Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam
Nguyễn Mạnh Quang
https://sachhiem.net/NMQ/TAMTHU/NMQtt_16a.php
|
bản in |
¿ trở ra mục lục
| 05 tháng 8, 2010
PHẦN III
◎◎◎
CHƯƠNG 16
Kế Sách Vatican Xâm Nhập Vào Giai Cấp Lãnh Đạo Nước Pháp và Cuộc Chiến Chống Vatican Của Dân Tộc Pháp
(tiếp theo)
B.- THỜI KỲ THỨ HAI (1500-1789)
Thời kỳ này do những thành phần trong giới trí thức của
toàn thể Âu Châu và Bắc Mỹ, chứ không phải ở riêng nước Pháp, chủ động và phát
triển thành phong trào chống lại Vatican hết sức mãnh liệt. Phong trào này nhen
nhúm đồng thời với sự xuất hiện của Chủ Nghĩa Nhân Bản (Humanism) và Thời Kỳ
Phục Hưng (The Renaissance, 1300-1650) rồi bùng lên vào thế kỷ 16 trong Thời Kỳ
Khoa Học và Lý Trí (Science and the Age of Reason, 1500-1789). Ta có thể gọi
thời kỳ này là thời kỳ công khai vận động quần chúng mà giới trí thức đứng
lên phất cờ đứng đầu gió, dồn nỗ lực vào công việc viết sách trình bày cho nhân
thế giới biết rõ bộ mặt thật ghê tởm của Vatican về những thủ đoạn phỉnh gạt,
lừa bịp trong kinh thánh, trong giáo luật, trong những lời dạy của Giáo Hội La
Mã và những tội ác trời không dung đất không tha của Vatican. Mục đích của những
việc làm này là hy vọng làm cho mọi người thức tỉnh rồi mạnh bạo vùng lên cùng
nhau tranh đấu cho đại cuộc khử diệt “cái tôn giáo ác ôn” này để đòi lại quyền
làm người. Có nhiều nhà viết sử gọi thời kỳ này là thời kỳ giải hoặc, giống như
ban biên tập của các trang nhà giaodiemonline.com và sachhiem.net của người Việt
hải ngọai ở Bắc Mỹ đã và đang làm từ nhiều năm nay.
Tìm hiểu các công trình của phong trào này, chúng ta thấy
đây quả thật là một phong trào "Trăm hoa đua nở". Không biết có phải là "nhu
cầu phát sinh sáng kiến" hay không, mà lúc bấy giờ các nhà trí thức Âu Châu
lại đua nhau đưa ra những lý thuyết chính trị để hướng dẫn, thức tỉnh quần chúng
với hy vọng làm cho họ nhìn ra được cái quyền làm người hiện đang bị Vatican
tước đoạt và che đậy bằng bức màn u minh tôn giáo. Họ đã thành công trong việc
làm cho nhân dân Âu Châu nhận thức được rằng, Thượng Đế ban cho con người những
quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng, và thành công trong việc kêu gọi nhân
dân thế giới phải vùng lên đạp đổ ách thống trị bạo tàn của tập đoàn Quạ Đen của
“cái giáo hội khốn nạn” có trụ sở trung ương là Tòa Thánh Vatican. Đi tiên phong
trong phong trào này là các nhà hiền triết như Thomas Hobbes (1588-1679), John
Locke (1632-1704), René Descartes (1596-1650), Montesquieu (1689-1755),
Voltaire (1694-1778), Dennis Diderot (1713-1784), Jean Jacques Rousseau
(1712-1778), Thomas Paine (1737-1809), John Adams (1735-1826), James Madison
(1751-1836), Arthur Schopenhauer (1788-1860), Thomas Jefferson (1743-1826), v.v…
Các bậc vĩ nhân và các nhà đại hiền này lần lượt đưa ra những lý thuyết chính
trị làm nền tảng cho các thể chế dân chủ, mở đường cho các cuộc cách mạng chống
lại các chế độ độc tài chuyên chính tại Âu Châu mà thực chất chỉ là các chế độ
đạo phiệt Da-tô với Vatican ở hậu trường điều khiển. Những tư tưởng vĩ đại và
cao đẹp của họ được in thành những tác phẩm và được phổ biến rộng rãi ở khắp mọi
nơi trên thế giới, nhưng họ cũng phải trải qua không biết bao nhiêu khó khăn,
khổ nhọc và kéo dài cả nhiều thế kỷ mới có được như vậy. Sự kiện này được
Linh-mục Bùi Đức Sinh viết trong cuốn Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo như sau:
"Các triết gia tiền bán thế kỷ XVIII, hầu hết theo
thuyết Tự-nhiên Thần-giáo ở Anh, chỉ một số rất ít là vô thần. Nhưng cả hai đều
giống nhau ở phương diện thù ghét Công-giáo trong phạm vị tín lý, phụng vụ và tổ
chức. Đường lối của họ là diễu cợt, châm biếm để đả phá. Mở đầu là luật gia
Montesquieu (1689-1755). Cuốn Những Bức Thư Ba Tư (Lettres Persannes, 1721) của
ông có một lối châm biếm rất ác nghiệt về tôn giáo và chế độ chính trị trong
nước. Cuốn Vạn Pháp Tinh Hoa (Esprit des Lois, 1748) trang nghiêm hơn: Ông coi
tôn giáo chỉ là một bánh xe trong guồng máy hành chánh hay một công cụ chính
trị.
Đứng đầu và tai hại hơn cả là Voltaire (1694-1778).
Ông không phải là người khởi xướng chủ thuyết mới, ông chỉ là người có tài phổ
biến những quan niệm của các "triết gia" cho quần chúng bằng một lối văn vô cùng
hấp dẫn, biết thích ứng và khéo léo khai thác những sự kiện và cơ hội xẩy ra
trong xã hội lúc đó để chế giễu và đả phá tôn giáo. Cũng như (Thomas) Hobbes,
ông cho Ki-tô giáo là trò bịp bợm, láo khoét, là một mớ truyện hoang đường…
Ông cũng chủ trương Pháp Giáo, cho rằng tôn giáo phải đặt dưới quyền kiểm
soát của Quốc Gia, các linh-mục là những công chức ăn lương của chính phủ. Cuộc
Cách Mạng 1789 sau này lấy ông làm bậc thày trong việc đối xử với giáo hội.
Ông là người mở đường cho phong trào bài giáo sĩ thế kỷ XIX.
Nhưng Voltaire không phải là người chiến đấu một mình.
Thời đó, ở Pháp còn có nhóm "Bách Khoa" (Encyclopédistes), họ cũng là những kẻ
thù địch ghê gớm của giáo hội. Nhóm "Bách Khoa" do D. Diderot (1713-84) chủ
trương, với sự cộng tác của nhiều nhân vật chuyên môn như Montesquieu, Voltaire,
Buffon, Condillac, Holbach, Helvetius. Diderot là người vô thần; theo ông tôn
giáo chỉ là một thứ cuồng tín, là căn nguyên mọi loại tội ác, tai họa, chiến
tranh. Lấy danh nghĩa làm một bản thống kê tất cả mọi kiến thức của con
người, nhóm "Bách Khóa" đã cố gắng chứng minh tính cách phi lý của các tôn
giáo, thay thế bằng những kiến thức khoa học mà con người đã khám phá ra. Bộ
Bách Khoa (Encyclopédie, 1751-72) gồm 28 quyển, khổ lớn của họ đã gây ảnh hưởng
tai hại (?) trong mọi tầng lớp dân chúng, nó sẽ là nguồn phát sinh tất cả những
rối loạn và bất công thời Cách Mạng 1789.
Đứng tách biệt khỏi phe "triết gia" là J.J. Rousseau
(1712-78). Trong cuốn Xã Ước (Le Contrat Social, 1762), ông chủ trương một lối
thần bí về bản tính con người, nguồn gốc chủ nghĩa lãng mạn thế kỷ XIX. Theo ông
con người bản tính tốt lành, trở thành xấu chỉ vì bị ảnh hưởng của xã hội,… Về
phương diện tôn giáo… Đối với ông, tín lý, mặc khải, tu đức, v.v.. là những
những điều không đáng để ý.” [19]
"Ở Đức, cuộc khủng hoảng tinh thần, tuy một phần bị ảnh
hưởng của thuyết Tự Nhiên Thần Giáo ở Anh và chủ trương tự do ở Pháp, nhưng có
những đặc điểm khác biệt.
Hầu hết các cuộc tranh luận ở Đức đều vây quanh Thánh
Kinh… Leibniz (1646-1716), đồ đệ của Descartes, là một triết gia có tín ngưỡng…
Nhưng khi thấy có một số tín điều có vẻ nghịch lý, ông đã vội cho rằng những
điều đó sai lầm, không do mặc khải. Từ đó, ông nghiêng theo thuyết Tự Nhiên Thần
Giáo, phủ nhận tôn giáo mạc khải, siêu nhiên cũng như các mầu nhiệm trong Đạo.
Ông mở đường cho thuyết duy lý, và từ đấy phát sinh phong trào "Chiếu Sáng"
(Aufklarung) cũng gọi là "Triết Học Ánh Sáng".
Vì Tin Lành Giáo được xây dựng trên nền tảng Thánh Kinh,
mà mỗi người có quyền giải thích "theo sự soi dẫn của Thánh Linh", nên các cuộc
tranh luận hầu hết hướng về Thánh Kinh. Đi tiên phong là Hermann Von der Hardt
(1660-1746), giáo-sư chú giải Thánh Kinh và ngôn ngữ Đông Phương ở Helmstadt.
Trong hai cuốn Những Bí Nhiệm Của Người Hy Lạp Và La Mã Mù Tối (Aenigmata
Graecorum et Latinorum ex caligine), Khải Huyền Bởi Tối Tăm (Apocalypsis ex
tenebris, 1723), Hermann cho rằng người Đông Phương có khuynh hướng bày đặt
những chuyện thần thoại, tỷ như Cain và Abel chỉ là hai nhân vật tượng trưng hai
đối thủ, vụ đại hồng thủy chỉ là lối mô tả cuộc xâm lăng của dân Scythe.
Phong trào "Chiếu Sáng" chủ trương giải phóng lý trí
và lương tâm con người. Nó tự hào là một cố gắng con người từ nay dám sử dụng lý
trí của mình. Họ cho rằng xưa nay lý trí con người bị khai trừ ra khỏi mọi lãnh
vực, nhất là trong vần đề tôn giáo. Vì thế từ nay, phong trào lãnh
trách nhiệm chiếu giọi ánh sáng lý trí vào vấn đề tôn giáo, đuổi xa mọi bóng
tối.
Triết học Ánh Sáng trở nên vững mạnh với Christian Von
Wolf (1679-1754), một triết gia kiêm toán học. Năm 1728, ông xuất bản cuốn Quan
Niệm Triết Học Về Thiên Chúa (Pensées philosophiques sur Dieu), Thế Giới Và Linh
Hồn Con Người (Le monde et l' âme humaine); theo ông, con người chỉ tin cái
gì hợp với lý trí và lương tâm. Chỉ có Tự Nhiên Thần Giáo là Đạo hợp lý và có
thể chứng minh được,….
