| ||
....Thời gian không phải là một tính chất thần thánh mà có thể bị biến đổi một cách vật lý ngay cả chỉ với những thao tác của con người. Như thế, theo một nghĩa nào đó thì một vị Chúa có mặt trong thời gian cũng bị chi phối bởi những hoạt động của vũ trụ vật lý... “Ngay cả hai chữ ‘kinh nghiệm’ cũng
chẳng mang một ý nghĩa nào. Carl von Weizsacker “Trên lưng, tôi luôn nghe tiếng vọng. Bánh xe thời gian vội vã đến gần " Andrew Marvell Hai cuộc cách mạng đã sinh ra những ngành vật lý mới: lý thuyết lượng tử và lý thuyết tương đối. Lý thuyết sau hầu như là công trình độc quyền của Einstein. Đó là lý thuyết về không gian, thời gian và chuyển động. Cũng như lý thuyết lượng tử, những hệ qủa của nó cũng sâu sắc, gây bối rối và thách thức những khái niệm còn ấp ủ về bản chất của vũ trụ. Chưa bao giờ sự xem xét về khái niệm thời gian- một chủ đề được quan tâm mạnh mẽ và lâu dài trong mọi tôn giáo lớn trên thế giới- lại được quan tâm nhiều như thế. Thời gian là một khái niệm qúa cơ bản đối với kinh nghiệm của chúng ta về thế giới đến nỗi mà mọi nỗ lực làm thay đổi khái niệm này đều gặp phải sự nghi kỵ và chống đối. Mặc dù lý thuyết tương đối hầu như đã có 80 năm thành công, trong đó không một thí nghiệm đơn lẻ nào làm tỳ vết những dự đoán hoàn thiện của nó.Thế mà, hàng tuần tôi đều nhận được những bản thảo từ các nhà khoa học không chuyên nghiệp nhằm mục đích tìm ra lỗi lầm trong công trình của Einstein và cố gắng phục hồi khái niệm về thời gian theo truyền thống và theo cảm nhận chung. Khái niệm của chúng ta về cá thể- cái ngã, cái linh hồn- gắn chặt với ký ức và những kinh nghiệm lâu đời. Câu tuyên bố” tôi đang hiện hữu vào lúc này” là chưa trọn nghĩa vì khái niêm ‘tôi’ là một cá thể sẽ bao hàm sự liên tục của kinh nghiệm cùng với những đặc tính liên kết nào đó, chẳng hạn như ký ức. Những ngụ ý mạnh mẽ về tôn giáo và cảm tính của chủ đề này có lẽ đã giải thích cả hai điều: sự chống đối những khẳng định của các ngành vật lý mới và sự say mê sâu sắc mà các nhà khoa học và người thường đã chia sẻ với nhau đối với những hệ quả làm ám ảnh tâm trí của lý thuyết tương đối. Cái gọi là thuyết tương đối hẹp, được công bố năm 1905, được nảy sinh từ những nỗ lực hòa giải sự xung đột rất rõ giữa chuyển động của các vật thể và sự lan truyền của sóng điện từ. Đặc biệt là, ứng xử của tín hiệu ánh sáng dường như đã vi phạm trắng trợn một nguyên lý lâu đời là: mọi chuyển động có tính tương đối. Bỏ qua những chi tiết về kỹ thuật thì kết qủa là Einstein đã phục hồi được nguyên lý tương đối, ngay cả trong trường hợp có liên hệ đến tín hiệu ánh sáng, nhưng với một cái gía phải trả. Mất mát đầu tiên của lý thuyết tương đối hẹp chính là niềm tin rằng thời gian là tuyệt đối và phổ quát. Einstein đã chứng minh rằng thời gian thật ra là đàn hồi, có thể dãn ra hay co lại theo chuyển động. Mỗi quan sát viên mang theo mình một độ chia khác nhau về thời gian và thường nó không ăn khớp với độ chia của người khác. Trong khung qui chiếu của chính chúng ta thì thời gian không bao giờ bị biến dạng nhưng đối với những quan sát viên đang chuyển động khác thì thời gian của chúng ta bị giật ra khỏi bước điệu thời gian của họ. Sự sai lệch lạ kỳ của thời gian đang mở ra cách thức du lịch trong thời gian. Theo một nghĩa nào đó, tất cả chúng ta là những nhà du hành trong thời gian hướng về tương lai nhưng tính chất đàn hồi của thời gian có thể cho phép người này đến nơi này nhanh hơn người khác. Chuyển động nhanh cho phép anh đạp phanh bánh xe thời gian để thế giới vốn vội vã đi qua. Bằng cách này, chúng ta có thể đạt tới một thời điểm xa xăm nhanh hơn là ngồi yên bất động. Về nguyên tắc, người ta có thể tiến đến năm 2050 chỉ trong một vài giờ. Tuy nhiên để thực hiện được sự sai lệch thời gian thú vị này thì cần có một vận tốc vào khoảng vài trăm ngàn dặm trong một giây. Với tốc độ của hỏa tiễn hiện nay thì những đồng hồ nguyên tử chỉ cho thấy sự dãn nở khoảng 1 phút. Chìa khóa cho những hiệu ứng này chính là vận tốc ánh sáng. Càng đến gần tốc độ này thì khoảng sai lệch về thời gian càng tăng. Lý thuyết cũng không cho phép người ta vượt qua rào chắn ánh sáng mà khi đó có thể xảy ra hiệu ứng thời gian quay ngược ra ngoài.
