"Theo Ước Vọng Của Cha Các Ngươi"
Hoàng Thục An
https://sachhiem.net/TONGIAO/tgH/HgThucAn2.php
17 tháng 3, 2009
LTS: Bài viết sau đây gồm các tài liệu được tác giả sưu tầm để trao đổi với một loạt các bài giảng (ở dưới bài viết) mà phuong ngo <tuyphuongngo56@yahoo.com>, mộ con chiên ngoan đạo gửi ra khắp các diễn đàn. Lá thư có nhiều tiểu đề, bài viết chú ý tới một đoạn của "bài giảng" rất đặc biệt mang tiểu đề "NGƯỜI PHỤ NỮ CỦA CHIẾN THẮNG". Xin mời quí vị cùng đọc. Câu hỏi của tác giả không phải chỉ đặt ra cho người viết "lời Chúa", mà là một câu hỏi lớn cho tất cả những tín hữu Công Giáo Việt Nam chúng ta cùng suy niệm. Ai là Cha của những nhóm người tạo nên lịch sử ô nhục này? (SH đề tựa)
Đoạn dẫn:
"Các ngươi bởi cha tức là quỷ mà ra, và các ngươi muốn làm theo
ước vọng của cha các ngươi, từ khởi thủy, nó đã là kẻ sát nhân, nó
không đứng vững trong sự thật khi nó nói dối, là nó nói theo bản
chất của nó, vì nó là đồ điêu ngoa, và là cha sự láo khoét" (Yn 8,
44).
Như vậy, xin hỏi những kẻ dưới đây ai là
cha của họ, Thiên chúa hay Satan?
… Các tín đồ Thiên Chúa giáo cảm thấy mình mạnh bèn tấn công vào
những làng phi Thiên Chúa. Sự trả đũa của họ thật quá sức dã man, như
các báo cáo của các sĩ quan Pháp đã cho thấy. Sau đây là một vài vụ theo
lời thuật của Harmand:
“…Trong chuyến công tác, người ta cho họ đi đầu toàn thể dân Công
giáo rồi chiếm và đốt một số làng của các kẻ ăn cướp hay của các nho sĩ
võ trang (các sĩ quan gọi bất cứ ai chống họ là “kẻ cướp”). Họ giết 10
người, trong đó có một viên chỉ huy; các người bị thương đều bị tra tấn,
bị trấn nước hay bị thiêu sống, chùa chiền bị phá hủy. Những người đó tỏ
ra rất can đảm, nhưng tôi tự hứa không để bắn một phát nào nữa nếu không
có tôi (bất kể những lời người ta khuyên) mục đích là để tôi đích thân
chống lại các cảnh dã man đó, mà chỉ tấn công các làng chắc chắn có tội
và để tránh cho các con chiên cuồng tín đó khỏi bị trả đũa khủng khiếp
trong trường hợp Pháp thua trận hay thay đổi chính sách” (Harmand gửi
Testard, 16-1-1874, Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại A00 (10) hộp 1).
“… Chúng tôi lần lượt chiếm 4 làng, bắt 5 người chỉ huy, nhưng không
phải là những người nổi tiếng, họ sẽ bị xử tử hôm nay, và giết ít nhất
50 người trang bị bằng dáo hay bằng gậy… Viên hạ sĩ và hai người mà tôi
phái đến Giám mục Cézon đã trở về ngày hôm kia. Phái bộ truyền giáo đã
phái họ đến một ngôi làng người lương ít nhiều theo trộm cướp, họ giết
10 người, họ kể với tôi rằng, người An Nam (tín đồ Công Giáo) tra tấn
rất tàn nhẫn các người bị thương (Kháng chiến quân), phá sập ngôi chùa
trong làng, tất cả việc này, Giám mục Tây Ban Nha hết sức hài lòng…”
(Harmand gửi Ganier ngày 22-12-1873, do J.Marquet và J.Norel dẫn,
“L’occupation francaise au Tonkin”, tr.112)
Các sĩ quan Pháp đều công nhận trách nhiệm nặng nề của các Giám mục
và các kẻ truyền đạo trong các vụ trả thù man rợ này:
“Không chối cãi được, một số Giám mục Pháp đã hùa với các nỗi ghen
ghét, hận thù sục sôi ở nơi họ sống; họ làm hại các con chiên một cách
nghiêm trọng khi đẩy những người này vào một cuộc nổi dậy chống lại
chính phủ An Nam.
