|
03-Dec-2011 |
1 2 3
- Những Bức Hình Ô Nhục
- Hai Bức Hình Thể Hiện Lòng Tự Trọng Quốc Gia
- Về các Niềm Tin Chính Của Người Ca-Tô
- Nhận định của giới thức giả
Tây phương
- Vài lời Kết
Những Bức Hình Ô Nhục.
Đây
! Ngô Đình Diệm! Nhân
danh Tổng Thống miền Nam,
đại
diện cho toàn dân quân miền Nam,
trong
đó chỉ có 5-7% người Công Giáo, lại phải cúi đầu hôn nhẫn
trên bàn tay của Hồng y Grégoire-Pierre Agagianian
và
cũng một cử chỉ xum xoe điếu đóm như thế khi hôn tay Hồng Y Spellman.
Mời xem thêm chi tiết quanh các bức ảnh
trong phần phụ chú
của sachhiem.net
ở cuối bài.
Đức
tin cần được xây dựng trên sự tín nhiệm và tin tưởng, sự trung thực
của những hứa hẹn lương thiện và thẳng thắn, nếu không thì đức tin
đó có ích gì. Nếu đức tin đặt căn bản trên những lời nói láo, dối trá,
và những mánh khóe có tính toán, thì nó trở thành không sao biện minh
được và thực ra thì đó có thể gọi là đức tin hay không?. Ở bình
minh của thế kỷ 21, nhiều người trong chúng ta không thể tự cho phép
là ngu dốt hay mê tín và đức tin bị che mắt của chúng ta phải mở rộng
cho những phê bình nghiên cứu đứng đắn. Điều này đặc biệt đúng
khi chúng ta biết rằng có sự tin mù quáng ở trong đó và cái hiểu của
chúng ta đã bị kiểm soát bởi những người đã nhân danh tôn giáo, quyết
định bảo vệ quyền lợi và vị thế gia trưởng trong xã hội của mình.
[Faith
needs to be built on trust and confidence, the fidelity of promises given
honestly and openly, otherwise there is no point in having it. If faith
is founded on lies, deceit and calculated manipulation, then it becomes
impossible to justify and there even a question mark against whether
it can reasonably be called faith… At the dawn of the twenty-first century,
many of us can no longer claim to be ignorant or superstitious and our
blinkered faith becomes open to more serious criticism. This is particularly
true when we know that bigotry is involved and that our understanding
has been controlled by men with vested interests, determined to safeguard
their own patriarchal social position in the name of religion.]
(Michael
Jordan trong cuốn Mary, Weidenfeld and Nicolson,
London, 2001, trang 304)
Đã
20 năm nay tôi nghiên cứu về tôn giáo và lịch sử, và có những điều tôi
không thể nào hiểu nổi. Tôi ước gì có được đầu óc của một con chiên với
một “đức tin” không cần biết, không cần hiểu, chỉ cần tuân theo “đức
vâng lời”, để cho những người chăn chiên dắt đi đâu thì đi đó. Như vậy
đời sống đỡ phải suy nghĩ lo lắng, sống thoải mái hơn là luôn luôn cứ
phải thắc mắc về những điều không hiểu nổi. Nhưng Trời chẳng chiều người,
cha mẹ sinh tôi ra làm một con người, không phải để làm súc vật, và lớn
lên đầu óc tôi lại ngả về khoa học, và kết quả là tôi được đào tạo trong
ngành khoa học Vật Lý, mà trong khoa học, những thắc mắc trí tuệ là điều
không thể thiếu. Bởi vì, không thắc mắc thì không thể khám phá ra được
điều gì mới lạ. Những thời đại như “thời đại lý trí” (The age of Reason),
“thời đại khai sáng” (The age of Enlightenment), “thời đại phân tích”
(The age of Analysis) v..v.. đều phát triển là do những thắc mắc của
con người, và đã làm cho Âu Châu thoát ra khỏi thời đại hắc ám (The dark
ages), cũng là thời đại của đức tin (The age of faith), kéo dài cả ngàn
năm của Ca-Tô Rô-ma Giáo ở Âu Châu, đưa Âu Châu vào thời đại của sự man
rợ và đen tối trí thức (The age of barbarous and intellectual darkness).
Những con chiên, con cừu v..v.., có lẽ vì không có khả năng thắc mắc,
nên cứ ngoan ngoãn theo những người chăn cừu, chăn dê đưa vào lò sát
sinh, làm chúng tê liệt đầu óc và trở thành những món ăn ngon cho giới
chăn chiên. Thật là tội nghiệp, cũng là một kiếp sống.
Việt
Nam có khoảng từ 5-7% theo Ca-tô Rô-ma Giáo, cho nên khi nghiên cứu về
Ki Tô Giáo tôi chú trọng nhiều đến tất cả những gì liên quan đến tôn
giáo này. Nhưng càng đọc nhiều về Ca-tô Rô-ma Giáo, và dù tôi đã cố gắng
suy nghĩ với tất cả khả năng suy lý và lô-gíc trong giới hạn hiểu biết
của tôi, có một điều tôi vẫn không thể nào hiểu nổi. Đó là: “Người
Việt Nam Theo Ca-Tô Rô-ma Giáo Là Vì Cái Gì?”.
