 |
19-Nov-2011 |
....Thời gian không phải là một tính chất thần thánh mà có
thể bị biến đổi một cách vật lý ngay cả chỉ với những thao
tác của con người. Như thế, theo một nghĩa nào đó thì một vị
Chúa có mặt trong thời gian cũng bị chi phối bởi những hoạt
động của vũ trụ vật lý...
“Ngay cả hai chữ ‘kinh nghiệm’ cũng
chẳng mang một ý nghĩa nào.
Nó không bao hàm sự phân biệt giữa qúa khứ và tương lai “
Carl von Weizsacker
“Trên
lưng, tôi luôn nghe tiếng vọng.
Bánh xe thời gian vội vã đến gần "
Andrew Marvell

Hai
cuộc cách mạng đã sinh ra những ngành vật lý mới: lý thuyết
lượng tử và lý thuyết tương đối. Lý thuyết sau hầu như là
công trình độc quyền của Einstein. Đó
là lý thuyết về không gian, thời gian và chuyển động. Cũng
như lý thuyết lượng tử, những hệ qủa của nó cũng sâu sắc,
gây bối rối và thách thức những khái niệm còn ấp ủ về bản
chất của vũ trụ. Chưa bao giờ sự xem xét về khái niệm thời
gian- một chủ đề được quan tâm mạnh mẽ và lâu dài trong mọi
tôn giáo lớn trên thế giới- lại được quan tâm nhiều như thế.
Thời
gian là một khái niệm qúa cơ bản đối với kinh nghiệm của
chúng ta về thế giới đến nỗi mà mọi nỗ lực làm thay đổi khái
niệm này đều gặp phải sự nghi kỵ và chống đối. Mặc dù lý
thuyết tương đối hầu như đã có 80 năm thành công, trong đó
không một thí nghiệm đơn lẻ nào làm tỳ vết những dự đoán
hoàn thiện của nó.Thế mà, hàng tuần tôi đều nhận được những
bản thảo từ các nhà khoa học không chuyên nghiệp nhằm mục
đích tìm ra lỗi lầm trong công trình của Einstein và cố gắng
phục hồi khái niệm về thời gian theo truyền thống và theo
cảm nhận chung.
Khái
niệm của chúng ta về cá thể- cái ngã, cái linh hồn- gắn chặt
với ký ức và những kinh nghiệm lâu đời. Câu tuyên
bố” tôi đang hiện hữu vào lúc này” là chưa trọn nghĩa
vì khái niêm ‘tôi’ là một cá thể sẽ bao hàm sự liên
tục của kinh nghiệm cùng với những đặc tính liên kết nào
đó, chẳng hạn như ký ức. Những ngụ ý mạnh mẽ về tôn giáo
và cảm tính của chủ đề này có lẽ đã giải thích cả hai điều:
sự chống đối những khẳng định của các ngành vật lý mới và
sự say mê sâu sắc mà các nhà khoa học và người thường đã
chia sẻ với nhau đối với những hệ quả làm ám ảnh tâm trí
của lý thuyết tương đối.
Cái
gọi là thuyết tương đối hẹp, được công bố năm 1905, được
nảy sinh từ những nỗ lực hòa giải sự xung đột rất rõ giữa
chuyển động của các vật thể và sự lan truyền của sóng điện
từ. Đặc biệt là, ứng xử của tín hiệu ánh sáng dường như đã
vi phạm trắng trợn một nguyên lý lâu đời là: mọi chuyển
động có tính tương đối. Bỏ qua những chi tiết về kỹ thuật
thì kết qủa là Einstein đã phục hồi được nguyên lý tương
đối, ngay cả trong trường hợp có liên hệ đến tín hiệu ánh
sáng, nhưng với một cái gía phải trả.
Mất
mát đầu tiên của lý thuyết tương đối hẹp chính là niềm tin
rằng thời gian là tuyệt đối và phổ quát. Einstein đã chứng
minh rằng thời gian thật ra là đàn hồi, có thể dãn ra hay
co lại theo chuyển động. Mỗi quan sát viên mang theo mình
một độ chia khác nhau về thời gian và thường nó không ăn
khớp với độ chia của người khác. Trong khung qui chiếu của
chính chúng ta thì thời gian không bao giờ bị biến dạng nhưng
đối với những quan sát viên đang chuyển động khác thì thời
gian của chúng ta bị giật ra khỏi bước điệu thời gian của
họ.
Sự
sai lệch lạ kỳ của thời gian đang mở ra cách thức du lịch
trong thời gian. Theo một nghĩa nào đó, tất cả chúng ta là
những nhà du hành trong thời gian hướng về tương lai nhưng
tính chất đàn hồi của thời gian có thể cho phép người này
đến nơi này nhanh hơn người khác. Chuyển động nhanh cho phép
anh đạp phanh bánh xe thời gian để thế giới vốn vội vã đi
qua. Bằng cách này, chúng ta có thể đạt tới một thời điểm
xa xăm nhanh hơn là ngồi yên bất động. Về nguyên tắc, người
ta có thể tiến đến năm 2050 chỉ trong một vài giờ. Tuy nhiên
để thực hiện được sự sai lệch thời gian thú vị này thì cần
có một vận tốc vào khoảng vài trăm ngàn dặm trong một giây.
Với tốc độ của hỏa tiễn hiện nay thì những đồng hồ nguyên
tử chỉ cho thấy sự dãn nở khoảng 1 phút. Chìa khóa cho những
hiệu ứng này chính là vận tốc ánh sáng. Càng đến gần tốc
độ này thì khoảng sai lệch về thời gian càng tăng. Lý thuyết
cũng không cho phép người ta vượt qua rào chắn ánh sáng mà
khi đó có thể xảy ra hiệu ứng thời gian quay ngược ra ngoài.

Hiệu
ứng giãn nở thời gian ngày nay đã trở thành những kinh nghiệm
thường tình của các nhà vật lý.Nó đã được chứng minh bằng
cách dùng những đồng hồ nguyên tử nhạy bén có chuyển động
cực nhanh hoặc các hạt hạ-nguyên tử mà chúng ta biết rõ sự
phân rã của chúng. Những đồng hồ chuyển động sẽ chạy chậm
so với những đồng hồ đứng yên. Điều này dẫn đến hiệu ứng
“anh em sinh đôi”, trong đó một phi hành gia khi quay trở
về từ một chuyến du hành có vận tốc rất lớn sau một vài năm
sẽ trẻ hơn người anh em song sinh trên trái đất.