Việc chinh phạt của Pháp chỉ là cái cớ bề ngoài, còn lý do căn bản là
sự tranh chấp phe phái. Nên để ý là một số vụ nổi loạn do những kẻ tự
xưng là con cháu nhà Lê đều có các viên chỉ huy là Thiên Chúa giáo… Cầm
đầu các đám tín đồ Thiên Chúa đi cướp bóc, đốt phá các làng phi Thiên
Chúa và triệt hạ chùa chiền thường là các linh mục hay các kẻ truyền
đạo: họ bổ nhiệm các viên đội, tụ tập binh lính mà đa số, theo lời thú
nhận đều là đầu trộm đuôi cướp” (Philastre gửi Dupré, 15-1-1874, Thư khố
Trung ương Đông Dương, Đô đốc 13506 số 4).
“Hình như đôi khi, tôi dám nói như thế này, lòng nhiệt thành tôn giáo
đã hủy hoại các tư tưởng công bình, chân lý, nhân đạo, bác ái ở các nhà
truyền đạo, và họ dễ dàng để mình bị lôi cuốn vào chính các lỗi lầm mà
họ đã thấy rõ ở các đối phương của mình (Rheinart gửi Garnier,
14-14-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 13506 số 4).
“… Chúng tôi thấy một số lớn làng bị thiêu rụi. Khổ thay, cứ mỗi lúc,
các tín đồ Thiên Chúa giáo thấy kẻ thù của họ biến mất, hoặc họ tự thấy
mình mạnh hơn thì họ lại đi hành quân, trả thù không gớm tay, rồi đến
phiên họ lại đốt và giết. Hầu hết họ đều có võ trang, và tôi tin rằng,
chính các nhà truyền giáo cũng không ngăn cản nổi. Đó là điều đáng tiếc,
vì các quan mới từ Huế ra đều nhân cớ đó mà xác nhận rằng, chính các tín
đồ Thiên Chúa gây sự, chính những người này là nguyên nhân đầu tiên của
mọi đau khổ. Hơn nữa, vì những con chiên có nhiều khí giới, nên họ sẵn
sàng xem những con chiên là những kẻ làm loạn” (Báo cáo của Harmand ngày
24-1-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 11689/54).
“Ngay khi thấy mình được ủng hộ, các tín đồ Thiên Chúa giáo (An nam)
đã không ngần ngại đốt nhà, giết người, và cũng như những người này, nếu
cần, họ vu cáo để biện minh cho việc tàn bạo của mình. Đó là điều họ đã
làm năm vừa rồi, và chính điều này đã gây ra những vụ trả đũa mà người
ta gọi một cách sai lầm là các vụ đàn áp. Nếu khi che chở họ, chúng ta
nhắm mắt để họ lôi kéo, chúng ta sẽ gây ra một phản ứng dữ dội chống lại
những nhà nho một cách không kém dã man, không kém tàn bạo như những vụ
đàn áp bây giờ” (Rheinart gửi Dupré, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô
đốc 13506 số 4).
Sự bảo hộ của chính quyền thực dân với tín đồ Công giáo có nguy cơ bị
lung lay trước chính sách của Philastre. Nên Giám mục Pugnier đã phản
đối mạnh mẽ chính sách này bằng một bức thư gửi Dupré:
“…Nếu Pháp rút lui hay không hành động theo tình thế đòi hỏi thì điều
đó sẽ đưa đến tai họa cho tất cả con chiên và tạo nên hỗn loạn to lớn
cho xứ này. Tất cả những ai hân hoan khi sứ giả Ngài đến sẽ mất lòng
kính trọng nước Pháp, cảm tình của họ sẽ dễ dàng biến thành hận thù, nếu
lòng tin cậy của họ đối với Pháp kết thúc đau đớn bằng nỗi thất vọng ê
chề… Trong tình cảnh xáo trộn và đầy đe dọa hiện nay của xứ này, muốn
bảo vệ hữu hiệu cần phải có một đạo quân khá hơn độ 8,000 binh sĩ và hai
tàu chiến mới. Mục đích của đạo quân đó không phải là gây chiến mà là
trừng trị những kẻ phá hoại hòa bình”.