Tôi
đã đặt câu hỏi này nhiều lần cho mọi cấp tín đồ Ca-tô Rô-ma Giáo nhưng
cho tới nay tôi thật sự thất vọng, tâm trạng giống như của một con chiên,
cũng như nhiều đời cha ông khác, mong chờ Chúa trở lại trần để đưa mình
lên một thiên đường (mù) của Ki Tô Giáo nhưng Chúa vẫn biệt tăm. Không
thể nào hiểu nổi vì đọc Thánh Kinh, tôi có 2 cuốn bằng tiếng Việt, 3
cuốn bằng tiếng Anh, và đọc hàng trăm cuốn sách mà các học giả Tây phương,
ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo, nghiên cứu về mọi khía cạnh của
Ki Tô Giáo, về lịch sử Ca-tô Rô-ma Giáo, tôi không thấy có
một lý do nào để người Việt Nam đi theo đạo Thiên Chúa. Lẽ
dĩ nhiên, ai muốn theo đạo nào thì theo, ai muốn tin gì thì tin, đây
là quyền của con người, với điều kiện, cái mình theo, mình tin không
làm phương hại đến ai khác, và nhất là vì niềm tin đó mà phản bội dân
tộc. Có người lý luận rằng, tin là tin, như một Linh mục giải thích:
“Đức tin là về sự huyền nhiệm, không phải về khoa học” [Faith deals with
mystery, not science], nhưng nếu tất cả những bằng cớ chứng minh rằng,
tin vào những cái không thể tin được thì đó có thể gọi là “đức tin” không.
Ai cũng có quyền tin vào một chú Cuội ngồi bên tay phải gốc cây
đa trên cung Hằng, nhưng trên thực tế làm gì có cung Hằng, làm gì có
cây đa, và làm gì có chú Cuội. Và trên thực tế thì các tín đổ Ki Tô Giáo
Việt Nam đang tin vào một Chú Cuội trên Cung Hằng.
Bởi
vì, người Việt Nam theo Ca-tô Rô-ma Giáo hay Tin Lành, vì đầu óc yếu
kém, bị mê hoặc bởi những lời truyền đạo dối trá, cho nên đều tin vào
những thứ không thể tin được, những thứ mà chính Giáo hội
đã bác bỏ, không còn tin, nhưng vẫn dạy tín đồ phải tin.
Họ đích thực là nạn nhân của sự bất lương trí thức và đạo đức giả của
Giáo hội và các bề trên. Đó là khiếm khuyết nhất trong đời họ: sự kém
hiểu biết, vì họ chẳng bao giờ chịu đọc Thánh Kinh, khoan nói đến chuyện
đọc kỹ với một đầu óc không cần phải thông minh cho lắm. Họ chẳng bao
giờ biết đến sự tiến bộ trí thức của nhân loại về vấn đề tôn giáo, và
cũng chẳng biết đến những thay đổi và diễn biến tư duy ngay trong chính
giáo hội của họ. Đây là điều không thể nói một cách vô trách nhiệm, vì
phạm tới niềm tin của một số không nhỏ đồng bào. Khi tôi nói như trên
là tôi có đủ bằng chứng để nói như vậy, và tôi sẽ chứng minh trong phần
sau. Nhưng điều này không có nghĩa là tôi không tôn trọng niềm tin hay
đức tin của bất cứ ai vì như trên đã nói, ai cũng có quyền tin vào bất
cứ cái gì mà mình muốn tin, dù bị lừa dối để mà tin. Nhưng vấn đề nghiên
cứu tôn giáo trong lãnh vực học thuật là vấn đề không thể thiếu trong
thời đại ngày nay, và nhất là trong thế giới của những quốc gia tân tiến,
vì không có cái gì còn có thể coi là thiêng liêng, bất khả xâm phạm,
đến độ có thể được miễn trừ trước những sự nghiên cứu và phê bình trí
thức. Và tôi sẵn sàng đón nhận những phê bình trí thức trên những chủ
đề mà tôi nghiên cứu.