Có
thể thu ngắn thời gian lại một cách đáng kể bằng cách dùng
các hạt hạ-nguyên tử. Khi chuyển động xoay vòng trong các
máy gia tốc khổng lồ với vận tốc rất gần với ánh sáng thì
các hạt có tên là muon đã được “giữ cho sống” lâu hơn hàng
chục lần so với khi nó đứng yên (trong trường hợp đứng yên,
chúng sẽ phân rã trong khoảng 1phần triệu giây)
Cũng
như thế, các hiệu ứng phi thường đã “dày vò” không gian:
không gian cũng đàn hồi. Khi thời gian dãn ra thì không gian
co lại. Trên một chuyến tàu chạy nhanh qua nhà ga, thì đồng
hồ của nhà ga sẽ chạy chậm hơn một chút khi được nhìn từ
chính qui chiếu là bạn so với qui chiếu là một người khuân
vác trên sân ga. Bù lại, sân ga đối với bạn dường như ngắn
đi. Dĩ nhiên, chúng ta chẳng bao giờ chú ý đến những hiệu
ứng như thế vì chúng qúa nhỏ ở những tốc độ bình thường,
nhưng chúng lại dễ dàng đo được bằng các thiết bị nhạy bén.
Sự biến dạng tương hỗ của thời gian và không gian được xem
như sự hoán đổi không gian (khi co lại ) thành thời gian
(khi dãn nở). Tuy nhiên, thời gian là một giây tương ứng
với một chiều dài cực kỳ ấn tượng- khoảng 186,000 dặm.
Sự
biến dạng của thời gian theo kiểu này là một trò lừa khoa
học viễn tưởng được ưa thích. Nhưng chẳng có gì viễn tưởng
về chúng. Chúng thực sự xảy ra. Một hiện tượng kỳ quặc chính
là cái hiệu ứng mang tên ‘anh em sinh đôi”. Một người rời
khỏi mặt đất đến một ngôi sao gần với vận tốc gần ngưỡng
ánh sáng. Một người ở nhà và chờ người kia trở về 10 năm
sau đó. Khi phi thuyền trở về, người trên mặt đất nhận thấy
người anh em của mình chỉ gìa đi một năm so với 10 năm của
người ấy. Vận tốc lớn cho phép người kia chỉ kinh nghiệm
thời gian một năm, trong thời gian đó mười năm đã trôi qua
trên mặt đất.
Einstein
đã đi đến việc tổng quát hóa lý thuyết của ông ta bằng việc
bao hàm hiệu ứng của hấp dẫn. Lý thuyết tương đối tổng quát
ra đời đã sát nhập hấp dẫn, không phải là một lực, mà là
một sự biến dạng của hình học không thời gian. Trong lý thuyết
này, không gian không còn “phẳng” và tuân theo những qui
luật thông thường của hình học ở trường phổ thông nữa, mà
nó bị cong hay bị biến dạng để sinh ra độ biến dạng của không
gian và độ biến dạng của thời gian.
Như
đã bàn luận ở chương 2, những thiết bị hiện đại nhạy bén
đến mức độ những biến dạng về thời gian do hấp dẫn của trái
đất có thể được phát hiện bằng những đồng hồ trên phi thuyền.
Thời gian thật sự chạy nhanh hơn trong không gian nơi mà
trường hấp dẫn của trái đất yếu hơn.
Hấp dẫn càng mạnh thì sự biến đổi của thời gian càng lớn. Một
vài ngôi sao được biết là có sự ‘kềm kẹp’ của hấp dẫn dữ
dội đến mức mà thời gian bị chậm đi vài phần trăm so với
thời gian của chúng ta. Thật vậy, những ngôi sao này đang
mấp mé ở ngưỡng mà tại đó sự biến đổi đột biến của thời
gian sẽ xảy ra. Nếu lực hấp dẫn của những ngôi sao như
thế lớn hơn vài lần nữa thì thời gian sẽ như ngừng lại.
Nhìn từ trái đất, bề mặt của các ngôi sao như bị đông cứng
đến bất động. Tuy vậy, có thể chúng ta sẽ không thấy được
sự ngừng trôi phi thường này của thời gian vì ánh sáng
mà nhờ nó chúng ta mới nhìn thấy cũng bị nắm giữ bởi chính
sự trì trệ đó. Tần số của ánh sáng bị gỉam xuống dưới phổ
vùng của ánh sáng thấy được. Ngôi sao đó có dạng tối đen.

Trường
hấp dẫn làm chậm thời gian như có thể được chứng minh bằng
thực nghiệm ngay cả trên trái đất. Đồng hồ ở đỉnh tháp chạy
nhanh hơn đồng hồ dưới chân tháp.
Lý
thuyết cũng gợi ý rằng một ngôi sao ở trong điều kiện này
sẽ không duy trì được qúan tính của nó, không chống cự được
chính lực hấp dẫn mạnh mẽ của nó và chỉ trong vòng một phần
triệu giây sẽ nổ tung thành điểm kỳ dị không thời gian, để
lại phía sau một lỗ hổng: lỗ đen. Sự biến đổi của thời gian
do ngôi sao trước đây vẫn còn in dấu trong không gian trống
rỗng.
Như
thế một lỗ đen biểu thị cho con đường nhanh chóng đến vĩnh
cửu. Trong trường hợp cực điểm, không chỉ người anh em sinh
đôi trên phi thuyền đạt đến tương lai nhanh hơn mà người
ấy còn có thể đạt đến điểm tận cùng của thời gian chỉ
trong một chớp mắt. Ngay khi người ấy đi vào lỗ đen thì mọi
vô tận về thời gian đi qua bên ngoài chỉ tương ứng với cái
“bây giờ” tương đối của người đó. Một khi đã vào trong lỗ
đen, người này sẽ bị giam giữ trong sự biến động của thời
gian và không bao giờ có thể quay trở ra vũ trụ nữa, vì vũ
trụ bên ngoài đã biến đổi. Theo nghĩa đen thì người ấy sẽ
ở xa khỏi điểm tận cùng của thời gian cho đến tận phần còn
lại của vũ trụ. Để trồi lên khỏi lỗ đen anh ta phải đi ra
khỏi nó trước khi đi vào. Đây chính là điểm vô lý và cho
thấy rằng không có cách nào để ra trốn thoát. Sự giữ chặt
không thương tiếc của lực hấp dẫn bởi lỗ đen sẽ đưa phi hành
gia kém may mắn này đến tận điểm kỳ dị nơi mà chỉ trong một
phần triệu giây sau đó anh ta sẽ đến bờ mé của thời gian
và tắt nghẽn. Điểm kỳ dị đánh dấu chấm dứt cho cuộc hành
trình một chiều đến điểm “không-vị trí” (nowhere) và “không-thời
điểm” (nowhen). Đó là nơi chốn mà vũ trụ vật lý kết thúc.
Cuộc
cách mạng về khái niệm thời gian đi kèm theo lý thuyết tương
đối được tóm gọn như sau: Trước đây, thời gian được xem như
tuyệt đối, đóng khung và phổ quát- nghĩa là độc lập với vật
thể và người quan sát. Ngày nay, thời gian được nhìn nhận
mang tính chất động lực. Nó có thể co, dãn, biến đổi
và ngay cả đọng lại ở điểm kỳ dị. Nhịp đồng hồ không còn
tuyệt đối mà trở thành tương đối đối với trạng thái chuyển
động hay tình huống về lực hấp dẫn của người quan sát.