Giám mục Pugnier đã uổng công khi đích thân vào Sài Gòn để bàn trực
tiếp với Dpuré:
“Những lần nói chuyện của tôi với Giám mục đó trước khi ông rời Sài
Gòn không thay đổi lòng tin của tôi, vì thế tôi vẫn giữ nguyên các nhận
xét mà tôi đã trình bày với ngài, dù vị Giám mục này đã khổ công khuyến
cáo hãy bỏ đi chính nghĩa đã tạo được nước Pháp nhiều tình cảm dân chúng
khi theo đuổi một đường lối mà những người khen Garnier là anh hùng phải
bị kết án, những người này không biết được những khó khăn của tình thế
mà viên sĩ quan khốn nạn đó đã để lại cho chúng ta” (Dupré gửi Bộ trưởng
Hải quân và Thuộc địa, 30-12-1874, Thư khố Pháp quốc Hải ngoại A30 (25)
hộp 13).
Có hai thuyết chống đối nhau về vấn đề này: Một mặt Philastre không
bao giờ nghi ngờ thiện chí của triều đình Huế và thuộc hạ của họ; mặt
khác các kẻ truyền đạo và một vài người Pháp nhiễm đầy ý kiến của Giám
mục Pugnier đã không ngừng tố cái vai trò nước đôi khéo léo của các
quan, những người đồng lõa với nhà nho. Pugnier từng phản ứng:
“Chỉ cần bắt hai tên đó cùng 3, 4 tên khác xử tử vì các vụ mưu sát
năm 1868 là đủ để lập lại thanh bình, nhưng các quan không chịu làm, sự
đồng lõa của họ thật rõ rệt. Còn các lời đãi bôi, các tuyên cáo v.v… của
họ chỉ là một trò hề”.
Giám mục Pugnier là người có thế lực nhất và hiếu chiến nhất tại Bắc
Kỳ, là cố vấn có quyền uy nhiều nhất trong chiến dịch Garnier và nhất là
sau khi tên này qua đời. Các linh mục Pháp hưởng ứng sự mong ước của
Dupré đã tự nguyện giúp đỡ cho đồng bào họ. Hàng ngàn tín đồ Thiên Chúa
Việt Nam có các linh mục dẫn đầu, cắm cờ tam tài, gia nhập vào đoàn quân
bé nhỏ của Garnier để chiến đấu bên cạnh người Pháp, cùng để cướp bóc,
đốt nhà, giết người và trả thù:
“Từ ngày thành lập các lũ người vẫn tin theo lời Giám mục Pugnier
gieo rắc sự khủng bố, cướp bóc và chết chóc trong các làng đạo, các tổng
đốc các tỉnh không làm hay gần như không làm gì cả để ngăn chặn hữu hiệu
những sự lộn xộn, nhất là trong tỉnh Nam Định… Giám mục Pugnier biết rõ
là không phải và ông cũng biết rõ ai là người mà những lời khuyên bảo
tai hại của họ đã một phần gây ra các đau khổ này, ông cũng biết vai trò
thiếu thận trọng và có lúc dã man của các con chiên… Cảnh rối loạn này,
chính chúng ta và nhất là chính những kẻ hiện phải gánh chịu cảnh đó đã
gây tạo ra” (Thư Philastre gửi Dupré, 15-1-1874, Thư khố Trung ương Đông
Dương, Đô đốc 11689, số 30)
“Tôi cho rằng các nỗi lo sợ của Giám mục Pugnier đã được phóng đại…
Tôi cho rằng chỉ còn phải sợ các xáo trộn trong dân chúng tôi. Giám mục
Pugnier tin là sẽ nổ ra một cuộc cách mạng. Nên biết rằng vị Giám mục
này đã can dự nhiều trong các việc làm của ông Ganier, ông đã có những ý
tưởng dứt khoát và muốn lật triều Nguyễn để lập lại họ Lê” (Thư
Philastre gửi Dupré, 6-1-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc
11689, số 69 và 76)
“Tôi tin rằng Giám mục Gauthier và Giám mục Pugnier nhất là ông sau
này không chịu nổi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: giải pháp
này sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt,
chính phủ này có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các tín đồ Công giáo
lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục các linh mục, các
người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính phủ… Suốt
ngày chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các lời yêu cầu đem quân
chinh phạt các tỉnh đó” (Thư Philastre gửi Dupré, 15-1-1874)
“Suốt ngày tôi tiếp những người tự xin điều khiển các binh lính mà họ
tụ tập thành từng toán 100, 150 người, tất cả đều được các cha xứ gửi
gắm, nhưng tôi cố phản ứng không mích lòng một ai để chống lại những
khuynh hướng tràn ngập của các tín đồ Thiên Chúa” (Thư Harmand gửi
Garnier 16-12-1873).