Hai
Bức Hình Thể Hiện Lòng Tự Trọng Quốc Gia
Trước
hết, bức ảnh Ngô Đình Diệm khom mình hôn nhẫn trên tay Hồng Y Spellman,
và hình cúi đầu hôn nhẫn Hồng y Grégoire-Pierre Agagianian khi ông ta đến
Việt Nam nói rõ hơn gì hết tâm cảnh nô lệ, làm nhục quốc thể, bắt nguồn
từ một niềm tin phi dân tộc, của Ngô Đình Diệm, hành động của một con chiên
mất dấu. Nhân danh là một con chiên của Giáo hội hoàn vũ, ông ta có quyền
làm như vậy. Nhưng nhân danh là một Tổng Thống của miền Nam, trong đó Công
giáo chỉ là một thiểu thiểu số, nhiều nhất là 7% dân số, hành động của
ông ta như trên không thích hợp trước quốc dân đồng bào, chỉ biểu lộ sự
ngu xuẩn và cuồng tín tôn giáo của ông ta mà thôi. Mặt khác, Thủ Tướng
Nguyễn Tấn Dũng khi đến Vatican đã đứng thẳng người bắt tay Giáo hoàng
và rồi đứng thẳng ngang hàng với Giáo hoàng, Giáo hoàng còn trên Hồng y
một bậc. Nếu gặp Giáo hoàng, không biết ông Diệm có phải quỳ xuống hôn
giầy của Giáo hoàng, theo như truyền thống trước của Ca-tô Giáo. Đó là
sự khác biệt giữa con người Việt Nam và con chiên Việt Nam. Và đây là một
kinh nghiệm quý báu cho người dân Việt Nam, loại bỏ người Công giáo ra
khỏi những chức quyền có tính cách đại diện cho dân chúng, khoan nói đến
chuyện khi có cơ hội chọn lựa nguyên thủ quốc gia.
Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng
Đứng thẳng người bắt tay Giáo hoàng |
Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng
Đứng ngang hàng với Giáo hoàng |
Vậy
mà sắp đến ngày mà cách đây 48 năm, Ngô Đình Diệm bị thảm sát giống như
Gadhafi mới bị thảm sát gần đây, con chiên hải ngoại vẫn năng nổ tiếp
tục tôn vinh, làm lễ tưởng niệm, ghi ơn một tên nô lệ Tòa Thánh mà lịch
sử đã ghi rõ thuộc dòng họ “Tam Đại Việt Gian”. Thật là không hiểu nổi.
Về
các Niềm Tin Chính Của Người Ca-Tô
Vậy
thì người Ca-tô Rô-ma Giáo tin những gì và những điều đó có thể tin được
không? Phần phân tích sau đây hi vọng sẽ làm sáng tỏ vấn đề. Và tôi hi
vọng, nếu trong những lập luận của tôi có những điều gì sai trái, tôi
sẽ được đón nhận những phê bình trí thức và tôi thành thực xin cám ơn
những phê bình đó, nếu đúng. Những luận điệu chỉ trích ngoài lề không
thích hợp trong lãnh vực học thuật.
Trong
cấu trúc của Giáo hội Ca-tô Rô-ma thì vì “đức vâng
lời” (SH: "vâng lời trọng hơn của lễ"), nghĩa là một
“đức hạnh” (sic) hoàn toàn tuân phục bề trên bảo sao thì nghe vậy, không
được thắc mắc, do đó người Ca-tô tin nhiều thứ lắm. Trước hết, Giáo hội
bắt tín đồ phải tin tất cả những gì viết trong cái gọi là Kinh Tin Kính
Của Các Tông Đồ. Nguyên văn bản kinh như sau (Sách Giáo Lý Công Giáo,
nxb Zieleks, Texas, 1991, trg. 14):
Tôi
tin kính Đức Chúa Trời là Cha phép tắc vô cùng dựng nên trời đất.
Tôi
tin kính Đức Chúa Giêsu KiTô là con một Đức Chúa Cha cũng là Chúa chúng
tôi,
bởi
phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi bà Maria đồng
trinh,
chịu
nạn đời quan Phongxiô Philatô, chịu đóng đanh trên cây thánh giá, chết
và táng xác,
xuống
ngục tổ tông, ngày thứ ba bởi trong kẻ chết mà sống lại, lên trời ngự
bên hữu Đức Chúa Cha phép tắc vô cùng; ngày sau bởi trời lại xuống
phán xét kẻ sống và kẻ chết.
Tôi
tin kính Đức Chúa Thánh Thần.
Tôi
tin có Hội Thánh hằng có ở khắp thế này,
Các
Thánh thông công.
Tôi
tin phép tha tội.
Tôi
tin xác loài người ngày sau sống lại.
Tôi
tin hằng sống vậy. Amen.
Từ
Kinh Tin Kính trên, chúng ta có thể biết được những niềm tin chính của
các tín đồ cộng với một số niềm tin khác mà Giáo hội bắt họ phải tin,
không tin thì bị vạ tuyệt thông và không được lên thiên đường:
-
Tin rằng có một vị thần của dân tộc Do Thái trong thời bán khai mà họ
gọi là “Đức Chúa Trời” và vị thần này đã dựng nên trời đất.
-
Tin rằng có một người Do Thái mà họ gọi là Đức Chúa Giê-su Ki Tô, là
con một Đức Chúa Trời, sản phẩm của sự xâm phạm tiết hạnh một người đàn
bà Do Thái đã có chồng của một vật vô hình mà họ gọi là con Ma Thánh
(Holy Ghost).
-
Tin rằng ông Chúa con này tình nguyện chịu đóng đanh trên cây thập giá
để chuộc tội tổ tông cho thiên hạ, chết rồi lại sống lại và bay lên trời.
