●   Bản rời    

VATICAN:CH63-1d Cuồng Tín (Nguyễn Mạnh Quang)

GIÁO HỘI LA MÃ:

LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC

- Nguyễn Mạnh Quang -

http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH63_1d.php

02 Nov, 2007

 

CHƯƠNG 63


NGÔ ĐÌNH DIỆM: CON NGƯỜI VÀ TỘI ÁC

1 2 3 4 5 6 7


 

V.- ĐẶC TÍNH CUỒNG TÍN CỦA NGÔ ĐÌNH DIỆM

 

Những tướng tinh như lùn,  tướng đi lạch bạch, hay chân chữ bát, bạch diện vô tu, cặp mắt trắng bệch, lòng trắng nhiều hơn lòng đen, hay nhìn trộm, v.v… là thiên bẩm hay trời sinh và không có cách nào thay đổi được.

Trái lại,  căn bệnh cuồng tín về tôn giáo là nhân tạo. Nó là hậu quả của việc đương sự bị nhồi sọ lâu năm bởi chính sách ngu dân do thế lực tôn giáo của đương sự chủ trương. Bị nhồi sọ càng lâu thì căn bệnh cuồng tín càng nặng và càng khó chữa trị. Càng ở vào địa vị có quyền lực hay giầu có, càng khó trị. Tuy nhiến,  căn bệnh này vẫn có thể chữa trị được nếu được “tẩy não” (brainwashed) hay giải hoặc với điều kiện đương sự còn có lý trí phân biệt được phải trái và còn có thiện chí chịu khó lằng tai nghe những “lời nói thuận lý” và tìm đọc những tài liệu nói lên sự thật về những tín lý hay giáo điều và những lời dạy của Giáo Hội hay “lời Chúa” (nặng tính cách bịp bợm) mà họ đã bị nhồi sọ. Những tác giả viết về những rặng núi tội ác của Vatican  mà chúng tôi tham khảo để viết bộ sách Lịch Sử và Tội Ác của Giáo Hội La Mã này đều vốn là những tu sĩ hay tín đồ Da-tô cuồng tín cả. Vì họ còn có lý trí  và có thiện chí tìm đọc những tài liệu nói về tín lý Ki-tô cũng như những lời dạy của Giáo Hội hay “những lời Chúa” và những việc làm tội ác của Giáo Hội trong gần hai ngàn năm qua, cho nên họ mới tỉnh thức và biết được họ đã bị Giáo Hội lừa bịp. Những tác giả người Âu Mỹ nhiều lắm, nói không xuể. Một số khá nhiều những tác giả này  đã được Giáo-sư Trần Chung Ngọc liệt kê trong mục Tài Liệu Tham Khảo nơi mấy trang cuối của hai cuốn Công Giáo Chính Sử và Đức Tin Công Giáo (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000). Trong số những trí thức Việt Nam vốn là  những người cuồng tín nhưng đã thức tỉnh,, có một số nhân vật tên tuổi được nhiều người biết là Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ, Linh-mục Trần Tam Tỉnh, ông Bùi Văn Chấn tức Charlie Nguyễn, ông Giuse Phạm Hữu Tạo và còn rất nhiều người khác nữa.

Cũng nên biết hầu hết các nhà trí thức như John Wycliffe (1320-1384),  John Huss (1372-1415), Giordano Bruno (1548-1600), John Locke (1632-1704), Montesqiueu (1689-1775), Denis Diderot (1713-1784), Jean Jacques Rousseau (1712-1778), Voltaire (1694-1778), Lamartine (1790-1869), Victor Hugo (1802-1885), Léon Gambetta, Jules Ferry, Thomas Paine (1737-1809), Thomas Jefferson (1743-1826), v.v… đều vốn là những tín đồ Da-tô cuồng tín (ngoan đạo) cả. Nhờ biết sử dụng lý trí để phấn biệt phải trái và có thiện chí cố gắng tìm hiểu những tín lý Ki-tô, lời dạy của Giáo Hội, “những lời Chúa” cũng như sách sử thế giới và lịch sử Giáo Hội La Mã, họ mới nhìn thấy rõ đời sống phóng đãng, loạn luân, dâm loàn của các giáo hoàng cũng như các  ông tu sĩ Da-tô các cấp và những việc làm tội ác của Giáo Hội liên tục từ thế kỳ 4 cho đến lúc bây gờ (và cho đến ngày nay), cho nên họ mới  biết rằng họ đã bị Giáo Hội lừa bịp.

Hầu hết những người lãnh đạo cũng như những người nhiệt liệt ủng hộ và tham dự vào các phong trào phản kháng Giáo Hội La Mã mà chúng tôi trình bày trong Phần VII của bộ sách này đều vốn là những người đã từng là tín đồ Da-tô cuồng tín (ngoan đạo) của Giáo Hội La Mã. Nhưng họ đã nhìn ra bộ mặt thật ghê tởm của Giáo Hội La Mã qua việc  biết sử dụng lý trí để phân biệt phải quấy, có thiện chí cố gắng  lắng tai nghe những lời nói phải (thuận lý), cố gắng tìm đọc sách sử thế giới và lịch sử Giáo Hội La Mã. Vì vậy họ mới hăng say đứng lên làm cách mạng và quyết tâm chống lại Giáo Hội.

Trong số các phong trào phản kháng Giáo Hội La Mã trên đây, phải nói đến Cách Mạng Pháp 1789, Cách Mạng Ý Đại Lợi 1870, Cách Mạng Tây Ban Nha 1936-1939, Cách Mạng Cuba. Hầu hết những người lãnh đạo cũng như những người tích cực tham gia và những người nhiệt liệt ủng hộ cách mạng đều vốn là tín đồ Da-tô ngoan đạo (cuồng tín) hay  xuất thân từ một gia đình Da-tô ngoan đạo. Ấy thế mà họ lại đều có chủ trương phải dùng những biện pháp mạnh để đối phó với Giáo Hội La Mã và trừng trị nghiêm khắc những phần tử ngoan cố vẫn còn tiếp tục triệt để trung thành với Vatican, tiếp tục tuân phục lệnh truyền của các đấng bề trên của chúng để chống lại tổ quốc và chống lại chính quyền cách mạng.