“Tôi vẫn cứ tiếp khách mãi: Họ nối đuôi nhau trước túp lều tôi từ 7
giờ sáng cho đến tối, tôi phải tiếp mãi những người đến khiếu nại hay
xin xỏ: kẻ thì xin được giúp đỡ che chở, kẻ thì tụ tập được một số người
rồi đến xin khí giới để trang bị và cấp bằng chỉ huy, sau rốt có kẻ, và
đây là số đông đến xin giúp việc thư ký, công chức đủ hạng, và còn xin
được bổ làm tri phủ, tri huyện. Tất cả hình như hầu hết là tín đồ Thiên
Chúa và một phần ở tỉnh Ninh Bình kế cận, do các linh mục cử sang. Trong
những trường hợp gay cấn này, tín đồ Thiên Chúa đã biểu lộ một sự tham
lam trơ trẽn, vừa thiếu dè dặt vừa đầy ích kỷ… Họ tỏ ra rất thô thiển.
Họ xem việc chúng ta đến đây như là đánh dấu cho giờ phục thù và trả
đũa; về phần những nhà truyền giáo, ngay từ đầu có lẽ họ đã đưa ra những
lệnh nghiêm ngặt; nhưng chắc chắn sau đó họ bị tràn ngập. Mỗi ngày tôi
nhắc đến chục lần: “Thế ra các ông cho rằng chúng tôi đến đây để gây một
cuộc chiến tranh tôn giáo hay sao? Chúng tôi đến đây với mục đích thuần
túy thương mại. Dù các ông có là giáo là lương, là Trung Quốc cũng không
phải là điều quan trọng… Tôi nói thêm, không phải mọi người Pháp đều
theo đạo Thiên Chúa đâu, điều này khiến họ hết sức ngạc nhiên” (Thư
Harmand gửi Testard du Cosquer, 16-1-1874).
Khi triều đình Huế bị các khiếu nại của các Giám mục đè ép, muốn bắt
các “làng không đạo phạm tội” bồi thường, đòi quyền hưởng thụ và sở hữu
các đất đai vắng chủ, gây nên sự thù ghét của những người phi Công giáo,
Rheinart viết:
“Điều 9 luôn luôn đem lại cho chúng ta các khó khăn, vì rằng các con
chiên đã làm bậy khi lập nên một chính đảng chính trị muốn ở ngoài pháp
luật của xứ này và tự cho là độc lập. Không có nước nào vô tư cho bằng
nước An Nam về vấn đề tôn giáo, và nếu các phái bộ chỉ lo giảng đạo, họ
không có gì phải lo cả” (Rheinart gửi thống sứ Le Myro de Vilers,
19-8-1879, Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 10443/8).
“Giới tăng lữ Thiên Chúa An Nam thích thú ỷ dựa vào việc chúng ta ủng
hộ để gây sức ép lên dân lương. Họ đã bám vào sự che chở của chúng ta
bằng cách đổi đạo, dù thành thật hay không; sự kiêu hãnh công thêm vào
lòng hăng hái tôn giáo thúc đẩy họ đi cù rũ người theo đạo khắp nơi…
chúng ta bảo đảm tự do tôn giáo, nhưng tuyệt đối chúng ta không ham mê
gì các vụ đổi đạo mau lẹ và đông đảo cả” (Thư Rheinart gửi Dupré,
28-10-1876, số 248).
Suy nghĩ về việc Pháp có thể bất ngờ bị thất bại ở Bắc Kỳ, Le Myre de
Vilers đã tự phê bình:
“Đáng lẽ phải là những đồng minh tự nhiên của Thiên quốc, khốn thay,
chúng ta lại tự xưng là những tay quán quân của đạo Thiên Chúa cùng việc
tuyên truyền tôn giáo, là việc mà trong nước này, chỉ là tuyên truyền
làm loạn, và đã xảy ra điều bất thường là, dù dưới hình thức chính phủ
nào, nước Pháp dân chủ lại đi dạy các thuyết duy thần cho một dân tộc đã
đưa nền dân chủ đến chỗ xã thôn tự trị… Vì thế chúng ta trở thành kẻ thù
không những của Thiên quốc mà còn của một dân tộc chân thật vốn chỉ xem
chúng ta là những bạn đồng minh…” (Thư Le Myre de Vilers gửi Bộ trưởng
Hải quân, 19-1-1882, Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại, A30 (54) hộp 16).