Ngày sau lại trở lại trần để phán xét kẻ sống người chết, quyết định
ai tin ông ta thì được sống lại và cho lên thiên đường, còn ai không
tin thì dù chết rồi cũng phải đầy xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh
hằng của ông ta thiêu đốt.
-
Tin rằng, theo lời dạy của Giáo hội, Giáo hội Ca-tô là do Chúa con thành
lập và trao quyền tiếp nối cho thánh Phê-rô và các giáo hoàng kế vị Phê-rô.
-
Tin rằng, theo lời dạy của Giáo hội, Giáo hoàng là những đại điện của
Chúa Ki-tô trên trần (Vicars of Christ).
-
Tin rằng, theo lời dạy của Giáo hội, các linh mục đều là các “Chúa thứ
hai” (Alter Christus), có quyền tha hay cầm giữ tội của các con chiên.
Bây
giờ chúng ta hãy xét từng niềm tin trên một để xem với sự hiểu biết của
nhân loại ngày nay và của cả Giáo hội, những niềm tin đó còn bao
nhiêu giá trị và có thể tin nổi không.
1.
Tin
rằng có một vị thần của dân tộc Do Thái trong thời bán khai mà họ gọi
là “Đức Chúa Trời” và vị thần này đã dựng nên trời đất.
Qua
nhiều thế kỷ, Giáo hội dạy rằng, theo Cựu Ước, Gót của Ki Tô Giáo đã
sáng tạo ra vũ trụ muôn loài trong 6 ngày có buổi sáng buổi tối và cách
đây khoảng 6000 năm. Nhưng khoa học đã có thể chứng minh là vũ trụ và
muôn loài sinh ra từ một Big Bang, nghĩa là từ sự nổ lớn của một dị điểm
vô cùng đặc và vô cùng nóng, và cách đây khoảng 13.7 tỷ năm. Ngày nay,
Giáo hội Ca-tô, trước hàng núi những dữ kiện chứng minh thuyết Big Bang
là đúng, nên không thể phủ nhận được nữa, nhưng vớt vát lại bằng những
câu vô nghĩa để tiếp tục lừa bịp đám tín đồ ở dưới. Tin từ Tổng Hành
Dinh Ca-tô Rô-ma Giáo, Vatican, Thứ Năm, Jan 6, 2011, cho biết:
Giáo
hoàng Benedict XVI nói: Gót (God) tạo ra Big Bang, không phải khoa
học.
Giáo
hoàng Benedict nói, đầu óc, ý nghĩ của Gót là ở đàng sau những lý thuyết
khoa học phức tạp như là Big Bang, và các con chiên Ki Tô nên bác bỏ
ý tưởng là vũ trụ hình thành một cách ngẫu nhiên.
Vô
nghĩa vì Benedict XVI đã nói láo để lừa bịp dân ngu, tự cho là mình biết
đầu óc, ý nghĩ của Gót là như thế nào, trong khi theo sách National
Catholic Almanac, 1968, trang 360, của Ca-tô Rô-ma Giáo, thì chúng
ta có một ông Gót (God) với 23 thuộc tính (23 attributes), trong đó có
ba thuộc tính rất đặc biệt là vô hình (invisible), không thể
mô tả được (ineffable), và không ai có thể hiểu được (incomprehensible).
Trước những thắc mắc về những vấn nạn của con người như bệnh tật, chết
yểu, thiên tai v..v.. Giáo hội thường giải thích là Gót có những kế hoạch
mà đầu óc con người không thể hiểu nổi. Giáo hoàng John Paul II cũng
giải thích những vấn nạn đó là do “kế hoạch kỳ diệu của Gót”
(Wondrous plan of God). Cho nên, với ba thuộc tính đặc biệt trên thì
tất cả những gì Giáo hội nói về Gót chỉ là đoán mò, khoan nói đến chuyện
hiểu được đầu óc, ý nghĩ của Gót, nếu thực sự có một Gót. Từ xưa
tới nay không biết đã có bao nhiêu người tự cho là được Chúa mạc khải
nhưng tất cả chỉ là lừa bịp đám dân ngu dốt vì không ai có thể biết được
những lời tự nhận đó có thực hay không. Nhưng với kiến thức của nhân
loại ngày nay thì những điều lừa bịp về “mạc khải” đó chẳng có chút giá
trị nào, chỉ có thể lừa dối được những kẻ ngu đần.
Mặt
khác, Benedict XVI không hề có một chút kiến thức nào về khoa học nên
mới nói bừa như vậy. Vì Big Bang chẳng qua chỉ là sự nổ bùng của một
dị điểm (singularity) vô cùng nóng, vô cùng đặc, nguồn gốc của vũ trụ
ngày nay, và cách đây đã khoảng 13.7 năm. Nóng bao nhiêu, và đặc như
thế nào? Các khoa học gia đã tính ra được là sau khi nổ khoảng một phần
ngàn giây đồng hồ (1/1000 s) thì nhiệt độ của Big Bang vào khoảng “một
ngàn tỷ độ” (1012 độ) và tỉ trọng của khối
cầu lửa khi đó vào khoảng 100000 tỷ gram (1014 g) cho 1 phân
khối. Với một nhiệt độ như vậy và một sức nổ tạo thành vũ trụ với cả
tỷ tỷ thiên hà như vậy thì Gót nào sáng tạo ra Big Bang cũng phải thiêu
hủy thành tro bụi ngay tức khắc, còn đâu để mà đi dạo trong vườn địa
đàng nói chuyện với Adam, và sau này vật lộn với Jacob v…v… như được
viết trong Cựu Ước.