Việc
giải phóng thời gian khỏi sự ràng buộc về tính phổ quát và
cho phép thời gian của mỗi quan sát viên trải ra một cách
tự do và độc lập đã bắt buộc chúng ta phải từ bỏ những gỉa
định lâu đời. Chẳng hạn như, không còn sự nhất trí về việc
chọn lựa cái “bây giờ” nữa. Trong thí nghiệm “anh em sinh
đôi” người đi trên phi thuyền trong suốt cuộc hành trình
sẽ có lúc tự hỏi:” người anh em của mình bây giờ đang
làm gì nhỉ? ” Nhưng sự sai lệch về thời gian tương đối của
họ cho thấy là cái “ bây giờ” đối với qui chiếu phi thuyền
là một thời điểm hoàn toàn khác với cái “bây giờ” trên trái
đất. Không có sự phổ quát cho “thời điểm hiện tại”. Nếu hai
biến cố A và B xảy ra tại hai vị trí tách biệt được xem như
đồng thời bởi một trong hai người, thì người kia sẽ thấy
A xảy ra trước B hay ngược lại.
Ý
tưởng về thứ tự thời gian của hai biến cố có thể xuất hiện
khác nhau đối với những quan sát viên khác nhau dường như
là nghịch lý. Có thể nào cái đích vỡ tan trước khi súng nổ?
May mắn cho luật nhân qủa là điều này không xảy ra. Để các
biến cố A và B có một thứ tự theo thời gian không rõ ràng
[nghĩa là không biết biến cố nào trước biến cố nào sau- ND]
thì chúng phải xảy ra trong khoảng thời gian đủ ngắn để ánh
sáng không thể di chuyển từ A đến B trong khoảng thời gian
đó. Trong lý thuyết tương đối, tín hiệu ánh sáng quyết định
tất cả luật lệ và đặc biệt là nó không cho phép một ảnh hưởng
hay tín hiệu bất kỳ nào di chuyển nhanh hơn chính nó. Nếu
ánh sáng không đủ nhanh để nối A và B thì cũng chẳng có gì
có thể làm được điều đó và A và B sẽ không thể ảnh hưởng
lẫn nhau theo mọi cách. Khi đó sẽ không có mối liên hệ nhân
qủa giữa chúng. Đảo ngược thứ tự về thời gian giữa A và B
rút cục sẽ không dẫn đến đảo ngược nguyên nhân và hậu qủa.
Một
“nạn nhân” không thể tránh khỏi của sự kiện này- không có
một thời điểm hiện tại phổ quát- chính là sự phân chia thời
gian rạch ròi thành qúa khứ, hiện tại và vị lai. Những thuật
ngữ này có thể chỉ có ý nghĩa trong vùng định xứ của mỗi
người nhưng không thể áp dụng cho mọi nơi. Những câu hỏi
như” cái gì đang xảy ra ngay bây giờ trên sao Hỏa?”
chỉ nhắm vào một thời điểm đặc biệt trên hành tinh đó. Nhưng
như chúng ta đã thấy, một phi hành gia vút qua trái đất trên
phi thuyền nếu có câu hỏi tương tự vào cùng thời điểm đó
thì nó lại chỉ định một thời điểm khác trên sao Hỏa. Thật
vậy, cái phạm vi khả dĩ của “ bây giờ” trên sao Hỏa đối với
người quan sát gần trái đất (tùy thuộc vào chuyển động của
người ấy) thực sự trải rộng trong khoảng vài phút. Khi khoảng
cách đến chủ thể càng lớn thì phạm vi của “bây giờ” càng
trải rộng. Đối với những chuẩn tinh (quasar) xa xăm thì “bây
giờ” có thể chỉ định hàng tỷ năm. Ngay cả khi di chuyển với
tốc độ như đi bộ thì cũng làm thay đổi cái ‘thời điểm hiện
tai” thành hàng ngàn năm trên quasar ấy!

Các
nhà vật lý không xem thời gian như trôi qua mà được bày ra
như một phần của ‘ không thời gian’: một cấu trúc bốn chiều
được mô tả ở đây như là một tấm màn hai chiều bằng cách bỏ
bớt hai chiều. Một điểm trên màn là một ‘sự cố’. Đường uốn
lượn là lộ trình của các vật thể chuyển động. Đường gián
đoạn là đường đi của ánh sáng được truyền đi giữa hai vật
thể. Đường nằm ngang biểu thị cho mặt cắt toàn bộ không gian
tại một thời điểm theo quan điểm của một quan sát viên. Một
quan sát viên khác có chuyển động khác biệt sẽ có đường biểu
thị nằm nghiêng. Không có ‘mặt cắt’ phổ quát biểu thị cho
một “hiện tại” chung và duy nhất. Vì lý do đó mà việc chia
thành qúa khứ, hiện tại và tương lai một cách phổ quát là
không thể được.
Sự
cám dỗ vĩ đại khi cho rằng chỉ có cái hiện tại “mới thực
sự hiện hữu” đã làm cho sự từ bỏ các khái niệm rạch ròi về
qúa khứ, hiện tại và tương lai trở thành một bước chuyển
sâu sắc. Thông thường, người ta không cần suy nghĩ và vẫn
hay cho rằng tương lai chưa định hình và có lẽ không xác
định còn qúa khứ thì đã qua, được ghi nhớ nhưng bị buông
trôi. Người ta vẫn ao ước qúa khứ và tương lai không tồn
tại. Chỉ có một thoáng thực tại dường như là xảy ra “tại
lúc này”. Lý thuyết tương đối làm cho những khái niệm này
trở nên vô nghĩa. Qúa khứ, hiện tại và tương lai đều thực
như nhau vì qúa khứ của người này là hiện tại hoặc tương
lai của người khác.
Thái
độ của các nhà vật lý đối với thời gian bị ràng buộc mạnh
mẽ vào kinh nghiệm của họ về những hiệu ứng của tính tương
đối và có thể hoàn toàn xa lạ đối với người thường, mặc dù
nhà vật lý hiếm khi nghĩ kỹ về điều đó. Họ không xem thời
gian như một chuỗi các biến cố xảy ra. Thay vào đó,
tất cả qúa khứ, tương lai đơn thuần là ở đó và thời
gian nới dài theo mỗi chiều hoàn toàn giống như không gian
được trải rộng từ một vị trí riêng biệt nào đó.Thật vậy,
trong lý thuyết tương đối sự so sánh này còn có ý nghĩa sâu
xa hơn là sự tương tự, vì thời gian, không gian trở nên đan
lẫn vào nhau không thể nào gỡ ra được và thống nhất thành
cái mà các nhà vật lý vẫn gọi là không thời gian.
