hòa (Huế) thuê giáo dân các làng bên cạnh tự tiện gặt các thửa ruộng đang tranh chấp.

Vài ngày sau bữa gặt lúa, gần 1.000 dân không đạo, võ trang gậy gộc đến giật lại lúa hiện đang chứa ở đình. Bị giáo dân chống cự, sau một trận ẩu đả họ đã chạy trốn, bỏ lại 20 người bị bắt (Cao Huy Thuần, Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam. Hương Quê xuất bản, Hoa Kỳ, 1988, tr. 325).

Theo luật pháp của Việt Nam thời bấy giờ, Linh mục Ân sẽ bị đánh bằng roi hoặc bằng gậy vì có lỗi nhưng ông được sự che chở của Pháp nên không bị gì hết.

Thí dụ 2: Thiên Tân giáo án

Năm 1869, một số bà sơ người Pháp lập một cô nhi viện cạnh nhà thờ tại Thiên Tân bên Trung Hoa, nhưng không có bao nhiêu người chịu đem trẻ mồ côi giao cho cô nhi viện của người nước ngoài. Vì vậy, mấy bà sơ thưởng tiền cho những ai đem trẻ em đến. Hành động này làm cho dân chúng nghi là có việc mua bán trẻ con.

Ngày 21/6/1870, quan địa phương Trung Hoa đem kẻ tình nghi đến cô nhi viện để đối chất cho rõ sự tình. Nhưng viên lãnh sự Pháp tại Thiên Tân là Henri Fontanier cùng với người bí thư là Tây Mông đến gặp quan đại thần Trung Hoa là Sùng Hậu, với thái độ xấc xược bắn súng dọa nạt và hạch sách Sùng Hậu.

Trên đường về, bọn Fontainier lại dùng súng bắn vào đám đông người Hoa và viên tri huyện Thiên Tân là Lưu Kiệt, khiến một người tùy tùng của viên tri huyện chết.

Đám quần chúng uất hận không dằn được nên đánh chết Fontainier, Tây Mông và đồng bọn 20 người, đồng thời đốt nhà thờ và lãnh sự quán của Pháp. Sau đó, Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Đức, Bỉ và Tây Ban Nha, tất cả bảy nước liên hiệp với nhau đem quân vây Thiên Tân, dọa gây chiến. Triều đình nhà Thanh phải chịu xin lỗi, bồi thường tiền cho nước Pháp, cách chức và giáng viên tri phủ và tri huyện Thiên Tân xuống làm lính, đồng thời phạt 20 người và phải xử tử 20 người Hoa khác để làm vừa lòng Pháp và các nước (theo The New Encyclopedia Britannica, Helen Hemingway Benten, Publisher 1973-1974. Cuốn 7, tr. 770. Bách khoa đại tự điển bằng chữ Nho.

Thí dụ 3: Thái Bình Thiên Quốc

Năm 1850 ở Trung Quốc có loạn Thái Bình Thiên Quốc với đạo quân Giê Su, Hồng Tú Toàn chỉ huy con chiên đánh chiếm nhiều tỉnh.

Thí dụ 4: Lê Văn Khôi,

con nuôi Lê Văn Duyệt, chiếm toàn tỉnh Gia Định năm 1835. Giáo sĩ Marchand (cố Du) đóng vai cố vấn và yểm trợ với âm mưu thiết lập một Vương quốc Công giáo ly khai tại Nam kỳ.

Joseph Marchand

Joseph Marchand (Cố Du, Linh mục)

Thí dụ 5: Tạ Văn Phụng

Cùng thời (khoảng 1872), tại Bắc Kỳ, Tạ Văn Phụng được các giáo sĩ đổi tên thành Lê Duy Phụng rồi cùng với giáo dân nổi loạn chống lại triều đình núp dưới chiêu bài Khôi phục nhà Lê.

