Chuyện "Dê Cỏn Buồn Sừng"
Của Con Chiên Chu Tất Tiến
Nguyễn Mạnh Quang
http://sachhiem.net/NMQ/NMQ022.php
22 tháng 8, 2009
Thay lời tựa: ..
khi phê bình các ông bác sĩ, giáo sư, luật sư,
linh mục ... giỏi hay dở, có lương tâm hay thiếu
lương tâm thì có cần đi học bác sĩ hay học luật
không? Phải nói rằng những người muốn phê bình các ông có học vị này thì cần phải nghiên cứu những công việc mà họ đã làm, chứ không thể phê phán mà không nghiên cứu. Thí dụ người ta nghiên cứu: ông bác sĩ trị được bao nhiêu phần
trăm người khỏi bệnh, hay làm chết bao nhiêu
người; ông giáo sư dạy học sinh có nên người không,
ông quan tòa có xử lầm bao nhiêu người, ông linh mục
có đạo đức hay không ..v.v... Nhưng đâu có
ai phải có bằng luật sư mới có thể chê một luật
sư dở. Đâu có ai phải có bằng bác sĩ mới khen
một ông bác sĩ tài! Ông Chu Tất Tiến không có
khả năng phân biệt được hai khái niệm khác biệt
này..... (NMQ)
Trước
đây khoàng 2 năm, ban chủ biên sáchhiem.net được một người bạn chuyển
cho chúng tôi xem một E-mail của một người ký tên là
Chu Tất Tiến, trong đó ông ta đòi đối thọai với
Giáo-sư Trần Chung Ngọc.
Qua văn phong, cung cách, ngôn từ và tư tưởng trong
E-mail này, chúng tôi đều cho rằng tác giả là một dân Chúa
thuộc loại Hố Nai – Bùi Chu – Phát Diệm với tất cả
những đặc tính chung của họ. Chúng tôi cho rằng chuyện "đòi đối thoại"
với tác giả Giáo-sư Trần Chúng Ngọc là một chuyện khó hiểu đến buồn cười trong thế giới mà ai cũng có thể viết ra tư tưởng của mình. Những bài viết hàng ngày của chúng tôi đã chẳng phải
là những cuộc đối thoại với những
người quan tâm đến đề tài thảo luận, hoặc là đặt ra
những câu hỏi với những tác giả của thánh kinh, hay của các bài giảng, bài viết đã đăng trên các
"phương tiện truyền thông chính thống" của dân Chúa hay sao? Đâu có ai cấm
CTT nói gì hay viết gì, trái lại là khác. Khi một tác giả viết theo cung cách của một Dân Chúa, thì người đó đã có sẵn một khối đông độc giả là những con chiên trung thành sẵn sàng in, ấn, đăng tải, phổ biến, và bênh vực vô điều kiện
trên "phương tiện truyền thông chính thống" của họ.
"Đặc tính chung" của những vị Dân Chúa là thế nào?
Xin thưa, con người là sản phẩm của môi sinh nơi mà
họ sinh ra, lớn lên và học hỏi. Ông Chu Tất Tiến
sinh ra trong một gia đình dân Chúa, lớn lên và được
rèn luyện trong xã hội dân Chúa dưới quyền quản lý
hết sức chặt chẽ của Giáo Hội La Mã, tất nhiên là có
tất cả những đặc tính của con người dân Chúa do Giáo
Hội tạo nên. Đạo Thiên Chúa La Mã hay Giáo Hội La
Mã có quá nhiều tín lý, giáo luật, thánh luật cùng
những truyền thống, lế nghi đều mang nặng tính cách
huyễn hoặc, huyền bí, cưỡng bách và đều nhân danh
Chúa để lừa bịp người đời và bóc lột tín đồ. Tất cả
những ác tính ghê tởm này của Giáo Hội La Mã đã được
chúng tôi trình bày khá đầy đủ trong Chương 11 (Mục
III, Phần II) trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác
của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có tựa đề là “Bản
Chất tiếm danh (nhận vơ), ăn không nói có, lươn lẹo,
lật lọng và cưỡng từ đọat lý của Giáo Hội La Mã.”
Đọc bài viết “Xin Đừng Mắc Mưu Khiêu Khích Tôn Giáo, Một Sách Lược Của Cộng Sản ” của ông Chu
Tất Tiến đăng trên weblink anhduong ngày 22/07/2009, người viết nhận thấy ông họ Chu này có
những nét độc đáo của một dân Chúa cuồng tín mà gọi là "sống
theo lương tâm Công Giáo" y hệt như chúng tôi đã trình bày
trong chương sách 11 này. Bài viết của Giáo-sư
Trần Chung Ngọc về ông Dân Chúa Chu Tất Tiến cũng nói lên những đặc điểm đó.
Dưới đây, chúng tôi xin có một vài nhận xét về các đoạn văn trong bài viết của ông Dân Chúa này để
chúng ta cùng kiểm chứng xem tác giả CTT có những nét độc đáo
đúng như chúng tôi đã nhận xét không?
I.- Vấn đề học vị tôn giáo:
Ông Chu Tất Tiến (CTT) nói: “Người có mục đích nghiên cứu tôn
giáo phải là nguời nghiên cứu và có học vị về Tôn
giáo. Một khi muốn nghiên cứu bất cứ vấn đề gì, nhất
là vấn đề tôn giáo, nguời nghiên cứu thực sự phải
luôn áp dụng nguyên tắc khách quan và trung thực.”
Nhận xét:
a).- Cứ theo như nội dung câu văn trên đây của
ông ông Chu Tất Tiến, các học giả muốn biên khảo hay
nghiên cứu một đề tài nào trong một bộ môn văn học
nào thì phải có học vị (tức là bằng cấp đại học) về
bộ môn đó. Đây là lời tuyên bố thật là hàm hồ của một người ít học, và thiển cận. Sự thật không phải như CTT đã
nói. Bằng chứng là Việt Nam và các nước khác trên
thế giới đã từng có rất nhiều người không có học vị
về môn học mà họ khảo cứu, ấy thế mà những công
trình nghiên cứu hay chiến công của họ có giá trị
rất cao và chính những công trình hay chiến công này
đã đưa họ vào vị thế rất cao trọng
trong nền văn học của riêng
nước họ và cũng là của nhân loại. Xin kể ra đây một
số những nhân vật này:
1.- Ông Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) không có một
bằng cấp nào về sử học, không có một bằng cấp nào về
triết học và cũng không có một bằng cấp văn chương
nào cả. Thế nhưng các tác phẩm của ông về lịch sử, về
triết học, về vặn chương đều có giá trị cao và tên
tuổi ông đã được mọi người đều biết.
2.- Ông Phạm Quỳnh (1892-1945) chĩ hoàn tất xong
một khóa học thông ngôn do Liên Minh Xâm Lược Pháp –
Vatican đào tạo, chứ không có một học vị hay bằng
cấp đại học nào về chính trị và văn chương Pháp cả,
nhưng không ai phủ nhận được kiến thức uyên bác của
ông về rất nhiều lãnh vực trong văn học và chính
trị. Những tác phẩm văn học của ông vẫn còn lưu lại
trong các thư viện và văn khố Việt Nam.
3.- Ông Nghiêm Toản không có học vị hay bằng cấp
đại học nào về văn chương Việt Nam cả, nhưng kiến
thức của ông về bộ môn này không thể nói là không
uyên bác và các tác phẩm văn chương Việt Nam của ông
có gía trị cao. Vì vậy mà ông được mời dạy tại
Trường Đại Học Văn Khoa trong nhiều năm.
4.- Ông Thu Giang Nguyễn Duy Cần và Lê Văn Siêu đều
không có học vị hay bằng cấp đại học về môn triết
học Đông Phương cũng như về văn chương Việt Nam,
nhưng kiến thức về triết học Đông Phương và văn
chương Việt Nam của hai nhà học giả này không ai có
thể phủ nhận được. Cả hai người này đều đã được mời
vào dạy tại trường Đại Học Văn Khoa Sàigon trong
nhiều năm.
5.- Ông Nguyễn Đăng Thục (1908- ?) vốn là một kỹ sư
hóa học, chứ không có một học vị hay văn bằng đại
học nào về văn chương và hay triết học Đông Phương
cả. Ấy thế mà nói đến triết học Đông Phương, những
sinh viên học Đại Học Văn Khoa Sàigòn trong những
năm 1954-1975 đều phải nói đến ông. Chính ông cũng
đã từng giữ chức vụ Khoa Trưởng Đại Học Văn Khoa
Sàigòn trong nhiều năm.
6.- Ông Nhất Linh Nguyễn Tường Tam (1905-1963) chỉ
có bằng cử nhân khoa học, chứ không có một học vị
hay văn bằng đại học nào về văn chương cả. Ấy thế mà
không ai có thể phủ nhận giá trị rất cao của những
tác phẩm văn chương của ông:
Đời Mưa Gió, Lạnh Lùng, Anh Phải Sống,
Nửa Chừng Xuân, Đọan Tuyệt, Gánh Hàng Hoa.
7.- Ông Khái Hưng Trần Khánh Dư cũng không có một
học vị hay văn bằng đại học nào về văn chương cả,
nhưng những tác phẩm văn chương của ông có giá trị
rất cao mà không ai có thể phủ nhận được.
8.- Các ông Đào Duy Từ (1572-1634), Jean Jacques
Rousseau (1712-1778) người Pháp, Benjamin Franklin
(1706-1790) người Hoa Kỳ đều trở thành những thiên
tài với những tác phẩm lừng danh về quân sự, chính
trị và khoa học mà họ không hề có một học vị nào về
bộ môn văn học này.
9.- Đức Hưng Đạo Trần Quốc Tuấn, Bắc Bình Vương
Nguyễn Huệ và Đại Tướng Võ Nguyên Giáp không hề tốt
nghiệp một trường võ bị nào và cũng hề theo học
chính thức một khóa huấn luyện quân sự nào cả. Ấy
thế mà cả ba vĩ nhân này đều trở nên lừng danh về
thiên tài quân sự và chiến công hiển hách trong lịch
sử Việt Nam và lịch sử thế giới.
Ngoài các thiên tài trên đây, lịch sử Việt Nam và
lịch sử thế giới còn có rất nhiều nhân vật lừng danh
khác cũng như vậy. Tất cả các trường hợp trên đây
cho chúng ta thấy rằng muốn thành công trong lãnh
vực nào thì phải đầu tư thì giờ càng nhiều càng tốt,
phải luôn luôn nỗ lực tìm hiểu và thực tập cho thật
nhuần về lãnh vực đó, chứ không phải như ông Chu
Tất Tiến đã nói ẩu như trên.
Có thể nói rằng muốn diễn giảng độc thoại trong nhà thờ
thì phải là một linh mục, muốn làm quan tòa phải học
luật sư, muốn làm giáo sư phải học sư phạm hay
chuyên môn nào đó, muốn làm bác sĩ phải đi học môn
bác sĩ. Hoặc giả muốn tin Chúa thì nghe linh mục,
muốn thưa kiện thì phải tìm luật sư, muốn trị bệnh
tim thì phải chọn bác sĩ có bằng chuyên môn về
tim,... Nhưng khi phê bình các ông bác sĩ, giáo sư,
luật sư, linh mục ... giỏi hay dở, có lương tâm hay
thiếu lương tâm thì có cần đi học bác sĩ hay học
luật không? Phải nói rằng những người muốn phê bình
các ông có học vị này thì các nhà khảo cứu hay biên khảo
cần phải nghiên cứu những
công việc mà những nhân vật đối tượng đã làm, chứ không thể phê phán mà
không nghiên cứu. Thí dụ người ta nghiên cứu: ông
bác sĩ trị được bao nhiêu phần trăm người khỏi bệnh,
hay làm chết bao nhiêu người; ông giáo sư dạy học
sinh có nên người không, ông quan tòa có xử lầm bao
nhiêu người, ông linh mục có đạo đức hay không
..v.v... Nhưng đâu có ai phải có bằng luật sư mới có
thể chê một luật sư dở. Đâu có ai phải có bằng bác
sĩ mới khen một ông bác sĩ tài! Ông Chu Tất Tiến (CTT) đã tỏ ra
không có khả năng phân biệt được hai khái niệm khác
biệt này.