Trong tiểu mục Sơ Lược Cuộc Đời của Ông Ngô Đình Diệm ở trên, chúng tôi có nêu lên sự kiện hiện nay ở Pháp cũng như ở Anh và ở nhiều quốc gia Âu Châu khác, con số người đi nhà thờ hàng tuần chỉ còn từ 1% đến 5% là nhiều. Như vậy là ở Âu Châu ngày nay, có từ 95% đến 99% tín đồ Da-tô hoặc là đã  thực sự bỏ đạo, hoặc là không còn tin tưởng vào những tín lý Kitô và cũng không còn tin tường vào “những lời Chúa” (bịp) và những lời dạy (bịp) của Giáo Hội nữa.

Vấn đề đặt ra là: Vì lý do hay động lực nào họ đã bỏ đạo hay không đi nhà thờ nữa?

Câu trả lời chính xác nhất là chính bản thân  họ đã thức tỉnh, đã nhìn ra tính cách bịp bợm trong những tín lý Ki-tô và đã nhìn ra bộ mặt thật ghê tởm của Giáo Hội La Mã.

Một câu hỏi khác được đặt ra là:  Phương cách nào đã làm cho họ thức tỉnh khiến cho họ nhìn ra tính cách bịp bợm trong tín lý Ki-tô và nhìn ra bộ mặt thật ghê tởm của Giáo Hội La Mã?

Câu trả lời chính xác nhất là do chính sách giáo dục tự do và khai phóng, nhờ vậy mà ở ngay trong lớp học, khi còn là học sinh  học những bài học trong môn lịch sử thế giới  về những việc làm tội ác của Giáo Hội La Mã như (1) chủ trương thần quyền chỉ đạo thế quyền, (2)  thi hành chính sách bất khoan dung đối với những thành phần thuộc các tôn giáo và nền văn hóa khác, (3) việc Giáo Hội phát động các cuộc chiến thập tự (crusades) các cuộc chiến tôn giáo (religious wars), (4)  việc thiết lập các Tòa Án Dị Giáo (Inquisitions), (5) đời sống lọan luân, dâm loàn, phi luân, tàn ngược của các giáo hoàng và tu sĩ Ca-tô,  (6) tình trạng các giáo hoàng và các ông chức sắc cap cấp trong giáo triều Vatican chi bè lập đảng tàn sát thanh tóan lẫn nhau để tranh  giành ngôi vị giáo hòang và quyền lực, (7) việc  Giáo Hội cấu kết các đế quốc thực dân xâm lược Âu Mỹ trong các cuộc chinh phục đất đai ngòai lục địa Âu Châu làm thuộc địa, (8)  việc Giáo Hội cấu kết với hai chế độ Phát Xít Đức và Đức Quốc Xã trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, v.v…, họ được:

1.- Tự do nêu lên những thắc mắc về những việc làm tội ác trên đây của Giáo Hội La Mã và tự do thảo luận về những thắc mắc này mà không sợ bị vu cáo hay lên án là nói xấu đạo Công Giáo hay chia rẽ tôn giáo.

2.- Tự do in ấn và phát hành những sách sử thế giới và những tác phẩm lịch sử Giáo Hội La Mã và những tác phẩm nói về những rặng núi tội ác của Giáo Hội mà không bị lên án là nói xấu đạo Công Giáo hay chia rẽ tôn giáo.

3.- Tự do tìm đọc sách sử thế giới, nhất là thời Trung Cổ. Trong thời kỳ này Giáo Hội đã tàn sát hàng trăm triệu người qua việc phát động các cuộc chiến thập tự, qua việc thiết lập các tòa án dị giáo, qua việc  phát động các cuộc chiến chống lại phong trào Tin Lành từ năm 1517. Cũng trong thời gian này,  các giáo hoàng và tu sĩ Da-tô sống đời bê bối thối thối tha, loạn dâm, loạn luân, dâm loàn còn khốn nạn hơn cả bọn bạo quân bạo chúa trong thời Đông Châu Liệt Quốc ở Trung Quốc. Chính vì vậy mà các nhà viết sử mới gọi thời kỳ này là Thơi Kỳ Đen Tối (the Dark Ages).

Đây là lý do TẠI SAO ở Âu Châu ngày nay,  con số người đi nhà thờ hàng tuần chỉ còn từ 1% đến 5% là nhiều.

Còn một chuyện khác nữa thiết tưởng cũng nêu lên ở đây là có một số các hồng y,  giám mục và linh mục ở Việt Nam bị những tín đồ Da-tô người Việt ở hải ngoại lên án hay tố cáo là những hồng y, giám mục và linh mục quốc doanh.

Vấn đề đặt ra là:

1.- Những người tố cáo họ là linh mục, giám mục và hồng y quốc doanh không thể chối cãi được rằng  họ vốn đã từng là những con chiên ngoan đạo (cuồng tín) của Giáo Hội La Mã, và cũng không thể chối cãi được rằng, họ được Giáo Hội đưa vào theo học tại các chủng viện của Giáo Hội để đào tạo họ thành những linh mục theo ý muốn của Giáo Hội và để  phục vụ cho Giáo Hội. Đây là sự thật và sự thật này được Linh Mục Trịnh Văn Phát kể  cho chúng biết như sau:

“Trong suốt thời gian ở Việt Nam tôi đã suy nghĩ và tự hỏi mình phải làm  gì cho quê hương và Giáo Hội. Giúp quê hương không phải là bổn phận trực  tiếp của tôi, nhưng tôi có bổn phận với giáo hội vì tôi là người của giáo  hội và được đào tạo để sau này phục vụ cho giáo hội. Có nhiều anh em yêu  cầu tôi về giúp cho địa phận, tôi thẳng thắn trả lời tôi không có tự do  chọn lựa, tôi được huấn luyện để phục vụ theo nhu cầu của giáo hội.”  [i] 

Rồi lại cũng chính Giáo Hội đã phong chức linh mục, giám mục và hồng y cho họ.