Thí dụ 6: Linh mục Trần Lục

Ngay cả sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, Linh mục Trần Lục, quản xứ Phát Diệm, năm 1886 nhận phép “lành” của Giám mục Puginier rồi tiếp viện cho quân Pháp 5 ngàn giáo dân. Vì vậy, chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất thủ (...père Tran Luc, curé de Phát Diệm …Celui-ci avec la bénédiction de Mgr. Puginier vint à la rescousse des Francais avec 5000 chrétiens. Et Ba Dinh fut pris [Linh mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Thập giá và lưỡi gươm (Dieu et Casar),] Paris 10. 1978, pp. 41 - 42).

Công sứ Bonnal cũng cho biết:

Khi một giáo sĩ đã thiết lập được một xứ đạo trong một làng rồi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Người bản xứ từ chối không đóng thuế, và tuyên bố không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của ông giáo sĩ, là người đích thân dạy cho giáo dân không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của giám mục... (Nguyễn Xuân Thọ, Sđd, tr. 360-361).

Giám-mục Puginier cũng nói thẳng:

Không có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp cũng ging như cua bị bẻ gãy hết càng (Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes).

Hành động của giáo sĩ người Tây và giáo dân như thế mà Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị mỗi tỉnh mở một viện mồ côi và nhà dưỡng lão, rồi lại nhờ ông tình báo Gauthier cử tu sĩ đến cai quản. Tu sĩ sẽ đổi đạo dân trong vùng, sau đó hô hào con chiên tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt Nam thì triều đình vô phương đối phó.

Các thí dụ và dẫn chứng trên cho thấy, hoặc vô tình hay cố ý, nhà “thông thái” Nguyễn Trường Tộ đề nghị mỗi tỉnh lập một nhà nuôi trẻ do Giám Mục tình báo Gauthier cử người điều khiển, là một kế hoạch vô cùng nguy hiểm. Không những tạo thế hợp pháp cho các giáo sĩ nước ngoài, mà còn trải rộng mạng lưới tình báo khắp toàn quốc để cho Pháp dễ dàng và nhanh chóng thống trị và đồng hóa dân tộc ta.

Hậu ý của Nguyễn Trường Tộ sau bức màn của bản Điều trần này là gì?

Ông đi vòng vo tam quốc giả vờ đề nghị chỉnh trang cái này, cải cách cái nọ, giọng văn nhiều chỗ trông có vẻ thành khẩn giống như có lòng yêu Tổ quốc thực sự. Nhưng chủ tâm không phải cái đó, mà thâm ý là đề nghị triều đình mời hoặc bổ nhiệm mỗi tỉnh một ông linh mục hay giám mục, để thực hiện chương trình Ki Tô Giáo và Pháp hóa đất Việt theo kế hoạch của Puginier và của Gauthier (thầy và cố vấn của Nguyễn Trường Tộ). Kế hoạch này núp dưới chiêu bài viện dục anh và trại tế bần.

5.

Bà Mai Thị Huyền: “Theo ông, hoà chỉ là vấn đề sách lược: “Tôi thường nghiên cứu sự thế trong thiên hạ mà thấy cảnh ngộ nước ta ngày nay hoà với Pháp là thượng sách....Hoà thì trên không cưỡng lại ý trời, dưới có thể làm cho dân khỏi khổ, chấm dứt được sự dòm ngó của gian nghịch, ngăn chặn được sự tranh giành của nước ngoài”.

Bùi Kha: Nguyễn Trường Tộ khuyên không những hòa với Pháp mà còn bỏ khí giới xuống, cho lính nghỉ ngơi để Pháp giữ gìn bờ cỏi dùm cho ta. Ví như trong rừng có beo có hổ thì chồn và cáo không giám bén mảng tới (Thiên hạ đại thế luận trang 111). Kế hoạch “tuyệt vời” nầy nên Pháp dần chiếm từ ba tỉnh miền Đông rồi đến ba tỉnh miền Tây, cuối cùng chiếm toàn vẹn lãnh thổ. Ông cố vấn Nguyễn Trương Tộ nầy nên đưa ra tòa án hay nên được vinh danh đây?