Một mặt CTT đòi người khác phải có "học vị tôn giáo mới phê bình tôn giáo", nhưng mặt khác ông lại phê bình những bài viết nghiên cứu của chúng tôi một cách thiếu căn bản khoa học, chưa nói đến
nội dung của bài viết của ông ta thì rỗng tuếch và tình trạng kiến thức về
sử học của ông ta thì quá yếu kém. Khi muốn phê bình một tác phẩm lịch sử về một
phạm vi nào, thì phải là người có trình độ kiến thức lịch sử
về phạm vi đó cao hơn trình độ kiến thức lịch sử
của tác giả có tác phẩm được đem ra mổ xẻ.
Còn CTT hay và các ông dân Chúa người Việt cuồng tín
thuộc lọai Hố Nai – Bùi Chu – Phát Diệm vốn đã
không biết gì về lịch sử thế giới cũng như về lịch
sử Giáo Hội La Mã và lịch sử Việt Nam (đặc biệt là
trong thời cận và hiện đại), thì làm sao có thể phê
bình hay thẩm định giá trị những công trình nghiên
cứu lịch sử của chúng tôi?
Thiển nghĩ rằng, vì tiếp nhận sở học qua chinh sách ngu dân và
giáo dục nhồi sọ của Nhà Thờ Vatican, cho nên tất cả
các ông dân Chúa ngoan đạo (không riêng gì CTT) đều
không được học lịch sử thế giới, không được học lịch
sử Việt Nam, đặc biệt là trong thời cận và hiện đại,
và cũng không được học lich sử Giáo Hội La Mã. Ngay cả
thánh kinh Ki-tô họ cũng chả biết gì cả, nếu có biết
thì cũng chỉ biết qua những bài giảng của các ông
linh mục giảng dạy ở nhà thờ mà thôi. Như vậy, về
lãnh vực sử học, các ông dân Chúa ngoan đạo nói
chung đều dốt đặc cán mai táu, nhất là
trong những lãnh vực mà chúng tôi đã nêu lên ở trên.
Ai cũng biết rằng người giáo viên được đào tạo trong
các ngành khoa học không thể nhẩy sang dạy các môn
học thuộc về lãnh vực văn chương hay khoa học xã hội
(Lịch Sử, Địa Lý và Công Dân) được. Các giáo sinh
Ban Việt Hán Trường Đại Sư Phạm, sau khi tốt
nghiệp chỉ có thể dạy Việt văn hay văn chương Việt
Nam, nhà trường không thể sắp xếp cho họ dạy môn
lịch sử được. Ngược lại, các giáo sinh tốt nghiệp
Ban Sử Địa từ trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn hay
ĐHSP Huế cũng không thể dạy bất kỳ môn học nào
ngoài mộn Sử Địa và Công Dân. Nếu cố ý cưỡng bách
họ dạy những môn học ngoài ngành chuyên môn của họ
là rơi vào tình trạng “chéo cẳng ngỗng” hay ”Không
có chó, bắt mèo ăn cứt”.
Viết đến đây, người viết nhớ lại chuyện là anh LýThành L.
vốn là học sinh theo học tại trường Pháp ở bậc trung học, tốt nghiệp ban Triết tại Trường Đại Học Sư
Phạm Đà Lạt vào mùa hè năm 1962 và được bổ nhậm về
dạy tại trường trung học công lập trong một tỉnh ở
miền Hậu Giang. Vì chỉ các lớp Đệ Nhất (lớp 12) mới
có môn Triết, mà trường học này chỉ có hai lớp Đệ
Nhất và có tới hai giáo viên tốt nghiệp ban Triết.
Theo quy chế, giáo viên dạy các lớp thi viết như lớp
11 vàd 12, thì phải dạy tối thiểu là 16 giờ một
tuần. Vì không đủ số giờ Triết cho các giáo viên dạy
môn học này, cho nên anh Lý Thành L. được nhà trường
sắp xếp cho dạy thêm môn Sử ở mấy lớp Đệ Lục (lớp
7).
Cho rằng môn Sử là môn dễ bao biện, anh L. chỉ
cần mua một cuốn sách giáo khoa về đọc hôm trước,
rồi đến lớp sẽ xoay sở và tùy cơ ứng biến. Rồi một
hôm, anh vào lớp, sau khi lớp học đã ngồi yên, chờ
anh bắt đầu vào đề bài giảng. Nhìn quanh lớp học,
anh trịnh trọng dõng dạc lớn tiếng giảng (cho cả lớp
khỏang 60 học sinh đều có thể nghe được) rằng:
Hôm nay, thày dạy các em bài học mới. Bài này là
“Nhị Thập Sứ Quân”. Anh vừa nói xong thì cả lớp cùng
cười. Thấy Lý Thành L. ngơ ngác hỏi: “Tại sao các em lại cười?”
Nhiều học sinh lao nhao trả lời: “Thưa thày, Thập Nhị Sứ
Quân, chứ không phải Nhị Thập Sứ Quân”.
Câu trả lời của các em học sinh đã làm cho anh nhận
thức đuợc quả tình anh rất dốt về lịch sử. Anh vội
vã xoa tay, vừa cười vừa nói, “Xin lỗi, thày lộn”.
Câu chuyện có thực
này giúp cho chúng ta suy ra để hiểu rõ về tình
trạng hiểu biết lịch sử của các ông dân Chúa người
Việt. Như đã nói ở trên, các ông Chúa cuồng tín
người Việt dốt đặc cán mai táu về môn lịch sử,
ngoaị trừ mấy bài học lịch sử đã được gạn lọc qua
cái sàng lọc của Nhà Thờ Vatican. Ngòai ra, họ còn
mang căn bệnh “dị ứng” đối với những tác phẩm lịch
sử và nhiều tác phẩm khác nói lên những sự thật
lịch sử có liên hệ đến Nhà Thờ Vatican đều bị Giáo
Hội La Mã cấm, không cho đọc. Sự kiện bộ lịch sử thế
giới do hai ông Nguyến Hiến Lê và Thiên Giang biên
soạn và phát hành vào năm 1956 ở Sàigòn bị “một
ông linh mục ở Trung yêu cầu bộ Giáo Dục cấm bán và
tịch thu hết…”, tác giả bị “mạt sát là đầu óc
đầy rác rưởi” và bị ”mật vụ rình mò”[1]
ở nơi cư ngụ là một trong những bằng chứng bất khả
phủ bác cho sự kiện này. Một bằng chứng khác nữa
được Linh-mục Trần Tam Tỉnh ghi lại trong cuốn Thập
Giá và Lưỡi Gươm với nguyên văn như sau:
"Ngọai trừ các cụm nhà thành thị dân chúng sống
lẫn lộn, người Công Giáo thường được tập trung lại
thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương,
sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây,
chọc lên trời, cao vượt khỏi lũy tre. Bị đóng khung
và được đòan ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở thành
một lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ
khi cha xứ kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo
vệ nhà thờ. Hệ thống ốc đảo đó tách biệt và cô
lập phần lớn giáo dân khỏi liên hệ với đồng bào,
thúc đẩy họ từ khước, tẩy chay bất cứ điều gì không
được Giáo Hội chính thức phê chuẩn, chẳng hạn
sách Truyện Kiều, một kiệt tác văn thơ cổ điển của
Việt Nam, hoặc các tài liệu cách mạng đều bị cho là
ngược với đạo. Cac sách của Voltaire, Montesquieu,
khỏi nói tới Các Mac, vừa bị nhà nước thuộc địa cấm,
vừa bị giáo luật khai trừ, nhưng ngay cuốn sách
thánh đã dịch ra tiếng bản xứ mà cũng chẳng ai
được biết đến (có một bản sách thánh in bằng hai thứ
tiếng La Tinh và Việt ngữ, khổ lớn, nằm trong thư
viện các chủng viện và một vài cha xứ, còn giáo dân
thì không thể rờ tới."
[2]
Với tình trạng bị cấm đoán như thế, thiết tưởng
chăng cần phải nói ra, ai cũng biết kiến thức về
lịch sử của các ông dân Chúa Người Việt như thế nào
rồi! Ấy thế mà họ lại không biết chính bàn thân của
ho dốt nát về lịch sử, mà lại còn thường ti toe nhảy
rào sang lãnh vực sử để làm thày đời, học đòi phê
bình và chê bai những tác phẩm lịch sử (có liên hệ
đến việc làm tội ác của Nhà Thờ Vatican hay của bọn
dân Chúa Việt gian) của các nhà nghiên cứu nghiêm
túc. Những người nghiên cứu như chúng tôi đã dành cả mấy chục năm gắn bó với môn sử từ
khi còn ở học đường, rồi hành nghề dạy sử, đọc sử và
viết sử liên tục cả mấy chục năm trường. Ti toe như ông CTT thì chỉ là “Múa rìu qua
mắt thợ”. Rõ ràng là “câm hay ngóng, ngọng hay nói” và làm trò hề cho thiên hạ mà thôi.
Riêng về ngành sử, muốn biên soan một tác phẩm lịch
sử, các nhà sử học khởi đầu chỉ học tổng quát các
nền văn minh cổ trên thế giới, và học các nguyên
tắc về phương pháp biên soan hay viết sử. Sau đó,
mới học về lịch sử một số quốc gia trong một vùng
văn hóa nào đó tùy theo mình chọn lựa. Sau này, muốn
viết về đề tài nào thì họ phải sưu tầm tài liệu có
liên hệ đến đề tài đó và điều nghiên cho tường tận
để nắm vững các dữ kiện liên hệ rồi sắp xếp thành
câu chuyện (tác phẩm) của họ. Vấn đề này được sử
gia Ruth Pelzda nói rõ như sau:
"Người viết sử phải đọc nhiều sách sử, báo chí
cùng các tài liệu lịch sử khác cũng như phải tìm
hiểu nhiều hình ảnh và các dụng cụ hay đồ vật khác.
Tất cả những tài liệu này giống như những mảnh vụn
dùng làm dữ kiện cho việc tìm ra những lời giải đáp
cho một ô đố chữ. Người viết sử phải thâu thập càng
nhiều dữ kiện càng tốt để rồi cố gắng sắp xếp những
dữ kiện đó thành một câu chuyện về lịch sử của mình."
Nguyên văn: “People who write about history
study all these things. They read books, letters,
newspapers, magazines, and other written things.
They look at photographs and paintings, and they
study old objects. All of these things are like
pieces of a puzzle. History writers gather as much
information as they can find. Then they try to fit
all these pieces toghether into a story."[3]
b).- Khi đề cập đến "học vị về Tôn giáo,” ông CTT nên biết học giả
Charlie Nguyễn đã
viết về kiến thức những người có học vị về "thần học"
(học vị cao cả của Công Giáo) như sau:
“Cái gọi là sự học vấn của các
trường tôn giáo hoặc sự uyên bác của học sĩ Ulama
thực chất chỉ là môn học “tán hươu tán vượn” về
những điều huyền hoặc của thần học (theology). Thần
học Hồi Giáo cũng tương tự như thần học của Do Thái
Giáo hoặc Ki-tô Giáo. Thần học là một môn học đầy
tính chất hoang tưởng, viển vông và nhảm nhí. Càng
đi sâu vào thần học, con người càng lún sâu vào “ốc
đảo tâm linh”, xa rời thực tế và đầy đặc những định
kiến sai lầm. Những mảnh bằng “Tiến Sĩ Thần Học” là
những giấy chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn của kẻ
được cấp. Chỉ đến khi có cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó
mới cảm thấy xấu hổ là đã được cấp những mảnh bằng
về thần học mà thôi.”
[4]
Phải thành thực nói rằng nếu đem so với học giả Charlie Nguyễn tức
Bùi Văn Chấn, thì kiến thức về Đạo Thiện Chúa Lã Mã cũng như về lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam của Chu Tất Tiến chỉ là hạt muối
trong Biển Thái Bình Dương. Như đã
nói ở trên, cái đặc tính chung của các ông dân Chúa
cuồng tín là thích ti toe nhẩy rào sang
lãnh vực lịch sử, lên mặt thày đời với thái độ và
giọng điệu trịch thượng lòe thiên hạ mà không biết
rằng mình chỉ là thứ “ong non ngứa nọc”, “dê
cỏn buồn sừng húc dậu thưa”, cho nên mới phát
ngôn bừa bãi như vậy.