Mọi cố gắng của Giám mục Pugnier đều ngăn chặn không cho chính sách
Pháp bước vào con đường cai trị là tôn trọng các định chế của xứ bị trị,
tôn trọng luật pháp, phong tục và nhất là tìm cách liên minh với các tôn
giáo bản xứ, khuyến khích sự phát triển và dùng nó làm trung gian giữa
dân bản xứ và giới chức thuộc địa. Xâm lược, thống trị, đồng hóa là 3 ý
tưởng chủ chốt toát lên từ nhiều văn thư, điều trần của Giám mục
Pugnier. Và các văn thư này đều nhằm mục đích chứng minh cho giới chức
Pháp thấy rằng, ngoài tín đồ Thiên Chúa giáo ra, tất cả đều là kẻ thù.
“Trước khi nghĩ đến việc giảm quân, cần phải tiêu diệt tối đa mầm
mống nổi loạn. Chinh phạt là con đường rất đúng, sẽ còn phải chi tiêu
nhiều hơn nữa, nhưng phải có những hy sinh đó…” (Văn thư về vấn đề Bắc
Kỳ, 3-1884, thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại, A00 (30) hay N.F.541).
Giám mục Pugnier chủ trương rằng cuộc xâm lăng phải được tiến hành
mạnh mẽ và mau lẹ. Phải đuổi theo kẻ thù và tiêu diệt trước khi nó hồi
phục:
“Tôi thấy đồng thời bình định Bắc Kỳ và Trung Kỳ còn dễ hơn chỉ là
bình định Bắc Kỳ. Kẻ thù không có sẵn lực lượng và phương tiện to lớn
lắm, sẽ bị đồng thời tấn công khắp nơi và sẽ không thể kịp tiếp viện
cũng như chỉnh đốn lại, sẽ phải kiệt lực…” (Văn thư dùng để nghiên cứu
một trong các giai đoạn của vấn đề Bắc Kỳ: Cuộc khởi nghĩa 13-9-1886,
Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 1178)
“Theo tôi, trước hết cần có một hoạt động toàn diện, một cuộc săn
đuổi thực sự. Một cuộc hành quân phối hợp gồm các toán quân nho nhỏ hỗ
trợ cho nhau đồng thời tiến vào nhiều làng trong một vùng sẽ làm cho bọn
cướp rối loạn… Làng nào đồng lòng với quân phiến loạn và kẻ nào thực sự
bước theo phe kháng chiến, khi đã biết được chúng nhờ vào các tin tức
chắc chắn, nhất định phải nghiêm trị và các tâm gương này sẽ gây nên một
tác dụng tốt trong dân chúng” (Tình hình Bắc Kỳ ngày 25-1-1891, văn thư
gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa ngày 5-2-1891, thư khố Bộ Pháp quốc
hải ngoại, A00 (30) hộp 2).
Theo Giám mục Pugnier, kẻ thù ở khắp nơi còn bạn bè thì không có ở
đâu cả ngoài những người theo Thiên Chúa giáo, y đã lập nên danh sách
các “thủ phạm” gồm:
1. Đầu tiên chính là triều đình Huế. Năm 1884, hai quan Nhiếp chính
Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết là tác giả chính của cuộc “phiến
loạn”.
2. Những quan lớn ở các tỉnh (như: Tổng đốc, Bố chánh, Án sát, Lãnh
binh).
3. Phần đông quan lại dù là tại chức.
4. Tất cả các Nho sĩ.
5. Chánh tổng, Lý trưởng.
6. Các làng không Thiên Chúa giáo, bên cạnh các khu giáo dân.
(Báo cáo 27-3-1884, Thư khố Trung ương Đông dương, đô đốc 11624 và
bản nghiên cứu về tình hình Bắc Kỳ, 10-6-1890, thư khố Bộ Pháp quốc Hải
ngoại, A00 (30) hộp 2).