Từ khi Vua Frederich II (1740-86) lên cầm quyền, phong
trào này được nâng đỡ công khai. C Nikolaus (1733-1811), một hội viên trong Hàn
Lâm Viện Bá Linh và Munich, chủ trương một Tổng Thư Viện Đức (Deutsche Allemeine
Bibliotek) gồm 106 cuốn, giống như bộ Bách Khoa của Diderot. Các nhà chú giải
Thánh Kinh giai đoạn này nói nhiều đến Maisen và Chúa Kitô. Theo nhà Đông
Phương Học Michaelis (1668-1738) thì Maisen không phải là người Chúa chọn, nhưng
chỉ là một nhà chính trị xảo quyệt. Đi xa hơn, nhà ngôn ngữ học Reimar
(1694-1723) cho rằng Maisen và cả Chúa Kitô chỉ là những tên bip bợm dân chúng
để thiết lập cái gọi là "Nước Thiên Chúa"…"
[20]
Tất cả những tư tưởng và các hoạt động văn hóa của các nhà
trí thức trên đây hoàn toàn đối nghịch với chủ trương "Thần quyền chỉ đạo thế
quyền" và đối nghich với "chính sách bất khoan dung" của Vatican. Tất
cả đều có chủ ý là vô hiệu hóa tất cả mọi "sách lược hành động" của
Vatican. Cũng vì thế mà Vaticani đã chống đối kịch liệt tất cả các tư tưởng của
họ bằng cách cấm, không cho tín đồ đọc các tác phẩm của họ, và ra lệnh cho các
chính quyền đạo phiệt tay sai thẳng tay đàn áp các tác giả và bóp nghẹt các
phong trào dân chủ ngay từ khi còn trong trứng nước. Thế nhưng, dù là có ba đầu
sáu tay đi nữa, bàn tay của Vatican cũng vẫn không làm thế nào che khuất được
mặt trời, không thể nào bơi ngược được dòng lịch sử. Bánh xe lịch sử vẫn tiếp
tục quay theo chiều hướng của phong trào tranh đấu cho dân chủ và đòi lại quyền
làm người của nhân dân thế giới. Đúng là trời đã phú cho con người cái bản năng
tự tồn, thì trời cũng hiến cho loài người những bậc đại hiền trên đây để chống
lại bọn người phi cầm phi thú, đội lốt tu hành, mượn danh thượng đế bằng chiêu
bài tôn giáo với chủ đích lừa gạt người đời, chèn ép những người lép vế thế cô
và bóc lột dân lành để sống đời bê bối thối thao loạn dâm phi luân, phủ phê và
phè phỡn trên mồ hôi nước mắt của lê dân.
Trên đây là một trong những phong trào của các bậc đại hiền
Âu Châu, quyết đem cái dũng của người trí thức ra nói chuyện với bạo quyền
Vatican để phá tan chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của cái "tôn giáo
ác ôn”" này. Cũng như các phong trào khác, phong trào này cũng là phong trào
tự phát dấy lên từ nhân dân, lấy nhân dân làm thế dựa để chống lại bạo quyền
Vatican bằng con tim và khối óc, tuôn trào ra thành những tác phẩm nói lên những
sự thật về thành tích bịp bợm và những rặng núi tội ác cao chót vót như đỉnh Hy
Mã Lạp Sơn của tập đoàn tăng lữ lưu manh, gian tham và cưc kỳ tàn ngược trong
Tòa Thánh Vatican và trong Giáo Hội La Mã. Vì đây là phong trào của nhân dân và
được nhân dân nuôi dưỡng, cho nên, bạo quyền Vatican và bọn tu sĩ tay áo đên sai
chỉ còn biết giẫy lên đành đạch như đỉa phải vôi, không còn có cách nào khác hơn
là áp dụng sách lược cố hữu "hàm huyết phún nhân", chụp mũ là
"vô thần", "chống Kitô" và "chống Chúa" với dã tâm xúi giục bọn giáo dân cuồng
tín nhào ra làm con thiêu thân bạo hành chống lại họ.
C.- THỜI KỲ THỨ BA (1789-1815)
Thời kỳ này còn được gọi là thời Cách Mạng Dân Chủ (The Age of Democratic Revolutions (1602- 1815)) và là thành quả của cuộc
tranh đấu kiên cường của các bậc trí giả của thời kỳ thứ hai như đã nói ở
trên. Nhờ được đông đảo nhân dân tích cực tham gia cho nên phong trào này có
thể bùng lên thành những phong trào cách mạng bạo lực vào thế kỷ 18. Vì lúc
đó, trong bất kỳ chế độ đạo phiệt Ca-tô nào ở bất kỳ nơi nào trên thế giới,
Vatican cũng nắm giữ vai trò chủ chốt, cho nên mỗi khi có phong trào phản
kháng Vatican thành công ở đâu, thì việc làm đầu tiên của tân chính quyền là
tịch thu tài sản của Giáo Hội La Mã, tách rời tôn giáo ra khỏi chính quyền.
Tăng lữ áo đen bi tống cổ ra khỏi sân khấu chính trị, phải trở về
với nhà thờ và việc làm của họ cũng bị giới hạn ở trong nhà thờ, làm những gì có liên hệ đến thần
quyền mà thôi. Việc làm này được gọi là công việc thanh toán vấn nạn Giáo
Hội La Mã mà khởi đầu là cuộc Cách Mạng Pháp bùng nổ vào ngày 14/7/1789. Nói
về cuộc cách mạng này, người viết đã trình bày đầy đủ trong bộ sách Lịch Sử
và Hồ Sơ Tội Ác của Giáo Hội La Mã nơi Phần VII, Mục XXVI gồm Chương 108.
109, 110, 111 và 112. Ở đây, chúng tôi xin thu gọn lại để cho độc giả có ý
niệm tổng lược về cuộc Cách Mạng vĩ đại này.
1.-TÌNH CẢNH NHÂN DÂN PHÁP VÀO KHI CÁCH MẠNG 1789 BÙNG NỔ:
Nhân dân Pháp lúc bấy giờ ở vào tình trạng một cổ ba
tròng: (1) cái tròng Ca-tô (the Catholic loop), (2) cái tròng của chế độ
quân chủ đạo phiệt chuyên chính của Louis XVI, và (3) cái tròng của các nhà
chức sắc áo đen, áo tím, áo đỏ của Vatican cấu kết với bọn lãnh chúa địa
phương. Riêng về cái tròng Ca-tô, tài sản quốc gia đã bị Vatican cướp đọat
và chiếm hữu đến 1/7 diện tích canh tác. Ngòai ra, nhân dân Pháp còn bị nhà
thờ bóc lột bằng thuế thập phân (đóng 1/10 tổng số lợi tức) cho Vatican và
hàng chục thứ đóng góp khác. Vấn đề này đã được chúng tôi trình bày khá rõ
ràng trong Chương 13 ở trên cũng như trong Chương 15, Mục VI, Phần II và
đặc biệt là trong Chương 110, Mục XVI, Phần VII sách Hồ Sơ Tội Ác Của Giáo
Hội La Mã.
Cái tròng triều đình Vua Louis XVI và cái tròng các
ông quạ đen cấu kết với bọn lãnh chúa địa phuơng cũng đua nhau bóc lột nhân
dân bằng muôn vàn hình thức thuế khóa và đóng góp không khác gì Vatican.
Tình trạng này đã khiến cho nhân Pháp rơi vào thảm cảnh đói khổ vô cùng cơ
cực, và ngân khố quốc gia trống rỗng, tài chánh bị khủng hoảng, nhà vua phải
vay nợ của các nhà ngân hàng và nợ nần càng ngày càng chồng chất.
2.- DIỄN TRÌNH CÁCH MẠNG
Vô kế khả thi, nhà vua phải triệu tập Quốc Dân Đại Biểu
với ý đồ nhờ cơ quan này tiếp tay ra lệnh tăng thuế. Ngày 4/5/1789 Quốc Đân
Đại Biểu của ba giai cấp tăng lữ (256), quý tộc (270) và thứ dân (730 đại
biểu và đại đa số là giới trí thức), tổng số là 1,256 đại biểu đến dự họp
tại hội trường (Salle des Etats) trong điện Versailles. Có một điều quái đản
là quy chế bỏ phiếu của Quốc Dân Đại Biểu lại tính theo giai cấp, nghĩa là
mỗi giai cấp chỉ có môt phiếu, trong đó giai cấp tăng lữ và quý tộc luôn
luôn cấu kết với nhau. Sự kiện này cho chúng ta thấy rõ tiếng nói của các
đại biểu của giai cấp thứ dân chẳng có giá trị gì cả. Chính vì tình trạng
bất công và vô lý này mà việc thảo luận giải quyết vấn đề khủng hoảng tài
chánh do nhà vua đề nghị cứ nhì nhằng không đí đến đâu cả. Trong khi đó nhà
vua vẫn cho người canh chừng, theo dõi xem Quốc Dân Đại Biểu có nổi loạn
chống lại triều đình như Quốc Hội Anh không và luôn luôn thủ sẵn quân đội
phòng hờ để ứng phó với tình hình. Như vậy là Quốn Dân Đại Biểu Hội luôn
luôn bị nhà vua khống chế.
Tức nước vỡ bờ và cũng là để giải quyết tình trạng bất
công này, ngày 13/6/1789, có một đại biểu đề nghi xin đổi danh xưng Quốc Dân Đại Biểu (do nhà vua đặt tên) thành danh xưng
Quốc Hội (Assemblée
Nationale) và tuyên bố có thẩm quyền trọn vẹn. Đề nghị này được đại đa sô
tán thành không cần đếm xỉa đến tiếng nới có một đại biểu của giái cấp tu sĩ
và quý tộc.. Chủ ý của việc đổi danh xưng là để minh thị cho quốc dân biết
rằng Quốc Hội này gồm những đại biểu của tất cả mọi tầng lớp nhân dân và
những việc làm của họ là cho phúc lợi của nhân dân, chứ không phải cho Giáo Hội La Mã
hoặc cho nhà
vua hay giai cấp thống trị. Việc này cho thấy rõ Quốc Hội đã thực sự chống
lại nhà vua và cũng là chống lại Vatican. Đồng thời, nó cũng cho thấy sức
mạnh của giai cấp thứ dân và lòng căm thù của đại khối nhân dân Pháp đối với
nhà vua và Vatican.