II.- Chỗ đứng, và phương tiện truyền thông "chính thống" !
Chu Tất Tiến viết: “Hai đoạn văn mẫu trên đã cho người
đọc thấy rõ chỗ đứng của hai nhân vật này ở đâu. Và
cũng vì sự khiêu khích qúa lộ liễu cho nên những bài
viết của nhóm này không đuợc phổ biến ở bất cứ “phương
tiện truyền thông chính thống nào”, ngoại trừ
Website của chính nhóm Giao Đỉếm, Sách Hiếm, và báo
Công An Nhân Dân.”
Nhận xét:
a.-
Vấn đề "chỗ đứng" của ông CTT.
Câu văn trên đây vừa nói lên các
đặc tính hợm hĩnh, kiến thức kém cõi, vừa nói lên bản chất thiển cận thụộc lọai “ếch ngồi
đáy giếng” của CTT.
Xin hỏi CTT đặt ra vấn đề chỗ đứng của chúng tôi,
vậy chỗ đứng này là chỗ đứng trong phạm vi nào? Hơn
nữa, lấy tư cách gì mà CTT thẩm định chỗ đứng của những
người biên soạn sách sử (về Giáo Hội La Mã) như
chúng tôi trong khi kiến thức sử học về Giáo Hội La
Mã của CTT chỉ là con số không vĩ đại. CTT hoàn tòan
không biết gì về bàn tay máu của “Cái Giáo Hội Khốn
Nạn”[5]
này trong dòng lịch sử của nhân loại và cũng không biết gì
về vai trò của Nhà Thờ Vatican trong dòng lịch sử Việt Nam từ cuối
thế kỷ 18 cho đến ngày nay.
Tình trạng không biết gì về lãnh vực chuyên môn của
người ta mà cứ hăm hở nhẩy vào lên
mặt thày đời ti
toe dạy người ta để tỏ ra mình là người thông kim
bác cổ như ông dân Chúa CTT khiến cho người viết
nghĩ đến các lớp học "dự bị
hôn nhân” do các ông linh mục phụ trách giảng
dạy. Điều khôi hài là
các linh mục là những người không hề bao giờ nếm mùi đời
sống hạnh phúc lứa đôi và đời sống gia đình mà lại
được Nhà Thờ Vatican giao cho phụ trách những lớp
học dạy về đời sống hạnh phúc vợ chồng cho những
thanh thiếu niên sắp lập gia đình. Hồi năm 1958,
người viết có theo một người bạn đến tham dự lớp
học như vậy (ở Nhà Thờ Cứu Thế nằm trên Đường Kỳ Đồng, Sàigòn) và nhận thấy ông linh mục dạy lớp học
này cứ ba hoa chích chòe giống y hệt như mấy chàng ở
tuổi trên dưới hai mươi trổ tài tán gái và nói
những điều đáng lý ra các nhà tu hành chân chính
không được phép nói ra.
Với tình trạng tu hành như
vậy, chả trách nào các ông tu sĩ Da-tô nổi danh về
làm tình bậy bạ với nữ tín đồ và sờ mó các em nhỏ
phụ giúp rước lễ ở Nhà Thờ.
Nói về thành tích của các ngài tu sĩ áo đen sờ mó
các em vị thành niên và làm tình bậy bạ với các nữ
tu và nữ tín đồ, sách Vicars of Christ ghi nhận:
"Tình trạng nam nữ chung chạ bừa bãi lan tràn
trong khắp các nam và nữ tu viện. (Thánh) Ivo
Chartre (1040-1115) cho biết toàn thể các nữ tu viện
chỉ là những nữ tù nhân mang danh là "các dì phước"
mà thôi. Họ thường là những đứa trẻ bị gia đình bỏ
rơi và thực sự đã trở thành những cô gái điếm."
Nguyên văn: "Promiscuity was rife in
monasteries and convents. The great Ivo of Chartres
(1040-1115) tells of whole convents with inmmates
who were nuns only in name. They had often abandoned
by their families and were really prostitutes."[6]
"Trong thế kỷ thứ 9, nhiều tu viện
là những sào huyệt của những người đồng tình luyến
ái; nhiều nữ tu viện là những ổ điếm (nhà thổ) nơi
mà những trẻ sơ sinh đều bị giết rồi đem chôn ở
ngay trong đó. Các sử gia nói rằng từ khi Đế Quốc
La Mã sụp đổ, Tây Phương không giết các trẻ sơ sinh
nhiều như vậy, ngoại trừ ở trong các nữ tu viện. Hội
Nghị nhóm họp ở Aix- la- Chapelle vào năm 836 đã
công khai thú nhận điều này. Về phần các ông tu sĩ
Gia-tô thèm khát làm tình (giải quyết vấn đề sinh
lý), họ thường bị tố cáo về tội ác loạn luân đến nỗi
rằng họ bị cấm không được ở cùng nhà với mẹ, cô hay
dì và chị em gái của họ. Những trẻ sơ sinh do hậu
quả của các vụ loạn luân thường bị chính các ông tu
sĩ giết chết. Con số này rất nhiều và đã được một
vị giám mục người Pháp ghi vào hồ sơ. tài liệu."
Nguyên văn: "In the ninth century, many
monasteries were the haunts of homosexuals, many
convents were brothels in which babies were killed
and buried. Since the end of the Roman Empire,
historians say that infanticide was probably not
practised in the West on any great scale - except in
convents. The Council of Aix-la-Chapelle in the year
836 openly admitted it. As to sex-starved secular
clergy, they were so often accused of incest that
they were at length forbidden even to have mothers,
aunts or sisters living in their house. Children,
the fruits of incest, were killed by the clergy, as
many a French prelate put on record."
[7].
“Một bản thống kê cho biết: một xứ có 900 ngàn
dân mà có tới 3 ngàn tu sĩ; và cứ 2 trong 5
(40%) đứa con hoang là con của các ông tu sĩ."
("One amazing statistic emerges: in a country of
900,000 people, there were 3,000 clergy; and yet
two out of five bastards were born to the
clergy.")
[8]
Còn nhiều chuyện động trời hơn nữa. Hầu hết những
chuyện này đã được chúng tôi trình bày khá đầy đủ
trong các Chương 13, 14, 15, 16 và 17 (Mục V và Mục
VI, Phần II) trong bộ sách Lịch Sử và Hội Sơ Tội Ác
của Giáo Hội La Mã.
Phải chăng đây là một đặc tính chung của nền văn hóa
Vatican dân Chúa người Việt?
b.-
Vấn đề phương tiện truyền thông "chính thống"
Chu Tất Tiến cho rằng các “Website của chính
nhóm Giao Đỉếm, Sách Hiếm, và báo Công An Nhân Dân”
là “không có chính thống” (chủ quan, võ đóan
và hợm hĩnh), nhưng lại nhìn nhận rằng có rất nhiều
người tiếp tay phổ biến. Sự kiện này
cho thấy rằng những công trình khảo luận của chúng
tôi dù là bị Nhà Thờ Vatican cũng như các ông dân
Chúa và những người chống Cộng cực đoan dùng trăm
phương ngàn kế để ngăn chặn, không cho phổ biến bằng
cách khống chế các phương tiện truyền thông Việt
ngữ ở hải ngoại, chụp mũ chúng tôi là Cộng Sản và
bịa đặt ra hàng rừng chuyện xấu xa và tội ác để gán
cho chúng tôi, ấy thế mà vẫn có nhiều người tìm đọc. Điều này chứng tỏ rằng "hữu xạ tự nhiên hương", có những độc giả
không những rất thích thú tìm đọc những bài viết của
chúng tôi, mà còn tự động tiếp tay chúng tôi để phổ
biến cho mọi người cùng đọc, cùng thưởng thức.
Ông CTT dựa trên căn bản nào để gọi một phương tiện truyền thông nào đó là chính thống? Cái
cụm từ "phương tiện truyền thông chính thống" của
CTT có giá trị gì?
CTT thử nói cho chúng tôi biết “Phải
có điều kiện hay tiêu chuẩn như thế nào, thì mới
được gọi là phương tiện truyền thông chính thống?”
- báo Công Giáo, hay báo Phật Giáo,
- báo chống cộng, hay báo thân cộng,
- báo có quảng cáo hay báo không quảng cáo,
- báo trong nước hay báo hải ngoại,
- báo có tiền chính phủ Hoa kỳ tài trợ, hay báo không có tài trợ ? Tuyên bố của ông hòan toàn vu vơ, chẳng có cơ sở chút nào.
Đối với chúng tôi, nếu phải dùng chữ "chính thống" cho phương tiện truyền thông thì phải trả lời cho câu hỏi sau đây:
Truyền thông những bài viết theo "niềm tin", đầy "xúc
cảm" thiếu "dẫn chứng", ngụy tạo thông tin; hay truyền thông
chỉ đăng những bài viết nghiên cứu, có căn bản và
nguyên tắc, tài liệu xác thực, chắc chắn...?
Dã tâm của CTT khi sử dụng cụm từ “phương tiện truyền thống
chính thống” là có thâm ý cho rằng “các website
của chính nhóm Giao Đỉếm, Sách Hiếm, và báo Công An
Nhân” là không chính thống, là ngụy, tức là
không có giá trị, và bảo rằng không có ai thèm đọc.
Nếu các websites đăng những bài viết của chúng tôi
là những websites “ngụy” hay “không có chính thống”
và chẳng có ai thèm đọc, vậy thì TẠI SAO Chu Tất
Tiến lại phải mất thì giờ và khổ công viết bài “Xin
đừng mắc mưu khiêu khích tôn giáo, một sách lược của
Cộng Sản” rồi đưa lên đăng trên khắp các diễn đàn chống Cộng?
Một khi đã
gán cho chúng tôi là phi chính thống hay là ngụy
rồi, thì các ông dân Chúa nói chung, CTT nói riêng
mới dễ dàng gán cho chúng tôi tất cả những gì xấu xa
nhất với dã tâm đánh lạc hướng những người chưa biết
rõ hay không biết gì về những rặng núi tội ác của
Giáo Hội La Mã và của dân Chúa Việt Nam đã liên tục
chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam trong mấy thế
kỷ vừa qua và cho đến ngày nay vẫn còn tiếp tục đánh
phá dân tộc và chính quyền Việt Nam ta.
Luận điệu của Chu Tất Tiến về “chính thống” và “phi
chính thống” hay “ngụy” trên đây khiến cho chúng tôi
nhớ lại về chuyện “chính thống” và “ngụy” trong
những cuộc chiến giữa các phe phái trong giáo triều
Vatican để tranh giành ngôi vị giáo hoàng. Chuyện
này đã được chúng tôi trình bày khá đầy đủ trong
Chương 14, Mục V, Phần II trong bộ sách Lịch Sử Hồ
Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã và đã được phổ biến
trên giaodiemonline.com trước đây. Xin ghi lại đây
một vài đọan ngắn trong chương sách này để độc giả
thấy rằng cái cung cách của CTT có hàm ý gọi chúng
tôi là “ngụy” là một thói quen trong nếp sống văn
hóa trong xã hội dân Chúa.
Giáo Hội La Mã là một trung tâm quyền lực nắm trọn
cả thế quyền lẫn thần quyền, quyền hành bao trùm gần
trọn Tây và Nam Âu, bao trùm luôn cả các thuộc địa
của các đế quốc Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp và Bỉ
ở các Châu Phi, Châu Mỹ và Châu Á, thì tất nhiên là
vấn đề thanh toán và tàn sát lẫn nhau để chiếm giữ
quyền lực lại càng quyết liệt hơn và ghê gớm hơn.
Tình trạng này đã xẩy ra ngay từ thế kỷ 4, cho đến
ngày nay vẫn còn tiếp diễn. Sách sử không những chỉ
ghi lại những chuyện tranh chấp thanh toán lẫn nhau
đề giành giật quyền lực rồi tàn sát phe chiến bại để
trả thù, mà còn ghi lại đầy đủ cả những chuyện các
ông giáo hoàng và các vị chức sắc cao cấp trong
giáo triều Vatican sống đời phóng đãng, lọan luân,
dâm loàn hết sức là kinh khủng, tất cả đều tinh vi,
đều thâm độc, đều dã man đến cùng mức của dã man,
càng về sau mức độ dã man càng tinh vi và càng siêu
việt.