Hiệu ứng giãn nở thời gian ngày nay đã trở thành những kinh nghiệm thường tình của các nhà vật lý.Nó đã được chứng minh bằng cách dùng những đồng hồ nguyên tử nhạy bén có chuyển động cực nhanh hoặc các hạt hạ-nguyên tử mà chúng ta biết rõ sự phân rã của chúng. Những đồng hồ chuyển động sẽ chạy chậm so với những đồng hồ đứng yên. Điều này dẫn đến hiệu ứng “anh em sinh đôi”, trong đó một phi hành gia khi quay trở về từ một chuyến du hành có vận tốc rất lớn sau một vài năm sẽ trẻ hơn người anh em song sinh trên trái đất. Có thể thu ngắn thời gian lại một cách đáng kể bằng cách dùng các hạt hạ-nguyên tử. Khi chuyển động xoay vòng trong các máy gia tốc khổng lồ với vận tốc rất gần với ánh sáng thì các hạt có tên là muon đã được “giữ cho sống” lâu hơn hàng chục lần so với khi nó đứng yên (trong trường hợp đứng yên, chúng sẽ phân rã trong khoảng 1phần triệu giây) Cũng như thế, các hiệu ứng phi thường đã “dày vò” không gian: không gian cũng đàn hồi. Khi thời gian dãn ra thì không gian co lại. Trên một chuyến tàu chạy nhanh qua nhà ga, thì đồng hồ của nhà ga sẽ chạy chậm hơn một chút khi được nhìn từ chính qui chiếu là bạn so với qui chiếu là một người khuân vác trên sân ga. Bù lại, sân ga đối với bạn dường như ngắn đi. Dĩ nhiên, chúng ta chẳng bao giờ chú ý đến những hiệu ứng như thế vì chúng qúa nhỏ ở những tốc độ bình thường, nhưng chúng lại dễ dàng đo được bằng các thiết bị nhạy bén. Sự biến dạng tương hỗ của thời gian và không gian được xem như sự hoán đổi không gian (khi co lại ) thành thời gian (khi dãn nở). Tuy nhiên, thời gian là một giây tương ứng với một chiều dài cực kỳ ấn tượng- khoảng 186,000 dặm. Sự biến dạng của thời gian theo kiểu này là một trò lừa khoa học viễn tưởng được ưa thích. Nhưng chẳng có gì viễn tưởng về chúng. Chúng thực sự xảy ra. Một hiện tượng kỳ quặc chính là cái hiệu ứng mang tên ‘anh em sinh đôi”. Một người rời khỏi mặt đất đến một ngôi sao gần với vận tốc gần ngưỡng ánh sáng. Một người ở nhà và chờ người kia trở về 10 năm sau đó. Khi phi thuyền trở về, người trên mặt đất nhận thấy người anh em của mình chỉ gìa đi một năm so với 10 năm của người ấy. Vận tốc lớn cho phép người kia chỉ kinh nghiệm thời gian một năm, trong thời gian đó mười năm đã trôi qua trên mặt đất. Einstein đã đi đến việc tổng quát hóa lý thuyết của ông ta bằng việc bao hàm hiệu ứng của hấp dẫn. Lý thuyết tương đối tổng quát ra đời đã sát nhập hấp dẫn, không phải là một lực, mà là một sự biến dạng của hình học không thời gian. Trong lý thuyết này, không gian không còn “phẳng” và tuân theo những qui luật thông thường của hình học ở trường phổ thông nữa, mà nó bị cong hay bị biến dạng để sinh ra độ biến dạng của không gian và độ biến dạng của thời gian. Như đã bàn luận ở chương 2, những thiết bị hiện đại nhạy bén đến mức độ những biến dạng về thời gian do hấp dẫn của trái đất có thể được phát hiện bằng những đồng hồ trên phi thuyền. Thời gian thật sự chạy nhanh hơn trong không gian nơi mà trường hấp dẫn của trái đất yếu hơn.