Thấy tình hình bất lợi, ngày 20/6, Vua
Louis XVI ra lệnh đóng cửa phòng họp, không cho họp. Đoàn đại biểu phải lang
thang tìm đến căn nhà lớn vốn dùng làm phòng đánh vũ cầu cho giới quý tộc đề
làm trụ sở nhóm họp. Ngày 22/6, nhà vua lại ra lệnh đóng cửa
căn nhà này. Đoàn đai biểu mà phần lớn vốn thuộc giai cấp thứ dân lại lang
thang lếch thếch kéo nhau đến nhà thờ Saint Louis để nhóm họp. Trưa
hôm đó, người ta thấy có 148 đại diện tu sĩ (nhẩy rào) đến họp và
người dẫn đầu là một tổng giám mục. Nhưng rồi, có lẽ vì cảm thấy bất lợi,
ngày 23/6 nhà vua thây đổi chiến lược, mở cửa hội trường trong điện
Versailles, yêu cầu các đại biểu đến họp, rồi nhà vua đem theo nhiều vệ
binh cùng với các đai biểu thuộc hai giới tu sĩ và quý tộc cũng đến họp
đông đủ. Khai mạc buổi họp, nhà vua đứng lên đọc diễn văn bằng những lời
phán: “Trẫm ra lệnh cho các đại biểu phải phân tán lập tức để sáng
ngay mai tới họp tùng tầng lớp một để bàn công việc.” Nói xong, nhà
vua ra về, các đại biểu của hai giới tu sĩ và quý tộc cũng theo gót nhà vua
ra về.
Trong phòng họp, chỉ còn lại có đại biểu của giai cấp
thứ dân và một vài đại diện tu sĩ nhẩy rào. Nhà vua cho người đến truyền
lệnh cho các đại biểu phải ra về. Có lẽ vì quá căm giận thái độ ngoan cố của
nhà vua, đại biểu Mirabeau với nét mặt hầm hầm tuyên bố: "Ông hãy về nói
cho những người gửi ông tới đây biết rằng chúng tôi đến đây họp là do ý chí
của toàn dân, và chỉ có thể lấy lưỡi lê mới đuổi được chúng tôi ra khỏi nơi
này mà thôi!". Sau đó, đại biểu Sièyes (tu sĩ nhẩy rào) đứng lên nói lớn
tiếng yêu cầu mọi người bắt đầu cuộc thảo luận. Cuộc họp liền cho ra quyết
nghị rằng "các đại biểu có tính cách bất khả xâm phạm." Đây là một
hành động thách đố đối với triều đình. Phiên họp ngày 24/6, có
thêm một số đại biểu tu sĩ nhẩy rào đến họp. Ngày 25/6, có một
số đại biểu quý tộc nhẩy rào đến họp. Quốc Hội đại thắng.
Thấy vậy, nhà vua cho gửi thêm 20 ngàn quân mà phần lớn
là những lính đánh thuê người ngoại quốc về bao vây điện Versailles. Có tin
đồn Hoàng Đế nước Áo (anh vợ Vua Louis XVI) sẽ cho quân tràn vào nước Pháp
tiến đến Paris để giải tán Quốc Hội và có thể xử tử những đại biểu bị coi
như là những thành phần nguy hiểm.
Trong khi đó, lại có tin đồn giới quý tộc mưu đổ
lật đổ Quốc Hội. Vì thế mà tình hình càng trở nên căng thẳng và sôi nổi. Đứng
trước sự việc phải đối đầu với bạo lực, Quốc Hội lâm vào một tình cảnh vô cùng
khó khăn, nhưng rồi nhân dân Ba-lê đã vùng dậy bảo vệ Quốc Hội:
“Dân chúng vốn đã xôn xao vì đói rét và các tin đồn.
Quận Công D’ Orléans cùng các nhà đại tư bản lại vung tiền ra lôi kéo được
đoàn vệ quân của thành Ba-lê. Đồng thời, họ cũng tổ chức được đoàn tự vệ của
48 khu phố. Ba-lê lúc đó thật là sôi nổi. Dân chúng biểu tình khiêng bức
tượng Quận Công D’ Orléans. Các rạp hát đều đóng cửa, các biểu ngữ giăng đầy
đường, và không nơi nào là không có người diễn thuyết. Trong một cụôc diễn
thuyết, Camille Desmoulins đột nhiên tung ra khẩu hiệu “Dân chúng hãy tự
động võ trang”. Khẩu hiệu này trong chốc lát đã lan truyền ra khắp nơi trong
thành phố. Những đám đông đã tự động phá cửa các tiệm bán khí giới để cướp
súng, cùng đánh cướp những kho khí giới khác.”[21]
Thế là mọi ngưởi trong kinh thành Paris đều tự động tìm
kiếm vũ khí để tự vũ trang. Ngày 13/7/1789, toàn thể 48 khu phố trong
kinh thành Paris đều tự động thành lập các đoàn tự vệ gọi là “Vệ Binh Quốc
Gia” (National Guard” để bảo vệ Quốc Hội. Quốc Hội thành lập chính quyền
thành phố Paris gọi là Công Xã Ba Lê (the Paris Commune). Đồng thời các cuộc
biểu tình tuần hành biểu dương ý chí ủng hộ những việc làm của Quốc Hội. Ngày
14/7/1789, hàng hàng lớp lớp người dân Paris tiến đến ngục
Bastille với mục đích cướp kho vũ khí tại đây để vũ trang. Đến nơi, thấy
rằng cửa thành vào trong khuôn viên nhà ngục bị đóng kín và canh gác cẩn
mật, đoàn người biểu tình đòi gặp viên Thống Đốc và yêu cầu phải thỏa mãn
yêu cầu của họ. Một vài đại biểu của đoàn biểu tình được mời vào nói chuyện.


Ngục Bastille ngày cách mạng 14 tháng 7, 1789
Ở ngoài, đoàn biểu tình chờ lâu quá không thấy đại biểu của họ trở lại. Họ
hò nhau vượt hào, phá cổng xông vào. Lính canh phòng ở bên trong nổ súng
khiến cho một số người chết và bị thương. Máu đổ làm đám đông đang trong cơn
kích động, hăng tiết ào tới đập phá cổng thành, xông vào bên trong chém
giết, tóm cổ viên thống đốc (quản ngục), chặt đầu, lấy thủ cấp cắm vào ngọn
giáo bêu lên cửa ngục và ăn mừng chiến thắng. Sách Cách Mạng Và Hành Động kể
lại chuyện này như sau:
“Nguyên nhân của cuộc đánh phá chỉ là cốt chiếm kho
vũ khí của nhà ngục. Dân chúng Ba Lê có phái một phái đoàn tới yêu cầu viên
thống đốc coi ngục phải giao khí giới. Cuộc điều đình kéo dài trong mấy
tiếng đồng hồ, và viên thống đốc mời phải đoàn dùng cơm. Trong khi đó, dân
chúng võ trang đứng đợi bên ngoài. Thấy bặt tin, dân chúng xao động. Có mấy
người sốt tiết nhẩy xuống hào, lội qua lên bờ, lấy búa chặt giây xích để hạ
cổng nhà ngục. Một vài phát súng nổ lẻ tẻ. Trên chòi cao, viên thống đốc
quan sát tình thế. Không biết ông có ra hiệu bắn hay không, song những lính
gác ngục đã nổ một loạt súng. Trong đám dân chúng, nhiều người bị thương
hoặc chết. Máu xung lên, họ ào ào mở cuộc tấn công. Đoàn vệ quân thành Ba Lê
cũng tới tiếp viện cho dân chúng, đem cả súng thần công tới. Đạn thần công
phá vỡ nhà ngục. Dân chúng ào ào chém giết, chặt đầu viên thống đốc bêu lên
ngọn giáo cắm cửa ngục. Suốt đêm hôm đó, dân chúng Ba Lê đốt lửa nhẩy nhót
xung quanh những chiến lợi phẩm cùng đầu lâu người. Từ đó, dân chúng Ba Lê
đã tổ chức thành một lực lượng thống nhất dưới quyền của Ba Lê Công Xã. La
Fayette được cử làm chỉ huy trưởng Đoàn Vệ Quân cùng những tự vệ thành Ba
Lê.
Sau khi ngục Bastiles thất thủ, nhiều người trong hoàng
tộc bỏ vua Louis XVI để xuất ngoại. Bị cô lập trong điện Versailles, Louis XVI
đành chịu đầu hàng. Ngày 15/7, vua ra mắt Quốc Hội chính thức báo
tin rằng sẽ giải tán những quân đội tập trung gần điện Versailles. Tới
ngày 17/7, vua ngự giá tới Ba Lê, đến nhà Đô Sảnh, bắt tay viên thị
trưởng thành Ba Lê, và chấp nhận lá cờ cách mạng; cờ này gồm ba mầu, xanh và
đỏ là màu của Ba Lê, còn màu trắng tượng trưng cho nhà vua."
[22]
Như vậy là bước đầu tiên của Cách Mạng đã thành công. Kể từ
đó, dân tộc Pháp chọn ngày 14 tháng 7 hàng năm làm ngày Quốc Khánh.

Việc nhân dân Paris tấn công và chiếm ngục
Bastille làm cho Vua Louis XVI và phe Bảo Thủ không dám đem quân về đàn áp Quốc
Hội nữa. Ngày 17/7, nhà Vua (cư ngụ ở điện Versailles cách Paris chừng 21
cây số) thân hành đến Paris để tỏ thiện chí và công nhận Công Xã Ba Lê và Vệ
Binh Quốc Gia. Hầu tước Lafayette được đưa lên nắm giữ chức tổng chỉ huy Vệ Binh
Quốc Gia. Nhân đó, ông đưa ra lá cờ mới gồm có mầu trắng tượng trưng cho
hoàng gia Bourbons, mầu xanh và mầu đỏ tượng trưng cho thành phố Paris. Lá
cờ này được người Pháp gọi là cờ “ba mầu.”Nguyên
văn: [23]
Thế là Quốc Hội được cứu thoát và Cách Mạng 1789
vượt qua được bước khởi đầu.
3.-
CÁCH MẠNG HÀNH ĐỘNG
Kể từ ngày này, một Ủy Ban Nhân Dân gọi là Ba Lê
Công Xã lo việc quản trị nhân dân trong kinh thành Ba-lê và bảo vệ an ninh cho
các đại biểu trong Quốc Hội tiến hành những công việc của Cách Mạng.
Đó là những công việc:
Thứ nhất là công bố Bản
Tuyên Ngôn Nhân..- Việc cấp thiết là Quốc Hội phải bàn thảo, biên
soạn bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền (The Declaration of the Rights of Man and of the
Citizen) và tìm phương cách giải quyết cấp thiết nạn khủng hoảng tài chánh đang
làm cho nước Pháp lâm vào tình trạng phá sản, rồi tiến tới việc soạn thảo hiến
pháp làm cơ cấu cho tổ chức tân chính quyền.