“Tôi xin xác định rằng, khi nào Bắc Kỳ thành Thiên Chúa giáo thì nó
cũng sẽ thành một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo của
Philippines đã trở thành một nước Tây Ban Nha nhỏ… Chắc chắn các nhà
truyền đạo là một sức mạnh tinh thần to lớn nhất trong một thuộc dịa.
Chính họ đã làm cho thuộc địa biết chân tướng nước mẹ để mến yêu… Tôi
xin cả quyết rằng: Nước pháp không có bạn bè nào tốt hơn là các nhà
truyền giáo và con chiên, cũng không có kẻ phụng sự nào trung thành hơn
và vô vị lợi hơn. Vừa hoạt động để tôn vinh Chúa trời cứu rỗi linh hồn,
tôi vẫn từng nói các nhà truyền giáo tự thấy có bổn phận làm cho tổ quốc
mình được hiểu biết và mến yêu, vừa dạy con chiên kính trọng và trung
thành với mẫu quốc… Sau khi đạo Thiên Chúa được thiết lập, tôi xem việc
tiêu diệt chữ Nho và thay thế dần dần, ban đầu bằng tiếng An Nam, rồi
bằng tiếng Pháp, như là phương tiện rất chính trị, rất tiện lợi và rất
hiệu nghiệm để lập nên tại Bắc Kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông” (Thư
giám mục Pugnier gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa, 6-5-1887, thư khố
Pháp quốc Hải ngoại A00 (30) hay N.F 541).
hta
∷∷∷∷∷
2009/3/17 phuong ngo <tuyphuongngo56@yahoo.com>
...............
NGƯỜI PHỤ NỮ CỦA CHIẾN THẮNG.
Khi lưu ý đến cái chết tự hiến của Ðức Kitô vì tội lỗi muôn dân, Phúc
Âm Yoan không quên nói tới người phụ nữ đã sinh ra Ngài.
"Vậy Ðức Giêsu thấy Mẹ Ngài và môn đồ Ngài yêu mến đứng bên cạnh, thì
Ngài nói với Mẹ : Hỡi Bà, này là con Bà. Ðoạn lại nói với môn đồ : Này
là Mẹ con. Và từ giờ đó, môn đồ đã lĩnh lấy Bà về nhà mình" (Yn 19, 26 -
17).
Xuyên qua nhiều thế kỷ, các độc giả đoạn này vẫn không khỏi ngạc
nhiên trước từ ngữ dùng để gọi Ðức Mẹ "Hỡi Bà", dĩ nhiên đó không phải
là một từ ngữ chỉ sự khinh rẻ. Nhưng một người con gọi mẹ mình như thế
cũng là điều lạ. Trong văn chương Dothái cũng không thấy gì cho thấy
rằng vào thời Ðức Kitô người con có thể gọi mẹ mình như thế. Trong câu
chuyện biến đổi nước thành rượu tại Cana, chúng ta cũng gặp thấy cách
xưng hô tương tự nơi miệng Chúa Giêsu : "Hỡi Bà", trong cả hai đoạn đều
xưng hô với Ðức Maria như thế. Tại sao vậy ?
Cách giải đáp vấn đề này phát xuất từ mối quan tâm rõ rệt đặc biệt
của Phúc Âm Yoan đối với sách Khởi Nguyên. Rõ rệt nhất là ở chương thứ
nhất trong quyển Phúc Âm thứ tư này. Câu mở đầu "Lúc khởi nguyên" giống
y hệt trong sách Khởi Nguyên. Ðiều này có ý nghĩa đặc biệt đối với độc
giả Dothái, bởi vì đối với họ, nhan đề một cuốn sách bao giờ cũng được
lấy theo những lời mở đầu, cũng giống như những chỉ dụ của Ðức Giáo
Hoàng ngày nay. Khi nghe những lời mở đầu của Phúc Âm thánh Yoan, "Lúc
khởi nguyên", độc giả Dothái chắc là nghĩ ngay đến quyển sách khác có
nhan đề bằng câu mở đầu như thế, đó là sách "Khởi Nguyên". Sau khi mở
đầu như sách Khởi Nguyên, Phúc Âm của Yoan tiếp tục nói đến sự tạo dựng
và sự phân biệt giữa sự sáng và tối tăm, y như trong sách Khởi Nguyên.