2.- Tại sao hay động lực nào đã khiến cho họ trở thành linh mục, giám mục và  hồng y quốc doanh?

Phải chăng họ đã thức tỉnh vì đã nhìn thấy rõ bộ mặt thật của Giáo Hôi?

Những bằng chứng nêu lên trên đây cho chúng ta thấy căn bệnh cuồng tín của những tín đồ Da-tô có thể chữa trị được với điều kiện là chính  đương sự  (1) còn biết sử dụng lý trí để phân biệt phải trái, tìm hiều và phân tách tín lý Ki-tô, những lời dạy của Giáo Hội, “những lời Chúa” (do Giáo Hội bịa đặt ra), (2) có thiện chí cố gắng lắng tai nghe những lời nói phải, (3) cố gắng tìm đọc sách sử thế giới, đặc biệt là thời Trung Cổ, và những tài liệu nói về những việc làm tội ác của Giáo Hội trong gần hai ngàn năm qua. Có như vậy,  thì họ mới có thể bừng tỉnh, nhận thức được rằng họ đã bị Giáo Hội lừa bịp, và khi đó họ mới cương quyết thoát ra khỏi cơn mộng du mơ về nước Chúa bịp của Tòa Thánh Vatican. Khi đó, họ sẽ chống lại Vatican kịch liệt như trường hợp Bác-sĩ Nguyễn Văn Thọ, ông Charlie Nguyên, ông Giu-se Phạm Hữu Tạo (chủ bút tờ báo điện tử dongdưongthoibao.net hiện nay) và  hàng ngàn, hàng triệu các nhà trí thức khác ở khắp mọi nơi trên thế giới.

Nhân tiện đây,  người viết xin đề nghị chính quyền Việt Nam nên có một chính sách giúp đỡ những tín đồ Da-tô thoát ra khỏi cơn mộng du mơ về nước Chúa Vatican bằng cách cho thi hành chính sách giáo dục tự do khai phóng và cho phổ biến rộng rãi những tài liệu lịch sử nói về:

1.- Những việc làm bất minh và bất chính của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua,

2.- Đời sống phóng đãng loạn luân dâm loàn của các giáo hoàng, và

3.- Các phe phái tu sĩ cao cấp trong Giáo Hội La Mã xâu xé thanh toán và tàn sát sát lẫn nhau để tranh giành ngôi vị giáo hoàng và quyền lực trong giáo triều Vatican.

Vấn đề này đã được người viết biên soạn khá đầy đủ trong Phần II, Mục V  với tựa đề là Những Tệ Nạn Tham Nhũng, Vơ Vét Tiền Bạc, Hủ Hóa, Loạn Dâm, Loạn Luân, Dâm Loan và Tàn Sát lẫn Nhau để Tranh Giành Quyền Lực Trong Giáo Triều Vatican (gồm 3 chương sách), và Mục VI với tựa đề là Vatican dung túng  cho tu sĩ chèn ép và siết cổ tín đồ (cũng gồm 3 chương sách.)

Là người đã từng phụ trách dạy các môn Sử Hoa Kỷ, Sử Thế Giới, Những Vấn Đề Khó Khăn Trên Thế Giới (World Problems), Địa Lý Thế Giới (World Geography), Công Dân Giáo Dục (Civics) tại các trường trung học (Cấp III) ở Hoa Kỳ trong nhiều năm (1975-1998), người viết nhận thấy tại các trường trung học ở Hoa Kỳ có dạy môn sử thế giới. Những cuốn sách giáo khoa về môn học này đều có đầy đủ những bài học từ A đến Z nói về cái thuở  trái đất và lòai người mới xuất hiện và những bước tiến của nhân lọai từ ngày đó cho đến ngày nay, trong đó có đầy đủ những bài học về các phong trào chống Gíao Hội La Mã như (1) Phong trào Nhân Bản (Huamnism), (2) thời kỳ Phục Hưng (Renaissance), (3) Phong Trào Đòi Cải Cách Tôn Giáo (Reformation), (4) Thời Đại Khoa Học và Lý Tri (Science and the Age of Reason), (5) Thời Kỳ Cách Mạng và Dân Chủ (The Age of Democratic Revoluitions),  và (5) Những Phong Trào Phản Kháng Xã Hội (Mouvements of Social  Protest).

Chưa kể những sách giáo khoa về môn Civics, môn  Sử Hoa Kỳ, sử Trung Quốc, Sử Nga, sử Pháp  và Civics, chưa kể những cuốn sử nói vể từng giai đọan quan trọng lịch sử lòai người như Cách Mạng Pháp 1789, Đệ Nhất Thế Chiến, Đệ NhịThế Chiến, v.v..;, trong thư việc tại các trường trung học (Cấp III)  đều có hơn mười bộ sạc lịch sử thế giới đẻ tùy ý Tiểu Ban Sư Địa và Công Dân (Social Studies Department) của nhà trường chọn lựa cho học sinh học. Thường thường giáo viên phụ trách dạy môn sử  phải đọc hết tất cả những bộ sách giáo  khoa này để phòng hờ có thể giải đáp những vấn đề do học sinh nêu lên bất ngờ ở trong lớp. Hiện nay, người viết còn giữ trong phòng sách của gia đình tới 9 cuốn sấch giáo khoa về môn lịch sử thế giới của 9  nhóm tác giả hay cá nhân  khác nhau. Cuốn nào cũng dày cộm từ 800 trang trở lên đến khoảng gần 1000 trang, khổ giấy tương đối khá lớn, khổ chữ tương đói khá nhỏ. Đó là các cuốn:

1.- Civilization Past and Present của hai tác giả T. Walter Wallbank và Alastar M. Taylor (Chcago, Illinois: Scott, Forwsman and Company, 1956), 864 trang

2.-  Exploring World History của hai tác giả Sol Holt và John R. O’Connor (New York: Globe Book Company, Inc., 1983),  686 trang

3.- A Global History of Man của 5 tác giả Loretta Kreider Andrews, George I. Blanksten, Roger F. Hackett. Ella C. Leppert, Paul L. Murphy và Lacey Baldwin Smith (Belmont, California, 1963), 790 trang.

4.-  Living Work History của hai tác giả Arnold Schrier và T. Walter Wallbank (Glenview, Illinois,: Scott, Forwsman and Company, 1974), 800 trang.

5.- Men and Nations – A World History của hai tác giả Anatole G. Mazour và John M. Peoples (New York, Harcourt Brace Jovanovich,  1975), 878 trang.

6 Story of Mankind của tác giả Thomas P. Neil (New York, Holt, Rinehart and Winston, Inc.,  1968), 954 trang.

7.- A World History của ba tác giả Bertram L. Linder, Edwin Selzer và Barry M. Berk (Chicago, Illinois,  Science Research Associates, Inc., 1983),  772 trang,

8.- World History – Patterns of Civilization của tác giả Burton F. Beers (Englewood Cliffs, New Jersey, 1983), 800 trang.

9. - Bộ Lịch Sử Thế Giới của  tác giả  Carlton J. H. Hayes gồm 3 cuốn:

a.- Ancient Civilizations – Prehistory  to the Fall of Rome (New York, Macmillan Publishing Co., Inc. 1983),  528 trang.

b.- Medieval  and Early Modern Times – The Age of Justinian to the Eighteenth Century (New York, Macmillan Publishing Co., Inc. 1983),  504 trang.

c.-Modern Times – The French Revolution to The Present (New York, Macmillan Publishing Co., Inc. 1983),  536 trang.

Đây là nói về những sách giáo khoa về môn sử thế giới mà người viết đem về nhà  đọc để chuẩn bị cho những bài giảng cho học sinh. Ấy là chưa nói  đến rất nhiều sách giáo khoa khác cũng như rất nhiều tài liệu sưu khảo khác và hàng chục bộ bách khoa tự điển (encyclopadia) ở trong thư viện của bất kỳ trường trung học (cấp III) nào.  

Cũng nên biết chương trình học ở bậc trung học tại Hoa Kỳ,   môn Sử Địa và Công Dân được coi là một môn học chính và được coi ngang hàng với các môn Quốc Văn (English), Toán, Khoa Học, v.v…, và thời lượng tương đương với môn Quốc Văn (khoảng  1/5 tổng số thời lượng trong chương trình học). Vấn đề này sẽ được trình bày đầy đủ trong môt chương sách nằm trong Mục XXII nói về chính  sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975), Phần VI của bộ sách Lịch Sử và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã).

Xem như thế,  tại Hoa Kỳ, học sinh trung học không những được dạy đầy đủ những bài học từ A đến Z trong môn học lịch sử thế giới mà trong thư viện của nhà trường còn có rất nhiều tài liệu sử và bách khoa tự điển để  tham khảo.

Người viết tin rằng, ngọai trừ các nước còn bị Vatican chi phối như Phi Luật Tân, một số các quốc gia ỏ Châu Mỹ La Tinh  và các trường học do Giáo Hội La Mã làm chủ, học sinh trung học tại tất cả cấc quốc gia khác trên thế giới đều được dạy môn sử thế giới như ở Hoa Kỳ. Nhờ vậy mà:

1.- Điều khoản tách rời tôn giáo ra khỏi chính quyền vẫn được duy trì trong hiến pháp của nước họ.

2.- Những bài học về thuyết  sáng tạo (creationism) hoàn toàn bị lọai ra khỏi chương trình học ở bậc tiểu học và trung học.

3.- Môn giáo lý KI-tô bị cấm, không được dạy trong các trường công lập.

4.- Giáo Hội đã nhiều lần vận động các phụ huynh học sinh tại các địa phương làm  áp lực với các Nha Học Chách tại địa phương để lọai những bài học về thuyết tiến hóa của nhà bác học Chaarles Robert Darwin (1809-1882) ra khỏi chương trình học,  nhưng  lần nào cũng thất bại.

5.- Đã nhiều lần Giáo Hội cố gắng vận động các phụ huiunh phục sinh là áp lực vói các Nha Học Chánh để  đưa thuyết thiết kế thông minh (intelligent design theory) vào chương trình học ở bậc trung học, những lần nào cũng thất bại.

6.- Nhân dân các nước Âu Mỹ là những người theo đạo Ca-tô lâu đời nhất đã nhìn  ra bộ mặt thật ghê tởm của Giáo Hội La Mã. Vì thế mà con số người bỏ đạo hay không đi nhà thờ nữa lên đến 95% tới 99% như đã nói ở trên.