Sự
nhận thức tâm lý của chúng ta về thời gian khác xa so với
những mô hình của các nhà vật lý mà ngay cả nhiều người trong
số họ cũng nghi ngờ rằng đã có yếu tố ‘sống động’ nào đó
bị bỏ qua. Eddington đã có lần nhận xét rằng bên cạnh những
lối dẫn thông thường thông qua các thiết bị thí nghiệm và
cảm xúc thì hình như đã có một thứ “cửa hậu” nào đó trong
tâm trí của chúng ta mà qua đó thời gian đã đi vào. Cảm nhận
của chúng ta về thời gian là một cái gì đó cơ bản hơn là
những cảm nhận khác, chẳng hạn như sự định hướng trong không
gian hay cảm nhận về vật chất. Nó là một cảm nhận nội tại
hơn là những kinh nghiệm qua cảm xúc. Đặc biệt là, chúng
ta cảm thấy sự trôi qua của thời gian - một cảm nhận
rõ rệt đến độ mà nó tạo nên khía cạnhcơ bản nhất nơi kinh
nghiệm của chúng ta. Nó là một cái nền động học mà dựa vào
đó mọi suy nghĩ và sinh hoạt của chúng ta được nhận thức.
Trong
sự tìm kiếm dòng thời gian bí ẩn này, nhiều nhà khoa học
đã trở nên bối rối sâu sắc. Mọi nhà vật lý đều công nhận
rằng có sự bất đối xứng giữa qúa khứ và thời gian được tạo
ra bời sự tác động của nguyên lý thứ hai nhiệt động lực học.
Nhưng khi cơ sở của nguyên lý đó được xem xét cẩn thận thì
sự bất đối xứng đó dường như bị bốc hơi.
Nghịch
lý này có thể được minh họa dễ dàng. Gỉa sử, trong một phòng
được niêm kín có một chai nước hoa được mở nắp. Chỉ trong
một lúc thì mùi thơm sẽ bốc hơi, lan tỏa khắp phòng và ai
cũng ngửi được mùi thơm ấy. Sự chuyển dời từ trạng thái lỏng
sang hơi- nghĩa là từ trạng thái có trật tự sang trạng thái
không trật tự- là không thể đảo ngược được. Tuy vẫn biết
rằng không nên mong đợi sự đảo ngược đó, chúng ta vẫn cố
đợi thật lâu để cho các phân tử mùi thơm bị phân tán tự phát
đó tìm đường trở về cái chai và ngưng tụ trở lại. Sự bốc
hơi và phân tán cung cấp một thí dụ cổ điển về sự bất đối
xứng giữa qúa khứ - tương lai. Nếu chúng ta chứng kiến một
đoạn phim quay cảnh các phân tử mùi thơm quay trở về cái
chai, thì ngay lập tức chúng ta biết rằng đoạn phim này được
chiếu theo chiều ngược lại. Nó không thể đảo ngược được.
Thế
mà có một nghịch lý ở đây! Mùi thơm bị bốc hơi và phân tán
dưới tác động của hàng tỷ cuộc ‘dội bom’ phân tử. Các phân
tử không khí trong chuyển động nhiệt không ngưng nghỉ của
nó được dùng để đập vào các phân tử mùi thơm một cách ngẫu
nhiên làm chúng xê dịch và rồi bứt ra và trộn lẫn vào các
phân tử không khí. Tuy nhiên, mọi va chạm riêng lẻ giữa các
phân tử là qúa trình hoàn toàn có thể đảo ngược. Hai phân
tử tiến đến gần, nảy ra rồi chuyển động ngược lại. Không
có sự bất đối xứng về thời gian ở đó. Qúa trình đảo ngược
cũng sẽ là: đến gần, nảy ra và chuyển động ngược lại.
Bí
ẩn của mũi tên thời gian- làm thế nào mà mối liên hệ giữa
qúa khứ-tương lai xuất hiện từ sự va chạm của các phân tử, lại hoàn
toàn có tính đối xứng ? - đã tác động lên trí tưởng tượng
của nhiều nhà vật lý lỗi lạc.Vấn đề được đưa ra lần đầu tiên
một cách rõ ràng vào khoảng cuối thế kỷ 19 bởi Ludwig Boltzmann,
nhưng sự tranh cãi vẫn tiếp tục cho đến nay. Một số các nhà
khoa học cho rằng có một tính chất lạ thường, phi vật chất-
một dòng thời gian- chịu trách nhiệm cho mũi tên thời
gian. Họ giải thích rằng các chuyển động phân tử bình thường
không có khả năng để lại dấu ấn của sự bất đối xứng trên
thời gian mà chỉ có thành phần thêm vào- dòng thời gian-
mới chủ yếu giải thích cho tính chất bất đối xứng này. Nhiều
nỗ lực đã được thực hiện để tìm ra nguồn gốc của dòng thời
gian này đối với những qúa trình lượng tử hay sự dãn nở của
vũ trụ. Trong nhiều trường hợp niềm tin vào dòng thời gian
rất gần, nhưng cũng rất thiếu rõ ràng, minh bạch như là niềm
tin vào sức sống (life-force).

Nguồn
gốc về sự bất đối xứng của thời gian là một bí ẩn khi chúng
ta xem xét vấn đề ở tầm mức nguyên tử. Sự va chạm giữa bất
kỳ 2 phân tử là hoàn toàn có thể đảo ngược và không cho thấy
một định hướng ưu tiên nào về qúa khứ- tương lai.
Sai
lầm ở đây là đã bỏ qua sự kiện: tính bất đối xứng của thời
gian cũng như của sự sống chỉ là một khái niệm mang tính
tổng thể và nó không thể được rút gọn thành những tính chất
của những phân tử riêng lẻ. Không có sự mâu thuẫn giữa tính
chất đối xứng ở mức độ phân tử và sự bất đối xứng ở thang
vĩ mô. Chúng chỉ đơn thuần là hai mức độ khác nhau của sự
mô tả. Người ta ngờ rằng thời gian thực sự không phải là
một “dòng”. Tất cả những điều đó chỉ nằm trong đầu óc của
con người.
Khi
chúng ta cố gắng giải thích nguồn gốc của “dòng thời gian”
nằm trong sự cảm nhận, thì chúng ta cũng sẽ gặp phải những
rối rắm của nghịch lý, cùng với sự lẫn lộn khi cố gắng hiểu
về cái “ta”. Khó mà chống lại cảm tưởng rằng hai vấn đề này
[dòng thời gian và cái ta] thực
sự có liên hệ gần gũi với nhau: chỉ là một dòng thời gian
mà chúng ta có thể cảm nhận về chính mình. Hofstadter đã
viết về những “Cơn lốc xoáy của sự tự tham chiếu” đã tạo
nên cái mà chúng ta vẫn gọi là ý thức và tự nhận thức. Tôi
tin tưởng mạnh mẽ rằng cơn lốc này dẫn dắt đến cái dòng thời
gian mang tính chất tâm lý này. Đó cũng chính là lý do tại
sao tôi khẳng định rằng bí mật của tâm trí chỉ được giải
quyết một khi mà chúng ta hiểu rõ bí mật của thời gian.