Sau hơn gần 3 tuần lễ cặm cụi làm việc, ngày
26/8/1789 Quốc Hội công bố bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền xác nhận rằng:
a.- Quyền lực của nhà nước vì nhân dân mà có (The
authority of a government is derived from the people).
b.- Mọi người dân phải bình đẳng trước pháp luật
(All citizens should be equal before the law).
c.- Tất cả mọi người dân đều có quyền ảnh hưởng
vào việc làm luật (All citizens should have the right to influence the making
of the law).
d.- Mục đích của chính quyền là để bảo vệ những
quyền tự nhiên của con người. Đó là quyền tự do, quyền có tài sản, quyền sống
trong an ninh và quyền chống lại áp bức (The purpose of government should be the
preservation of the natural rights of men to “liberty, property, security, and
resistance to oppression” ).
e.- Quyền tự do tư tưởng và tự do hành xử tín
ngưỡng của mọi người phải được bảo đảm (Freedom ò thought and religion should be
guaranteed).[24]
Thứ hai là:ban
hành quyết định sử dụng những biện pháp mạnh đối phó với Giáo Hội La Mã và soạn thảo hiến pháp:-
Về vấn đề khủng hoảng tài chánh, ngày 4/8/1789, một
đại biểu tu sĩ đảo ngũ về với hàng ngũ thứ dân là Tổng Giám Mục Talleyrand đề
nghị phải tịch thu toàn bộ tài sản của giáo hội (tại Pháp) thì mới có thể giải
quyết được vấn đề. Được đại đa số tán thành, Quốc Hội tiến hành làm thủ tục ban
hành quyết định:
a.- Tịch thu toàn bộ tài sản của Giáo Hội La Mã.
b.- Bãi bỏ hết tất cả những đặc quyền đặc lợi (trong đó có
thuế thập phân) mà chế độ cũ đã dành cho Giáo Hội, tu sĩ và giới quý tộc.
c.- Tách rời tôn giáo ra khỏi chính quyền.
d.- Ban Bản Hiến Chương Dân Sự của Giới Tu Sĩ (The Civil
Constitution Of The Clergy).
e.- Biên soạn một Hiến Pháp cho chế độ mới.
Theo Hiến Chế Dân Sự của Giới Tu Sĩ (the Civil
Constitution of the Clergy), Giáo Hội Pháp nằm trong Quốc Gia, chứ không còn
nằm trong Giáo Hội La Mã nữa. Mục đích của hiến chế này là tách rời Giáo Hội
Pháp ra khỏi Giáo Hội La Mã, biến giáo hội này thành một tổ chức tôn giáo nằm
dưới quyền kiểm soát của chính quyền, và trong vòng ba năm Giáo Hội Da-tô Pháp
sẽ bị tước bỏ hết tất cả những nguồn tài chánh. Nói về những việc làm này của
Quốc Hội Pháp, Giáo-sĩ Malachi Martin ghi lại trong cuốn Rich Church, Poor
Church với nguyên văn như sau:
"Ngày 2 tháng 11 năm 1789, tất cả
các tài sản của Giáo Hội La Mã ở Pháp bị Quốc Hội Pháp tuyên bố là thuộc quyền
sử dụng của quốc gia." Ngày 12 tháng 7 năm 1790, bản Hiến Chế Dân Sự Cho
Giới Tu Sĩ (còn được gọi là Dân Hiến Giáo Sĩ) được ban hành thành luật. Nguyên
tắc của bản hiến chế này là "Giáo hội nằm trong Quốc Gia, chứ không phải Quốc
Gia nằm trong giáo hội". Mục đích thực sự của bản hiến chế này là tách rời Giáo
Hội Da-tô ở nước Pháp ra khỏi Giáo Hội La Mã, và biến Giáo Hội Da-tô này thành
một tổ chức nằm dưới quyền kiểm soát của chính quyền. Trong vòng ba năm, Giáo
Hội Ca-tô ở Pháp bị tước bỏ hết tất cả những nguồn tài chánh.
Như vậy là toàn bộ khối tài sản vĩ đại của Giáo Hội La
Mã ở Pháp đã chuyển sang tay nước Cộng Hòa Pháp. Có thể là một phần tài sản này
của giáo hội đã bị cường điệu. Tuy nhiên, có nhiều bản lượng định chính xác về
khối tài sản vĩ đại của giáo hội và những bản lượng định trên đây đã được sử
dụng trong tác phẩm này khi đối chiếu với những vấn đề tài chánh của Tòa Thánh
Vatican.
Các nhà viết sử chân chính và có kinh nghiệm đã tính
toán và cho rằng, tài sản (đất đai) của Giáo Hội La Mã ở nước Pháp bằng 1/10
(một phần mười) diện tích của nước Pháp. Nam Tước Montesquieu cho rằng giá trị
thực về bất động sản của Giáo Hội La Mã (ở nước Pháp) vào năm 1746 khoảng chừng
"3 tỉ đồng franc". Khối bất động sản này mỗi năm mang lại lợi nhuận cho
Giáo Hội vào khoảng 85 triệu franc. Lợi tức của giáo hội - các tăng viện,
các địa phận của các ông giám mục, thuế thập phân, các tu viện mang lại cho Giáo
Hội 95 triệu franc. Lợi tức toàn niên hàng năm của giáo hội là 180
triệu Franc. Cũng nên nhớ rằng, Giáo Hội La Mã ở Pháp cũng phải chi ra một
số tiền để lo việc dạy dỗ (nhồi sọ) thanh thiếu niên và các công tác từ thiện.
Dù thế đi nữa, có nhiều ông giám mục và tu viện trưởng đã sử dụng những khoản
tiền kếch xù cho cuộc sống huy hoàng phè phỡn trong những cảnh hoan lạc, đam mê
buông thả với những gì phô trương nghịch mắt.
Số tiền của tín đồ nước Pháp đóng góp hàng năm cho Tòa
Thánh Vatican không phải là không đáng kể. Trong lịch sử Tòa Thánh, có lúc tiền
đóng góp của tín đồ nước Pháp chiếm một tỉ lệ lớn nhất so với toàn cầu. Không có
con số chính xác, nhưng những ước tính đáng tin cậy cho biết, mỗi năm, số đóng
góp này vào khoảng từ 10 triệu đến 20 triệu franc. Ủy Ban Phụ Trách Về
Giáo Hội do Quốc Hội bổ nhậm để thi hành Hiến Chế cho Giới Tu Sĩ, đã ra lệnh cấm
Giáo Hội Ca-tô ở Pháp không được đóng góp một khoản tiền nào cho Tòa Thánh
Vatican.
Ngày 29/6/1790, Tòa Thánh Vatican
lại bị một vố đánh vào tài chánh nữa. Đó là phe đảng Jacobin ỏ Avignon và lãnh
địa Comta Venaissin, lãnh thổ của giáo hội ở miền Nam nước Pháp, tuyên bố là
không còn có nghĩa vụ trung thành với Tòa Thánh Vatican nữa, và sáp nhập vào
lãnh thổ của nước Pháp. Tháng 11 năm đó, quân đội Pháp được phái đến hai
lãnh địa này. Món lợi tức khổng lồ do tài sản của giáo hội ở nước Pháp mang lại
cho Giáo Hội La Mã trước đây bây giờ không còn nữa."
[25]
Cách Mạng Pháp 1789 là hiện thân cho phong trào chống lại
Giáo Hội La Mã hay Vatican và đã trở thành dấu ấn vĩ đại trong cả lịch sử nước
Pháp và lịch sử nhân lọai. Tuy nhiên, dù là Cách Mạng Pháp 1789 đã thành công,
đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới theo đó
mà tiến lên khử diệt “cái tôn giáo ác ôn” và “băng đảng quạ đen”, nhưng phải đợi
đến năm 1905, quyền lực của Vatican và chế độ giáo hoàng (papacy) mới chính thức
bị khai tử và thực sự bị đào sâu chôn chặt ở hầu hết Âu Châu, ngọai trừ Tây Ban
Nha. Lý do: trong những năm 1789 cho đến năm 1905, một mặt Vatican vẫn
còn có thể vận động lôi kéo bọn vua chúa và thế lực phản động phong kiến tại các
nước Áo, Phổ, Nga thành lập các liên minh thánh (holy alliances), đem quân tràn
vào nước Pháp chống chính quyền Cách Mạng và nhân dân Pháp, và xúi giục dân Chúa
cuồng tín nổi loạn tiếp tay cho quân cướp ngoại thù chống lại tổ quốc, chống lại
nhân dân và chống lại chính quyền Cách Mạng. Sách Cách Mạng và Hành Động ghi
nhận những hành động này của tu sĩ và tín đồ Da-tô cuồng tín người Pháp với
nguyên văn như sau:
“Sau cuộc lẩn trốn của nhà vua tới Varennes, các nước Âu
Châu lại sôi nổi. Lần này, Louis XVI cam tâm chấp nhận những điều kiện can thiệp
của các nước Âu Châu. Do đó, nước Áo và Phổ bắt đầu động binh tới biên giới
Pháp - Ở trong nước, nhiều địa phương trung thành với Giáo Hội và nhà vua, cũng
bắt đầu nổi loạn. Nhất là miền Bretagne, Normandie và Vendée vốn là những miền
sùng đạo, cũng võ trang bênh vực các tu sĩ không chịu tuyên thệ với cách mạng. –
Tình trạng Pháp quốc lúc đó thực hết sức lung lay.”
[26]
Bản văn sử trên đây cho chúng ta thấy bọn dân Chúa cuồng
tín người Pháp ở các miền Bretagne, Normandie và Vendée trong thời Cách Mạng
Pháp 1789-1814 có những hành động phản quốc chống lại nước Pháp và dân tộc Pháp
không khác gì bọn dân Chúa người Việt ở Bùi Chu Phát Diệm, cũng như ở các làng
đạo trong vùng đồng bằng sông Hồng trong thời Kháng Chiến 1945-1954 và đám thiểu
số dân Chúa cuồng tín ở Hà Nội, Thái Hà, An Bằng, Tam Tòa, Đồng Chiêm, v.v..
trong mấy năm gần đây.
Những việc làm này của Nhà Thờ Vatican đã khiến cho chính
quyền Cách Mạng phải thẳng tay trừng bọn quạ đen và nhóm thiểu số giáo dân ngoan
cố không chịu giác ngộ, vẫn khư khư “ôm mộng mơ về nước Chúa”, vẫn còn nhắm mắt
triệt để tuân hành lệnh truyền của các đấng bề trên của chúng mà không cần biết
luật pháp quốc gia, không cần biết tổ quốc và dân tộc là gì nữa. Nói về sự cố
chính quyền Cách Mạng Pháp thẳng tay trừng trị Vatican và bọn qua đen, sách The
Decline And Fall Of The Roman Church ghi lại một trong những biện pháp mạnh của
chính quyền Cách Mạng Pháp đối phó với Giáo Hội La Mã như sau:
"Trước hết, nước Pháp mà Giáo Hoàng Pius VI (1775-1799)
thường gọi là "người trưởng nữ của Giáo Hội" đã xóa bỏ toàn bộ tôn giáo, đưa
nhà vua lên đoạn đầu đài, chính thức tôn vinh thần Lý Trí lên ngôi chí tôn, tàn
sát 17 ngàn linh mục, 30 ngàn nữ tu và 47 giám mục, tất cả các tu viện, các dòng
tu và các trường học của Giáo Hội đều bị giải thể, tất cả các thư viện của Giáo
Hôi đều bị thiêu rụi, chính quyền Paris còn ban hành quyết định ra lệnh cho
Tướng Bonaparte (Sau này là Hòang Đế Napoléon I) "đem quân đi "giải phóng nước
Ý", "có toàn quyền hành động hủy diệt Rome và chế độ Giáo Hòang". Tháng 5 năm
1796, trước khi tiến vào kinh thành Rome, Tướng Bonaparte tuyên bố, "Chúng tôi
là những người bạn của con cháu Brutus (một anh hùng của dân tộc La Mã) và dân
Scipios. Ý muốn của chúng tôi là phục hồi điện Capitol và giải phóng nhân dân La
Mã thóat khỏi thân phận nô lệ tôi đòi".