7.- Ngay cả những người còn đi nhà thờ và có sinh họat liên hệ với giới tu sõ Ca-tô cũng sẵn sàng mạnh dạn  đứng lên tố cáo với công luận và với chính quyền về những hành đông tội ác của giới người này nếu họ khám phá hay biệt được những tội ác của bọn quạ đen hay của nhà thờ. Những vụ tố cáo các ông tu sĩ Ca-tô ở Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới về tội sờ mó, làm tình bậy bạ với các  trẻ em và nữ tín  đồ từ đầu năm 2002 cho đến ngày nay là bằng chứng rõ ràng nhất nói lên sự kiện này. Trong khi đó, trong các cộng đồng giáo dân Việt Nam ở Việt Nam cũng như ở hải ngọai, chúng ta  chỉ thấy Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn nói lên tội ác của các ngài mặc áo chùng đen ở trong hai cuốn Tận Thế Số ra Mắt Ngày 15/7/2002 và  Số 2 ra ngày 15/7/2002, chứ không hề thấy một giáo dân nào dám đứng lên công  khai tố các tội ác của các ngài, dù rằng tội ác của các ngài trong cộng đố Ca-tô người Việt có thể  nhiều gấp 10 lần Nếu so với tội ác của các ngài đồng nghiệp người Âu Mỹ của ho. Lý do,  ở miền Nam Việt Nam trong những  năm 1954-1975, các ngài có rất nhiều quyền hành  mà người dân thường gọi là các ông bạo chúa áo đen.  Ai cũng biết răng, quyền hành sinh ra tội ác,  quyền hành càng rộng lớn và nắm quyền càng lâu thì tội ác càng nhiều và càng cao chất ngất như đỉng núi Thái Sơn. Tất cả các ông sĩ áo đen ở miền Nam  Việt Nam trong những năm 1954-1975 và ở tất cả các nước theo chế độ đạo phiệt Ca-tô đều ở vào tình trạng này.

 

Về căn bệnh cuồng tín của ông Ngô Đình Diệm, sử gia Bernard B. Fall ghi lại trong cuốn The Two Vietnams với nguyên văn như sau:

"Tính hiếu chiến của ông Ngô Đình Diệm thuộc loại như thế này:  Lòng tin đạo đã biến ông ta thành con người hiếu chiến đến độ tàn nhẫn như một vị Đại Pháp Quan của Tòa Án Dị Giáo trong thời Trung Cổ ở Tây Ban Nha. Quan điểm của ông ta  về chính quyền là hình ảnh của một bạo chúa theo truyền thống quan lại phong kiến hơn là hình ảnh của một tổng thống theo hiến định của một nước cộng hòa. Một người Pháp theo đạo Kitô La Mã khi nói chuyện với ông ta cố ý cao giọng những tiếng "tín ngưỡng của chúng ta" thì ông ta thản nhiên trả lời rằng: "Ông biết mà, tôi tự coi tôi như là một tín hữu Kitô La Mã  giống như người  Kitô Tây Ban Nha," thế có nghĩa ông ta là một đứa con tinh thần (của Giáo Hội La Mã) với niềm tin hung hăng, dữ tợn và hiếu chiến hơn là một tín đồ  dễ dãi và khoan dung giống như người Pháp theo đạo Kitô La Mã." Nguyên văn: "Ngo Dinh Diem's militancy is of that kind:  His faith is made less of the kindness of the apostles, than of the ruthless militancy of the Grand Inquisitor; and his view of government is made less of the constitutional strength of a President of the republic than of the petty tyranny of a tradition-bound mandarin. To a French Catholic interlocutor who wanted to emphazise Diem's bond with French culture by stressing "our common faith,"  Diem was reported to have answered calmly: "You know, I consider myself rather as a Spanish Catholic," i.e., a spiritual son of a fiercely aggressive and militant faith rather than of the easygoing and tolerant approach of Gallican Catholicism."[ii]

Đặc tính cuồng tín của ông Diệm cũng thường được thể hiện ra bằng hành động hàng ngày với hai lần đến trước tượng Chúa để cầu khấn. Tình trạng này đã khiến cho bà Ngô Đình Nhu châm biếm bằng câu nói “mua tích kê (vé) để dành sau này lên thiên đường.” Chuyện này được ông Hoàng Trọng Miên ghi lại trong cuốn Đệ Nhất Phu Nhân - Tập I với nguyên văn như sau:

"- Dì (Bà Nhu) cũng rõ: cháu theo đạo từ ngày về nhà chồng. Tin ở Chúa hay không,  thật tình cháu cũng không đặt thành vấn đề, vì cháu chỉ là người đạo mới. Lúc này, cháu chỉ biết rằng gia đình chồng sùng đạo, và Công Giáo là một lực lượng quan trọng, có thể làm hậu thuẫn mạnh cho chính quyền, cho địa vị họ Ngô "Noblesse oblige" (phú quý sinh lễ nghĩa), cháu cũng phải tỏ ra là mình ngoan đạo.

Dì muốn hỏi  cháu có tin Chúa không, vì nếu dì không lầm thì lẽ đạo có những điều mà cháu vần phải lưu ý thận trọng.

Lệ bỗng phá lên cười: "Xin lỗi dì cho phép cháu cười, vì trông vẻ mặt nghiêm trọng của dì, cháu sực nhớ  đến bộ điệu như thế của một ông cha mà cháu đã xưng tội, và sau đó chính ông ta nhờ cháu để xin áp phe. Dì vì thương cháu mà chân thành nghiêm nghị, còn ông linh mục kia....

Lệ lại cười, rồi nói tiếp: "Cháu thấy ông anh chồng sáng tối cầu kinh, như là mua "tíc-kê"  (vé) để dành sau này lên thiên đàng,  và cứ gặp việc khó khăn quan trọng gì cũng ra ghế cầu nguyện một lúc rồi mới giải quyết.... Thật cháu lấy làm khó hiểu quá.