Còn nhiều điểm giống nhau khác nữa giữa sách Khởi Nguyên và Phúc Âm của
Yoan, nhưng vài tỉ dụ trên đây cũng đủ để cho thấy rằng Yoan đặc biệt
quan tâm đến quyển Thánh Kinh thứ nhất, và nhất là những chương đầu của
nó. Chính vì mối quan tâm rõ rệt đó mà ta có thể đoán rằng có lẽ chữ
"Bà" trong Phúc Âm của Yoan có liên quan phần nào với chữ "người đàn bà"
trong Kn 3, 15. Trong đoạn này, như chúng ta đã chú thích trên đây (xem
chương I, phần Sự Tội), Thiên Chúa nói về sự giao tranh trong tương lai
giữa Satan và dòng dõi của nó với "người đàn bà" và dòng dõi của bà.
Ngài cũng nói có lúc dòng giống của "Người đàn bà" sẽ bị thương nơi gót
chân, còn satan thì sẽ bị thương nơi đầu. Khi đọc Phúc Âm của Yoan,
chúng ta có thấy rõ ràng là Yoan luôn luôn nghĩ đến cuộc giao tranh ấy
trong đầu óc và ông trình bày sự giao tranh giữa Ðức Kitô và Satan như
thế là sự làm cho trọn vẹn tình thế chiến tranh đã nói trong sách Khởi
Nguyên. Yoan đã trích dẫn lời hứa Ðức Kitô nói về kết quả như sau :
"Chính đây là giờ phán xét thế gian này. Chính bây giờ đầu mục thế
gian này sẽ bị đuổi ra ngoài" (Yn 12, 31).
Ông cũng nói tới ảnh hưởng của Satan trong việc tìm cách làm cho Ðức
Kitô bị đóng đinh.
Quỷ đã gieo vào lòng Yuđa Iscariốt, con của Simôn, cái ý định nộp
Ngài" (Yn 13, 2).
Ông cũng mô tả dòng giống satan đã giúp nó trong cuộc giao tranh này
với Ðức Kitô. Dòng giống đó bao gồm tất cả những người đứng về phía đối
địch với Chúa Giêsu : Yuđa và những người Biệt Phái. Yuđa được gọi rõ
ràng là "đồ quỷ".
"Vậy mà một trong các ngươi lại là quỷ sứ !". Ngài muốn nói về Yuđa,
con của Simon Iscariôt. Vì y là kẻ sẽ nộp Ngài." (Yn 6, 70 - 71).
Ðối với những người Biệt Phái, Ngài cũng bảo rằng cha của họ là quỷ,
bởi vì bản tính của họ là giả dối và sát nhân như quỷ.
"Các ngươi bởi cha tức là quỷ mà ra, và các ngươi muốn làm theo ước
vọng của cha các ngươi, từ khởi thủy, nó đã là kẻ sát nhân, nó không
đứng vững trong sự thật khi nó nói dối, là nó nói theo bản chất của nó,
vì nó là đồ điêu ngoa, và là cha sự láo khoét" (Yn 8, 44).
Cuộc giao tranh giữa Chúa Giêsu, dòng giống của Người Ðàn Bà với
Satan và dòng giống của nó đã lên đến cực điểm ở trên Núi Sọ, nơi đó Ðức
Kitô đã bị thương tích và bị chết. Nhưng cái chết bề ngoài này là một
cuộc chiến thắng vĩ đại đối với tội lỗi. Yoan đã ghi chú cho chúng ta
những phe tham chiến trong lúc đó, mà sách Khởi Nguyên đã báo trước ở Kn
3, 15. một bên là Chúa Giêsu, dòng giống của Người Ðàn Bà, một bên là
Satan và dòng giống của nó. Ngay cái vườn cũng được nhắc tới, bởi vì :
"Nơi Ngài bị đóng đinh, có một thửa vườn và trong vườn có một ngôi mộ
mới, chưa có người nào chôn vào" (Yn 19, 41).
Chúng ta có thể giải thích việc Chúa Giêsu sử dụng từ ngữ "Bà" trên
bối cảnh này. Từ ngữ đó chắc là muốn cho thấy rằng Ðức Maria là Người
Ðàn Bà trong cuộc giao tranh, như Thiên Chúa đã có ý định từ trước. Bà
là Người Mẹ của đau thương, vì thế đồng thời cũng là Người Ðàn Bà của
chiến thắng. Bà đứng gần C
Trang Tôn Giáo