Quân Pháp tiến vào chiếm kinh thành Rome và nước Ý. Hòa
Ước Tolentino được ký kết giữa Tướng Bonaparte và Giáo Triều Vatican. Đây là một
sự sỉ nhục cho Tòa Thánh Vatican. Giáo Hội phải nộp cho nước Pháp một khoản tiền
là 46 ngàn đồng scudi (tiền Vatican) trả làm ba hạn kỳ (Giáo Hòang Pius VI phải
đem các đồ trang trí bằng vàng và bằng bạc ra đúc tiền để trả cho Pháp), 100 món
đồ nghệ thuật và 500 tác phẩm hiếm bị tịch thu mang về Pháp; tất cả các hải cảng
nằm trong lãnh thổ của Tòa Thánh Vatican phải mở cửa cho hạm đội Pháp làm căn cứ
tru quân, phải từ bỏ tất cả tài sản của Giáo Hội ở trong lãnh thổ các nước Ý,
Pháp, Naples, và Sicily ... tất cả mọi nơi. Giáo Hoàng Pius VI than thở, "Hòa
Ước! Tệ quá đi!”. Quân đội Pháp chiếm đóng Vatican và Quirinal, truất phế Giáo
Hoàng Pius VI và thiết lập nước Cộng Hòa La Mã...."
[27]
Sách Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo ghi lại như sau:
"Do sự thúc đẩy của các Ủy Ban Cách Mạng quận, xã, Quốc
Hội Lập Pháp (1791-1792) ra lệnh tống giam hoặc trục xuất các giáo sĩ "phản
động". Nhiều giám mục và linh mục bắt đầu di cư sang những nước lân cận. … Tháng
4 năm 1792, quân Áo Phổ vượt biên giới, Pháp quân thua nhiều trận. Ngày 20/6,
Quốc Hội tuyên bố "Tổ quốc lâm nguy", các giáo sĩ "bất phục tùng" bị coi là kẻ
thù của quốc gia.
Từ tháng 7/1792, tại nhiều nơi, các linh-mục trung thành
với Giáo Hội bị giết. Ngày 26/8/1792, Quốc Hội ra lệnh phát lưu
tất cả các linh-mục "phản động", và làm ngơ cho cuộc bách hại tại các nơi. Ở Ba
Lê, các linh-mục bị giam trong Tu-viện Saint-Germain des Prés và Đan-viện Des
Carmes. Do hành động khát máu của viên chánh án Maillard, 217 vị bị thảm sát
dưới mũi gươm và lưỡi rìu của bọn quá khích trong mấy ngày từ 2 đến 6/1792.
Để tránh những cuộc tàn sát, bách hại dã man, các giám mục và linh mục bỏ trốn
ra nước ngoài càng nhiều. Trong khi đó, Quốc Hội tìm cách đặt các giám mục và
linh mục của Cách Mạng vào các nơi. … giáo dân tìm cách bảo vệ các linh mục, tu
sĩ trung thành (với Giáo Hội) còn hy sinh ở lại trong nước, con số này trên
10.000 vị với 26 giám mục. Cảnh Giáo Hội "hầm trú" tái diễn ở Pháp.
Ngày 21/1/1793, Vua Louis bị trảm
quyết. Dân chúng sống trong tình trạng khủng bố. Cách Mạng kết án tử hình các
"kẻ thù của tự do". Máy chém hoạt động suốt ngày. Những nạn nhân ở Ba Lê lên tới
3.000, trong đó có Hoàng Hậu Marie-Antoinette, …. Ở các tỉnh, sự tàn sát còn
khủng khiếp hơn nữa. Hàng giáo sĩ vẫn bị lùng bắt và bị giết. Có nơi thay vì
giết bằng gươm, họ đã chất từng 100 linh mục vào chiếc tàu đánh chìm dưới sông.
Miền Vendée nổi dậy chống cách mạng, khiến chính quyền phải dè dặt.
Do sáng kiến của Hebert, Cách Mạng tuyên bố hủy bỏ
tôn giáo cũ, triệt hạ các thánh đường, lấy chén thánh đúc thành kim khí hoặc đem
dùng vào việc ăn uống. Một tôn giáo mới được thiết lập: thờ thần Lý Trí, thánh
đường Notre Dame được đổi là "Đền Thờ Lý Trí". Nhiều nơi khác làm theo…"
[28]
Theo Encyclopedia Britannica [Micropaedia, Volume 9] thì
con số nạn nhân lên tới:
"Ít nhất là 300 ngàn nghi can bị bắt trong đó có tới 17
ngàn người bị hành quyết và chết trong tù."
[29]
Trong khi đó, Vatican vận động và mua chuộc các phần tử bảo
hoàng, bảo thủ và những tín đồ Ca-tô cuồng tín thân giáo hội trong Quốc Hội để
bỏ phiếu chống lại tất cả mọi dự luật bất lợi cho giáo hội. Vì thế mà tình trạng
này giằng co cho đến năm 1905, điều khỏan tách rời giáo quyền ra khỏi thế quyền
mới được Quốc Hội thông qua và ghi vào hiến pháp.
D.- THỜI KỲ THỨ TƯ (1814-1830)- Thời kỳ chế độ đạo phiệt Ca-tô được tái
lập.
Sau nhiều năm đấu đá qua nhiều trận đánh lớn giữa một bên
là quân đội Cách Mạng Pháp 1789, và một bên là quân đội Liên Minh Xâm Lược của
Vatican cấu kết với các chính quyền phản động Âu Châu, năm 1815, quân đội Pháp
dưới quyền chỉ huy của Hoàng Đế Napoléon bị thảm bại tại trận Waterloo vào tháng
6/1815. Hậu quả của cuộc thảm bại này, nước Pháp bị đặt dưới quyền cai trị của
liên minh thánh của Vatican với hơn 800 ngàn quân ngoại nhập trú đóng trên lãnh
thổ Pháp, nhân dân Pháp phải gánh chịu tất cả chi phí cho đạo quân hùng hậu này,
Hoàng Đế Napoléon I bị đưa đi đày vĩnh viễn ở đảo Saint Helens, Louis XVIII
(1814-1824) và Charles X (1824-1830) được liên minh thánh của Vatican đưa lên
cầm quyền.
1.- CHÍNH SÁCH TRẢ THÙ VÀ KHỦNG
BỐ
CỦA CHÍNH QUYỀN LOUIS XVIII VÀ
CHARLES X
Là những tín đồ Ca-tô cuồng tín, cho nên cả vua Luois XVIII và
Charles X đều cấu kết chặt chẽ với Vatican và đều thi hành chính sách khủng bố
để trả thù những người trước kia đã tham gia hay ủng hộ Cách Mạng 1789 và chính
quyền của Hoàng Đế Napoléon I, đều truy lùng và bách hại bà con thân nhân ruột
thịt của các nhà lãnh đạo cách mạng và của Hoàng Đế Napoléon I, giống y hệt như
triều đình các vua Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức truy lùng và bách
hại những người trong hoàng tộc Tây Sơn cùng các viên chức làm việc và những
người ủng hộ Nhà Tây Sơn. Chính sách này đã gây nên những cuộc tắm máu vô cùng
khủng khiếp mà sách sử gọi là “thời kỳ khủng bố trắng” (The White Terror
= La Terreur blanche). Nhân tiện đây, người viết xin ghi lại mấy bản văn sử nói
về giai đoạn lịch sử đau thương này của nước Pháp để cho độc giả dễ dàng nhìn ra
bàn tay máu cực kỳ ghê tởm của Vatican trong hai triều đại đạo phiệt Ca-tô khốn
nạn này. Sách sử ghi lại tình cảnh khốn khổ nước Pháp lúc bấy giờ như sau:
"Cuộc xâm lăng (của Liên Minh Thánh) trong năm 1815
để lại vết nhục cho nước Pháp. Toàn lãnh thổ gồm năm mươi tám tỉnh bị chiếm đóng
trong nhiều tháng trời, và bắt buộc nhân dân Pháp phải đóng góp tiền tài trợ cho
800 ngàn quân lính ngọai quốc với những hành động quá đáng hết sức là kinh
khủng. Tướng Wellington (của nước Anh) gọi đó là "một bài học luân lý vĩ đại
cho nước Pháp". Việc Vua Louis XVIII trở lại gắn liền với những kỷ niệm đau
thương khốn khổ thật khó mà xóa mờ."
[30]
Nếu vua Lê Chiêu Thống nhờ có 280 ngàn quân Thanh hộ
tống đưa về Việt Nam trở lại ngai vàng để rồi làm những việc trả thù dã man đối
với các vị quan lại và hoàng thân quốc thích của nhà vua đã cộng tác với Vua
Quang Trung, thì vua Louis XVIIII cũng phải nhờ tới 800 ngàn quân liên minh
thánh (holy alliance) hộ tống đưa về để tái lập chế độ đạo phiệt Ca-tô rồi trả
thù những người làm Cách Mạng và theo Cách Mạng một cách vô cùng man rợ bằng
những hành động và giáo luật cực kỳ hà khắc và hết sức bạo ngược. Xem Charles S. Guignenbert kể lại chi tiết sự kiện này trong những chú thích sau [31],
[32],
[33]
Ngai Vàng và Nhà Thờ là một liên kết hết sức hiển nhiên. Nhà thờ bám sát
triều đình mọi lúc để chờ cơ hội nắm tay lái kẻ ngồi trên ngai. Theo Sử gia
Colin Jones, trước năm 1789, giới thượng lưu quý tộc nắm độc quyền chính trị và
chiếm giữ các chức vụ quan trọng trong chính quyền, nhưng trong thời Cách Mạng
thì vai trò này chuyển sang giới người chuyên nghiệp và giai cấp tư sản. Trong
thời Vương Quyền Phục Hồi, hai ông vua Louis XVIII (1815-1824) và Charles X
(1824-1830) cố gắng hết sức để làm những gì có lợi cho giới quý tộc. Họ chọn
những người trong giai cấp qúy tộc vào nắm giữ các chức vụ tổng trưởng và bộ
trưởng. Các chức vụ quan trọng trong các ngành hành chánh, quân sự và tôn giáo
cũng đều nằm trong tay giới quý tộc. Họ cố gắng tạo nên một thế kết hợp "Ngai
vàng và Nhà thờ" (chính quyền và tôn giáo). Những cố gắng như vậy chỉ làm cho
nhân dân oán giận. Triều đình Bourbons càng đi ra ngoài những đề cương rộng lớn
đã được hoàn thành trong thời Cách Mạng thì càng làm cho lòng dân oán giận...