Rồi như thắc mắc điều gì, Lệ bỗng hỏi bà dì: "Dì có biết lịch sử gia đình Giáo Chủ Borgia?" [iii] 

Đặc tính cuồng tín về tôn giáo của ông Diệm cũng được thể hiện ra khi nói chuyện với Đại Tá  Edward G. Lansdale  và được ông đại tá này ghi lại trong cuốn Hồi Ký Tôi Làm Quân Sư Cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm với nguyên văn như sau:

"Tôi còn nhớ có lần tôi hỏi về việc giáo huấn đạo Thiên Chúa đối với người Việt, ông Diệm đã giảng cho tôi một hơi 5 giờ liền. Những buổi nói chuyện như vậy làm cho thông dịch viên Redick phải mệt đừ, dù rằng sức hiểu biết sinh ngữ của tôi  đã dần dần khá hơn đủ để giúp cho Redick bớt chút gánh nặng." [iv]

Đặc tính cuồng tín của ông Diệm cũng được thể hiện ra qua lời lẽ của ông Diệm khi nói chuyện với ông Tướng Da-tô Huỳnh Văn Cao về cái chết và chuyện rửa tội của ông Ba Cụt Lê Quang Vinh. Chuyện này được chính cựu Tướng Huỳnh Văn cao kể lại với nguyên văn như sau. 

"Các chiến dịch Trương Tấn Bửu,  Đinh Tiên Hoàng, Hoàng Diệu, Nguyễn Huệ đã hoàn tất, mang lại sự thống nhất cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa, nhưng đồng thời cũng gây nên bao cảnh não lòng giữa những người quốc gia. Tổng Thống Diệm nói với tôi rằng: "Vì phải lo chuẩn bị đối phó với Cộng Sản, đành phải mạnh tay, chứ biết làm sao hơn được!"

Tuy nhiên, hai sự kiện não nề không thể quên, đó là cái chết của Ba Cụt và cái chết của một số anh em chiến sĩ giáo phái tại miền Trung và tại Quang Trung. Trên bình diện chính trị, tôi phản đối những cái chết oan uổng ấy vì đó là những con người chống Cộng. Tôi biết nhiều người quy trách nhiệm cho Tổng Thống Diệm,  nhưng theo tôi nghĩ, thì vì cạm bẫy của Cộng Sản muốn gây hận thù giữa Tổng Thống Diệm và các giáo phái (sic). Thật sự, Tổng  Thống Diệm thường nói, pháp luật trên hết, cái gì tòa án phán quyết, thì tổng thống xem là phải, và có biết bao nhiêu cái xẩy ra, mà người ta cố tình che giấu Tổng Thống Diệm.

"Vì ông Ba Cụt mà tôi phải chạy đôn chạy đáo, dậy sớm thức khuya cả mấy hôm. Nguyên là từ khi Ba Cụt bị án tử hình,  tôi thấy cụ Diệm đầu tóc bù rối, ban trưa, ban tối, cũng như tảng sáng, xem ra Tổng Thống băn khoăn lo nghĩ rất nhiều. Cụ gọi tôi vào nói chuyện thiêng liêng mà thôi. Cụ bảo:  "Án tử hình của Ba Cụt thì không thể ân xá được,  bây giờ phải làm sao mà cứu vớt linh hồn ông ấy. Sáng mai, anh lấy máy bay xuống Cần Thơ gặp Tướng Minh và ông Quang, yêu cầu họ để cho hai cha vào khuyên nhủ Ba Cụt trở lại (đạo), để cứu phần rỗi (hồn) cho ông taCha Hoàng và Cha Toán đã có mặt ở Cần Thơ rồi.  Anh ghé vào gặp Đức Cha Bình, và thưa chuyện cho Ngài biết.  Bảo Đại Tá Quang phải đích thân can thiệp với khám (nhà tù) để giúp phần hồn cho Ba Cụt. Nếu Ba Cụt thuận thì tôi đỡ đầu cho."

Ngày mai tôi thi hành đúng theo chỉ thị. Trở về Sàigòn lúc ban chiều, tôi trình Tổng Thống nhiệm vụ hoàn tất. Lại phải lo làm công việc văn phòng bù lại cả ngày đi vắng.Tối đến vừa mới và (ăn) một chén cơm, Tổng Thống điện thoại gọi vào Dinh. Cụ lại giảng thuyết về thiêng liêng, thiên đàng, hỏa ngục, và xem ra Cụ rất lo lắng về phần hồn của Ba Cụt. Nửa đêm mới ra về.

Tắm gội xong lên giường ngủ là một giờ sáng. Tôi ngủ mê như cây gỗ. Thình lình điện thoại reo vang, nghe bên kia ống nói là giọng Tổng Thống, “Ừ, vào đây có việc gấp”. Nhìn đồng hồ mới 5 giờ 30 sáng. Tôi vội vàng rửa mặt, chải đầu, ăn mặc chỉnh tề đi vào Dinh.

"Vừa bước vào cửa phòng, Cụ tươi cười nở như hoa,  đó là lần đầu tiên tôi trông thấy Cụ vui cười cởi mở quá sức. Cụ bảo: "Ba Cụt chịu phép rửa tội rồi. Giờ đây,  Ba Cụt chết là về Thiên Đàng thẳng ro ro!" Tôi hỏi Cụ:  "Con cũng cầu cho Ba Cụt được lên Thiên Đàng,  nhưng nếu mấy mươi năm trời phạm đủ mọi thứ tội, mà bây giờ chịu phép rửa tội, thì đươc lên thẳng Thiên Đàng, như vậy có bất công không". Cụ trợn mắt nhìn tôi,  như quyết liệt bênh vực Ba Cụt, Cụ nói: "Thôi bị trảm quyết là một hình phạt quá sức rồi. Chúa tha thứ hết, Ừ,  thế mà Ba Cụt hơn mình rồi. Lên Thiên Đàng hạnh phúc lắm".