Những
hình ảnh ngây ngô về thời gian được tìm thấy ở mọi nơi trong
nghệ thuật cũng như văn học: mũi tên thời gian, dòng sông
thời gian, chiếc xe thời gian, bước đi của thời gian…Đôi
lúc người ta vẫn nói rằng cái “bây giờ” hay thời điểm hiện
tại của ý thức nơi chúng ta đang di chuyển đều đặn về phía
trước thông qua thời gian từ qúa khứ đến tương lai, để mà
cuối cùng, năm 2050 sẽ trở thành “bây giờ”. Cũng vì lẽ đó
mà thời điểm bạn biết, nó sẽ là lúc này và sẽ trôi qua, đi
vào lịch sử. Đôi khi, cái “bây giờ” đã được thả neo trên
một dòng sông thời gian đang trôi chảy chẳng khác gì dòng
nước đang chảy qua người đứng nhìn trên bờ. Những hình ảnh
này không tách rời khỏi cảm nhận về ý chí tự do. Tương lai
dường như chưa định hình và như thế, nó có thể được định
dạng bởi chính những tác động của chúng ta trước khi nó đến.
Phải chăng những thứ này chắc chắn là những điều ngớ ngẩn?
Một
số vấn đề nảy sinh ngay khi người ta cố bảo vệ những hình
tượng trên. Năm 2011, cuộc trao đổi giữa nhà vật lý (NVL)
và người hoài nghi (NHN) diễn ra như sau:
- NHN: tôi tình cờ đọc
được câu này của Einstein:” Bạn phải chấp nhận rằng ý
tưởng cho rằng thời gian chủ quan với sự nhấn mạnh vào
cái “bây giờ” là hoàn toàn không có ý nghĩa khách quan…sự
phân biệt giữa qúa khứ, hiện tại và tương lai chỉ là
một ảo gíac, tuy nhiên nó lại bền bĩ và liên tục.” Chắc
chắn ông ta đã có ý tưởng điên rồ?
- NVL: Hoàn toàn không.
Trong thế giới bên ngoài, không có qúa khứ, hiện tại
và tương lai. Làm thế nào để hiện tại được xác định bởi
những các thiết bị? Đó chỉ là một khaí niệm tâm lý.
- NHN: Ồ sao thế được.
Mọi người đều biết rằng tương lai chưa đến trong khi
qúa khứ đã qua. Chúng ta nhớ nó đã xảy ra. Làm thế nào
mà ông có thể lẫn lộn hôm qua với ngày mai hay hôm nay
được?
- NVL: Dĩ nhiên chúng
ta phải phân biệt những ngày khác nhau trong một chuỗi
liên tiếp. Nhưng đó chỉ là sự đặt tên mà tôi không chấp
nhận, ngay cả khi bạn đồng ý với tôi rằng ngày mai không
bao giờ đến.
- NHN: Đó chỉ là một trò
chơi chữ. Ngày mai sẽ đến, chỉ khi nó đến chúng ta mới
gọi nó là “hôm nay”.
- NVL: Hoàn toàn chính
xác. Mỗi ngày đều được gọi là “hôm nay” vào đúng ngày
đó. Mỗi thời điểm được gọi là “bây giờ” chỉ khi nó được
trải nghiệm. Sự phân chia thành qúa khứ và tương lai
chỉ là sự lộn xộn của ngôn ngữ. Để tôi giúp bạn ra khỏi
mớ bòng bong này. Mỗi lúc được diễn tả bằng một thời
điểm chính xác. Chẳng hạn như 2 giờ chiều ngày 3 tháng
10 năm 2025. Cái hệ thống đánh dấu này hoàn toàn bất
kỳ và một khi chúng ta đã chọn một qui ước nào đó thì
cái thời điểm của một sự cố hay một lúc nào đó là cố
định luôn. Bằng cách đặt tên cho tất cả biến cố, chúng
ta có thể mô tả mọi thứ trong thế giới mà không cần nhờ
đến những cách xây dựng mơ hồ như qúa khứ, hiện tại và
tương lai.
- NHN: Nhưng năm 2015
là ở tương lai. Nó chưa đến. Cái hệ thống đánh dấu thời
gian của ông đã bỏ qua một phương diện quan trọng của
thời gian, đó là nó trôi chảy.
- NVL: Khi nói “2025 là
năm ở tương lai” bạn muốn nói điều gì? Nó lá qúa khứ
của 2026.
- NHN: Nhưng bây giờ không
phải là 2026.
- NVL: Bây giờ à?
- NHN: Vâng, bây giờ.
- NVL: Bây giờ là lúc
nào? Mỗi lúc đều là “bây giờ “ khi chúng ta kinh nghiệm
về nó.
- NHN: Cái bây giờ này.
Tôi muốn nói cái bây giờ này.
- NVL: Bạn muốn nói cái
năm 2011 là bây giờ?
- NHN: Cũng được.
- NVL: Không phải 2026
là bây giờ hay sao?
- NHN: Không.
- NVL: Vậy thì tất cả
những gì bạn nói là 2025 nằm trong tương lai của 2011,
nhưng lại nằm trong qúa khứ của 2026. Tôi không phủ nhận
điều đó vì nó hoàn toàn chính xác với hệ thống đánh dấu
thời gian của tôi. Vậy thì, dù sao bạn thấy đó, cái cách
nói về qúa khứ, tương lai của bạn là hoàn toàn không
cần thiết.
- NHN: Nhưng thật là vô
lý! 2025 chưa đến. Chắc chắn đó là sự kiện mà chúng ta
phải đồng ý chứ?
- NVL: Đương nhiên. Tất
cả những gì bạn nói là cuộc nói chuyện của chúng ta xảy
ra trước 2025. Tôi lập lại. Tôi không phủ nhận có một
chuỗi biến cố theo thứ tự với cái trước-sau rõ ràng hay
là mối liên hệ qúa khứ-tương lai giữa chúng. Tôi chỉ
đơn thuần phủ nhận sự tồn tại của cái qúa khứ này, cái
hiện tại này và cái tương lai này. Rõ ràng là không có một hiện
tại. Cả hai chúng ta đều có kinh nghiệm riêng về rất
nhiều cái “hiện tại” trong cuộc đời của chúng ta.
Có một số biến cố nằm trong qúa khứ hay tương lai của
những biến cố khác nhưng chính các biến cố đơn thuần
nằm ở đó, chúng không xảy ra từng cái một.