Những thành phần cực đoan thuộc Phe Hữu ủng hộ triều đình Bourbons còn bảo hoàng
hơn cả Vua Louis XVIII. Sau khi Charles X đăng quang vào năm 1825, họ lại càng
có nhiều ảnh hưởng hơn nữa.
[34]
Khủng Bố Trắng.
Tình trạng đưa đến cuộc khủng bố còn ghi đậm trong lịch sử Pháp. Trong cuốn "The Course of
French History". Sử gia Pierre Goubert mô tả cuộc "Khủng Bố Trắng"
trong hai triều đại của bạo quân Louis XVIII và Charles X như sau.
"Vua Louis XVIII bắt buộc phải để cho bão tố nổi lên
theo chiều hướng của nó. Trong các tỉnh ở miền Nam và miền Tây, nạn "Khủng Bố
Trắng" mới hoành hành nhắm vào những người đã mua những tài sản bị tịch thu
trong thời Cách Mạng, nhắm vào những người trước kia theo Cách Mạng, và nhắm vào
những người ủng hộ Hòang Đế Napoléon I. Nhiều người bị hăm dọa hay bị gây sự, bị
chọc phá. Nhiều người khác bị ám sát, trong đó có gia đình Mameluks ở
Marseilles, Tướng Ramel ở Toulouse, Tướng Lagarde ở Nimes, và những tín đồ Tin
Lành là những nạn nhân trong đợt khủng bố mới của tín đồ Ca-tô của Giáo Hội La
Mã. Một số tội đồ có liên hệ đến những việc làm khủng bố này. Hy vọng để trấn an
nhân dân và kiểm sóat được tình hình, chính quyền hành động. Mười tám (18) vị
tướng lãnh trong thời Hoàng Đế Napóelon bị gọi ra trước Hội Đồng Chiến Tranh:
Việc hành hình (Tướng) La Bédoyère và (Thống Tướng) Ney gây nên xáo động. Sau
khi thanh trừng trong quân đội, chính quyền cho quân lính trong đạo quân vệ binh
của Hòang Đế Napoléon giải ngũ và giảm lương của nhiều sĩ quan xuống một nửa,
rồi đưa những người thuộc giới quý tộc vào thay thế. Trong số những người qúy
tộc này, có nhiều người đã phục vụ trong quân đội của kẻ thù chống lại nước Pháp.
Cái gọi là đạo luật ân xá có hiệu quả là đầy biệt xứ gia đình Bonaparte (gia
đình Hòang Đế Napoléon), những người mang tội giết vua và những nghi can mới.
Trong chính quyền cũng như trong các cơ chế khác của nước Pháp đều bị thanh lọc.
Những nhân vật có uy tín lớn như Carnot, Davis, Lakanal và Monge đều bị bãi
chức. Vì đã có nhiều đạo luật chống "kêu gọi xúi giục" được ban hành, và
những người bị coi là "những kẻ gây rối" bị bắt đưa ra xử trước tòa án đặc biệt
với quyền tuyên phán chung thẩm (không được kháng án). Đội lính phụ trách
việc hành hình làm liên tục cho đến tháng 7 năm 1816: Ở Lyon đội lính này đã
hành hình Tướng Mouton Duvernet. Dĩ nhiên, báo chí cũng bị "bịt miệng" bằng
những điều khoản như đặt tiền bảo đảm an ninh, kiểm duyệt, đóng dấu của chính
quyền và sự chấp thuận trước (rồi mới được phát hành)".[35]
"Trong thời gian hai ông Villele và Polignac giữ chức
vụ thủ tướng chính phủ, những mối oán thù chất chứa trong lòng từ trước thì bây
giờ được giới qúy tộc và giáo hội tha hồ phóng tay rửa hận. Bất cứ chuyện gì họ
cũng nhớ đến để trả thù và rất khó cho họ thông cảm cho bất kỳ một chuyện gì. Họ
mua chuộc, đút lót trong các thủ tục tiến hành bầu cử để loại bỏ những người
thuộc thành phần tư sản (ra khỏi danh sách ứng cử viên); họ gia tăng gấp bội
ngân khoản ngành cảnh sát để ngăn cản tự do báo chí và tự do tư tưởng. Họ bổ
nhậm một ông giám mục làm viện trưởng viện đại học để lọai bỏ các tư tưởng tiến
bộ. Họ tài trợ cho những chiến dịch ồn ào gọi là "sứ mệnh" để tu bổ và đi trồng
cây chữ thập (thánh giá) khắp trong toàn quốc, mà có một số vẫn còn tồn tại cho
tới ngày nay. Họ dám ban hành một đạo luật trừng phạt những người bị kết tôi là
"phạm thượng" hay "xúc phạm thần thánh" với những hình phạt hết
sức là tàn ác dành cho những người nào bị cho là làm rối lọan hay phá vỡ các
cuộc lễ lạc tôn giáo hay báng bổ thần thánh, dù rằng đạo luật này khó có thể thi
hành được. Và cuối cùng, vào năm 1825, họ cho thông qua hàng tỉ bạc (tiền Pháp)
để bồi thường 3 phần trăm trái phiếu cho những người trốn đi sống lưu vong ở
nước ngoài trong thời Cách Mạng (1789-1815). Đạo luật này hạ nhục và làm khiếp
sợ những người đã mua tài sản do chính quyền Cách Mạng bán cho. Họ còn bàn luận
đến việc phục hồi chế độ quyền trưởng nam mà chưa bao giờ được áp dụng ở nước
Pháp. Đồng thời, họ còn gửi một đoàn quân đến Tây Ban Nha để tái lập đế quyền
cho tên bạo chúa Ferdinand VI sau khi hắn ta đã bị lực lương tự do tại Caditz đe
dọa (truất phế hay khử diệt)...."
[36]
2.- NHÂN
DÂN PHÁP VÙNG LÊN
CHỐNG
CHÍNH QUYỀN CHARLES X
Khuyển cùng tắc phệ. Con chó bị dồn vào đường cùng nó
còn biết tự vệ và cắn lại những kẻ mưu toan hại nó, huống chi là con người! Nhân
dân Pháp cũng vậy. Những hành động bạo ngược và dã man quá đáng của giáo hội,
của bọn tu sĩ tay sai, của bọn quý tộc và của triều đình dòng họ Bourbons đã làm
cho nhân dân Pháp không thể nào tiếp tục chịu đựng được nữa! Họ phải vùng dậy
khử diệt cái liên minh quyền lực giữa giáo hội và chế độ đạo phiệt Ca-tô của tên
bạo chúa Charles X để rồi phế bỏ luôn cả vương quyền của dòng họ Bourbons.
"Charles X lên ngôi vào khi vua Louis XVIII qua đời
vào năm 1824. Tháng 5 năm 1825, nhà vua chịu phép sức dầu thánh ở Reims. Sự kiện
này báo hiệu cho biết nhà vua muốn đem vương quyền trở lại cái tư thế của ngày
xưa, đặc biệt hơn nữa, nhà vua lại công khai liên minh với giáo hội. Chẳng bao
lâu vua Charles X biểu lộ rõ ràng ý muốn theo đuổi chính sách phản động, vì rằng
con người ông ta không đủ khả năng thủ vai một ông vua trong một chế độ quân chủ
lập hiến.
Khi mà vương triều của ông ta phải ba lần thay đổi
chính phủ (nội các) thì Charles X dần dần mất lòng dân. Trong khi những đợt
người lưu vong đầu tiên ở ngọai quốc về nước được bồi hoàn những đất đai của họ
bị quốc hữu hóa (trong thời Cách Mạng) thì những người tư sản sở hữu chủ các
trái phiếu phải è cổ ra chịu trận, những chức vụ quan trọng trong chính quyền
được trao cho các tu sĩ Ca-tô nắm giữ. Ngòai ra, chính quyền còn ban hành nhiều
đạo luật nhằm để trừng trị những người bị cáo buộc là đã "xúc phạm thần thánh"
với án tử hình dành cho những người bị tố cáo là đã phạm tội này. Các đảng viên
Đảng Tự do và giới tư sản càng trở nên bất mãn hơn khi đạo quân Vệ Binh Quốc Gia
bị giải tán vào năm 1827.
Chính phủ thứ hai dù là ôn hòa hơn, nhưng cũng chỉ
kéo dài được từ tháng 1 năm 1828 cho đến tháng 8 năm 1829 thì các đảng viên Đảng
Tự Do liên kết với phe cực hữu để lật đổ chính phủ này (bằng lá phiếu bất tín
nhiệm theo chế độ đại nghị). Không còn kiên nhẫn được nữa, Charles X bất cần đến
dư luận quần chúng, ông đưa ra một nhân vật cực kỳ phản động, hết lòng trung
thành và tận tụy với Tòa Thánh Vatican là Polignac lên làm thủ tướng thành lập
tân nội các. Hành động thách đố này làm cho nhân dân khắp nơi trong nước đều
kinh hoàng lo sợ và bùng lên thành phong trào chống đối. Đứng trước tình trạng
này, Vua Charles X không những đã không cảnh tỉnh, mà còn làm tới, càng trở nên
ngoan cố và đẩy tình thế đến chỗ bùng lên thành cách mạng vào tháng 7 năm 1830.
Polignac không tin tưởng vào Quốc Hội. Tháng 3 năm
1830, khi các thành phần thuộc Đảng Tự Do phản đối nội các Polgnac, Vua Charles
X liền giải tán Quốc Hội và tổ chức bầu lại quốc hội vào tháng 5. Kết quả kỳ bầu
cử kỳ này cũng bất thụân lợi cho nhà vua. Thấy vậy, ngày 26 tháng 7, nhà vua cho
ban hành 4 sắc luật theo đó chính quyền sẽ phải dùng những biện pháp mạnh để đàn
áp các phong trào chống đối. Hành động này đã giúp cho phe cấp tiến một dịp may
để đẩy mạnh những hoạt động làm cho cách mạng bùng nổ. Không chuẩn bị để đối phó
với tình hình biến đổi bất ngờ như vậy, Charles X phải bỏ Paris, co giò chạy
trốn đến Versailles (cách Paris khỏang chừng 21 cây số), rồi lại bỏ Versailles
chạy đến thị trấn Rambouillet (cách Paris khỏang 50 cây số về phía Tây Nam), ở
đây nhà vua mới được biết là không có cách nào có thể chống lại phong trào nổi
loạn được nữa." [37]
Ôn có tri tân, qua những đoạn văn sử trên đây, chúng ta
có thể biết được:
· Thứ nhất là bàn tay của Vaican ở hậu trường của hai triều đại
của Vua Louis XVII (1815-1824) và Vua Charles X (1824-1830) quả thật là vô cùng
nham hiểm và cực kỳ man rợ.