Trong “Giáo môn luận” bà cũng không biết ông Nguyễn Trương Tộ viết gì và tình hình các giáo sĩ lúc đó. Mời bà đọc:

Trong Giáo môn luận, Nguyễn Trường Tộ viết:

Xét ra đạo Công giáo vào nước ta từ thời Lê. Đầu tiên, các giáo sĩ Bồ Đào Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp, người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ giáo dân và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau nhưng vẫn ân ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy giáo dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào vòng hình phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng thì chốc lát sẽ trong trở lại (Giáo môn luận, TBC, Sđd, tr. 116).

Đoạn trên Nguyễn Trường Tộ cho rằng vì lệnh cấm đạo nên mới sinh ra ghen ghét, kỳ thị, tội lệ, giáo dân bị lưu đày và bị hình phạt, là những ý tưởng rất sai lầm và chắc chắn nếu ai có lòng yêu Tổ quốc thì cũng không thể chịu được các kế hoạch thực dân xâm lược của các ông cố đạo người Tây sau đây:

- Linh mục Legrand De La Liraye viết:

Theo thần, chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm chỉnh tại nước đó. Cần phải chấp nhận chiến tranh như là cách tốt nhất, phải đánh gấp ở Bắc Kỳ, Huế và Đà Nẵng cùng lúc, nếu được thì lật đổ chính phủđặt lên ngôi ở Bắc Kỳ một kẻ giả danh là con cháu nhà Lê.

Nguyên văn tiếng Pháp phần nầy và các phần sau, có thể xem: Bùi Kha, SĐD, tr.166-169):

- Giám mục Retort (viết thư cho M. Kleckowski):

Nước Pháp cần phải làm cái gì lớn lao quan trọng lâu dài, xứng với nó và Hoàng đế của nó. Nếu nước Pháp chinh phục xứ này (có lẽ việc này không khó) và cai trị trực tiếp, người dân Bắc Kỳ sẽ bằng lòng, nhưng họ thích sống dưới sự bảo hộ và ảnh hưởng của Pháp với một ông vua riêng”.

- Linh Mục Huc: Nên chiếm cả nước Việt Nam và Giám mục Pellerin cũng có cùng một ý nghĩ (vui lòng xem trong Bùi Kha, SĐD, trang 166-171).

Để cho vấn đề được vô tư, rõ ràng và chính xác hơn, tại sao triều đình nhà Nguyễn cấm đạo Ki Tô, tôi xin trích dẫn ý kiến của Đô đốc Page trong văn thư đề ngày 14/12/1859 và 25/12/1859 sau đây.

Sau khi đi khắp nước thấy nhiều, nghe nhiều cuối cùng Đô đốc Page công nhận lý lẽ vững chắc của triều đình Huế, chính ông cũng bực mình về thái độ của các nhà truyền đạo và con chiên của họ:

“Thật vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000 tín đồ Ki Tô đi theo Pháp và xin được đưa vô Sai Gòn là nơi mà Page đã dựng lên một thị trấn. Tôi ngạc nhiên biết bao khi hôm sau các nhà truyền giáo đến nói với tôi, rằng các con chiên An Nam không tuân theo một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Sao! Họ cũng không muốn có cảnh sát để chận đứng trộm cướp du đãng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ thẹn khi thú nhận với Ngài, rằng Giáo Hội Ki Tô tại An Nam đã ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lý đó: Ngoài ra không người An Nam theo Ki Tô nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua An Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?”.

Xem thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng, cũng không thể chịu nổi những hành động của các giáo sĩ chứ trách gì các vua quan triều Nguyễn.

Xin xem nguyên văn tiếng Pháp công điện của Đô đốc Page tại Archives Nationales, Fonds, Marine BB4 777, Dépêche de l'amiral Page, du 14-12 et 25/12/1859: “Après avoir beaucoup parcouru le pays, beaucoup regardé, beaucoup écouté, l'amiral Page finit par reconnaitre le bienfondé des arguments du gouvernement de Huế, lui même ayant été choqué par l'attitude des missionnaires et de leurs chrétiens…". (Sđd, Cao Huy Thuần, trang 128 & 129).