Trường hấp dẫn làm chậm thời gian như có thể được chứng minh bằng thực nghiệm ngay cả trên trái đất. Đồng hồ ở đỉnh tháp chạy nhanh hơn đồng hồ dưới chân tháp. Lý thuyết cũng gợi ý rằng một ngôi sao ở trong điều kiện này sẽ không duy trì được qúan tính của nó, không chống cự được chính lực hấp dẫn mạnh mẽ của nó và chỉ trong vòng một phần triệu giây sẽ nổ tung thành điểm kỳ dị không thời gian, để lại phía sau một lỗ hổng: lỗ đen. Sự biến đổi của thời gian do ngôi sao trước đây vẫn còn in dấu trong không gian trống rỗng. Như thế một lỗ đen biểu thị cho con đường nhanh chóng đến vĩnh cửu. Trong trường hợp cực điểm, không chỉ người anh em sinh đôi trên phi thuyền đạt đến tương lai nhanh hơn mà người ấy còn có thể đạt đến điểm tận cùng của thời gian chỉ trong một chớp mắt. Ngay khi người ấy đi vào lỗ đen thì mọi vô tận về thời gian đi qua bên ngoài chỉ tương ứng với cái “bây giờ” tương đối của người đó. Một khi đã vào trong lỗ đen, người này sẽ bị giam giữ trong sự biến động của thời gian và không bao giờ có thể quay trở ra vũ trụ nữa, vì vũ trụ bên ngoài đã biến đổi. Theo nghĩa đen thì người ấy sẽ ở xa khỏi điểm tận cùng của thời gian cho đến tận phần còn lại của vũ trụ. Để trồi lên khỏi lỗ đen anh ta phải đi ra khỏi nó trước khi đi vào. Đây chính là điểm vô lý và cho thấy rằng không có cách nào để ra trốn thoát. Sự giữ chặt không thương tiếc của lực hấp dẫn bởi lỗ đen sẽ đưa phi hành gia kém may mắn này đến tận điểm kỳ dị nơi mà chỉ trong một phần triệu giây sau đó anh ta sẽ đến bờ mé của thời gian và tắt nghẽn. Điểm kỳ dị đánh dấu chấm dứt cho cuộc hành trình một chiều đến điểm “không-vị trí” (nowhere) và “không-thời điểm” (nowhen). Đó là nơi chốn mà vũ trụ vật lý kết thúc. Cuộc cách mạng về khái niệm thời gian đi kèm theo lý thuyết tương đối được tóm gọn như sau: Trước đây, thời gian được xem như tuyệt đối, đóng khung và phổ quát- nghĩa là độc lập với vật thể và người quan sát. Ngày nay, thời gian được nhìn nhận mang tính chất động lực. Nó có thể co, dãn, biến đổi và ngay cả đọng lại ở điểm kỳ dị. Nhịp đồng hồ không còn tuyệt đối mà trở thành tương đối đối với trạng thái chuyển động hay tình huống về lực hấp dẫn của người quan sát. Việc giải phóng thời gian khỏi sự ràng buộc về tính phổ quát và cho phép thời gian của mỗi quan sát viên trải ra một cách tự do và độc lập đã bắt buộc chúng ta phải từ bỏ những gỉa định lâu đời. Chẳng hạn như, không còn sự nhất trí về việc chọn lựa cái “bây giờ” nữa. Trong thí nghiệm “anh em sinh đôi” người đi trên phi thuyền trong suốt cuộc hành trình sẽ có lúc tự hỏi:” người anh em của mình bây giờ đang làm gì nhỉ? ” Nhưng sự sai lệch về thời gian tương đối của họ cho thấy là cái “ bây giờ” đối với qui chiếu phi thuyền là một thời điểm hoàn toàn khác với cái “bây giờ” trên trái đất. Không có sự phổ quát cho “thời điểm hiện tại”. Nếu hai biến cố A và B xảy ra tại hai vị trí tách biệt được xem như đồng thời bởi một trong hai người, thì người kia sẽ thấy A xảy ra trước B hay ngược lại. Ý tưởng về thứ tự thời gian của hai biến cố có thể xuất hiện khác nhau đối với những quan sát viên khác nhau dường như là nghịch lý. Có thể nào cái đích vỡ tan trước khi súng nổ? May mắn cho luật nhân qủa là điều này không xảy ra. Để các biến cố A và B có một thứ tự theo thời gian không rõ ràng [nghĩa là không biết biến cố nào trước biến cố nào sau- ND] thì chúng phải xảy ra trong khoảng thời gian đủ ngắn để ánh sáng không thể di chuyển từ A đến B trong khoảng thời gian đó. Trong lý thuyết tương đối, tín hiệu ánh sáng quyết định tất cả luật lệ và đặc biệt là nó không cho phép một ảnh hưởng hay tín hiệu bất kỳ nào di chuyển nhanh hơn chính nó. Nếu ánh sáng không đủ nhanh để nối A và B thì cũng chẳng có gì có thể làm được điều đó và A và B sẽ không thể ảnh hưởng lẫn nhau theo mọi cách. Khi đó sẽ không có mối liên hệ nhân qủa giữa chúng. Đảo ngược thứ tự về thời gian giữa A và B rút cục sẽ không dẫn đến đảo ngược nguyên nhân và hậu qủa. Một “nạn nhân” không thể tránh khỏi của sự kiện này- không có một thời điểm hiện tại phổ quát- chính là sự phân chia thời gian rạch ròi thành qúa khứ, hiện tại và vị lai. Những thuật ngữ này có thể chỉ có ý nghĩa trong vùng định xứ của mỗi người nhưng không thể áp dụng cho mọi nơi. Những câu hỏi như” cái gì đang xảy ra ngay bây giờ trên sao Hỏa?” chỉ nhắm vào một thời điểm đặc biệt trên hành tinh đó. Nhưng như chúng ta đã thấy, một phi hành gia vút qua trái đất trên phi thuyền nếu có câu hỏi tương tự vào cùng thời điểm đó thì nó lại chỉ định một thời điểm khác trên sao Hỏa. Thật vậy, cái phạm vi khả dĩ của “ bây giờ” trên sao Hỏa đối với người quan sát gần trái đất (tùy thuộc vào chuyển động của người ấy) thực sự trải rộng trong khoảng vài phút. Khi khoảng cách đến chủ thể càng lớn thì phạm vi của “bây giờ” càng trải rộng. Đối với những chuẩn tinh (quasar) xa xăm thì “bây giờ” có thể chỉ định hàng tỷ năm. Ngay cả khi di chuyển với tốc độ như đi bộ thì cũng làm thay đổi cái ‘thời điểm hiện tai” thành hàng ngàn năm trên quasar ấy! Các nhà vật lý không xem thời gian như trôi qua mà được bày ra như một phần của ‘ không thời gian’: một cấu trúc bốn chiều được mô tả ở đây như là một tấm màn hai chiều bằng cách bỏ bớt hai chiều. Một điểm trên màn là một ‘sự cố’. Đường uốn lượn là lộ trình của các vật thể chuyển động. Đường gián đoạn là đường đi của ánh sáng được truyền đi giữa hai vật thể. Đường nằm ngang biểu thị cho mặt cắt toàn bộ không gian tại một thời điểm theo quan điểm của một quan sát viên. Một quan sát viên khác có chuyển động khác biệt sẽ có đường biểu thị nằm nghiêng. Không có ‘mặt cắt’ phổ quát biểu thị cho một “hiện tại” chung và duy nhất. Vì lý do đó mà việc chia thành qúa khứ, hiện tại và tương lai một cách phổ quát là không thể được. Sự cám dỗ vĩ đại khi cho rằng chỉ có cái hiện tại “mới thực sự hiện hữu” đã làm cho sự từ bỏ các khái niệm rạch ròi về qúa khứ, hiện tại và tương lai trở thành một bước chuyển sâu sắc. Thông thường, người ta không cần suy nghĩ và vẫn hay cho rằng tương lai chưa định hình và có lẽ không xác định còn qúa khứ thì đã qua, được ghi nhớ nhưng bị buông trôi. Người ta vẫn ao ước qúa khứ và tương lai không tồn tại. Chỉ có một thoáng thực tại dường như là xảy ra “tại lúc này”. Lý thuyết tương đối làm cho những khái niệm này trở nên vô nghĩa. Qúa khứ, hiện tại và tương lai đều thực như nhau vì qúa khứ của người này là hiện tại hoặc tương lai của người khác. Thái độ của các nhà vật lý đối với thời gian bị ràng buộc mạnh mẽ vào kinh nghiệm của họ về những hiệu ứng của tính