|
21 tháng 4, 2010 |
Nhân vấn đề tăng cường biện pháp an ninh cho Giáo Hoàng La Mã sau vụ tấn công bằng tay không của cô gái tên Susanna Maiolo đêm Giáng Sinh 2009, bài phụ lục sau đây được viết trong sự suy nghĩ về việc Giáo Triều Vatican phải bảo vệ một vị đại diện tối cao mà dân chúng cho là "đạo đức giả".
PHỤ LỤC
CÁC BIỆN PHÁP BẢO VỆ AN NINH CHO
GIÁO HOÀNG TỪ PHÒNG NGỦ ĐI RA
Việc Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005)
và đương kim Giáo Hoàng Benedict XVI sử dụng chiếc xe chống đạn
đặc biệt Popemoblie vào những khi di chuyển ra khỏi Tòa Thánh
Vatican để phòng thân phơi bày cho chúng ta thấy sự thật về tính
cách cũng như thủ đoạn phỉnh gạt và lừa bịp tín đồ và người đời
một cách hết sức trắng trợn của các gíao hoàng và Giáo Hội La
Mã. Các ngài luôn luôn cao giọng dạy dỗ tín đồ rằng, “mọi sự
ở trên đời này đều có sự an bài của Chúa Toàn Năng”, rằng “mọi
người đều là con Chúa cho nên đều được Chúa che chở”, rằng
“mọi người đều được Chúa quan phòng”, vậy thì TẠI SAO các
ngài lại không trông cậy vào sự quan phòng, che chở hay bảo vệ
của “Chúa Tòan Năng, Tòan Thiện” của các ngài?
Nếu các ngài không phải là hạng người đạo
đức giả, đại bịp, đại lưu manh, đại gian, đại ác, thì tất nhiên
là không có một người nào nghĩ đến chuyện mưu hại các ngài.
Những tấm gương như các trương hợp của Đức Lạt Lai Lạt Ma của
Phật Giáo Tây Tạng, của ông Tổng Bí Thư Cộng Đảng Liên Xô
Michael Gobachev (1931- ) đến thăm nước Mỹ vào đầu thập niên
1980, của ông Chủ Tịch Nhà Nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết và
ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng của chính quyền Việt Nam hiên nay
đi thăm viếng nước Mỹ và các nước Âu Châu cùng nhiều nước khác
trong mấy năm vừa qua cho chúng ta thấy rõ là như vậy.
Do đó, việc các ngài sử dụng những biện
pháp cực kỳ chu đáo để hộ tống và bảo vệ an ninh cùng việc sử
dụng chiếc xe Popemobils để tự nhốt mình vào trong đó để đề
phòng có kẻ nào vì thù ghét mà mưu hại các ngài ắt là phải có
vấn đề.
Vấn đề này chỉ có các ngài mới biết rõ hơn
ai hết. Nhưng khốn nỗi, rất khó mà các ngài nói cho mọi người
biết sự thật này.
Vì các ngài không nói thì tất nhiên người
ta phải suy đoán. Người viết xin suy đoán như thế này.
Việc các ngài sử dụng những biện pháp cực
kỳ chu đáo và việc tự giam mình trong chiếc Popemobile để đề
phòng một kẻ nào đó mưu hại cho chúng ta thấy rõ là các ngài
biết rõ có người tính chuyện mưu hại các ngài. Có người mưu hại
tức là có người thù ghét các ngài và thù ghét Giáo Hội La Mã.
Vậy thì những loại người nào thù ghét các
ngài hay thù ghét Giáo Hội La Mã một cách dữ dội như vậy?
Theo kinh nghiệm lịch sử và các nhà sử học,
thì những người muốn mưu hại các ngài là (1) những người trong
giáo triều Vatican, (2) những tín đồ của Giáo Hội La Mã, và sau
cùng là (3) các dân tộc nạn nhân của Giáo Hội La Mã.