Hơn
nữa, chúng ta cũng biết rằng, năm 1981, thuyết Big Bang chưa được hoàn
chỉnh, mà Giáo hoàng John Paul II cũng đã phải công nhận thuyết Big Bang
là đúng, ông ta chỉ vớt vát một câu là có tính cách mạ lỵ trí tuệ của
con người: “Big Bang là thời điểm sáng tạo của Gót” (Big Bang
is the moment of creation of God). Vậy mà ngày nay cũng vẫn còn không
thiếu gì tín đồ tiếp tục tin vào điều không thể tin nổi: Gót sáng tạo
ra thế giới muôn loài. Thật là tội nghiệp.
2.
Tin
rằng có một người Do Thái mà họ gọi là Đức Chúa Giê-su Ki Tô, là con
một của Đức Chúa Trời, sản phẩm của sự xâm phạm tiết hạnh một người
đàn bà Do Thái đã có chồng của một vật vô hình có tên chính thức là
con Ma Thánh (Holy Ghost).
Trước
hết, ngày nay chẳng còn có mấy người tin Giê-su là con “đức Chúa trời”,
vì chính “đức Chúa trời” đã bị loại bỏ qua sự công nhận của Giáo hội
về thuyết Big Bang, vậy thì làm gì có con một của “đức Chúa trời”. Hơn
nữa, Russell Shorto, một học giả Ki Tô Giáo, đã tổng hợp những tác phẩm
nghiên cứu về Giê-su, có thể là một con người Do thái lịch sử, trong
vòng 200 năm nay, và kết luận như sau trong cuốn Sự Thật Của Phúc
Âm (Gospel Truth):
Các
học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng
gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ
đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng
những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra
những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những
người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
[Scholars
have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a
vision – for decades; they have taught it to generations of priests and
ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear
a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.]
Nhưng
ảo tưởng của Giê-su là ảo tưởng như thế nào? Ngày nay giới học giả nghiên
cứu Thánh Kinh đã biết rõ: Đó chính là Tâm Lý Bệnh Hoạn về Những
Ảo Tưởng Hão Huyền về Quyền Lực hay Toàn Năng [Megalomania = A psycho-pathological
condition in which fantasies of wealth, power or omnipotence predominate] và
cái tâm lý bệnh hoạn này đã tạo thành tâm điểm mà mọi hành động của Giê-su
đều xoay quanh. Chính cái ảo tưởng này đã khiến cho Giê-su tưởng
mình là“con duy nhất của đức Chúa trời”, “có nhiệm vụ cứu người
Do Thái ra khỏi tội lỗi để làm hòa với ông cha tưởng tượng của Giê-su
vì ngày tận thế đã gần kề”. Đó là những gì Tân Ước đã viết rất
rõ cho những ai đọc kỹ Tân Ước.Nhưng về sau, để truyền bá, Ki Tô Giáo
đã kéo dãn (stretch) những điều hoang tưởng của Giê-su ra thành “khả
năng chuộc tội cho nhân loại”, “đấng cứu thế”, “sẽ trở lại trần phán
xét thiên hạ”” v…v…, mà ngày nay đã trở nên những điều hoang
đường nhảm nhí mà chính những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo, Ca-tô cũng
như Tin Lành, đều bác bỏ. [Xin đọc Giám mục John Shelby Spong, Linh
mục James Kavanaugh, Mục sư Ernie Bringas, Nhà thần học Ca-tô Uta Ranke-Heinemann
và nhiều học giả khác].
Về
chuyện con Ma Thánh làm cho cho mẹ Giê-su mang thai thì chúng ta không
biết một vật vô hình vô sắc thì có tinh khí trong đó có những sắc tố
(X,Y) hay không, nhưng một người lính La Mã tên là Panthera thì chắc
chắn có.
Theo
Reynolds Price, một học giả chuyên gia về Thánh Kinh (biblical scholar),
viết về Giê-su ở Nazareth: Xưa và Nay (Jesus of Nazareth: Then
and Now) trên tờ “Time” ngày 6 tháng 12, 1999, thì thủ phạm làm cho bà
Mary mang thai là một người lính La mã tên là Panthera.