tương đối và có thể hoàn toàn xa lạ đối với người thường, mặc dù nhà vật lý hiếm khi nghĩ kỹ về điều đó. Họ không xem thời gian như một chuỗi các biến cố xảy ra. Thay vào đó, tất cả qúa khứ, tương lai đơn thuần là ở đó và thời gian nới dài theo mỗi chiều hoàn toàn giống như không gian được trải rộng từ một vị trí riêng biệt nào đó.Thật vậy, trong lý thuyết tương đối sự so sánh này còn có ý nghĩa sâu xa hơn là sự tương tự, vì thời gian, không gian trở nên đan lẫn vào nhau không thể nào gỡ ra được và thống nhất thành cái mà các nhà vật lý vẫn gọi là không thời gian. Sự nhận thức tâm lý của chúng ta về thời gian khác xa so với những mô hình của các nhà vật lý mà ngay cả nhiều người trong số họ cũng nghi ngờ rằng đã có yếu tố ‘sống động’ nào đó bị bỏ qua. Eddington đã có lần nhận xét rằng bên cạnh những lối dẫn thông thường thông qua các thiết bị thí nghiệm và cảm xúc thì hình như đã có một thứ “cửa hậu” nào đó trong tâm trí của chúng ta mà qua đó thời gian đã đi vào. Cảm nhận của chúng ta về thời gian là một cái gì đó cơ bản hơn là những cảm nhận khác, chẳng hạn như sự định hướng trong không gian hay cảm nhận về vật chất. Nó là một cảm nhận nội tại hơn là những kinh nghiệm qua cảm xúc. Đặc biệt là, chúng ta cảm thấy sự trôi qua của thời gian - một cảm nhận rõ rệt đến độ mà nó tạo nên khía cạnhcơ bản nhất nơi kinh nghiệm của chúng ta. Nó là một cái nền động học mà dựa vào đó mọi suy nghĩ và sinh hoạt của chúng ta được nhận thức. Trong sự tìm kiếm dòng thời gian bí ẩn này, nhiều nhà khoa học đã trở nên bối rối sâu sắc. Mọi nhà vật lý đều công nhận rằng có sự bất đối xứng giữa qúa khứ và thời gian được tạo ra bời sự tác động của nguyên lý thứ hai nhiệt động lực học. Nhưng khi cơ sở của nguyên lý đó được xem xét cẩn thận thì sự bất đối xứng đó dường như bị bốc hơi. Nghịch lý này có thể được minh họa dễ dàng. Gỉa sử, trong một phòng được niêm kín có một chai nước hoa được mở nắp. Chỉ trong một lúc thì mùi thơm sẽ bốc hơi, lan tỏa khắp phòng và ai cũng ngửi được mùi thơm ấy. Sự chuyển dời từ trạng thái lỏng sang hơi- nghĩa là từ trạng thái có trật tự sang trạng thái không trật tự- là không thể đảo ngược được. Tuy vẫn biết rằng không nên mong đợi sự đảo ngược đó, chúng ta vẫn cố đợi thật lâu để cho các phân tử mùi thơm bị phân tán tự phát đó tìm đường trở về cái chai và ngưng tụ trở lại. Sự bốc hơi và phân tán cung cấp một thí dụ cổ điển về sự bất đối xứng giữa qúa khứ - tương lai. Nếu chúng ta chứng kiến một đoạn phim quay cảnh các phân tử mùi thơm quay trở về cái chai, thì ngay lập tức chúng ta biết rằng đoạn phim này được chiếu theo chiều ngược lại. Nó không thể đảo ngược được. Thế mà có một nghịch lý ở đây! Mùi thơm bị bốc hơi và phân tán dưới tác động của hàng tỷ cuộc ‘dội bom’ phân tử. Các phân tử không khí trong chuyển động nhiệt không ngưng nghỉ của nó được dùng để đập vào các phân tử mùi thơm một cách ngẫu nhiên làm chúng xê dịch và rồi bứt ra và trộn lẫn vào các phân tử không khí. Tuy nhiên, mọi va chạm riêng lẻ giữa các phân tử là qúa trình hoàn toàn có thể đảo ngược. Hai phân tử tiến đến gần, nảy ra rồi chuyển động ngược lại. Không có sự bất đối xứng về thời gian ở đó. Qúa trình đảo ngược cũng sẽ là: đến gần, nảy ra và chuyển động ngược lại. Bí ẩn của mũi tên thời gian- làm