- NHN: Đó có phải là điều
mà các nhà vật lý thường ám chỉ khi họ nói rằng những
biến cố qúa khứ và vị lai hiện hữu cùng lúc với hiện
tại- nghĩa là chúng có ở đó, nhưng chỉ vì chúng ta gặp
biến cố này sau biến cố kia?
- NVL: Chúng ta thực sự
không “gặp” chúng gì hết. Chúng ta kinh nghiệm mỗi biến
cố mà chúng ta ý thức về nó. Chúng không nằm đó để đợi
chúng ta rón rén đến gần. Chỉ có những biến cố đơn thuần
và những trạng thái tinh thần gắn liền với chúng. Bạn
nói cứ như là tâm trí của bạn hôm nay được đem đến phía
trước theo thời gian để tình cờ gặp những biến cố của
ngày mai. Tâm trí của bạn nới rộng theo thời gian. Trạng
thái tinh thần của ngày mai phản ảnh những biến cố của
ngày mai, và trạng thái tinh thần hôm nay phản ảnh những
biến cố của hôm nay.
- NHN: Có chắc là ý thức
của tôi di chuyển về phía trước, từ hôm nay đến ngày
mai?
- NVL: Không phải. Tâm
trí của bạn đang ý thức được cả hôm nay và ngày mai.
Không có cái gì chuyển động về phía trước, phía sau hay
sang hai bên.
- NHN: Nhưng tôi cảm thấy
thời gian đang trôi qua.
- NVL: Khoan đã. Trước
tiên, bạn nói rằng tâm trí của bạn chuyển động về phía
trước theo thời gian, rồi thì bạn lại nói thời gian đang
chuyển động về phía trước. Cái gì mới thực là chuyển
động?
- NHN: Tôi thấy thời gian
như là một giòng sông đang trôi, mang theo những biến
cố tương lai về phía tôi. Hoặc là, tôi thấy ý thức của
tôi cố định và thời gian trôi qua nó, theo chiều từ tương
lai về quá khứ; hoặc là thời gian cố định và ý thức của
tôi đang di chuyển từ qúa khứ hướng về tương lai. Tôi
nghĩ rằng cả hai cách mô tả này là tương đương nhau.
Chuyển động là tương đối.
- NVL: Cái chuyển động
đó là ảo giác! Làm sao thời gian có thể trôi được? Nếu
nó chuyển động thì nó phải có vận tốc. Vận tốc nào? Có
phải là chuyển động được một ngày mỗi ngày? Thật là vô
nghĩa vì một ngày vẫn chỉ là một ngày mà thôi.
- NHN: Nhưng nếu thời
gian không chuyển động thì làm sao mọi vật lại thay đổi?
- NVL: Sự thay đổi xảy
ra vì các vật chuyển động đi đi, lại lại trong không
gian theo thời gian. Thời gian không chuyển động. Khi
còn bé, tôi vẫn tự hỏi:’ tại sao lại là bây giờ mà không
phải là một thời điểm khác nào đó?’ Khi trưởng thành
tôi biết rằng câu hỏi này là vô nghĩa bởi vì chúng ta
có thể đặt câu hỏi này tại mỗi thời điểm.
- NHN: Tôi nghĩ rằng đó
là một câu hỏi hoàn toàn chính đáng. Dù sao thì tại sao
nó lại là 2011?
- NVL: Cái gì tại sao
2011?
- NHN: vâng, tại sao 2011
là bây giờ?
- NVL: Câu hỏi của bạn
rất giống với việc hỏi:” Tại sao tôi là tôi và không
phải là người khác? Tôi là chính tôi là do định nghĩa
– cho bất kỳ người nào đặt câu hỏi này. Hiển nhiên, trong
năm 2011 chúng ta đang xem 2011 là ‘bây giờ’. Có thể
xem bất kỳ năm nào là bây giờ cũng được. Câu hỏi chính
đáng có thể là “ tại sao tôi lại đang sống trong năm
2011 mà không phải, chẳng hạn như, năm 5000 trước Công
Nguyên? Hay là “ tại sao chúng ta lại có cuộc đối thoại
vào năm 2011 mà không phải là 2026?”. Nhưng điều rõ
ràng là chúng ta không cần phải viện dẫn đến những khái
niệm qúa khứ, hiện tại và tương lai trong một cuộc đối
thoại như thế.
- NHN: Tôi vẫn không cảm
thấy thuyết phục. Trong hầu hết những suy nghĩ và những
hoạt động hàng ngày của chúng ta thì cấu trúc về thời
gian của ngôn ngữ, của hy vọng, của sợ hãi và của niềm
tin đều bắt rễ nơi sự phân biệt cơ bản về qúa khứ, hiện
tại và tương lai. Tôi sợ chết vì tôi chưa đối diện với
nó và tôi không biết chắc về những gì sau cái chết. Nhưng
tôi không sợ vì tôi không biết về sự hiện hữu của tôi
trước khi sinh ra. Chúng ta có thể không sợ qúa khứ.
Lại nữa, qúa khứ thì không thể thay đổi được. Chúng ta
biết điều gì đã xảy ra nhờ ký ức. Nhưng chúng ta không
biết về tương lai và chúng ta tin rằng nó không xác định
và tin rằng hành động của chúng ta có thể làm thay đổi
nó. Về phần hiện tại, vâng, đó chính là lúc tiếp xúc
với thế giới bên ngoài và đó là lúc đầu óc của chúng
ta có thể ra lệnh cho thân thể hành động. Byron đã viết
‘Hành động, hành động trong hiện tại sống động’. Câu
đó là một đúc kết đáng ngưỡng mộ đối với tôi.
- NVL: Hầu hết những điều
bạn nói đều đúng mà vẫn không đòi hỏi một hiện tại chuyển
động. Dĩ nhiên, có một sự bất đối xứng giữa qúa khứ và
tương lai. Sự bất đối xứng này không
chỉ có trong kinh nghiệm của chúng ta, chẳng hạn như
ký ức, mà có cả trong thế giới bên ngoài. Chẳng hạn như
định luật thứ hai của Nhiệt động lực học bảo đảm rằng
các hệ thống có xu hướng trở nên ngày càng mất trật tự.
Những hệ thống khác sở hữu những ghi nhận được
tích lũy và “bộ nhớ”. Hãy nghĩ đến những núi lửa trên
mặt trăng: đó là dấu vết của qúa khứ mà không phải là
những biến cố của tương lai. Những gì bạn nói chẳng qua
là trạng thái của não bộ lúc sau khi chứa nhiều thông
tin hơn trạng thái của nó trước đó. Thế rồi, chúng ta
lại sai lầm trong việc diễn giải sự kiện đơn giản này
thành những từ ngữ mơ hồ và lẫn lộn: “ Chúng ta nhớ về
qúa khứ mà không phải là tương lai”, thay vì, cái qúa
khứ này là một câu hoàn toàn vô nghĩa. Thật vậy, vào
năm 2026 chúng ta sẽ nhớ đến 2025 và năm này lại là tương
lai của 2011. Chỉ gắn với năm tháng và đừng cần đến những
thời dạng [qúa khứ, hiện tại, vị lai], đến
dòng thời gian hay là cái bây giờ.