Ngoài những việc làm cực kỳ ghê tởm trên đây, các
nhà lãnh đạo Giáo Hội La Mã còn có những ác tính
giống như những ác tính được mô tả rõ ràng về bố con
ông Chúa Jehovah của họ ở trong Thánh Kinh. Có thể
vì ảnh hưởng sâu nặng bởi Thánh Kinh mà họ trở thành
những người mang nặng những ác tính như đố kị, tị
hiềm, ganh ghét, rồi chia bè lập đảng đánh phá tàn
sát lẫn nhau để tranh giành quyền lực. Sách sử đều
ghi chép rõ ràng là từ giáo hoàng cho đến các hồng
y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, sư huynh và
giáo dân (ngoan đạo) đều có những ác tính như ganh
ghét, đó kị, tị hiềm, huênh hoang, khoác lác, khoe
khoang, thiển cận, ích kỷ, tham lam, háo danh, thèm
khát quyền lực, lấn lướt, vơ vào, luôn luôn đòi
chiếm lấy phần hơn trong bất cứ lãnh vực nào. Từ
những chuyện nhỏ mọn như có men hay không có men
trong bánh thánh, tới một chi tiết nhỏ nhặt trong
tín lý Chúa Ba Ngôi được phịa ra tại Hôi Nghi Nicaea
khai nhóm vào ngày 20/5/325, chuyện có nên thờ Bà
Maria hay không, cho đến nghi thức trong đạo và đặc
biệt là quyền lực của ngôi vị giáo chủ đều có tranh
giành hơn thua, cãi lộn, không ai nhường ai, rốt
cuộc rồi đi đến đấm đá, thanh toán, tàn sát lẫn nhau
giống như đám anh chị ở khu Chợ Cầu Muối, Sàigòn.
Một thí dụ điển hình cho những ác tính này là chuyện
bất đồng chính kiến với nhau về một chi tiết nhỏ
trong việc bịa đặt ra tín lý Chúa Ba Ngôi tại Hội
Nghị Nicaea, họ cũng chụp mũ cho nhau là tà giáo và
trục xuất ra khỏi hội nghị rồi “diệt tận gốc,
trốc tận rễ” phe chiến bại.
[9]
Màn chụp mũ và trục xuất Giám-mục Arius và những
nguời đồng quan điểm với ông vừa trình diễn xong thì
đến màn sử dụng bạo lực để tiêu diệt họ. Sự kiện
này được ông Charlie Nguyễn ghi lại như sau:
"Năm 340, Đế Quốc La Mã tiêu diệt hết các giáo
phái Kitô đi ngược lại các giáo điều của Hội Nghị
Nicaea do Hoàng Đế Constantine triệu tập vào năm 325
và chính thức đặt tên cho Giáo Hội Kitô mới của toàn
đế quốc là Công Giáo (tiếng La-tinh là Catholica,
tiếng Hy Lạp là Katholicos, có nghĩa là tôn giáo của
hoàn câu). Saint Cyril of Jerusalem đã viết như sau:
"Tất cả mọi người thờ Chúa đều phải qui tụ trong một
hệ thống thiêng liêng đặt dưới quyền cai trị của
Giáo Hoàng La Mã. Bất cứ ai không phải là thành viên
của Giáo Hội đều bị vứt bỏ ra khỏi cuộc đời này và
điều quan trọng hơn là bị vứt bỏ ra đời sau". (All
who worshiped God were united in one sacramental
system under the government of the Roman Pontiff.
Anyone not a member of the Church must be cast out
of this life and more important, out of next). Đây
là một lệnh cưỡng bức toàn dân thuộc đế quốc phải
theo đạo Công Giáo. Mọi người chống đối đều bị giết.
Riêng những người Kitô thuộc giáo phái Arius (Arian
Christians) bị giết trên 3.000 người."[10]
Vì thấm nhuần cái đạo lý dựa trên căn bản gian dối,
lừa bịp, phi luân, loạn luân và dựa trên bạo
lực của Thánh Kinh và của Nhà Thờ Vatican, cho nên
chính những người có quyền lực trong Nhà Thờ Vatican
luôn luôn tìm cách loại trừ những tu sĩ đối thủ mà
họ nghi là có thể tranh đoạt mất chức vụ hay địa vị
có quyền lực của họ. Cũng vì thế mà hầu như tất cả
giáo sĩ trong cùng một Nhà Thờ, trong cùng một giáo
khu, trong cùng một giáo phận lúc nào cũng ghìm nhau
và tìm mưu tính kế để chuẩn bị giáng cho đối phương
những đòn ác độc nhất[11].
Sự kiện này đều được ghi lại rõ ràng trong sách sử.
Sách Vicars of Christ viết:
"Sự thù nghịch bộc phát thành những cuộc chiến
tiêu diệt lẫn nhau thường xẩy ra vào khi có giáo
hoàng qua đời. Thi dụ, khi (Giáo Hoàng) Liberius
(352-366) chết vào năm 366, giáo triều chia làm hai
phe, mỗi phe chọn một người của phe mình lên kế
vị. Ursinus là giáo hoàng của một phe và Damasus
là giáo hoàng của phe khác. Sau khi đánh nhau ở
ngoài đường phố, phe Ursinus yếu thế, chạy vào trong
nhà thờ St Mary Major (thường gọi là Thánh Đường Đức
Bà Bạch Tuyết) rồi đóng cửa lại tử thủ. Phe
Damasus tiến tới, trèo lên nóc nhà thờ đục lỗ, rồi
dùng ngói và đá liệng xuống tấn công phe Ursinus.
Đồng thời, một toán khác của phe Damasus tấn công
vào trong qua cửa chính. Khi lọt được vào trong, hai
bên ra sức chém giết lẫn nhau liên tiếp trong ba
ngày. Cuối cùng, có tới 137 xác chết khiêng ra
ngoài. Tất cả xác chết này đều là người của phe
Ursinus. Ursinus bị bắt cho đi sống lưu vong, nhưng
tội ác ở trong thánh đường Mary Major là vết nhơ
trong thời Giáo Hoàng Damasus mãi mãi vẫn còn ghi
trong sách sử." Nguyên văn: “Bitter
rivalries often showed themselves on the death of a
pope. For example, when Liberius (352-366) died in
366, two factions elected a successor. Ursinus was
one pope. Damasus was the other. After a lot of
street fighting, Ursinus ‘ followers locked
themselves in the recently completed basilica of St
Mary Major, known as “Our Lady of Snow”. Damasus’
supporters climed on the roof, made a hole in it and
bombarded the occupants with tiles and stones.
Others meanwhile were attacking the main door. When
this caved in, a bloody fight ensued for three
days. At the end of it, 137 bodies were carried out,
all of them followers of Ursinus. Ursinus was sent
into exile by the emperor’s representative, but the
crime in Mary Major was a permanent blot on Damasus’
copybook.”
[12]
Càng về sau, Giáo Hội càng lấn lướt các thế quyền
các nước Âu Châu, cho nên Giáo Hội lại càng có nhiều
quyền lực hơn và nhiều tài sản hơn. Quyền lực và tài
sản càng nhiều, thì sự xung đột tranh chấp và thanh
toán lẫn nhau càng xẩy ra nhiều hơn và càng khốc
liệt hơn trước. Muốn biết rõ tình trạng này như thế
nào, chúng ta chỉ cần nhìn vào danh sách các giáo
hoàng trong cuốn Vicars of Christ của Giáo-sĩ
Peter de Rosa (New York, Crown Publishers, Inc.,
1988), rồi đếm xem có bao nhiêu ông ngụy giáo
hoàng (antipopes) để suy nghiệm ra là có bấy
nhiêu lần các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều
Vatican chia bè lập đảng tàn sát thanh toán lẫn nhau
để giành chiếm ngôi vị giáo hoàng. Theo tài liệu
này, người viết tính ra có tới 37 ông ngụy giáo
hoàng, tức là có tới 37 lần các ông mang chức
thánh cao cấp nhất trong Giáo Hội chia thành hai hay
ba phe đảng, mỗi phe, chiếm cứ một vùng xưng hùng
xưng bá, thành lập giáo triều riêng, tự xưng là
chính thống, gọi đối phương là ngụy, rồi phát động
những chiến dịch tấn công "diệt tận gốc, trốc tận
rễ "các phe thù địch và những thành phần đối
kháng, y hệt như tình trạng nước Việt Nam ta
vào thời Thập Nhị Sứ Quân trong thế kỷ X, thời Nam
Triều - Bắc Triều (1533-1592), thời Trịnh Nguyễn
Phân Tranh (1627-1775), và trong những năm
1954-1975.
Ngoài 37 lần chia phe chia phái rồi tàn sát tiêu
diệt lẫn nhau như vậy, lại còn có rất nhiều vụ các
vị chức sắc cao cấp trong giới lãnh đạo của Giáo Hội
ngấm ngầm thanh toán và tàn sát lẫn nhau hết
sức dã man để tranh thắng và chiếm giữ ngôi vị giáo
hoàng.
Còn nhiều nữa, xin xem Chương 14 như đã nói ở trên.
Ta có thể ví Giáo Hội La Mã được coi như tổ chức
tội ác Bình Xuyên của Bảy Viễn ở Sàigòn trong những
năm 1949-1955 được phát triển thành một tổ chức đại
quy mô, được trang bị bằng một hệ thống tín lý Ki-tô
bịp bợm, được điều hành bằng những binh đoàn quạ đen
và được tiến hành bằng sách lược cấu kết với các
cường quyền và đế quốc thực dân xâm lược Âu Mỹ để
củng cố quyền lực và bành trướng thế lực.
III.- Cách viết tên người không hoa.
Chu Tất Tiến nói tiếp rằng:
“Những nguời tiếp tay phổ biển loạt
bài này có thể là những nhân vật từng đăng những bài
ca tụng Cộng Sản như “duyên dáng trinh, hòa bình,
chế trung hiếu, chế trung hành”, hoặc là các chuyên
viên đánh phá trên diễn đàn như “aladin, lỗ trí
thâm, bernard chang”, hay một vài nhân vật mới xuất
hiện như “hoàng thục an, thiên lý.”
Nhận xét:
Chu Tất Tiến tự nhận là nhà văn, lại được Nha
Chiến Tranh Tâm Lý của chính quyền miền Nam biệt
phái cho theo học Trường Quốc Gia Hành Chánh (không
biết có hoàn tất không) và đã học qua 1 hay 2 năm
đại học ở Hoa Kỳ. Ấy thế mà không hiểu TẠI SAO những
danh từ riêng như “duyên dáng trinh, hòa bình,
chế trung hiếu, chế trung hành, hoàng thục an, thiên
lý” CTT lại không viết hoa (capitalized)? Trong
khi đó thì những từ như giáo hoàng, đức cha, đức
hồng y đứng độc lập (không có kèm theo tên của một
cá nhân nào), thì CTT và các ông dân Chúa người Việt
lại viết hoa để tỏ lòng trịnh trọng tôn kính của họ
đối với các tước vị (title) này bất kể là có đúng
với quy tắc văn phạm hay không. Độc giả có thể kiểm
chứng những ấn phẩm của các ông dân Chúa người Việt
thì sẽ thấy rõ vấn đề này.
Với trình độ học vấn như trên mà CTT lại cố tình
viết lách như vậy, thì những ông dân Chúa chưa học
hết lớp 9 sẽ viết lách như thế nào?
IV.- Chữ nào mạ lị: "Ca-tô" hay "Con chiên" ?
Chu Tất Tiến viết:“Ở đây, các bài viết về Thiên Chúa
Giáo (Công Giáo, Tin Lành) do các tác giả đăng đều
không có đức tính này mà hoàn toàn là chủ động “tấn
công” Thiên Chúa Giáo với những chủ quan của họ, khi
xử dụng ngôn từ mạ lị nhiều hơn đồng thời dẫn chứng
lệch lạc những nguồn khảo cứu. Có lẽ cả trăm năm
nay, nguời Công Giáo không hề nhận mình là theo đạo
“Catô”, “Da Tô”, hay “Gia Tô.”