6.

Bà Mai Thị Huyền: Việc mở trường kỷ thuật tại Huế

Bùi Kha: Bà nên đọc vài đoạn sử liệu dưới đây để tránh viết bậy:

2.4.3. Trường kỹ thuật:

Theo tờ trình của Giám mục Gauthier đề tháng 3/1868 nộp cho triều đình Tự Đức, chúng ta thấy có nhiều máy dụng cụ, sách, tự điển v.v... cũng như phí tổn các thứ ấy mua từ Pháp về do phái bộ Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ thực hiện để mở trường kỹ thuật.

Tờ tấu của Cơ Mật Viện ngày 4/3/1868, gồm có 7 đại thần đề nghị nhà vua nên ban thưởng cho cả phái bộ và 4 thầy dạy học mà Gauthier và Nguyễn Trường Tộ được vua Tự Đức nhờ đi mướn từ Pháp về. Trong 4 thầy có 3 vị là linh mục người Pháp.

a. Máy và dụng cụ: Sách nói về quặng sắt, về địa chất, về mỏ than, về bách nghệ cơ xảo, về quặng đồng, thước tam giác, bản đồ địa lý, địa chất, hai bộ thủy thư, một bộ kỷ hạn nghi (dùng đo vĩ độ...). Sách thiên văn, sách về chính trị nước Pháp, nhiều loại thước và tự điển tiếng Pháp. Cộng chung tốn hết 1.266 quan.....

Tổng cộng cả ba khoản trên là: 5.120,148 quan.

(Lược trích trong Trương Bá Cần, Sđd, tr. 467 & 468).

b. Những vật dụng vua ban thưởng cho phái bộ đi mua máy và bốn giáo chức rất hậu hĩ.

Nhưng việc mở trường chưa bao giờ được thực hiện.

c. Thầy giáo không có khả năng:

Trong việc mở trường (huấn nghệ, kỹ nghệ) yếu tố quan trọng hàng đầu sau trường sở, dụng cụ ... là phải có quyết tâm, thứ hai giáo chức phải có bằng cấp hoặc kiến thức chuyên môn về ngành mà mình được mời dạy. Theo tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 23/2/1868 gửi cho vua Tự Đức thì các vị giáo chức có bằng cấp chuyên môn để dạy huấn nghệ, kỹ nghệ. Nhưng theo Hội truyền giáo Paris thì mấy vị này không có các bằng cấp hoặc khả năng mà Giám mục Gauthier mô tả. Nguyên văn:

Theo một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23/02/1868):

- Linh mục Thông (tức Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi.

Nhưng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 01/5/1867 đã đậu cử nhân văn chương.

- Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ.

Nhưng cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền Giáo Paris 14/10/1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam.

- Giáo sĩ (tức bác sĩ) Hernaiz không phải là linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tô cũng được gọi là giáo sĩ, thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc. Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ này do bệnh cũ tái phát đã xin về Pháp trở lại.

- Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca sa nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài gòn đem về giới thiệu với triều đình, nhưng Ca xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dùng” (TBC, Sđd, tr. 49 & 50).

Các đối chiếu nên trên chứng tỏ Vua quan triều Tự Đức bị thầy trò Nguyễn Trường Tộ dối trá lừa bịp có hậu ý.

Trên đây là một số chứng cớ không thể phủ bác cho thấy “Vị thế của Nguyễn Trường Tộ trong bối cảnh lịch sử Việt Nam những năm 60 thế kỷ XIX” là một người Pháp tay trong, tùy theo tình hình của quân đội thực dân Pháp tại Việt Nam để viết những bài chiêu dụ nhằm cứu nguy hoàn cảnh thập tử nhất sanh của quân thực dân Pháp.

Tôi sơ lược vài điều như thế để thấy rõ, bà Mai Thị Huyền viết sai vì thiếu sử liệu, cũng để độc giả, và cả tôi, nhìn lại một giai đoạn đau thương của đất nước để rút ra một bài học từ đó.

Bùi Kha

1.12.2011