- NHN: Nhưng chính anh
cũng vừa nói “ chúng ta sẽ nhớ đến”
- NVL: Tôi có thể nói:’
Bộ não của tôi năm 2026 đã ghi nhận thông tin về những
biến cố trong 2025. Nhưng 2025 là tương lai của 2011.
Do đó [những thông tin của ] 2025 không được ghi nhận
trong bộ não của tôi vào năm 2011”. Bạn thấy đó, chẳng
cần nói gì về qúa khứ cũng như tương lai.
- NHN: Thế thì về nỗi
sợ của tương lai, của ý chí tư do và của tính không tiên
đoán được như thế nào? Nếu tương lai đã vốn hiện hữu
thì nó bắt buộc phải được hoàn toàn xác định. Sẽ không
có gì thay đổi cả. Ý chí tự do chỉ là sự gỉa vờ.
- NVL: Tương lai không
‘vốn’ đã hiện hữu. Khẳng định này là một sự mâu thuẫn
vì nó cho rằng ‘mọi biến cố tồn tại đồng thời với biến
cố trước nó”. Điều này rõ ràng là vô nghĩa do định nghĩa
của chữ “trước”. Về tính chất không tiên đoán được thì
đó là giới hạn thực tế. Sự thật là do tính chất phức
tạp của thế giới nên chúng ta chỉ có thể tiên đoán một
số nhũng biến cố đơn giản nào đó, chẳng hạn như hiện
tượng nhật thực. Nhưng tính chất có thể tiên đoán được
không đồng nghĩa với thuyết định mệnh. Bạn đang trộn
lẫn nhận thức luận với siêu hình. Trạng thái tương lai
của thế giới có thể được xác định bởi những biến cố trước
đó nhưng vẫn không thể tiên đoán được vì lý do thực tế.
- NHN: Nhưng có phải tương
lai là xác định không? Xin lỗi, có phải tất cả các biến
cố đều hoàn toàn được xác định bởi những biến cố trước?
- NVL: Thật ra là không.
Chẳng hạn như, lý thuyết lượng tử tiết lộ rằng, ở tầm
mức nguyên tử, các biến cố xảy ra một cách tự phát mà
không có nguyên nhân đầy đủ trước đó.
- NHN: Vậy thì tương lai
không hiện hữu! Chúng ta có thể thay đổi nó!
- NVL: Tương lai là những
gì sẽ trở thành cho dù tác động sớm của chúng ta có liên
quan đến hay không. Nhà vật lý nhìn không-thời gian được
trải rộng như một tấm bản đồ mà trong đó thời gian là
một cạnh đang nới rộng. Những biến cố được đánh dấu bằng
những điểm trên bản đồ: một số biến cố nối với các biến
cố trước bằng mối liên hệ nhân qủa, một số khác chẳng
hạn như sự phân rã của hạt nhân được gán cho là ‘tự phát’.
Mọi biến cố nằm ở đó cho dù sợi dây nhân qủa có gắn liền
với chúng hay không. Do đó, luận điểm của tôi là không
có qúa khứ, hiện tại và tương lai, không nói được điều
gì về ý chí tự do hay thuyết định mệnh. Đó là một vấn
đề riêng biệt và cũng là một “bãi mìn” chứa đầy những
mơ hồ, lẫn lộn.
- NHN: Ông vẫn chưa giải
thích cho tôi vì sao tôi lại có cảm nhận về dòng thời
gian?
- NVL: Tôi không phải
là nhà thần kinh học. Có lẽ, có cái gì đó liên hệ tới
qúa trình của ký ức ngắn hạn.
- NHN: Ông đang cho rằng
tất cả là do trí óc- một ảo giác?
- NVL: Có lẽ bạn đã không
khôn ngoan lắm khi viện dẫn đến cảm nhận của bạn để gán
những tính chất vật lý cho thế giới bên ngoài. Bạn có
bao giờ bị hoa mắt?
- NHN: Dĩ nhiên là có.
- NVL: Nhưng chắc bạn
không cố gắng gán sự hoa mắt của bạn vào chuyển động
quay của vũ trụ cho dù sự thật là bạn cảm thấy thế giới
đang quay quanh bạn?
- NHN: Không, rõ ràng
nó [thế giới quay quanh] là một ảo giác.
- NVL : Vậy thì, tôi khẳng
định rằng cơn xoáy thời gian cũng giống như cơn lốc không
gian. Một thứ hoa mắt do thời gian là nguyên nhân tạo
nên những ấn tượng sai lầm về thực tế được mô tả bằng
ngôn ngữ lẫn lộn, mơ hồ của chúng ta trong những cấu
trúc về thời dạng [qúa khứ, hiện tại, vị lai], cùng với
những câu vô nghĩa về chúng.
- NHN: Xin nói thêm.
- NVL: Không phải là
lúc này. Tôi không còn thời gian …
Người
ta có thể kết luận được điều gì từ cuộc trao đổi trên? Chắc
chắn rằng trong việc tổ chức những công việc hằng ngày, chúng
ta bị lệ thuộc nặng nề vào những khái niệm qúa khứ, hiện
tại và tương lai mà chẳng bao giờ đặt câu hỏi rằng thời gian
thực sự đã trôi qua hay không. Ngay cả các nhà vật
lý cũng nhanh chóng sa đà vào lối nói chuyện và cách suy
nghĩ như thế (như chúng ta đã thấy ở trên) một khi khả năng
phân tích của họ không làm việc. Nhưng vẫn phải thừa nhận
rằng, chúng ta càng xem xét kỹ lưỡng những khái niệm này
thì chúng lại càng trở nên mơ hồ, khó nắm bắt để rồi tất
cả những gì chúng ta nói cũng sẽ kết thúc vì sự thừa thải
hay vô nghĩa. Nhà vật lý không cần đến dòng thời gian hay
“cái bây giờ” trong thế giới vật lý. Thật vậy, lý thuyết
tương đối đã loại bỏ khaí niệm hiện tại phổ quát đối với
mọi quan sát viên. Nếu những khái niệm này có một ý nghĩa
nào đó (nhiều triết gia, chẳng hạn như Mc Taggart, cũng phủ
nhận chúng có ý nghĩa) thì dường như chúng thuộc về lãnh
vực tâm lý hơn là vật lý.
Điều
này đã làm nảy sinh một vấn đề thần học đầy hấp dẫn: Phải
chăng Chúa có kinh nghiệm về sự trôi chảy của thời gian?