Nhận xét:
A.-
Thì ra con chiên Chu Tất Tiến thực sự chỉ thích Giáo Hội La
Mã gọi mình là con chiên, con cừu non (một lòai thú di
chuyển bằng 4 chân và ngu nhất trong các lòai thú). Bị
khinh miệt như vậy mà CTT và các ông dân Chúa ngoan đạo không những đã không
cảm thấy "bị mạ lị" "nhục mạ" mà còn tỏ ra hãnh diện. Ấy thế mà khi chúng
tôi sử dụng từ Ca-tô" thì CTT và các ông dân Chúa người Việt lại cảm thấy "bị mạ
lị"! Điều này chứng tỏ rằng CTT và các ông dân Chúa người Việt quả thật xứng
đáng là "bọn cừu non" (con chiên). Người Việt Nam ta có thành ngữ "ngu
như con cừu". Là con cừu (hiểu là con cừu đã trưởng thành) đã ngu rồi, thì
tất nhiên con cừu non (co chiên) còn ngu hơn nữa.
Vì không biết gì ngoài những tín lý nhồi sọ trong nhà thờ,
cho nên CTT mới không biết rằng chữ Ca-tô chỉ là
hình thức thu gọn của chữ Catholic. Ngày nay, trong
đà tiến hóa của nhân loại, có rất nhiều từ đơn (có
nhiều âm), từ kép và cụm từ thường được thu ngắn
lại để cho gọn, chẳng hạn như danh xưng “Việt Nam”
nhiều khi được thu gọn lại, gọi là “Việt”, cho nên
nựớc Việt Nam thì được gọi là nước Việt, người Việt
Nam thì được gọi tắt là người Việt. Tổng Tô Xuyên
thì được tắt là Tổng Tô, Điện Biên Phủ thì được gọi
tắt là Điện Biên, nước Czechoslovakia thì được gọi
tắt là nước Czech. Đặc biệt là tiếng Mỹ, Richard
thì được gọi là Dick, Robert thì gọi tắt là Bob,
Gregory thì gọi là Greg, Washington Universsity thì
được gọi là UW. Người Âu Châu gọi tắt chữ
Catholic là “Cat” (hiểu theo tiếng Anh là con mèo).
Như vậy, anh em chúng tôi gọi là Catholic là Ca-tô,
thì cũng chỉ là một sự rất bình thường mà không có
một hàm ý mỉa mai và hạ nhục, chứ không như người
Pháp gọi các ông tu sĩ Da-tô là “les corbeaux
noirs”, văn hào Voltaire gọi đạo đạo Thiên Chúa
La Mã là “cái tôn giáo ác ôn”[14],
học giả Henri Guillemin gọi Giáo Hội La Mã là “Cái
Giáo Hội Khốn Nạn”[15],
và học giả Da-tô Charlie Nguyễn gọi nó là “đạo máu”
và “đạo bịp”.[16]
B.- Vì dốt quá cho nên CTT mới không biểt rằng
trước năm 1954, người Việt Nam (trong đó có dân
Chúa) vẫn thường gọi đạo Thiên Chúa La Mã là đạo
Gia-tô hay Da-tô, và đạo Cơ đốc. Bằng cớ là:
1.- Những cuốn sử Việt Nam được biên soạn từ đầu
thập niên 1960 trở về trước đều gọi đạo Thiên Chúa
La Mã là đạo Gia-tô hay Da-tô, hoặc đạo Cơ-đốc hay
đao Ki-tô. Chu Tất Tiến có thể tìm đọc cuốn Việt Nam
Sử Lược - Quyền II (trang 99 – dòng chót, trang 100 –
dòng 7) của sử gia Trần Trọng Kim hay cuốn Việt Sử
Toàn Thư (các trang 580 – dòng 3, dòng 13, của sử
gia Phạm Văn Sơn thì sẽ thấy rõ như vậy.
2.- Tác giả Nguyễn Hy Thần viết trong bài Danh Tử
“Công Giáo” Chữ và Nghĩa” trong đó có một đoạn như
sau:
“Sách báo Việt Nam viết trước thập niên 60 (1960)
khi đề cập đến Catholics thì dùng chữ Thiên Chúa
Giáo, đạo Gia-tô, đạo Ki-tô hay đạo Cơ Đốc. Viết về
đạo Catholics, cuốn Việt Nam Văn Hóa Sử Cương của
Đào Duy Anh (viết năm 1938) nói rằng: “Từ thế kỷ 17,
Cơ Đốc giáo do các giáo sĩ Bồ Đào Nha và Pháp Lan
Tây truyền sang thì ở nước ta lại có thêm một thứ
tôn giáo mới là La Mã giáo.
Toàn bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (viết
vào khoảng 1950) không hề dùng chữ công giáo. Những
danh từ công giáo cũng vắng bong trong những tác
phẩm văn học viết trước thập niên 50 (1950).
Như vậy, qua sự tìm hiểu đặt trên căn bản ngôn
ngữ học bên trên cũng thừa để kết luận rằng chữ
“công giáo” được bắt đầu dùng để chỉ Cơ Đốc
(Catholics) vào cuối thập niên 50 (1950) hoặc đầu 60
(1960).”
[17]
3.- Linh-mục Vũ Đình Họat viết trong sách Việt Nam
Tôn Giáo Chính Trị Quan Tập II như sau:
"Nếu nói hoặc viết chỉ nguyên Công giáo mà thôi,
thì đó phải hiểu và bắt buộc phải hiểu chứ không thể
hiểu khác đi được: đó chính là Giáo Hội La Mã hoặc
Vatican mà Đức Giáo Hoàng là vị lãnh đạo tinh thần
tối cao của toàn thể Thế Giới Công Giáo. Riêng tại
Việt Nam kể từ năm 1533 cho đến năm 1954 khi
mà các danh từ Thần Học và Kinh Thánh chưa
được Hàn Lâm Viện Hóa, nói cách khác chưa được Đại
Chủng Viện thuần túy Việt Nam dịch thuật các sách
giáo khoa và Phụng Vụ cũng như Kinh Thánh các danh
từ cổ như Thiên Chúa Giáo hoặc Gia Tô Giáo trong các
sách vở lịch sử hay "Nhà Đạo" vẫn được hiểu cách
chung là Đạo Công Giáo, vì lẽ khi đó chưa có đạo Tin
Lành trên đất nước Việt Nam, và các nhà truyền giáo
cũng chỉ nguyên thuộc Hội Truyền Giáo Thừa Sai Ba Lê
(MEP) mà thôi. Kể từ năm 1954 về sau này khi
mà đã có Đại Chủng Viện Việt Nam chuyên môn dịch các
sách Kinh Đạo Thần (Kinh Thánh, Đạo Đức và Thần
Học), lúc ấy mới có sự phân biệt rõ "Công Giáo"
(Catholic), bắt nguồn từ Kinh Tin Kính "Tôi tin có
Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông
truyền". (Sách lễ giáo dân sở di trú và tị nạn USCC.
Hoa Thịnh Đốn, trang 1370). Vậy kể từ năm 1954
về sau này, các sách vở Việt Nam, nếu
muốn trực chỉ nguyên Giáo Hội la Mã hoặc Vatican,
thì bắt buộc phải dùng danh từ Công Giáo (Catholic),
chứ không thể nào dùng danh từ Thiên Chúa Giáo hoặc
Gia- tô hoặc Ki Tô được."[18]
Mấy bản văn trên đây cho chúng ta thấy rõ cho mãi
đến cuối năm 1954, từ Công Giáo mới bắt đầu công
khai xuất hiện trên các sách báo. Có thể trước đó từ này (Công
Giáo)
chỉ xuất hiện trong các xóm đạo mà thôi. Sau khi cấu
kết với Hoa Kỳ đưa Ngô Đình Diệm về Việt Nam cầm
quyền, Giáo Hội La Mã mới dựa vào bạo lực của chính
quyền này để đại chúng hóa từ “Công Giáo” nhằm thay
thế cho từ “Da-tô” hay “Gia-tô” bằng cách chỉ sử
dụng từ “Công Giáo” trong các văn thư hành chánh,
sách báo và các bài học trong các sách giáo khoa ở
học đường. Đây là một trong những thủ đọan cưỡng từ
đọat lý của Giáo Hội La Mã. Kể từ đó từ “Công Giáo”
mới trở thành phổ quát.
V- "Tấn công" hay "sự thật khó chấp nhận"?
Chu Tất Tiến bảo rằng:
“Ở đây, các bài viết về Thiên Chúa
Giáo (Công Giáo, Tin Lành) do các tác giả đăng đều
không có đức tính này (đức tính trung thực) mà hoàn
toàn là chủ động “tấn công” Thiên Chúa Giáo với
những chủ quan của họ, khi xử dụng ngôn từ mạ lị
nhiều hơn đồng thời dẫn chứng lệch lạc những nguồn
khảo cứu.”
Nhận xét:
a.- Về cụm từ “chủ động tấn công Thiên Chúa Giáo…”
Nho Giáo dạy rằng “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân”
và chính những người dân Chúa mỗi lần đi dự lễ ở nhà
thờ cũng đều nhắc đi nhắc lại câu nói: “lỗi tại
tôi mọi đằng, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi…” Vậy
thì đáng lý ra Chu Tất Tiến phải đấm ngược đặt ra
vấn đề là:
Thiên Chúa Giáo (La Mã) và Tin Lành đã có những hành
động tội ác ghê tởm như thế nào khiến cho chúng tôi
phải tấn công?
Tại sao chúng tối không tấn công Ấn Độ Giáo, không
tấn công Thần Đạo của Nhật Bản, không tấn công đạo
Cao Đài, không tấn công đạo Hòa Hảo, không tấn công
đạo Khổng, không tấn công đạo Phật, mà lại tấn công
Thiên Chúa Giáo và Tin Lành?
Chu Tất Tiến và tất cả các ông dân Chúa đều sợ không
dám đặt ra các câu hỏi như trên. Lý do là nếu đặt ra
một câu hỏi như vậy, thì chúng tôi sẽ trả lời rằng:
Giáo Hội La Mã và dân Chúa cuồng tín đã gây nên hàng
chục rặng núi tội ác chống lại nhân loại trong gần
hai ngàn năm qua, cho nên chúng tôi mới phải bỏ ra
hàng chục năm nghiên cứu các tài liệu nói về những
rặng núi tội ác này của Giáo Hội để biên soạn thành
sách rồi công bố cho mọi người cùng biết.
Cũng nên biết cũng vì những rặng núi tội ác này mà
khi còn sống, mỗi lần đến thăm viếng một quốc gia
nạn nhân nào của Giáo Hội La Mã, Giáo Hòang John
Paul II (1978-2005) cũng phải xin lỗi lia lịa, tính
ra tất cả có tới cả hơn môt trăm lần. Rồi Ngài lại
ra lệnh cho tổ chức một buổi đại lễ hết sức long
trọng tại Quảng Trường Peter vào ngày Chủ Nhật
12/3/2000 để chính Ngài và các vị chức sắc cao cấp
trong giáo triều đứng cáo thú những rặng núi tội ác
với Chúa (sic) trước sự chứng kiến của gần một triệu
người tại chỗ và hàng trăm triệu người khác theo dõi
quan các màn ảnh truyền hình. Thiết tưởng sự kiện
lịch sử này ai cũng biết, nhưng các ông dân Chúa
người Việt lại không biết, hay biết mà cố tình làm
như không biết.
b.- Chu Tất Tiến nói rằng, (Chúng tôi) “khi xử
dụng ngôn từ mạ lị nhiều hơn đồng thời dẫn chứng
lệch lạc những nguồn khảo cứu”, vậy tôi yêu cầu
CTT nêu lên bằng chứng về những bản văn mà chúng tôi
đã “mạ lị” Giáo Hội La Mã và nêu lên những bằng
chứng về nguồn tài liệu nào mà CTT cho rằng “chúng
tôi dẫn chứng lệch lạc những nguồn khảo cứu.”