Và Cụ nói tiếp: "Chỉ có chừng ấy, tôi tin cho anh mừng, vì mới được tin Cha Toán cho hay, thành tôi mới gọi anh đó".  Tôi chào Cụ và trở về nhà ăn sáng. Vợ tôi hỏi: "Có chi mà Cụ  kêu sớm thế?" Tôi đáp gọn: "Cụ mới làm bọ (bố) đỡ đầu Ba Cụt theo đạo, ông kêu vô tin cho biết bấy nhiêu."[v]

Bản văn trên đây cho chúng ta thấy mức độ cuồng tín của ông Ngô Đình Diệm vượt xa mức độ cuồng tín của ông Tướng Da-tô Huỳnh Văn Cao rất nhiều.

[Câu văn “Tôi biết nhiều người quy trách nhiệm cho Tổng Thống Diệm,  nhưng theo tôi nghĩ, thì vì cạm bẫy của Cộng Sản muốn gây hận thù giữa Tổng Thống Diệm và các giáo phái ” nghe không thuận lý chút nào cả vì nó không được chứng minh bằng một bằng cớ nào cả. Đây là một trong những đặc tính chạy tội và đổ tội cho người khác, xuyên tạc sự thật, hoặc bóp méo lịch sử  cúa bất kỳ một tín đồ Da-tô “ngoan đạo” nào.]

Với một người có trình độ thông minh trung bình  và nếu không tiếp nhận sở học qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo Hội La Mã hay của một chế độ đạo phiệt Da-tô tay sai của Giáo Hội, đều cho rằng chỉ có những người thuộc loại siêu cuồng tín mới tin rằng, chuyện có thiên đường như Giáo Hội La Mã đã bịa đặt ra, rằng hễ chịu phép rửa tội do một tu sĩ của Giáo Hội La Mã làm chủ lễ thì “khi chết là về Thiên Đàng thẳng ro ro!" như trường hợp do ông Huỳnh Văn Cao kể lại trên đây.

Người ta thường nói, “Tư tưởng biến thành hành động” hoặc là “những suy tư hay tư tưởng thuờng thường được thể hiện ra bằng những việc làm.” Do đó, đặc tính cuồng tín của ông Diệm cũng được thể hiện ra bằng những hành động. Vì thế mà nhất cử nhất động của bất kỳ một việc làm nào hàng ngày trong các việc riêng tư của cá nhân hay gia đình  cũng như những việc làm công cộng của đất nước đều là phát xuất từ những ác tính và đặc tính Da-tô đã có sẵn trong tâm tư của ông ta mà ra cả. Những việc làm như sai Linh-mục Toán, Linh-mục Hoàng và ông Tướng Da-tô Huỳnh Văn Cao xuống Cần Thơ để lo việc cứu rỗi phần hồn cho ông Ba Cụt cũng như việc sáng tối mỗi ngày đến trước tượng Chúa Jesus hay Đức Bà Maria cầu kinh,  v.v… đều là những hành động cuồng tín của ông ta và đều xuất phát từ đặc tính Da-tô tiềm tàng trong con người ông ta mà ra.

Trong số những hành động cuồng tín này có cả những hành động vô cùng dã man khiến cho hơn ba trăm ngàn người dân trong các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, Khánh Hòa và Phú Yên i bị thảm sát  trong những chiến dịch “làm sáng danh Chúa” ở vùng này vào những năm 1955-1963 (sẽ được trình bày đầy đủ ở một chương sau.)

Cũng vì  có những suy tư của một tín đồ Da-tô cuồng tín, ông Diệm đã tổ chức một đại lễ vô cùng long trong vào tháng 2 năm 1959, cho mời vị sứ thần Tòa Thánh Vatican là Hồng Y  Agagianian đến chủ tọa buổi lễ này để ông kính dâng nước Việt Nam cho “Đức Mẹ Vô Nhiếm”, tức là dâng nước Việt Nam cho đế quốc Vatican dù rằng ông đã biết rõ  con số tín đồ Da-tô trong toàn quốc chỉ có khoảng 5% dân số.

Giả sử như con số tín đồ Phật giáo ở Việt Nam chỉ có 5% trong tổng số dân toàn quốc và  hơn 90% là tín đồ Da-tô; giả sử như có một người  Phật giáo nắm giữ chức vụ tổng thống, rồi tổ chức một đại lễ vô cùng long trọng và mời một vị đại diện của tổ chức Phật giáo thế giới đến chủ tọa buổi lễ này để ông tổng thống đó kính dâng nước Việt Nam cho Đức Phật thì con số hơn 90% tín đồ Da-tô trong toàn quốc Việt Nam sẽ có cảm nghĩ như thế nào về cái hành động xấc xược ngược ngạo và ngu xuẩn đến cùng mức của ngu xuẩn này?

Có đặt vấn đề ngược lại như vậy  thì chúng ta mới có hy vọng làm cho tín đồ Da-tô người Việt hiểu rõ được nỗi lòng cay đắng và công phẫn của đại khối trên 95% nhân dân Việt Nam không phải là tín đồ Da-tô về hành động xấc xược ngược ngạo trong việc làm dâng nước Việt Nam cho “Đức Mẹ Vô Nhiếm” như đã nói trên của ông Tổng Thống Da-tô Ngô Đình Diệm.

Cũng nên biết là vào năm 1960, ở Hoa Kỳ,  một tín đồ Da-tô là Thượng Nghị Sĩ John F. Kennedy được đảng Dân Chủ tuyển chọn đưa ra làm ứng cử viên Tổng Thống trong kỳ tuyển cử được tổ chức vào tháng 11 năm đó. Vì yếu tố là tín đồ Da-tô, ứng cử viên Kennedy liền bị ứng cử viên Tổng Thống của đảng Cộng Hòa là Phó Tổng Thống Richard M. Nixon và quần chúng Hoa Kỳ “thắc mắc về trường hợp tín ngưỡng của ông John F. Kennedy”. Việc này đã làm cho Thượng Nghị Sĩ  John F. Kennedy phải long trọng minh xác với nhân dân Hoa Kỳ về việc làm của ông nếu ông được đắc cử. Sự kiện này được các nhà viết sử ghi nhận với nguyên văn như sau:

“… vì tôi là một tín đồ Da-tô, và chưa có một một tín đồ Da-tô nào đắc cử Tổng Thống,…Do đó, điều cần thiết cho tôi để khẳng định một lần nữa là – không phải tôi đặt đức tin vào giáo Hội… mà tôi đặt đức tin vào  nước Mỹ.