Những
tín đồ Thiên chúa giáo tin rằng Chúa vĩnh cửu. Tuy nhiên,
từ ngữ ”vĩnh cửu” này được sử dụng để ám chỉ 2 điều khác
biệt. Trong một phiên bản đơn giản hơn, vĩnh cửu có nghĩa
là kéo dài mãi mãi hay là tồn tại không có khởi đầu hay kết
thúc trong một khoảng thời gian vô tận. Tuy nhiên, đã có
những phản đối nghiêm trọng đối với những ý tưởng như thế.
Bởi vì một vị Chúa hiện hữu trong thời gian thì phải chịu
sự thay đổi. Nhưng cái gì tạo nên sự thay đổi đó? Nếu Chúa
là nguyên nhân của mọi hiện hữu (như trong những biện gỉai
thần học về vũ trụ) thì liệu có ý nghĩa hay không khi nói
về chính cái nguyên nhân tối thượng đó cũng thay đổi?
Chúng
ta đã thấy rằng thời gian không phải là vấn đề đơn giản nhưng
nó là một phần của vũ trụ. Nó có tính “đàn hồi” và nó có
thể dãn ra hoặc co vào tuân theo các định luật toán học có
nền tảng hợp lý và phụ thuộc vào vật chất. Cũng như thế,
thời gian gắn liền chặt chẽ với không gian và chúng cùng
nhau diễn đạt sự vận hành của trường hấp dẫn. Ngắn gọn là,
cũng giống với vật chất, thời gian có mặt trong những chi
tiết khó hiểu nhất của những qúa trình vật lý.
Thời gian
không phải là một tính chất thần thánh mà có thể bị biến
đổi một cách vật lý ngay cả chỉ với những thao tác của con
người. Như thế, theo một nghĩa nào đó thì một vị Chúa có
mặt trong thời gian cũng bị chi phối bởi những hoạt động
của vũ trụ vật lý. Thật vậy, có vẻ như là thời gian sẽ ngừng
tồn tại ở một giai đoạn nào đó. Trong trường hợp đó, vị thế
của Chúa hiển nhiên không còn chắc chắn.
Rõ ràng là, Chúa
không thể toàn năng nếu ông ta chịu sự chi phối bởi những
tính chất vật lý của thời gian. Ông ta sẽ không còn được
xem là sáng tạo ra vũ trụ nếu ông ấy không còn sáng tạo được
thời gian. Thật vậy, vì không gian và thời gian không thể
tách biệt, một vị Chúa không sáng tạo thời gian ắt hẳn cũng
không sáng tạo không gian. Nhưng, như chúng ta đã thấy, một
khi không thời gian hiện hữu thì sẽ có mặt của vật chất và
trật tự trong vũ trụ sẽ xảy ra một cách tự động như là kết
qủa của những hoạt động tư nhiên một cách hoàn hảo. Cũng
vì thế mà nhiều người cho rằng thực sự không cần đến Chúa
với tư cách là kẻ sáng tạo ra mọi thứ, ngoại trừ sáng
tạo ra thời gian (chặt chẽ hơn phải là không thời gian).
Chính
vì lý do đó mà chúng ta được dẫn dắt đến ý nghĩa khác của
từ ngữ vĩnh cửu: “siêu vượt thời gian” (timeless). Khái niệm
về một vị Chúa siêu thời gian đã có ít nhất từ thời Augustine
với những gợi ý về một vị Chúa sáng tạo ra thời gian. Lập
luận này nhận được nhiều ủng hộ của các nhà thần học thiên
chúa gíao. St. Anselm diễn đạt ý tưởng ấy như sau: ‘ Ngài
[Chúa] không hiện hữu hôm qua, hôm nay hay ngày mai mà tồn
tại một cách trực tiếp ngay bên ngoài thời gian”.
Một
vị Chúa vượt ngoài thời gian sẽ không có những vấn đề đã
được đề cập ở trên nhưng sẽ chịu thiếu sót. Ông ta không
thể là một vị Chúa mang nhân tính như có thể suy nghĩ, trò
chuyện, cảm nhận, đặt kế hoạch v.v…vì tất cả những điều đó
là những hoạt động mang yếu tố thời gian. Khó có thể hiểu
được rằng làm thế
nào một vị Chúa siêu thời gian lại có những hành động trong
thời gian (mặc dù đã có những khẳng định cho rằng điều này
không phải là không thể được). Chúng ta cũng đã thấy rằng
sự hiện hữu của một cá thể gắn liền một cách thân thiết với
kinh nghiệm về dòng thời gian. Một vị Chúa siêu thời gian
không thể được quan niệm như một “người” hay một cá thể trong
mọi ý nghĩa. Sự nghi ngại về sự kiện này đã dẫn một số các
nhà thần học hiện đại đến chỗ từ bỏ quan niệm về một vị Chúa
vĩnh cửu. Paul Tillich viết:” Nếu ta gọi Chúa là một vị Chúa
sống động thì chúng ta phải khẳng định rằng ông ta có thời
gian tính và vì thế sẽ có mối liên hệ với những hình thái
của thời gian “. Karl Barth có cùng một ngụ ý khi viết :”
Nếu không có một vị Chúa có thời gian tính thì nội dung của
những thông điệp Thiên chúa giáo sẽ không có hình thù, khuôn
mẫu”.
Vật
lý về thời gian cũng mang đến nhiều hàm ý thú vị cho niềm
tin về một vị Chúa toàn năng. Nếu Chúa siêu việt thời gian
thì không thể nói rằng ông ta có suy nghĩ vì việc suy tư
là một hoạt động có thời gian tính. Nhưng, một hiện hữu vượt
thời gian có thể có kiến thức? Việc tích lũy kiến thúc rõ
ràng có dính líu tới thời gian nhưng việc biết chỉ không
dính dấp tới thời gian khi chính những gì được biết đến cũng
không thay đổi theo thời gian. Nếu Chúa biết, chẳng hạn như
vị trí của mỗi nguyên tử hôm nay thì những kiến thức đó sẽ
thay đổi vào ngày mai [nghĩa là cái biết của Chúa phải thay
đổi theo thời gian-ND]. Do đó, hiểu biết
một cách siêu thời gian đòi hỏi sự biết về mọi biến cố xuyên
suốt thời gian.
Do
vậy mà tồn tại những khó khăn cơ bản và nghiêm trọng trong
việc hoà giải mọi thuộc tính được gán cho Chúa. Vật lý hiện
đại với những khám phá về tính chất tương hỗ của thời gian
đã tạo nên một khoảng hở giữa tính chất toàn năng của Chúa
với sự hiện hữu của nhân tính nơi ông ta. Khó có thể cho
rằng Chúa có cả hai tính chất đó. ▪
Chú thích của người dịch:
Những con số về năm đã được sửa lại cho phù hợp với hiện
tại-năm 2011.Nguyên văn cuộc đối thoại xảy ra năm 1983.