Xin nói rõ là tất cả những tài liệu chúng tôi dẫn
chứng đều có ghi rõ ràng tên tác giả, tên tác phẩm,
nhà xuất bản, năm xuất bản và nói rõ những đoạn văn
được trích dẫn nằm ở trang sách nào. Ngoài những
sách sử của các học giả mà phần lớn là các giáo sĩ
và là những người vốn là tín đồ của Nhà Thờ Vatican,
chúng tôi còn trích dẫn những bản văn từ trong Cựu
Ước và Tân Ước nữa. Dưới đây là những đoạn văn trong
Cựu Ước và Tân Ước mà chúng tôi thường trích dẫn:
Cựu Ước: Dân Số (25:3-5,31:1-54), Leviticus (24:19-20, 26: 1-43), Phục Luật
(6:14, 7:1, 2 và 16, 12: 2-3, 13:6-9. 18: 4 và 20, 20:14-16, 22: 13-21 và 23),
Xuất Hành (13:12, 20 11, 22: 20.
Tân
Ước:
Matthew (10:34-36): “Chớ tưởng rằng ta đến để đem
sự bình an cho thế gian; ta đến, không phải đem sự
bình an mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ con trai
với cha, con gái với mẹ, con dâu với mẹ chồng. Và
kẻ thù của con người ở ngay trong nhà hắn.”
John (3: 18): “Ai tin ông Jesus là Chúa Con sẽ
không bị kết tội (được lên thiên đường); và ai không
tin ông ta là Chúa Con, đã bị kết tội, rồi sẽ bị
đày đọa vĩnh viễn nơi hỏa ngục." (Whoever
believes in him will not be condemned, but whoever
does not believe has already been condemned,
because he has not believed in the name of the only
Son of God).
Nếu
thấy rằng nguồn khảo cứu nào mà chúng tôi dẫn chứng
lệch lạc, CTT hãy nói rõ cho mọi người cùng biết.
Cũng nên biết là khi phê bình hay nhận xét bài viết
hay tác phẩm của một tác giả nào, những người nghiên
cứu hay viết văn có căn bản và nghiêm túc đều phải
ghi lại đoạn văn của tác giả được đem ra mổ sẻ (phê
bình) rồi mới đưa ra nhận xét đúng hay sai, tốt hay
xấu, chứ không bao giờ chỉ nói vu vơ hay nói trổng
như các ông dân Chúa mà CTT là một trường hợp điển
hình. Người viết đã thấy các ông dân Chúa viết những
bài chửi bới cụ Đỗ Mậu và cá nhân người viết cũng
đều có cái cung cách như CTT đã làm, tức là nói
trổng, nói vu vơ, rồi phóng ra những lời chửi bới
nạn nhân. Điểm đặc biệt là khi họ viết điểm sách một
tác phẩm nào mà họ không ưa hay thù ghét thì họ lại
quay ra “điểm mặt” tác giả của tác phẩm đó bằng cách
moi móc đời tư của tác giả và đem những chuyện chẳng
liên hệ gì đến nội dung của tác phẩm mà họ “điểm” để
chửi bới và hạ nhục nạn nhân bằng những ngôn từ vô
giáo dục một cách rất Da-tô của nền văn hóa Thiên La
Đắc Lộ.
VI- "Bị bôi lọ" hay "bị gỡ mặt nạ"?
Chu Tất Tiết viết:“…những tác giả khiêu khích Tôn Giáo
lợi dụng sự chân thành và thiếu kinh nghịêm của phe
bảo vệ, mà tìm cách bôi lọ Công Giáo
thêm.”….” Một khi muốn nghiên cứu bất cứ
vấn đề gì, nhất là vấn đề tôn giáo, nguời nghiên cứu
thực sự phải luôn áp dụng nguyên tắc Khách Quan và
Trung Thực. Ở đây, các bài viết về Thiên Chúa Giáo
(Công Giáo, Tin Lành) do các tác giả đăng đều không
có đức tính này mà hoàn toàn là chủ động “tấn
công” Thiên Chúa Giáo với những chủ quan của
họ.”
Nhận xét:
a.- Chu Tất Tiến nói rằng chúng tôi tìm cách bôi
lọ Công Giáo thêm. Xin thưa rằng, với những
rặng núi tội ác chống nhân loại với thành tích tàn sát
tơi trên 250 triệu người[19],(trong
đó có Việt Nam) trong gần hai ngàn năm qua như đã nói ở trên,
thì cái mặt của đạo Công Giáo hay Nhà Thờ Vatican
của các ông đã đen hơn cái mặt của tên bạo chúa Phi
Châu Jean Bedel Bokassa (1921-1996) cả triệu lần rồi, giả dụ
chúng tôi có muốn bôi lọ thệm nữa, thì cũng không còn
có chỗ nào để xen vào mà bôi lọ thêm và cũng không có cách nào
để bôi lọ đen hơn được nữa. Chúng
tôi chỉ nói lên những sự thật lịch sử mà thôi. Tất cả những sự thật lịch sử này
đều có thể kiểm chứng được NẾU KHÔNG mang cái bệnh dị ứng đối với tất cả tài
liệu lịch sử nói về bộ mặt thật của Giáo Hội La Mã do những lời dạy lưu manh của
Nhà Thờ Vatican gây ra. Một trong những lời dạy lưu manh này được nhà văn dân
Chúa Nguyễn Ngọc Ngạn ghi lại trong cuốn Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn,
2003, tr. 320) rằng: "Là một tín đồ ngoan đạo, phải có bổn phận phải giấu kín
những chuyện tội lỗi, dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người
ngoại đạo được biết." và những lời dạy lưu manh khác như:
“Cha (linh mục) là đại diện của Chúa.”. “Phải
coi Cha như Chúa.” Những gì Cha nói và hành động là
nói và hành động theo ý Chúa.”
“Nếu các Cha có làm gì sai trái, thi đã có Chúa phán xét.”
Là giáo dân ngoan đạo, không được bàn tán và nói hành nói tỏi các Cha."
“Bàn tán, nói hành nói tỏi hay nói xấu các Cha, tức là bàn tán, nói hành
nói tỏi hay nói xấu Chúa và sẽ bị Chúa trừng phạt đàng xuống gỏa ngục đời đời.”
“Chỉ công nhận quyền lực của Tòa Thánh Vatican, chỉ công nhận các chính
quyền Liên Minh với Tòa Thánh Vatican và các chính quyền do
Vatican dựng nên hay do các
thế lực liên minh với Vatican dựng nên.”
b.- Nói rằng chúng tôi chủ động tấn công Thiên Chúa
Giáo là Chu Tất Tiến có chủ tâm xuyên tạc việc làm
nghiên cứu nghiêm túc của chúng tôi.
c.- Động cơ khiến cho chúng tôi phải dành ra cả mấy
chục năm trời để miệt mài làm công việc nghiêm túc
này là vì suốt trong thời gian 1885-1954 Liên Minh
Xâm Lược Pháp thống trị Vatican nước ta và trong
những năm 1954-1975 Liên Minh Xâm Lược Mỹ - Vatican
nhẩy lên bàn độc ở miền Nam, môn lịch sử đã bị Nhà
Thờ Vatican kiểm sóat và cấm đoán trong chương trình
học ở bậc trung học. Vì thế mà hầu hết người dân
Việt Nam không biết một chút gì về bộ mặt thật cực
kỳ ghê tởm của Nhà Thờ Vatican. Bằng chứng về việc
Nhà Thờ Vatican kiểm soát và cấm đoán môn lịch sử
trong chương trình học là bản văn của nhà viết sử
Nguyễn Hiến Lê ghi lại nơi các trang 99 -101 trong
cuốn Đời Viết Văn Của Tôi (Wesminster, CA: Văn Nghệ,
1986).
Vì thế mà chúng tôi mới phải bỏ ra cả mấy chục năm
trời để sưu tầm tài liệu và tìm đọc sách sử nói về
Giáo Hội La Mã để biên sọan thành những tác phẩm
lịch sử với mục đích trình bày cho độc giả người
Việt nhìn thấy rõ những rặng núi tội ác cực kỳ dã
man và cực kỳ tàn độc của Giáo Hội La Mã trong gần hai
ngàn năm qua với hy vọng rằng khi đọc xong rồi độc
giả mới hiểu được những thắc mắc như:
Tại sao GH John Paul II phải xin lỗi các quốc gia
nạn nhân lia lịa như đã nói ở trên?
Tại sao GH John Paul II và các vị chức sắc cao cấp
trong giáo triều Vatican phải đứng ra cáo thú tội ác
với Chúa trong buổi đại lễ được tổ chức tại Quảng
Trường Peter (Rome) vào ngày Chủ Nhật 12/3/2000?
Bàn tay máu của Giáo Hội là Mã trong dòng lịch sử
tiến hóa của nhân lọai ra làm sao?
Vai trò của Nhà Thờ Vatican và các ông dân Chúa
người Việt trong việc đế quốc thực dân xấm lược Pháp
đánh chiếm và thống trị Việt Nam trong những năm
1858-1975.
Vai trò của Nhà Thờ Vatican và các ông dân Chúa
người Việt trong thời nước Việt Nam bị chia ra làm
hai miền Nam Bắc (1954-1975).
Việc làm trên đây của chúng tôi cũng là đáp ứng được
những vấn đề mà ông
Lelytran63@aol.com nêu lên trong điện thư
(E-mail) đề ngày 1/8/2009 (gửi cho một ông Dân Chúa
người Việt) mà thiết tưởng mọi người Việt Nam cần
nên biết. Những vấn đề đó là:
1.-
Những cuộc thánh chiến do giáo hội vatican phát động
với mục đích gì?
2.- Ai
núp sau cuộc tàn sát dân Do Thái dưới thời Đức Quốc
Xã?
3.- Ai
giúp bọn tàn dư Đức Quốc Xã trốn khỏi nước Đức sau
đệ nhị thế chiến?
4.-
Tài sản của vatican từ đâu mà có?
5.- Ai
đã mở đường cho Pháp chiếm VN làm thuộc địa và qua
đó bám vào chính quyền để mở mang nước chúa?
6.- Ai
đã đưa Ngô Đình Diệm về cướp chính quyền?
7.-
Mục đích đưa Ngô Đình Diệm về VN với mục đích gì?
8.-
Ai đứng sau cuộc chiến VN?
9.-
Tín lý công giáo có phù hợp với khoa học? Những cái
gì đã lỗi thời?
10.-
Đời sống bọn giáo sĩ công giáo như thế nào?
11.-
Tại sao vatican cấm bọn linh mục lấy vợ?
12.-
Tại sao trong công giáo nạn hãm hiếp trẻ phụ tế
nhiều hơn tôn giáo nào khác?
13.-
Tại sao trong công giáo có rất nhiều linh mục đồng
tình luyến ái hơn một tôn giáo nào khác?
14.-
Tại sao trong công giáo có rất nhiều linh mục, giám
mục, tổng giám mục v.v. có con vụng trộm với các con
chiên?
15.-Tại sao con chiên VN không dám tố cáo các linh
mục loạn dâm, bê bối đối với con chiên?
16.-
Tại sao con chiên VN không dám tìm đọc những loại
sách của người ngoài giáo hội viết về tôn giáo của
mình?
17.-
Tại sao con chiên đực cứ éptheo đạo của mình khi
quen với người ngoại đạo?
18.-
Tại sao Nam Mỹ theo đạo chúa 100% nhưng vẫn nghèo
thê thảm?
19.-
Hơn nữa các quốc gia Châu Phi theo đạo chúa nhưng
tại sao vẫn nghèo?
20.-
Tại sao Phi Luật Tân không còn văn hóa chính thống
của mình?
VII.- Căn bệnh Bùi Chu: Nhất Chúa Nhì Cha, thú ba Ngô Đình Diệm".
Chu Tất Tiên viết “Ai cũng biết là duới chế độ Ngô
Đình Dịêm, hầu nhu mọi chức vụ quan trọng (An Ninh,
Quốc Phòng, Ngoại Giao, Nội Vụ, Tổng Tham Muu Truởng
Quân Đội …) đều nằm trong tay các vị lãnh đạo là
Phật Tử. Ngay cả nguời thân tín nhất, 24 giờ đều có
mặt bên cạnh của Tổng Thống, nguời mà biết hầu hết
mọi hoạt động của Tổng Thống và có thể “giết” Tổng
Thống dễ như trở bàn tay, lại là một nguời Phật Giáo
thuần thành, Đại Uý Đỗ Thọ, cháu của Đỗ Mậu, nguời
điều hành mạng lưới An Ninh của chế độ. Bên cạnh đó,
nguời thân tín thứ hai, vẫn luôn hiện diện với Tổng
Thống là Cụ Cao Xuân Vỹ, cũng là một Phật Tử.”