thế nào mà mối liên hệ giữa qúa khứ-tương lai xuất hiện từ sự va chạm của các phân tử, lại hoàn toàn có tính đối xứng ? - đã tác động lên trí tưởng tượng của nhiều nhà vật lý lỗi lạc.Vấn đề được đưa ra lần đầu tiên một cách rõ ràng vào khoảng cuối thế kỷ 19 bởi Ludwig Boltzmann, nhưng sự tranh cãi vẫn tiếp tục cho đến nay. Một số các nhà khoa học cho rằng có một tính chất lạ thường, phi vật chất- một dòng thời gian- chịu trách nhiệm cho mũi tên thời gian. Họ giải thích rằng các chuyển động phân tử bình thường không có khả năng để lại dấu ấn của sự bất đối xứng trên thời gian mà chỉ có thành phần thêm vào- dòng thời gian- mới chủ yếu giải thích cho tính chất bất đối xứng này. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện để tìm ra nguồn gốc của dòng thời gian này đối với những qúa trình lượng tử hay sự dãn nở của vũ trụ. Trong nhiều trường hợp niềm tin vào dòng thời gian rất gần, nhưng cũng rất thiếu rõ ràng, minh bạch như là niềm tin vào sức sống (life-force). Nguồn gốc về sự bất đối xứng của thời gian là một bí ẩn khi chúng ta xem xét vấn đề ở tầm mức nguyên tử. Sự va chạm giữa bất kỳ 2 phân tử là hoàn toàn có thể đảo ngược và không cho thấy một định hướng ưu tiên nào về qúa khứ- tương lai. Sai lầm ở đây là đã bỏ qua sự kiện: tính bất đối xứng của thời gian cũng như của sự sống chỉ là một khái niệm mang tính tổng thể và nó không thể được rút gọn thành những tính chất của những phân tử riêng lẻ. Không có sự mâu thuẫn giữa tính chất đối xứng ở mức độ phân tử và sự bất đối xứng ở thang vĩ mô. Chúng chỉ đơn thuần là hai mức độ khác nhau của sự mô tả. Người ta ngờ rằng thời gian thực sự không phải là một “dòng”. Tất cả những điều đó chỉ nằm trong đầu óc của con người. Khi chúng ta cố gắng giải thích nguồn gốc của “dòng thời gian” nằm trong sự cảm nhận, thì chúng ta cũng sẽ gặp phải những rối rắm của nghịch lý, cùng với sự lẫn lộn khi cố gắng hiểu về cái “ta”. Khó mà chống lại cảm tưởng rằng hai vấn đề này [dòng thời gian và cái ta] thực sự có liên hệ gần gũi với nhau: chỉ là một dòng thời gian mà chúng ta có thể cảm nhận về chính mình. Hofstadter đã viết về những “Cơn lốc xoáy của sự tự tham chiếu” đã tạo nên cái mà chúng ta vẫn gọi là ý thức và tự nhận thức. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng cơn lốc này dẫn dắt đến cái dòng thời gian mang tính chất tâm lý này. Đó cũng chính là lý do tại sao tôi khẳng định rằng bí mật của tâm trí chỉ được giải quyết một khi mà chúng ta hiểu rõ bí mật của thời gian. Những hình ảnh ngây ngô về thời gian được tìm thấy ở mọi nơi trong nghệ thuật cũng như văn học: mũi tên thời gian, dòng sông thời gian, chiếc xe thời gian, bước đi của thời gian…Đôi lúc người ta vẫn nói rằng cái “bây giờ” hay thời điểm hiện tại của ý thức nơi chúng ta đang di chuyển đều đặn về phía trước thông qua thời gian từ qúa khứ đến tương lai, để mà cuối cùng, năm 2050 sẽ trở thành “bây giờ”. Cũng vì lẽ đó mà thời điểm bạn biết, nó sẽ là lúc này và sẽ trôi qua, đi vào lịch sử. Đôi khi, cái “bây giờ” đã được thả neo trên một dòng sông thời gian đang trôi chảy chẳng khác gì dòng nước đang chảy qua người đứng nhìn trên bờ. Những hình ảnh này không tách rời khỏi cảm nhận về ý chí tự do. Tương lai dường như chưa định hình và như thế, nó có thể được định dạng bởi chính những tác động của chúng ta trước khi nó đến. Phải chăng những thứ này chắc chắn là những điều ngớ ngẩn? Một số vấn đề nảy sinh ngay khi người ta cố bảo vệ những hình tượng trên. Năm 2011, cuộc trao đổi giữa nhà vật lý (NVL) và người hoài nghi (NHN) diễn ra như sau:
Người ta có thể kết luận được điều gì từ cuộc trao đổi trên? Chắc chắn rằng trong việc tổ chức những công việc hằng ngày, chúng ta bị lệ thuộc nặng nề vào những khái niệm qúa khứ, hiện tại và tương lai mà chẳng bao giờ đặt câu hỏi rằng thời gian thực sự đã trôi qua hay không. Ngay cả các nhà vật lý cũng nhanh chóng sa đà vào lối nói chuyện và cách suy nghĩ như thế (như chúng ta đã thấy ở trên) một khi khả năng phân tích của họ không làm việc. Nhưng vẫn phải thừa nhận rằng, chúng ta càng xem xét kỹ lưỡng những khái niệm này thì chúng lại càng trở nên mơ hồ, khó nắm bắt để rồi tất cả những gì chúng ta nói cũng sẽ kết thúc vì sự thừa thải hay vô nghĩa. Nhà vật lý không cần đến dòng thời gian hay “cái bây giờ” trong thế giới vật lý. Thật vậy, lý thuyết tương đối đã loại bỏ khaí niệm hiện tại phổ quát đối với mọi quan sát viên. Nếu những khái niệm này có một ý nghĩa nào đó (nhiều triết gia, chẳng hạn như Mc Taggart, cũng phủ nhận chúng có ý nghĩa) thì dường như chúng thuộc về lãnh vực tâm lý hơn là vật lý. Điều này đã làm nảy sinh một vấn đề thần học đầy hấp dẫn: Phải chăng Chúa có kinh nghiệm về sự trôi chảy của thời gian? Những tín đồ Thiên chúa giáo tin rằng Chúa vĩnh cửu. Tuy nhiên, từ ngữ ”vĩnh cửu” này được sử dụng để ám chỉ 2 điều khác biệt. Trong một phiên bản đơn giản hơn, vĩnh cửu có nghĩa là kéo dài mãi mãi hay là tồn tại không có khởi đầu hay kết thúc trong một khoảng thời gian vô tận. Tuy nhiên, đã có những phản đối nghiêm trọng đối với những ý tưởng như thế. Bởi vì một vị Chúa hiện hữu trong thời gian thì phải chịu sự thay đổi. Nhưng cái gì tạo nên sự thay đổi đó? Nếu Chúa là nguyên nhân của mọi hiện hữu (như trong những biện gỉai thần học về vũ trụ) thì liệu có ý nghĩa hay không khi nói về chính cái nguyên nhân tối thượng đó cũng thay đổi? Chúng ta đã thấy rằng thời gian không phải là vấn đề đơn giản nhưng nó là một phần của vũ trụ. Nó có tính “đàn hồi” và nó có thể dãn ra hoặc co vào tuân theo các định luật toán học có nền tảng hợp lý và phụ thuộc vào vật chất. Cũng như thế, thời gian gắn liền chặt chẽ với không gian và chúng cùng nhau diễn đạt sự vận hành của trường hấp dẫn. Ngắn gọn là, cũng giống với vật chất, thời gian có mặt trong những chi tiết khó hiểu nhất của những qúa trình vật lý. Thời gian không phải là một tính chất thần thánh mà có thể bị biến đổi một cách vật lý ngay cả chỉ với những thao tác của con người. Như thế, theo một nghĩa nào đó thì một vị Chúa có mặt trong thời gian cũng bị chi phối bởi những hoạt động của vũ trụ vật lý. Thật vậy, có vẻ như là thời gian sẽ ngừng tồn tại ở một giai đoạn nào đó. Trong trường hợp đó, vị thế của Chúa hiển nhiên không còn chắc chắn. Rõ ràng là, Chúa không thể toàn năng nếu ông ta chịu sự chi phối bởi những tính chất vật lý của thời gian. Ông ta sẽ không còn được xem là sáng tạo ra vũ trụ nếu ông ấy không còn sáng tạo được thời gian. Thật vậy, vì không gian và thời gian không thể tách biệt, một vị Chúa không sáng tạo thời gian