Tôi tin vào một nước Mỹ, nơi mà Giáo Hội và Nhà Nước phân biệt một cách tuyệt đối, nơi mà không có giáo sĩ Da-tô điều khiển Tổng Thống [nếu ông ta là một tín đồ Da-tô]  phải hành động như thế nào và nơi mà không một vị mục sư Tin Lành nào được phép ra lệnh cho họ đạo đi bỏ phiếu cho ai….

Tôi không phải là ứng cử viên Tổng Thống Da-tô. Tôi là ứng cử viên Tổng Thống của đảng Dân Chủ, người mà NGẪU NHIÊN cũng là một tín đồ Da-tô.

Tôi không biện hộ cho Giáo Hội trước công luận, và Giáo Hội cũng không làm phát ngôn viên cho tôi…

Nhưng, nếu bất cứ thời điểm nào đến… khi mà nhu cầu chức vụ đòi hỏi tôi phải bán rẻ lương tâm hay vi phạm đến quyền lợi quốc gia thì tôi sẽ từ chức, và tôi hy vọng tất cả các vị công bộc khác có lương tâm  cùng sẽ hành xử như thế…”

Nguyên văn: “… because I am a Catholic, and no Catholic has ever been elected President……. So, it is apparently necessary for me to state once again – not what kind of church I believe in… but what kind of America I believe in.

I believe in an America where the separation of church and state is absolute – where no  Catholic prelate would tell the President [should he be a Catholic] how to act and no Protestant minister would tell his parishioners for whom to vote…

I am not Catholic candidate for President. I am the Democratic Party’s candidate for President, who happens also to be a Catholic. I do not speak for MY CHURCH on public matters – and the church does not speak for me…

But if the time should should ever come… when my office would require me to either violate my conscience or violate the national interest then I would resign the office, and I hope any other conscientious public servant would do likewise….”[vi]

Qua những phần trình bày về những đặc tính cuồng tín ở trên, qua những việc làm tội ác trong những năm làm quan cho Liên Minh Pháp - Vatican và qua việc hành xử quyền hành trong những năm cầm quyền ở miền Nam (sẽ nói rõ ở phần sau), chúng ta thấy rằng, Ông Ngô Đình Diệm quả thật xứng đáng được xếp vào “hạng ngưới súc sinh” như nhà báo Long Ân đã nhận xét (như đã nóiở trên.) Điều khôi hài là thằng súc sinh này  lại được một nhóm người thiểu số cuồng nô vô tổ quốc tôn thờ và vinh danh nó như là một chí sĩ yêu nước và một nhà ái quốc đã chết vì dân. Qua hành động ngu xuẩn này,  chúng ta đi đến một kết luận là những thứ người tôn thờ và vinh danh thằng súc sinh Ngô Đình Diệm như là chí sĩ yêu nước và nhà ái quốc còn tệ hơn cả loài súc sinh.

Trong khi đó thì  sách sử đã khẳng định thằng phản thần tam đại Việt gian họ Ngô này là một trong số 100 nhà độc tài độc ác nhất trong lịch sử nhân loại. Nigel Cawthorne, Sđd., tr. 167-68.

Điều đáng buồn là tên bạo chúa độc ác và  bọn súc sinh này đã nắm quyền chính trị và làm mưa làm gió ở miền Nam ròng rã hơn chín năm trời  (1954-1975), đã tiến hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ trong suốt thời kỳ này với dã tâm làm cho nhân dân miền Nam không còn khả năng lý trí để nhìn ra cái bản chất súc sinh của họ. Cũng vì thế mà những thế hệ tiếp nhận sở học của họ qua chính sách ngu dân ở miền Nam trong những năm này đã không nhìn thấy tính cách súc sinh trong những con người tín đồ Da-tô cuồng tín (xin nhấn mạnh thuộc từ cuồng tín) đã từng cúi mặt gục đầu bán nước cho Liên Minh giặc Pháp – Vatican từ năm 1858 cho đến 1954 và  vẫn còn tiếp tục bán nước cho Vatican ở miền Nam cho đến ngày 30/4/1975.

 

Xem tiếp "Những đặc tính chung của các tín đồ Ca-tô"

 

Chú thích


[i]  Trịnh Văn Phát. Cảm Nghĩ Một Chuyến Đi. (Đăng trong Giáo  Hoàng Học Viiên  PIÔ - Liên Lạc Số 2 - Nhóm Úc Châu thực hiện, tháng 7 năm  1995, tr 72.

[ii] Bernard F. Fall, The Two Vietnams (New York: Frederick A. Praeger, 1964), p. 236.

[iii] Hoàng Trọng Miên, Đệ Nhất Phu Nhân - Tập I (Los Alamitos, CA: Nhà Xuất Bản Việt Nam, 1989), tr. 521-522.

[iv] Edward G. Lansdale,Tôi Làm Quân Sư Cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm (Hoa Kỳ: Đại Nam  in lại ấn bản Sàigon 1971),  tr 220.

[v] Huỳnh Văn Cao, Một Kiếp Người (Chantilly: Virginia: Thu Minh Huỳnh, 1993)  trang 52-53.

[vi] Chu Văn Trình – Thái Vân - Trần Quang Anh, Việt Nam Với Cuộc Dấy Loạn Hòa Bình Của Giáo Chủ John Paul II - Tập 1 (Mt. Dora, FL: Ban Tu Thư Tự Lực, 1994), tr.64-65.

 

© sachhiem.net