Nhận xét:
Sau chiếm trọn được Trung Quốc, người Mãn
Châu không thể dùng toàn người Mãn Châu để cai trị
Trung Hoa, mà phải đưa một số người Hán vào nắm giữ
một số chức vụ hữu danh vô thực trong bộ máy quản
trị nhân dân. Thủ đọan hay kế sách này được gọi là
dùng người Hán cai trị người Hán. Tương tự như vậy,
sau khi chiếm trọn Việt Nam, Liên Minh Xâm Lược Thực
Dân Xâm Lược Vatican không thể dùng tòan người Pháp
và các ông quạ đen người Âu châu cai trị Việt Nam,
mà phải dùng một số những người Việt đưa vào nắm giữ
chức vụ thừa hành đề thi hành những lệnh truyền của
họ. Đây là chính sách dùng người Việt cai trị người
Việt.
Nhà Thờ Vatican và anh em nhà Ngô sử dụng một số
những Phật tử như Chu Tất Tiến nói trong đoạn văn
trên đây cũng giống như người Mãn Châu dùng người
Hán trong những năm thống trị Trung Quốc (1636-1912)
và người Pháp dùng người Việt Nam trong bộ máy đàn
áp nhân dân ta trong những năm 1862-1954), thật sự
không có gì là khác cả. Lý do: Trước khi đạt được
chỉ tiêu “biến toàn thể miền Nam thành Công Giáo
hết trong mười năm” như ông dân Chúa Ngô Đình
Nhu đã tuyên bố[20],
nhóm thiểu số dân Chúa chưa tới 5% (vào năm 1954)
không thể nào cai trị được đại khối 95% người dân
Việt Nam không phải là dân Chúa. Hơn nữa, dù cho Nhà
Thờ Vatican cũng như anh em Nhà Ngô và tòan thể nhóm
thiểu số dân Chúa muốn tự tung tự tác độc chiếm
quyền lực ở miền Nam, thì người Hoa Kỳ cũng không để
cho họ làm như vậy.
Khi viết mấy đọan văn này trên đây, CTT cứ ngỡ là
(hay cố ý làm ra như là) trong những năm 1954-1963
ông Ngô Đình Diệm có toàn quyền bổ nhậm các nhân sự
vào trong chính quyền và quân đội miền Nam mà không
biết rằng quyền tối hậu bổ nhậm và sắp xếp nhân sự
phải do các cố vấn gộc của Hoa Kỳ ở Sàigòn quyết
định, trong đó có Đại-tá tình báo E. G Lansdale (sau
này được thăng lên cấp thiếu tướng). Mấy đọan văn
dưới đây trong cuốn Tôi Làm Quân Sự Cho Tổng Thống
Ngô Đình Diệm của cựu Tướng E. G Lansdale sẽ cho
chúng ta thấy rõ bàn tay của các ông cố vấn Hoa Kỳ
trong việc quyết định và sắp xếp nhân sự trong chính
quyền và quân đội miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ:
"Đến Dinh (Độc
Lập), tôi bước vào giữa lúc có cuộc họp giữa ông
Diệm và một nhóm sĩ quan Việt Nam. Trong số này, có
Tướng Tỵ, Đại Tá Đôn cũng như hai vị chỉ huy mặt
trận đánh Bình Xuyên là Minh nhỏ và Minh lớn. Họ đều
có vẻ vui mừng. Quân đội đã tiến qua Kinh Đôi ở Chợ
Lớn và quân Bình Xuyên đang chạy trốn. Họ hỏi tôi có
mừng cho họ không? Tôi trả lời không, chưa mừng
được. Trong lúc họ đang quây quần tất cả ở đây để ca
tụng lẫn nhau thì cuộc tấn công của họ qua Kinh Đôi
đang bị thảm bại vì họ không chịu cung cấp hỏa lực
yểm trợ bằng trọng pháo cho cánh quân này. Tôi lưu ý
họ rằng như họ đã biết, tôi bị cấm ngặt không được
chỉ dẫn cho họ một điều gì. Tuy nhiên, lệnh cấm ấy
không cấm được tôi kể chuyện cổ tích cho họ nghe.
Ngày xưa có một vài cấp chỉ huy Việt Nam ngồi uống
trà với ông xếp của họ và kể cho ông xếp nghe họ đã
thành công tốt đẹp như thế nào trong khi đáng lẽ họ
nên di chuyển một trong những pháo đội ở Dinh Độc
Lập, hay ở trước tư dinh vị Tham Mưu Trưởng, hoặc ở
sân Bộ Tổng Tham Mưu để yểm trợ cho Trình Minh Thế ở
Cầu Tân Thuận. Đơn vị của Tướng Thế là đơn vị duy
nhất trong toàn thể mặt trận phải đụng độ với các
loại súng lớn được lớp vỏ sắt che chở. Đây cũng là
đơn vị duy nhất không được pháo binh yểm trợ. Dân
chúng nổi giận khi nghe được chuyện này. Hiện
giờ, tôi rất tức giận về việc ấy và
mong mỏi các vị sĩ quan hiện diện hãy làm nốt phần
kết cục của câu chuyện cổ tích vừa kể.
Khi tôi ngưng nói, mọi người im lặng một cách kinh
ngạc.
Ông Diệm phá tan sự im lặng ấy bằng cách bảo ông
Minh nhỏ đem pháo binh giúp cho Trình Minh Thế ngay
lập tức. Ông Minh vội đi ngay, và những người khác
cũng ra về. Tôi tỏ ý vui mừng về vụ tiến quân
qua Kinh Đôi. Họ nhìn tôi có vẻ do dự. Tôi đã vô
cùng tức giận khi tôi xen ngang vào cuộc họp.
Tôi đoan chắc với họ rằng tôi vui mừng với các thành
quả vừa qua. Tuy nhiên, còn khá lâu họ mới thắng
trận này, và bây giờ chưa phải lúc nghỉ ngơi. Ông
Diệm bảo tôi ở lại nói chuyện với ông (ấy). Chúng
tôi sang phòng khách nhỏ có chiếc ghế bành lớn để
khá xa nhau khó nói chuyện. Vì vậy, tôi
mời ông cùng ngồi trên ghế dài.
(Để ý chữ mời: Ông Lansdale mời
ông Diêm ngồi, như vậy ông Lansdale mới là chủ ở
trong Dinh Độc Lạ, và chữ “mời” chỉ là một lối nói
lịch sự của chữ “ra lệnh” hay “bảo” mà thôi – NMQ).
Ông Diệm mở đầu câu chuyện, nói rằng chưa bao giờ
ông thấy tôi nổi giận như lúc này. Dầu sao Trình
Minh Thế cũng là một quân nhân là phải chịu hiểm
nguy cùng với những người khác ở mặt trận.
Tôi không nên quá lo lắng đến công việc của anh ta.
Dù Trình Minh Thế là người bạn, thì ông ta cũng chỉ
là một trong những người Việt Nam bạn của tôi và
có lẽ ông ta không có học vấn cũng như kinh
nghiệm bằng một vài người khác. Tôi bảo
(ra lệnh cho) ông (Diệm) không nên nói
như vậy. Lời nói ấy dẫn đến chỗ khiến ông nói thêm
một vài điều gì đó làm cho tôi bực tức
trở lại. Trình Minh Thế đã ủng hộ ông trong lúc
những người học thức và có kinh nghiệm còn lưỡng lự.
Hiện giờ ông ta đang chịu nguy hiểm đến mạng
sống của mình cho ông Diệm. Tình thân hữu của Trình
Minh Thế có giá trị hơn tất cả loại thân hữu chỉ
biết phù thịnh . Hơn thế nữa, kẻ nào
đó ngu xuẩn một cách đáng kết tội đã làm quân sĩ của
Tướng Thế chưa được huấn luyện đầy đủ, chưa được
trang bị đầy đủ, (lại đem) sử dụng vào cuộc tấn công
qui mô mà không có hỏa lực yểm trợ. Đó là cách sử
dụng rất sai lạc khả năng của du kích quân Liên Minh
(Trình Minh Thế). Ông Diệm thay đổi câu
chuyện...
Ông Nhu bước thẳng
đến trước chỗ tôi và ông Diệm ngồi, yên lặng nhìn
chúng tôi một lúc. Cuối cùng ông nói nhỏ nhẹ: "Trình
Minh Thế chết rồi" ... bị trúng đạn nơi phía sau tai
do một viên đạn súng trường. Suy từ góc độ của
đường đạn đi, thì thủ phạm ở một nơi phía sau và
trên cao. Binh sĩ tại đây nói rằng thủ phạm phải là
một lính bắn tỉa... Ông Nhu ra khỏi phòng... Tôi
quay sang bảo ông Diệm "Chúng ta mất một người bạn
chân thành". Tôi không thể nói gì hơn. Ông Diệm nhìn
vào mặt tôi rồi khóc. Những tiếng nấc lớn làm rung
động cả thân hình ông. Tôi ngồi lại xuống ghế và ôm
lấy ông. Ông xin tôi tha lỗi những điều ông đã nói
về Trình Minh Thế trước đấy. Tôi nói thực ra không
có gì phải cho tôi tha lỗi, nhưng
ông phải luôn luôn ghi nhớ bạn thành
thật thì hiếm hoi. Không bao giờ được bỏ rơi
những con người bất vụ lợi phục vụ cho tự do.
Tôi và ông Diệm ngồi trên ghế im lặng cho đến khi
ông Diệm lấy lại được bình tĩnh. Sau đó tôi trở về
nhà.".
[21] Còn
nhiều nữa. Xin đọc Chương 62 (Mục XVIII, Phần VI)
trong bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội
La Mã. Chương sách này có thể đọc online trên
sachhiem.net.
Bản văn sử trên đây cho chúng ta thấy ông Đại-tá
Lansdale không những dạy bảo ông Diệm từng li từng
tí một về cung cách ứng xử với các nhân viên dưới
quyền, mà còn sai bảo và ra lệnh cho ông Diệm “phải
luôn luôn”, “không bao giờ được”
làm sai lệch lệnh truyền của ông (Lansdale) hay phát
ngôn ẩu tả bừa bãi (như nói rằng “Trình Minh
Thế không có học vấn”. Nếu làm sai những
điều ông Lansdale “dạy bảo”, thì sẽ làm cho ông ấy
“tức giận” hay “tức giân trở lại”, khi đó ông Diệm
sẽ mất điểm, rồi có thể bị khiển trách
và bị cho về vườn như người Pháp đã làm vào năm
1933. Sau này, ông Diệm lầm tưởng rằng đã có thể qua
mặt được người Mỹ, quá trớn trong việc bách hại Phật
Giáo cho nên người Mỹ mới ngoảnh mặt đi để cho
quân dân miền Nạm lôi ra đập chết
vào lúc hơn 7 giờ sáng ngày 2/11/963. Vấn đề này đã
được chúng tôi trình bày đầy đủ trong Chương 20,
sách Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963
(Houston, TX: Văn Hóa, 2000).
Trong thực tế, những người gọi là Phật Tử được chọn
lọc đưa vào nắm giữ những chức vụ có danh mà không
có thực quyền trong chế độ Ngô Đình Diệm luôn luôn
bị những con mắt cú vọ của 13 tổ chức mật vụ, công
an như thiên la địa võng của chế độ rình mò dò xét.