· Thứ hai là chính quyền Ngô Đình Diệm (1954-1963) đã bắt chước
rập khuôn y hết như những việc làm dã man của hai tên bạo quân này của nước
Pháp với mức độ thâm độc hơn, tham tàn và man rợ hơn, quỷ quyệt, khôn khéo và
tinh vi hơn, nhưng vẫn lộ liễu và trắng trợn, trắng trợn đến độ bất cần đế dư
luận quốc nội và quốc ngoại. Chính vì thế mà chỉ trong vòng có hơn chín năm,
chính quyền đạo phiệt Ca-tô này đã sát hại đến hơn 300 ngàn người. Nguyễn Mạnh
Quang, Nói Chuyện Với Tổ Chức Việt Nam Cộng Hòa Foundation (Houston, TX:
Đa Nguyên, 2004), tr. 127-131. Cũng vì vậy mà sử gia Nigel Cawthorne mới khẳng
định ông Ngô Đình Diệm là một trong số 100 tên bạo chúa ác độc nhất trong lịch
sử nhân loại và dành hẳn hai trang 167-168 để nói về tên bạo chúa phản thần tam
đại Việt gian họ Ngô này trong cuốn Tyrants History’s 100 Most Evil Despots &
Dictators (London: Arcturus, 2004).
Tại sao lại có sư giống nhau như vậy, nhưng tinh vi và
quỷ quyệt hơn? Có phải là ở hậu trường của chính quyền Ngô Đình Diệm, có bàn tay
Vatican không?
(còn tiếp)
1
2
3
CHÚ THÍCH
[19] Bùi Đúc Sinh,
Lich Sử
Giáo Giáo Hôi Công Giáo, Phần Nhì (Sàigòn: Chân Lý, 1972), tr.
152-153.
[20] Bùi Đức Sinh,
Sđd.,tr.154-156.
[21] Nghiêm Xuân Hồng, Cắch Mạng Và Hành Động (Sàigon: Quan Điểm, 1964) tr 32-33.
[22] Nghiêm Xuân Hồng, Sđd.,
tr. 33-34.
[23] Carton J. H. Hayes,
Modern Times – The French Revolution to the Present (New York: Macmillan
Publishing Company, 1983), p. 32."It was Lafayette who gave
revolutionary France a new flag by combining the white of the Bourbons with the
red and blue of Paris to make the “tricolor,” as the French call it.”
[24] Carton J. H. Hayes,
Ibid., p. 35.
[25] Malachi Matrin, Rich
Church Poor Church (New York: Putnam’s Son, 1988), tr. 157.
Nguyên văn: "On November 2, 1789, all
Church property in France was declared by the National Assembly to be at the
disposal of the nation." On July 12, 1790, the Civil Constitution of the
Clergy was enacted into law. its basic pronciple was: "The Church is within the
State, the State is not within the Church." The real purpose of the Constitution
was to separate the Church in France from the greater unity of Catholicism, and
make it a goverment-policed institution. Within three years, the French Church
was stripped of all its financial resources.
There thus passed into the hands of the French Republic
the vast and rich properties of the Church in France. There is no doubt that the
wealth of this part of the Church has been exaggerated. But there are accurate
estimates of it, and they have a place in this context with relation to papal
finances.
Competent historians have calculate that Church
property in France covered one-tenth of the country surface. The Baron de
Montesquieu placed the net value of the Church's real estate in 1746 at
approximately "3 billion francs" which yielded about 85 million francs per year
in revenue. Strictlly ecclesiastical revenues - bishoprics, abbeys,
tithes, monasteries - brought in 95 million. There was a total
revenue of 180 million. The Church in France, it must be remembered, spent a
goodly sum on the education of youth and charitable works. Even so, a certain
number of bishops and abbes spent enormous sums on self-indulgence and
pageantly of a vainglorious kind.
The revenue paid to the Holy See per year by the
churchmen of France were not negligible. At one moment in the papal State's
history, the French quota was the single largest one in the universal Church.
There are no exact figures, but reliable estimates place that quota somewhere
between 10 and 20 million francs. By order of the Comté Ecclésiastique, which
had been appointed by the National Assembly to implement the Civil Constitution
of the Clergy, the Church in France was forbidden to contribute any revenue to
the papcy.
Another blow was struck at the financial well-being of
the papacy on June 29, 1790, when Jacobins in Avignon and the Comta Venaissin,
papal territoies in southern France, declared themselves absolved of allegience
to the papacy, and to be part of France. French troops were dispatched there in
November. The rich revenue from these properties was now sorely lacking."
[26] Nghiêm Xuân Hồng, Sđd.,
tr. 46.
[27] Malachi Martin,
The
Decline And Fall Of The Roman Church (New York: Putnam ’s, 1981)
ppp. 232-3.
Nguyên Văn: "First, France, "eldest daughter of
the church "he used to call it, abolished all religion, beheaded its king,
enthroned Reason officially as supreme deity, massacred over 17,000 priests and
over 30,000 nuns as well as forty-seven bishops, abolished all seminaries,
schools, religious orders, burned all churches and libraries, then sent the
Corsian Bonaparte to liberate italy and Rome." "Just as you please," wrote the
Paris government to the Corsian. "Destroy Rome and the papacy utterly " "We are
the friends of the descandants of Brutus and the Scipios... Our intention is to
restore the Capitol to free the Roman people from their long slavery," The
Corsian declared in May 1796, just before taking Rome.
Then the capture, and the humiliation of the Peace of
Tolentino between the papacy and the Corsian: a ransom of 46,000 scudi in three
installement (Pius melted down all available silver and gold ornaments); 100
objects d'art and 500 rare manuscripts from Vatican; the opening of all papal
harbors to the French fleet; renunciation of all property in italy and France
and Naples and Sicily - everywhere. "They made us their prisoner Spina," mutters
Pius. "Peace treaty! Bah!" The Vatican and Quirinal were occupied by French
troops. They deposed Pius, and created the republic of Rome...."
[28] Bùi Đức Sinh, Sđd., tr.
171-172.
[29] Encylopedia Btitanica
[Micropaedia, Volume9] Edition 1980, tr. 904. Nguyên văn: “During the Reign of
Terror, at least 300,000 suspects were arrested; 17,000 were officially executed
and many died in prison or without trial..”
[30]
Charles S. Guignenbert, A Short History of the French
People, Vol. II – Trans by. F. G. Richmond (New York:The MacMillan
Company, 1930), p. 521..Nguyên văn: "The invasion of
1815 bequeathed ill memories to France. Fifty-eight of her departments were
occupied, and she was obliged for several months to support 800,000 foreign
troops, who committed terrible excesses. Wellington called this "giving the
French a great moral lesson." The return of Louis XVIII remained associated with
memories of tribulation which were hard to efface.")
[31]
Charles S. Guignenbert, Ibid., pp.531-532..
"Cụm từ Khủng Bố Trắng được sử dụng để nói về những phản ứng bạo hành của những người thuộc phe bảo hoàng vào nửa năm cuối trong năm 1815. Cuộc khủng bố trắng này được tiến hành bằng hai phương cách: pháp lý và phong trào quần chúng. (Về phương cách pháp lý), ngày 24 tháng 7 (năm 1815), Vua Louis XVIII cho ban hành sắc lệnh truy tố 18 vị tướng (đã phục vụ trong thời Cách Mạng và trong thời Hòang Đế Napoleon I) và quản thúc 38 nhân vật khác cho tới khi nào có hành động hữu hiệu hơn đối với họ. Tòa án của chính quyền đương thời đã tuyên xử họ bằng những bản án ít nhiều nghiêm trọng hơn. Tướng Labédoyère và Thống Tướng (Michel) Ney cùng người anh em của ông là Faucher Ney bị tuyên án tử hình và bị bắn. Thống Tướng Ney là một trong những anh hùng được nhân dân Pháp kính trọng vào bậc nhất trong thời Cách Mạng, cho nên, việc hành hình vị tướng anh hùng này là một hành động tội ác không thể tha thứ được. Làm những hành động nghiêm trọng như vậy, Louis XVIII nghĩ rằng có thể gây được cảm tình với quân đội, mà thực ra ông đã gieo rắc những mầm mống căm giận hận thù không thể nào xóa nhòa được. Thống Tướng Ney thực ra đã đứng về phía Hoàng Đế Napoleon I, sau khi đã hứa sẽ đem ông (Hoàng Đế Napoléon) về tới Paris. Đây là một việc làm sai lầm vì rằng ông đã hành động theo cảm tính và theo áp lực của lòng quân, chứ không phải tiến hành theo một kế họanh đã vạch sẵn như là đối phương đã tố cáo. Đáng lý ra, về phương diện tâm lý chính trị, Vua Louis XVIII phải ân xá cho Thống Tướng Ney.
Song song với phương cách sử dụng luật pháp như trên, phe bảo hoàng còn tiến hành việc trả thù bằng hình thức gọi là "các phong trào quần chúng", đặc biệt là ở miền Nam: Tại Marseilles, vào khi tin tức về trận đánh Waterloo bị thảm bại được loan truyền, thì một số bại binh Pháp (đang phục vụ trong chính quyền của Hòang Đế Napoléon I) trở về tới nơi, liền bị thảm sát. Thống Tướng Brune vừa đi qua Avignon thì bì đám quần chúng điên cuồng (vong bản phản quê hương) ở đây sát hại. Những băng đảng được tổ chức tương tự như những tổ chức trong thời Thermidorian hoành hành khắp trong tỉnh (hạt) Gard; đám người này còn nhục mạ cả những người ủng hộ Cách Mạng 1789, nhục mạ những người ủng hộ Hoàng Đế Napoléon I, và nhục mạ những tín đồ Tin Lành. Tính cách điên cuồng của những phần tử bảo hoàng này có cả cái bản chất cuồng tín của đạo Ca--tô trong đó. Sự kiện này càng làm cho tình trạng thêm ghê gớm gấp bội phần. Tại Toulouse, nơi mà Công Tước Angoulême, con trai trưởng của Bá Tước Artois sau đó trở thành Vua Charles (1824-1830), ông vua cuối cùng của dòng họ Bourbons vừa mới ổn định, đạo quân Bảo Hoàng Chí Nguyện này được gọi là Đạo Binh Xanh (Verdets) vì rằng binh lính trong đạo quân này mặc đồ mầu xanh. Đạo binh bảo hoàng cuồng điên này gồm toàn những người lưu vong mới trở về. Vì có tinh thần chống lại Cách Mạng 1789 cho nên trong thời 1789-1815, những người này trốn sang các nước Áo, Phổ và Anh sống lưu vong, và họ trở về sau khi Hòang Đế Napléon I bị thảm bại tại Trận Đánh Waterloo vào năm 1814 và do người em của Vua Louis XVIII chỉ huy. Tướng Ramel được Vua Louis XVIII giao cho chức vụ chỉ huy ở Nimé, phản đối những hành động lăng nhục thô bạo vô trật tự như vậy liền bị chúng sát hại. Chính quyền của Vua Louis XVIII không ra lệnh hay khuyến khích những hành động như vậy, nhưng cũng để mặc cho họ làm bậy như thế và cũng không có hành động gì để trừng phạt bọn chúng."
Nguyên văn: "The name of The White Terror has
been given to this violence royalist reaction, let loose in the second half of
the year 1815. It has two aspects: one judiciary, the other popular. By an
ordinance of the 24th of July, Louis XVIII indicted eighteen generals
and placed thirty eight persons under supervision, until something better could
be done with them. The trials ended in sentences of greater or less severity.