ắt hẳn cũng không sáng tạo không gian. Nhưng, như chúng ta đã thấy, một khi không thời gian hiện hữu thì sẽ có mặt của vật chất và trật tự trong vũ trụ sẽ xảy ra một cách tự động như là kết qủa của những hoạt động tư nhiên một cách hoàn hảo. Cũng vì thế mà nhiều người cho rằng thực sự không cần đến Chúa với tư cách là kẻ sáng tạo ra mọi thứ, ngoại trừ sáng tạo ra thời gian (chặt chẽ hơn phải là không thời gian). Chính vì lý do đó mà chúng ta được dẫn dắt đến ý nghĩa khác của từ ngữ vĩnh cửu: “siêu vượt thời gian” (timeless). Khái niệm về một vị Chúa siêu thời gian đã có ít nhất từ thời Augustine với những gợi ý về một vị Chúa sáng tạo ra thời gian. Lập luận này nhận được nhiều ủng hộ của các nhà thần học thiên chúa gíao. St. Anselm diễn đạt ý tưởng ấy như sau: ‘ Ngài [Chúa] không hiện hữu hôm qua, hôm nay hay ngày mai mà tồn tại một cách trực tiếp ngay bên ngoài thời gian”. Một vị Chúa vượt ngoài thời gian sẽ không có những vấn đề đã được đề cập ở trên nhưng sẽ chịu thiếu sót. Ông ta không thể là một vị Chúa mang nhân tính như có thể suy nghĩ, trò chuyện, cảm nhận, đặt kế hoạch v.v…vì tất cả những điều đó là những hoạt động mang yếu tố thời gian. Khó có thể hiểu được rằng làm thế nào một vị Chúa siêu thời gian lại có những hành động trong thời gian (mặc dù đã có những khẳng định cho rằng điều này không phải là không thể được). Chúng ta cũng đã thấy rằng sự hiện hữu của một cá thể gắn liền một cách thân thiết với kinh nghiệm về dòng thời gian. Một vị Chúa siêu thời gian không thể được quan niệm như một “người” hay một cá thể trong mọi ý nghĩa. Sự nghi ngại về sự kiện này đã dẫn một số các nhà thần học hiện đại đến chỗ từ bỏ quan niệm về một vị Chúa vĩnh cửu. Paul Tillich viết:” Nếu ta gọi Chúa là một vị Chúa sống động thì chúng ta phải khẳng định rằng ông ta có thời gian tính và vì thế sẽ có mối liên hệ với những hình thái của thời gian “. Karl Barth có cùng một ngụ ý khi viết :” Nếu không có một vị Chúa có thời gian tính thì nội dung của những thông điệp Thiên chúa giáo sẽ không có hình thù, khuôn mẫu”. Vật lý về thời gian cũng mang đến nhiều hàm ý thú vị cho niềm tin về một vị Chúa toàn năng. Nếu Chúa siêu việt thời gian thì không thể nói rằng ông ta có suy nghĩ vì việc suy tư là một hoạt động có thời gian tính. Nhưng, một hiện hữu vượt thời gian có thể có kiến thức? Việc tích lũy kiến thúc rõ ràng có dính líu tới thời gian nhưng việc biết chỉ không dính dấp tới thời gian khi chính những gì được biết đến cũng không thay đổi theo thời gian. Nếu Chúa biết, chẳng hạn như vị trí của mỗi nguyên tử hôm nay thì những kiến thức đó sẽ thay đổi vào ngày mai [nghĩa là cái biết của Chúa phải thay đổi theo thời gian-ND]. Do đó, hiểu biết một cách siêu thời gian đòi hỏi sự biết về mọi biến cố xuyên suốt thời gian. Do vậy mà tồn tại những khó khăn cơ bản và nghiêm trọng trong việc hoà giải mọi thuộc tính được gán cho Chúa. Vật lý hiện đại với những khám phá về tính chất tương hỗ của thời gian đã tạo nên một khoảng hở giữa tính chất toàn năng của Chúa với sự hiện hữu của nhân tính nơi ông ta. Khó có thể cho rằng Chúa có cả hai tính chất đó. ▪
Chú thích của người dịch: Những con số về năm đã được sửa lại cho phù hợp với hiện tại-năm 2011.Nguyên văn cuộc đối thoại xảy ra năm 1983.
| ||
|