Các tổ chức công an mật vụ của chính quyền Ngô Đình
Diệm đã được trình bày đầy đủ trong Chương 67 (Mục
XX, Phần VI, sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo
Hội La Mã). Tình trạng này của họ cũng giống như
những tên Việt gian Nguyễn Hữu Độ, Trần Bá Lộc, Ngô
Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Lê Hoan, Ngô Đình Khôi,
Ngô Đình Diệm, Hoàng Cao Khả, Hoàng Trọng Phu,
Hoàng Gia Mô, Nguyễn Duy Hàn, Vi Văn Định, Cung Đình
Vận, v.v… được Liên Minh Xâm Lược Pháp – Vatican
được đưa vào nắm giữ những chức vụ trong bộ máy đàn
áp nhân dân ta. Tuy rằng được cho vào nắm chức vụ có
quyền lực đối với người dân Việt Nam, nhưng họ vẫn
bị những con mắt cú vọ của Sở Liêm Phóng Pháp theo
dõi, nếu đi lạc hướng mà họ đã chỉ định thì lập tức
bị phát hiện và bị trừng phạt liền.
Trường hợp
Ngô Đình Khả lợi dụng chức vụ và địa vị xúi giục
Thành Thái đi theo Vatican chống lại Pháp bị phát
hiện: Thành Thái bị truất ngôi và Ngô Đình Khả sau
đó bị trừng phạt đánh đòn và bị cho về vườn. Đây là
một trong những bằng chứng rõ ràng nhất cho vấn đề
này. Xin xem Chưong 4, sách Chân Dung Người Việt
Quốc Gia để biết rõ hơn về vấn đề này. Chương sách
này có thể đọc online trên sachhiem.net. Một bằng
chứng khác nữa là vụ Hà Thành Đầu độc vào năm 1908
đo Cụ Hoàng Hoa Thám chủ trương những vì dùng quân
lính người Việt Nam trong quân đội Pháp để thực hiện
cho nên mới bị phát hiện và bị phá vỡ là một bằng
chứng khác nữa cho sự kiện này.
Sau đó, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm lại mưu đồ đi
theo Dân Chúa Cường Để (do Nhật đỡ đầu) trong cái
gọi là Việt Nam Quang Phục để phục vụ cho quyền lợi
của Vatican cũng bị Pháp trừng trị.
Trong những năm 1933-1945, Vatican quay ra o bế Phe
Trục: Ở Âu Châu Vatican cấu kết với Ý và Đức đưa những tên
dân Chúa Francisco Franco (1892-1975) lên cầm quyền
ở Tây Ban Nha vào năm 1936, và Ante Pavelich ở Croatia vào năm 1941.
Ở Á Châu, Vatican sử dụng con bài dân Chúa Cường Để,
ngầm cấu kết với Nhật với hy vọng nếu Phe Trục đại
thắng, Nhật sẽ làm chủ Đông Dương, Cường Để sẽ được
Nhật đưa về thay thế Bảo Đại và Ngô Đình Diệm sẽ
được đưa lên làm thủ tướng. Nếu mọi sự xẩy ra đúng
như vậy, Nhà Thờ Vatican sẽ ra lệnh cho cặp bài
trùng Cường Để - Ngô Đình Diệm tiến hành kế hoạch
Ki-tô bằng bạo lực.
Thế nhưng, “mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”.
Pháp đã lanh tay chộp Ngô Đình Diệm đem tống giam.
Vì thế mới có chuyện Giám-mục Ngô Đình Thục viết lá
thư đề ngày 21/8/1944 năn nỉ Toàn Quyền Jean
Decoux nghĩ đến công lao của bố là Ngô Đình Khả đối
với chính phủ Pháp mà tha cho Diệm. Rồi Phe
Trục bị đại bại và phe Đông Minh đại thắng. Cái mộng
của Vatican đưa cặp bài trùng dân Chúa Cường Để -
Ngô Đình Diệm đi theo Nhật về cầm quyền ở Việt Nam
tan tành như mây khói. Xin xem them Chương 5, sách
Chân Dung Người Việt Quốc Gia. Chương sách này có
thể đọc online trên sachhiem.net.
KẾT LUẬN:
Ông dân Chúa CTT có lẽ đã hãnh diện khi "được" mấy ông truyền đạo người Pháp hoặc Tây Ban Nha đặt tên là "Con Chiên". Nhưng khi chúng tôi gọi bằng Ca-tô, viết tắt của chữ Catholic thì lại ngoảy đầu lia lịa cho là "mạ lị". Đúng là những con chiên đã thành hình trọn vẹn.
Toàn bộ bài viết trên đây của Chu Tất Tiến
chỉ là những lời lẽ xuyên tạc sự thật, bóp méo lịch
sử, bịa đặt ra nhiều điều không tốt gán cho chúng
tôi, và luôn luôn đưa ra những lời tuyên bố vu vơ
không nêu lên được bằng chứng nào. Thực ra, cái
phương cách viết lươn lẹo, ăn ốc nói mò như vậy là
đặc tính chung của Nhà Thờ Vatican và các ông dân
Chúa “ngoan đạo” “sống theo đức tin Ki-tô” hay
“sống theo lương tâm Công Giáo.” Vấn đề này đã được
chúng tôi trình bày đầy đủ trong Chương 11 (Mục III,
Phần II) trong bộ sách
Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của
Giáo Hội La Mã có đăng online
trên sachhiem.net.
(xin mời đọc bài của GS. Trần Chung Ngọc)
CHÚ THÍCH
[1]
Nguyễn Hiến Lê, Đời Viết Văn Của Tôi
(Wesminster, CA: Văn Nghệ, 1986), tr,
99-101.
[2]
Trần Tam Tỉnh, Sđ d., tr 54.
[3]
Ruth Pelz,. Our Region: The Pacific
Northwest (Salt Lake City, Utah: Peregrine
Smith Inc., 1987), p 128
[4]
Charlie Nguyễn, Thực Chất Đạo Công Giáo
và Các Đạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao
Điểm, 2003), tr. 355-56. Ông Charlie Nguyễn
cũng là tác giả các tác phẩm Công Giáo Trên
Bờ Vực Thẳm, Công Giáo Huyền Thọai và Tội
Ác, Thực Chất Đạo Công Giáo và & Các đạo
Chúa, và rất nhiều bài biên khảo khác được
đăng trên Đông Dương Thời Báo,
dongdươngthờibao.net, giaodiemonilne.com và
sachhiem.net)
[5]
Nhiều tác giả, Vatican Thú Tội và Xin Lỗi?
(Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 92.
[6]
Peter de Rosa, Sđd., tr. 408.
[7]
Peter de Rosa, Sđd., tr.404.
[8]
Peter de Rosa, Sđd., tr 416.
[9]
Arnold Schrier & Walter Wallbank. Living
World History (Glenview, Ill: Scott,
Foresman and Co, 1974), page 118-119: “Vì ông Jesus không để lại bản văn viết nào về
tín lý cho nên mới có những tranh luận giữa các tín
đồ về niềm tin Ki-tô. Để giải quyết vấn đề này, năm
325, Hoàng Đế Constantine cho triệu tập một hội nghị
nhóm họp ở Nicaea. Hội Nghị này sọan thảo một tín
điều cho rằng Thượng Đế và ông Jesus Ki-tô có cùng
một linh thể. Tất cả mọi người tham dự hội nghị đều
đồng ý tín điều này, ngọai trừ một tu sĩ có tên là
Arius và một số đồ đệ của ông ta. Những người này
cho rằng Thượng Đế và ông Jesus Ki-tô có những linh
thể khác nhau. Họ bị gán cho là tà giáo và bị trục
xuất ra khỏi hội nghị. Những năm sau đó, phe theo
ông Arius và phe theo quyết định tín điều Nicene
tranh nhau giành quyền lãnh đạo Giáo Hội, nhưng cuối
cùng thì phe Nicene chiến thắng. Thêm vào tín điều
Nicene, hội nghị còn khai triển những bản văn trong
Thánh Kinh. Thánh Kinh của người Do Thái mà lúc đầu
Giáo Hội Kitô Do Thái chọn làm Thánh Kinh được gọi
là Cựu Ước Kinh và được thêm vào những cuốn sách
biên sọan sau khi ông Jesus đã bị hành hình. Có rất
nhìều cuốn đuợc biên sọan sau khi ông Jesus qua đời,
nhưng chỉ có 27 cuốn được chọn, gom lại được gọi là
Tân Ước Kinh.” ["Because Jesus
left no written messages, disputes about Christian
beliefs arose among his followers. To resolve this
conflict, the emperor Constantine convened the
Council of Nicaea in 325. This body formulated a
creed supporting the doctrine that God and Christ
were the same substance. All members present agreed
to the doctrine except a priest named Arius and his
few followers, who maintained that God and Christ
were of different substances. He and his followers
were therefore banished from the Church as heretics
(persons who hold a belief different the accepted
view). As the years passed, the Nicenes and the
Arians vied for leadership in the Church, but
finally, the Nicenes were victorious. In additiion
to the Nicene Creed, there had developed an official
book of sacred writings. To the holy writings of the
Jews, which the early Christians adopted and called
the Old Testament, were added religious writings
compiled after the death of Jesus. Twenty-seven of
these compilations, or books, were selected to make
the New Testament.."]
[10]
Charlie Nguyên, Công Giáo Trên B? V?c
Th?m (Garden Grove, CA: Giao Đi?m,
2001), trang 18-19.
[11]
Xin đọc bài viết Một Số Tình Hình Đặc Biệt
Của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam của ông
Giáo-sư dân Chúa Nguyễn văn Trung. Bài viết
này đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo
Chúa - Tuyển tập 2 (Spring, TA: Ban Nghiên
Cứu Đạo Giáo, 1998) 115-125.
[12]
Peter de Rosa, tr 38.
[13]
Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật
Bản: Tân Văn, 2003), tr. 355.
[14] Bùi Đức Sinh, Lịch Sử
Giáo Hội Công Giáo – Phần Nhì (Sàigòn:
Chân Lý, 1972), tr. 165.
[15]
Xẹm chú thích 3 ở trên..
[16]
Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm
(Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 228
và 272
[17] Chu Bằng Lĩnh, Đảng Cần
Lao (San Diego, CA: Mẹ Việt Nam, 1996),
tr. 340-341.
[18] Vũ Đình Hoạt, Việt Nam
Tôn Giáo Chính Trị Quan - Tập II ( Falls
Church, VA: Alpha, 1991), trang 1013-1014.
[19]
Lloyd Graham, Deceptions and Myths of
the Bible (Secaucus, N.J: Carol
Publishing Group, 1999), p. 463. Tác
giả viết:
“Chúng ta đã
biết được những gì trong 7 trăm năm này?
Ba triệu người thiệt mạng trong vụ cố
gắng chiếm lại một ngôi mồ nằm trong vùng
kiểm soát của người Hồi giáo. Mười triệu
người bị giết hại do bàn tay của các Tòa
Án Dị Giáo Gia-tô Mười bốn triệu người
chết trong các cuộc chiến Gia-tô trong thế
kỷ thứ 19. Ba mươi triệu người thiệt
mạng trong các cuộc chiến giữa các quốc gia
theo đạo Kitô với nhau trong hai thập niên
đầu của thế kỷ thứ 20. Từ thời Constantine
đến nay, chiến tranh và chính sách áp bức
của các chế độ đạo phiệt Gia-tô đã gây cho
hơn 200 triệu nạn nhân bị thiệt mạng.
Và chúng ta phải kể thêm 23 triệu quân
nhân của 53 quốc gia và các thuộc địa đã
hy sinh trong các cuộc chiến (do Giáo Hội
phát động – NMQ ) và ít nhất 28 triệu nạn
nhân chết vì bom, đạn, đói và bệnh tật
hay ở trong các trại tập trung.” [Nguyên
văn: What have we learned in those seven
hundred years? “Three million lost their
lives in a futile attempt to rescue a
tomb from Mussulmans. Ten million were
slain during the Inquisition.
Fourteen million were slain in Christian
wars of the Nineteenth Century. Thirty
million lost there lives in wars between
Christian nations during the first two
decades of the Twentieth Century. Wars,
tyranny and oppression of Christian nations
since the days of Constantine have caused
the death of more than 200,000,000
people” And now we must add to this “Some
23,000,000 men in uniform from 53
nations, countries and dominions were killed
or died; at least 28,000,000 died from
bombs or guns, hunger or disease or in
the concentration camps.)
[20]
Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân – Tập
I (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Việt
Nam,1989), tr. 428.
[21]
Edward G. Lansdale, Tôi Làm Quân Sư Cho
Tổng Thống Ngô Đình Diệm (Sàigon: Đại
Nam, 1972)199-202.
Trang Lịch Sử