Ngoài
ra, Giám Mục John Shelby Spong, trong cuốn Sinh
Ra Từ Một Người Đàn Bà: Một Giám Mục Nghĩ Lại Chuyện Giê-su Sinh Ra Đời (Born
of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, 1992) đã đưa ra nhận
xét, trang 41:
Ông
ta (Giê-su) không
là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa
ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng
có ai biết cha ông ta là ai. Rất
có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất
truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết
chứng tỏ như vậy, giống như những trái mìn chưa kiếm ra và chưa nổ .
(John
Shelby Spong, Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus,
p. 41: He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good
was thought to come. No one seemmed to know his father. He might well
have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and
unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian
tradition.)
Trước
những kết quả nghiên cứu về Giê-su, và vì Giê-su chỉ là một người
Do Thái bình thường sống với một ảo tưởng, cho nên ông ta có những cá
tính của một người thường, và không lạ gì khi chúng ta thấy vài nhận
định điển hình về Chúa Giê-su của một số trí thức ở trong cũng như ở
ngoài các Giáo hội Ki Tô Giáo. Bertrand Russell, một thiên tài toán học
và triết lý, đã được giải thưởng Nobel năm 1950, nói về trí tuệ và đức
hạnh của giáo chủ Giê-su như sau:
"Xét
về trí tuệ hay đức hạnh, tôi không thể nào cho rằng Đức Ki-Tô (Giê-su)
cũng cao cả như vài người khác được biết trong lịch sử. Tôi nghĩ rằng, về
trí tuệ hay đức hạnh, tôi phải đặt Đức Phật và Socrates lên trên Đức
KiTô."
[I
cannot myself feel that either in the matter of wisdom or in the matter
of virtue Christ stands as high as some other people known to history
- I think I should put Buddha and Socrates above him in those respects.]
Giám
mục John Shelby Spong viết trong cuốn Hãy Cứu Cuốn Thánh Kinh Ra
Khỏi Phái Bảo Thủ (Rescuing The Bible From Fundamentalism), trang
21:
“Có
những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con
người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.”
[There
are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrowed-minded,
vindictive, and even hypocritical.]
Và
Jim Walker cũng viết trên Internet trong bài Chúng Ta Có Nên Kính
Ngưỡng Giê-su Không? (Should We Admire Jesus?):
Nhiều
tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm
trong Tân Ước, Giê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù,
xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.
[Unbeknownst
to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray
Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.]
Lẽ
dĩ nhiên, tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô không hề biết đến những kết quả
nghiên cứu sâu rộng này và càng biết ít hơn về khoa học. Theo khoa học
thì cặp sắc tố (Chromosome) quyết định truyền giống của đàn bà là 2 sắc
tố X (X,X), và của đàn ông là 1 X và 1 Y (X,Y). Trong quá trình truyền
giống, nếu sắc tố X của đàn ông kết hợp với sắc tố X của người đàn bà
thì đứa trẻ sinh ra sẽ là con gái. Còn nếu sắc tố Y của người đàn ông
kết hợp với sắc tố X của người đàn bà thì đứa trẻ sinh ra sẽ là con trai.
Do đó, một mình Mary, nếu thực sự thụ thai mà không do giao hợp với đàn
ông và không có tinh khí của đàn ông thì không thể nào sinh ra con trai
được. Giáo sư Thần Học Ca-Tô Uta Ranke-Heinemann cũng viết như sau:
Chúng
ta phải xét đến điều sau đây: Trong trường hợp một trinh nữ thụ thai
thì tế bào đầu tiên của cơ thể Giê-su phải là một tế bào của phái nữ.
Và nếu bằng một phép lạ nào đó mà cái tế bào này phân chia ra mà không
cần đến sự tham dự của người đàn ông, và tiếp tục phân chia để hình
thành một con người, thì cái sự thụ thai đồng trinh này, khi sinh đứa
bé ra, bắt buộc phải là một đứa bé gái.
(Uta
Ranke-Heinemann, Putting Away Childish Things, p. 43: We have
to consider the following: In the case of a virginal conception the first
cell in Jesus' organism would have to be a female cell. And if this female
cell miraculously were to begin to divide without the intervention of
a man, so that a human being came into existence through furthert cellular
division, then such a virginal pregnancy must inevitably issue in the
birth of a female person).] GS Uta Ranke-Heineman, trước chân dung của
vị thân sinh, nguyên Tổng thống CHLB Đức Gustave Heineman,
link:http://en.wikipedia.org/wiki/Uta_Ranke-Heinemann
Nhưng
giả thử chúng ta tin vào phép lạ là con Ma Thánh có thể làm cho bà Mary
mang thai và đẻ ra Giê-su. Như vậy thì con Ma Thánh vừa là cha, vừa
là chồng, và vừa là con của Mary. Đây là điều mà sách “Giáo Lý
Công Giáo” của Hoài Chiên và Nguyễn Khắc Xuyên cho là “mầu nhiệm
cao cả nhất” của “đức tin Ca-tô giáo”.. Mầu nhiệm cao cả này là chuyện
con Ma Thánh làm cho bà Mary mang thai viết trong Tân Ước, phối hợp với
thuyết “Ba Ngôi Chỉ Là Một Chúa” trong sách “Giáo Lý Công
Giáo”. Vậy chúng ta có thể tin nổi một chuyện hoang đường quái gở
như trên không. Vậy mà ngày nay vẫn còn rất nhiều người tin vào một người
Do Thái bình thường, sinh ra bởi một người đàn bà mà không ai biết cha
là ai, một con người thiển cận, đầy hận thù, xấu xa, bất khoan
dung, và đạo đức giả, là Chúa cứu thế của họ, và mẹ của ông
ta, sau đó sinh thêm 6 đứa con nữa mà vẫn còn đồng trinh. Thật là tội
nghiệp.