General Labédoyère, the two brothers Faucher and Marshal Ney were shot. The
execution of Ney, one of the most glorious soldiers of the Empire, was an
unforgivable misdeed. Louis XVIII thought to impresss the army by this stroke of
severity; instead he sowed the seeds of an inexpiable hatred. Ney had indeed
rallied to Napoléon's side, after having promised to bring him in chains to
Paris; he had done a double wrong in so promising and so rallying, but, in the
second case, he had acted under the influence of his feelings, and under
pressure from his troops, not in prosecution of premeditated plan as was alleged
by his accusers; it would have been politic to grant him a pardon.
The royalist reprisals took the form of popular
movements, particularly in the South. At Marseilles, when the news of the battle
of Waterloo arrived, some Bonapartists, returned soldiers, were massacred in the
streets. Marshal Brune, passing through Avigon, was murdered by the frenzied
populace. Bands were organized, more or less analogous to those which overran
the country at the time of the Thermidorian reaction, in the Department of Gard;
they committed terrible outrages on persons known for their Bonapartists or
Republican leanings, and on Protestants, royalist frenzy being doubled by
Catholic fanaticism. At Toulouse, where the Duke of Angoulême, eldest son of the
Count Artois, had just settled, the Royal Volunteers, called the Verdets
(Greens) because they were clad in that colour, which was that of the king's
brother, led by emigrants capable of any outrage and supported by a populace in
all times highly excitable, rivalled in their zeal the royalists of Nimes,
General Ramel, in command of the town for Louis XVIII having opposed their
disorders and outrages, was killed by them. The royal government did not command
or encourage those crimes, but it took no measures to prevent them and did
nothing serious to punish them.")
[32]
Charles S. Guignenbert, Ibid., p. 538.
"Dacazes (lãnh tụ của phe ôn hòa) đi rồi, Vua Louis XVIII để mặc người em thao túng chính quyền. Chính (Công Tước) Richelieu lúc đó cũng không thể chống lại áp lực của những thành phần hữu phái và phải từ chức, rút lui khỏi chính quyền vào tháng 12 năm 1821. Chính quyền không còn chỗ đứng cho các thành phần ôn hòa hay hòa giải hòa hợp. Số phận của chế độ quân chủ vừa mới được phục hồi quả thật là tùy thuộc vào cuộc chiến một mất một còn giữa phe cực hữu quá khích và phe chiến đấu cho tự do."
Nguyên văn: "Decazes (the leader of the moderate) having departed, Louis XVIII gave way
altogether and his brother had his way with the general policy. Richelieu
himself, powerless to resist the pressure of the Right, gave in and took his
departure in December, 1821. There was no longer room for a moderate party or
for conciliation. The game was played out between ultras and the liberals with
the fate of the restored manarchy as its prize.)
[33]
Charles S. Guignenbert, Ibid., pp. 538-539. "Giáo Hội La Mã bấy giờ còn phạm một lỗi lầm hết sức trầm trọng. Với ý định tái lập quyền kiểm soát tất cả các sinh họat trong đời sống trí thức, đạo đức và tôn giáo trong toàn quốc, với lòng hăng say muốn củng cố tư thế của giáo hội phải đứng trên chính quyền (tôn giáo trên hết trong đất nước), giáo hội tuyên chiến chống lại tất cả các tư tưởng tự do và phát động những chiến dịch quyết liệt diệt trừ hết tất cả những tư tưởng nào bị cho là tự do hoặc là không phù hợp với tư tưởng Kitô giáo. Những thành phần tả phái không bao giờ quên được những việc làm này của giáo hội. Đối với họ (những người thuộc Phe Tự Do), "chính quyền của các ông thày tu" là một chế độ chuyên chính nhất, bạo ngược nhất, áp bức nhất và kinh khủng nhất mà không bao giờ họ quên được.” Dù là giới tu sĩ (Ca-tô) đã thất bại, không lôi kéo được các trường đại học về phía họ, nhưng vào tháng 2 năm 1821 họ cũng đã thành công trong việc nắm quyền kiểm soát các đại học và nắm độc quyền thiết lập các cơ sở giáo dục riêng biệt được coi như là xứng đáng với niềm tin của một số gia đình. Họ đã thiết lập được 12 giáo khu và còn hứa hẹn sẽ thiết lập thêm 18 giáo khu nữa. Đảng tu sĩ, một liên minh chặt chẽ giữa các thành phần thuộc Phe Hữu và Giới Tu Sĩ, đã trở thành mối nguy hiểm cho những thành phần thuộc Phe Tự Do. Sự thất bại trong những cố gắng giải phóng của Phe Tự Do ở khắp Âu Châu trong những năm 1820 và 1821 lại càng làm cho phe phản động ở nước Pháp có thêm nhiều tham vọng hơn và táo bạo hơn. Phe phản động Pháp còn liên kết với các phe phản động Âu Châu trong việc đàn áp toàn bộ phe Tự Do ở trong phần đất này, rõ ràng nhất chính quyền Pháp đã dùng quân đội đàn áp cuộc Cách Mạng 1823 ở Tây Ban Nha."
Nguyên văn: "The Catholic Church now made a great mistake. In its desire to
recapture its control over the intellectual and moral life as well as over the
religious life of the nation, in its passionate desire to assert its position as
first in State, it declared war upon all liberal ideas and waged it with a
bitterness which the parties of the Left were never to forget. They acquired a
permanent horrror for "le gouvernemnt des curés" (government by parsons) to them
the apex of arbitrary oppression and reactionary tyranny. Though the clergy
failed to bring about the sacrifice of the University to their cause, they
succeeded in obtaining it subjection to their supervision (February, 1821) and
the relaxation of its monopoly in favour of such "particular educational
establishments as were deserving of the confidence of families.," Twelve new
dioceses were created and the Church was promised eighteen more. The
parti-prêtre (priestly party), as it was then called, formed by a close alliance
between the Right and the Clergy, became for the Liberals the chief peril on
horizon. The failure of the various attempts at emancipation made by Liberals in
Europe in 1820 and 1821 made the reaction in France more ambitious and more
audacious than ever. It joined in the general repression of European Liberalism
by undertaking the suppression by arms of the Spanish Revolution (1823).")
[34]
Colin Jones, France (London: Cambridge University Press,
1994), p. 201.Nguyên văn: "High politícs
was increasingly the province of professional men and bourgeois, not high nobles
who monopolized office prior to 1789. Restoration monarchs Louis XVIII
(1815-1824) and Charles X (1824-1830) did their best to swing things in the
aristocracy's favour. They chose nobles to become their ministers, infiltrating
them into the best administrative, military and religious posts, and
endeavouring to forge a new union of "throne and altar". Such efforts only
aroused resentment. The further the bourbons strayed from the broad outlines of
the Revolutionary settlement, the more vulnerable they became.... Hardline
supporters of the Bourbons, the "Ultras", were more royalist than Louis XVIII
himself, and were gaining in influence even before his brother Charles X
ascended the throne in 1824..."
[35]
Pierre Goubert, The Course of French History - Trans
by Maarteen Ultee (New York: Franklin Watts, 1988), pp. 368-369..Nguyên văn: "Louis XVIII was obliged to let the
storm run its course. In the western and southern provinces a new White Terror
raged against the owners of national properties, former revolutionaries and the
followers of Napoleon. Many were threatened or molested, others were
assassinated, among them Mameluks at Marseilles, Generals Ramel and Lagarde at
Toulouse and Nimes, and Protestants who suffered new persecution at the hands of
papists. A number of common criminals were involved in this reaction. Hoping to
calm and control it, the government took charge. Eighteen Bonapartist generals
were called up before the Council of War: The execution Bédoyère and Ney caused
a sensation. After having purged the army, retired the grumblers (veterans of
Napoleon' s old guard), and put numerous officers half-pay, the government
installed nobles in their places. Many of them had fought against the French in
the enemy armies. A so-called amnesty law had the effect of banning the
Bonaparte family, the regicides, and the new "suspects." Official administration
and even the Institute de France were swept clean. Distinguished men as Carnot,
Davis, Lakanal and Monge were removed. Thanks to various laws against "seditious
cries", the "troublesome ones" were brought before special tribunal from whose
judgments there was no appeal. The firing squads were in operation until July
1816: at Lyon, they claimed the life of General Mounton Duvernet. Of course the
press was muzzled by requirements for financial surety, official stamps,
censorship, and prior approval. The political police distinguished themselve by
their activity...."
[36]
Pierre Goubert, Ibid., pp. 370-371. “Under the governments of
Villele and Polignac, the delayed rancor of aristocracy and Church were
unleashed. They had forgotten nothing and understood hardly anything. They
tampered with electoral procedures to exclude the bourgeois; they multiplied the
financial and police obstacles freedom of the press and expression. They
appointed bishop to head the state university in order drive out lively minds;
the sponsored loud compaign called "missions" of reparation and planted crosses
all over the countryside, some still visible today. They dared to promulgate a
law against "sacrilege" that fixed harsh penalties for anyone who disrupted
religious ceremonies or profaned "sacred vessels." although it proved impossible
to enforce. And finally they passed the "billion for the exiles" in 1825, a
simple indemnity of modest 3 percent bonds for those who had been "despoiled" by
the Revolution. This act scandalized and terrified the former owner of national
properties. There was also discussion of reestablishing the right of
primogeniture, which had never applied generally throughout France. At the same
time an expedition blessed by the absolute monarchs of Europe went to Spain to
restore the despot Ferdinand VII to his throne after he had been threatened by a
liberal rebellion at Caditz."
[37]
"“Charles X” Encyclopaedia Britannica, Micropaedia, 1980
edition, Vol. II, p. 761.
Nguyên văn: "Upon Louis XVIII's death in 1824,
Charles became king as Charles X. In May 1825 he was anointed at Reims, an event
that signaled the return of monarchy's old position and, more specifically, the
open alliance between the monarch and the Church. It soon became apparent that
Charles would pursue his policy of reaction, for he was tempermentally incapable
of playing the part of a constitutional king as Louis XVIII had done.
Charles's popularity waned as his reign passed through
three unpopular ministries. During the first of these émigrés were compensated
for their nationalized lands, largely at the expense of the bourgeois holders of
government bonds; greater power was granted to members of the clergy and the
death penalty was imposed for certain "sacrilegious" acts. Liberals and
bourgeois were further alienated when in 1827 the National Guard was disbanded.
The second government, though more moderate, lasted only
from January 1828 to August 1829, when liberals joined with the extreme right to
defeat it. Losing patience and ignoring public opinion, Charles X called upon an
extreme clericalist reactionary, the highly unpopular Prince Jules de Polignac,
to form a government. A formidable agitation sprang up which, making the king
only more obstinate, cullminated in July Revolution of 1830.
Polignac did not have the confidence of Chamber. In
March 1830, when liberal members objected to the Polignac ministry, Charles
dissoved the Chamber. The May elections returned majority unfavorable to the
king. On July 26, he issued four ordinances which, through their repressive
measures, provoked revolution by the Paris radicals. Unprepared for such
outbreak, Charles fled first to Versailles and then to Rambouillet."