3.
Tin
rằng Chúa Giê-su tình nguyện chịu đóng đanh trên cây thập giá để chuộc
tội tổ tông cho thiên hạ, chết rồi lại sống lại và bay lên trời. Ngày
sau lại trở lại trần để phán xét kẻ sống người chết, quyết định ai
tin ông ta thì được sống lại, bất kể là đã chết được bao lâu và chết
như thế nào, chết trên giường bệnh hay chết tan xác ngoài mặt trận,
và cho lên thiên đường, còn ai không tin thì dù chết rồi cũng phải
lôi giậy đầy xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng của Chúa thiêu
đốt. [Kinh Tin Kính: Tôi tin xác loài
người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen]
Đây
chính là vai trò “Chúa Cứu Thế” kèm theo vai trò “cứu rỗi” mà Giáo hội
đưa ra để mê hoặc người dân ngu dốt khi xưa, và tiếp tục nuôi dưỡng vai
trò này cho đến ngày nay trong những đầu óc của những con người đã bị
thuần hóa thành con chiên.. Nhưng trong Ki Tô Giáo, không phải tất cả
các tín đồ đều cam phận con chiên với đầu óc của con chiên, nên đã có
rất nhiều người, cả triệu người, đã lấy lại tư cách của con người. Vì
vậy chúng ta mới có vô số những tác phẩm của các bậc lãnh đạo và các
học giả trong Ki Tô Giáo, vạch ra cho chúng ta biết trong Ki Tô Giáo
có những điều không thể tin nổi, bất kể là Giáo hội đã cố hết sức che
dấu, đồng thời đẩy mạnh “đức vâng lời”, đưa ra một cái bánh vẽ trên trời
để bắt tín đồ phải tin những điều mà chính Giáo hội đã không còn tin.
Tại sao? Quyền lợi thế tục, ngự trị trên đám người thấp kém là những
gì Giáo hội đã hưởng gần 2000 năm nay, với tài sản lên đến cả ngàn tỷ
đô-la, là những gì rất khó dứt bỏ đối với truyền thống của những kẻ buôn
thần bán thánh.
Nhưng
thử hỏi, những niềm tin như trên, trước những kết quả nghiên cứu về Giê-su
của các học giả và một số bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo như trong phần
trên, ngày nay còn lại bao nhiêu giá trị, và những người còn tiếp tục
tin vào những điều này thuộc hạng người nào. Chẳng cần phải nói chúng
ta cũng biết họ thuộc lớp người thấp kém, mê tín, cha truyền con nối
trong những ốc đảo ngu dốt (Lm Trần Tam Tĩnh), không hiểu biết, hoặc
nhắm mắt trước sự thật vì không đủ can đảm hoặc lương thiện trí thức
để dứt bỏ những điều đã không còn giá trị. Thật vậy:
Như
trên đã nói, Giáo hội đã chính thức công nhận trước thế giới thuyết Big
Bang, nguồn gốc của vũ trụ và muôn loài. Nhưng không phải chỉ có vậy. Năm
1996, giáo hoàng John Paul II đã đặt chắc thẩm quyền giáo lý của
Ca-Tô giáo sau quan điểm là “thân xác con người có thể không phải
là một sự sáng tạo tức thời của Gót, mà là kết quả của một quá trình
tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến
việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”. (Pope
John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church
firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate
creation of God, but is the product of a gradual process of evolution..
The pope said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory
of evolution as more than just a hypothesis”). Rồi tới tháng 7 năm
1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước
những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, và sự
di chuyển của trái đất trong không gian, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải
tuyên bố: "thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng
chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither
an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục
không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thượng đế, mà là
trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm
trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God,
but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt
in this life).
Như
vậy, rõ ràng là khi công nhận thuyết Big Bang thì Giáo hội cũng đã công
nhận là thuyết Sáng Tạo trong Cựu Ước chỉ là một huyền thoại cổ xưa của
dân Do Thái, không có một giá trị nào đối với những dân tộc khác, lẽ
dĩ nhiên là chẳng có giá trị gì đối với dân Việt Nam. Và chấp nhận
thuyết tiến hóa, chấp nhận con người không phải là do Gót tạo ra tức
thời mà chính là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần và lâu dài,
giáo hoàng đã phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người
do Gót của Ki Tô Giáo tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì
có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông.
Do
đó, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là những luận điệu
thần học lừa dối của giới giáo sĩ Ki Tô Giáo khi xưa, được tiếp tục
đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người
đầu óc yếu kém, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không
thực.
Và như vậy là Kinh Tin Kính của Ki Tô Giáo Giáo chỉ là một sản phẩm
thần học chứa đựng những niềm tin không thể tin nổi mà ngày nay chính
Giáo hội đã bác bỏ nhưng vẫn duy trì trong đám con chiên ngu dốt. Đó
là sự vô đạo đức tôn giáo và bất lương trí thức của Giáo hội Ca-tô.
Cũng
vì nhận rõ được tính chất hoang đường và lỗi thời của cái gọi là “tội
tổ tông”, của vai trò "chuộc tội" và "cứu rỗi" của
Giê-su, mà trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì
Chết, Giám mục John Shelby Spong đã dành riêng chương 6 để viết
về đề tài Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp
Bỏ (Jesus as Rescuer: An Image That Has To Go). Trong
chương này, Giám Mục Spong viết như sau: http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN37.php
"Nhân
loại chúng ta không sống trong tội lỗi. Chúng ta không sinh ra trong
tội lỗi. Chúng ta không cần phải rửa sạch cái tì vết tội tổ tông trong
lễ rửa tội. Chúng ta không phải là những tạo vật sa ngã, mất đi sự
cứu rỗi nếu chúng ta không rửa tội. Do đó, một đấng cứu thế có nhiệm
vụ khôi phục tình trạng tiền sa ngã của chúng ta chỉ là một sự mê tín
trước thời -Darwin và một sự vô nghĩa sau thời -Darwin."
[John
Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, pp. 98-99:
We human beings do not live in sin. We are not born in sin. We do not
need to have the stain of our original sin washed away in baptism. We
are not fallen creatures who will lose salvation if we are not baptized...
A savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian
superstition and post-Darwinian nonsense.]
Và
nhận định: “Không có bất cứ một hình ảnh nào dùng để giải thích
về nhân vật Giê-su đáng được tồn tại. Hình ảnh hiển nhiên nhất để
loại bỏ trong đầu óc tôi có lẽ cũng là cái hình ảnh cổ xưa nhất về mọi
diễn giải về Giê-su. Đó là cái hình ảnh của Giê-su như là “đấng thần
linh cứu thế” (the divine rescuer).”.
Và
Linh mục James Kavanaugh, trong cuốn Sự
Sinh Ra Của Thiên Chúa (The Birth
of God) đã viết về “Huyền Thoại Cứu Rỗi”, xin
đọc:
http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN36.php :
Nhưng
đối với con người hiện đại. chuyện hi sinh của Giê-su chẳng có ý
nghĩa gì mấy, trừ khi hắn đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị tẩy não từ
khi mới sinh ra đời (But
to modern man, it makes far less sense unless he has been suitably
frightened and brainwashed from birth). Đối với tôi (Linh
mục James Kavanaugh), đó là một huyền thoại “cứu rỗi” của thời
bán khai, miêu tả một người cha giận dữ [Thiên Chúa], chỉ
nguôi được cơn giận bằng cái chết đầy máu me của chính con mình. Đó
là một chuyện độc ác không thể tưởng tượng được của thời bán khai (It
is a primitive tale of unbelievable cruelty).
Nhưng
tại sao các tín đồ Ki Tô Giáo vẫn còn tin vào những điều không thể tin
nổi. Đó là vì tuyệt đại đa số tín đồ Ki-Tô không hề biết đến những thú
nhận của Giáo hội như trên, không hề biết đến những công cuộc nghiên
cứu về Ki Tô Giáo của chính những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo, và vì
họ vẫn bị giam chặt trong những ốc đảo với sách lược “ngu dân dễ trị”
của giáo hội: duy trì và khai thác tối đa sự mê tín và giữ cho tín
đồ “càng biết ít càng tốt”. Như vậy có phải họ thật là tội nghiệp
và đáng thương không? Giá trị đạo đức và tâm linh của Ki Tô Giáo đã phá
sản (Xin đọc Eliezer Berkovits: The moral and spiritual bankrupcy
of Christianity), bởi vì lịch sử đã chứng tỏ vấn đề đạo đức của
Ki Tô Giáo là như vậy, và thời buổi này, giá trị tâm linh đặt vào những
điều mê tín hoang đường lừa dối của Ki Tô Giáo không còn hấp dẫn, ngay
cả đối với những người có trình độ hiểu biết thông thường. Đã 2000 năm
nay, người theo Ki Tô Giáo thật là kiên nhẫn, từ thế hệ này sang thế
hệ khác, vẫn kiên nhẫn chờ đợi ngày Giê-su trở lại trần để phán xét người
sống và kẻ chết, hiện nay là 7 tỷ người sống, chưa kể là không biết bao
nhiêu người đã chết trong mấy trăm ngàn hay cả triệu năm qua, nhưng Giê-su
vẫn biệt tăm tông tích, thật là tội nghiệp.
----- >>>
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>