Về những người trong giáo triều
Vatican mưu hại giáo hoàng: Đây tức là những vị chức sắc cao
cấp trong nội bộ Giáo Hội muốn mưu hại các ngài vì tranh giành
chiếm đọat chức vụ giáo hoàng. Vấn đề này đã liên tục xây ra
trong giáo triều Vatican suốt trong chiều dài lịch sử của Giáo
Hội La Mã từ thế kỷ 4 cho đến ngày nay. Gần đây nhất là cái chết
mờ ám với nhiều nghi vấn của Giáo Hoàng Pius IX (1922-1939) vào
ngày 10/2/1939 và cái chết Giáo Hoàng vào đêm khuya ngày
28/9/1978 chỉ là một vài cái đuôi lòi ra cho thiên hạ nhìn thấy
rõ tình trạng các ngài trong giáo triều Vatican chia phe lập
phái hoặc công khai hoặc âm thầm thánh toán sát hại lẫn nhau mà
thôi. Từ cái đuôi lòi ra trên đây, chúng ta có thể tìm ra và
biết rõ tình trạng khốn nạn này của các ngài bằng cách đọc danh
sách các giáo hoàng (the popes) nơi các trang 449-452 trong cuốn
Vicars of Christ – The Dark Side Of The Papacy (Dublin, Ireland:
Pooleg Pres Ltd., 2000) của cựu giáo sĩ Peter de Rosa. Trong
khi đọc các tranh sách này, chúng ta hãy đếm xem có bao
nhiêu ông ngụy giáo hoàng (antipopes) để suy nghiệm ra là có bấy
nhiêu lần các vị chức sắc cao cấp trong giáo triều Vatican chia
bè lập đảng tàn sát thanh toán lẫn nhau để giành chiếm ngôi vị
giáo hoàng. Theo tài liệu này, người viết tính ra có tới
37 ông ngụy giáo hoàng, tức là có tới 37 lần các ông
mang chức thánh cao cấp nhất trong Giáo Hội chia thành hai hay
ba phe đảng, mỗi phe, chiếm cứ một vùng xưng hùng xưng
bá, thành lập giáo triều riêng, tự xưng là chính thống, gọi đối
phương là ngụy, rồi phát động những chiến dịch tấn công "diệt
tận gốc, trốc tận rễ "các phe thù địch và những thành phần
đối kháng, y hệt như tình trạng nước Việt Nam ta vào thời
Thập Nhị Sứ Quân trong thế kỷ X, thời Nam Triều - Bắc Triều
(1533-1592), thời Trịnh Nguyễn Phân Tranh (1627-1775), và trong
những năm 1954-1975. Vấn đề này và được chúng tôi trình bày khá
rõ ràng trong Chương 14, Mục V, Phần II, sách Lịch Sử Và Hồ Sơ
Tội Ác Của Giáo Hội La Mã. Chương sách này có thể đọc online
trên sachhiem.net. (Về cái chết mờ ám của hai Giáo Hoàng Pius XI
và John Paul I, xin đọc các trang 51-53 trong cuốn The Vatican
Expos New York: Prometheus Books, 2003) của tác giả Paul L.
William, và các trang 290-292 trong cuốn Công Giáo Và Huyền
Thoại ( Garden Grove , CA : Giao Điểm, 2001) của tác giả Charlie
Nguyễn.
Về những tín đồ của Giáo Hội La Mã muốn
mưu hại giáo hoàng: Đây là những tín đồ hoặc là nạn nhân của
Giáo Hội hay là thù ghét Giáo Hội và các ông tu sĩ áo đen vì một
lý do nào đó. Chúng ta biết rằng ngay từ trong thời Trung Cổ, ở
Âu Châu, hầu như tất cả nhân dân các quốc gia Tấy Âu, Bắc Âu,
Nam Âu và các quốc gia vùng ven Biển Địa Trung Hải đều là tín đồ
của Giáo Hội La Mã cả. Ấy thế mà phần lớn những tín đồ này của
giáo hội đã chống lại cả giáo hoàng và giáo hội để rồi họ hoặc
là không theo một tôn giáo nào cả, hoặc là theo tự nhiên thần
giáo, (deism), hoặc là theo đạo Anh Giáo, hoặc là theo một
trong những hệ phái Tin Lành. Vấn đề này đã được người viết
trình bày khá đầy đủ trong các Chương 14, 15, 16, 17, 18 và 19,
sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam . Các chương sách này có thể
đọc online trên sachhiem.net. Ngòai ra, chúng ta thấy cô Susanna
Maiolo 25 tuổi, người nhào tới túm lấy áo của Giáo Hoàng
Benedict XVI và quật ngã ông xuống mặt sàn trên đường tới Nhà
Thờ Saint Peter để làm lễ trong Giáng Sinh 24/12/2009 cũng là
một tín đồ của Giáo Hội La Mã.
Về các dân tộc nạn nhân của Giáo Hội La
Mã:
Chúng ta nhớ lại trong thế kỷ 15, Giáo Hội La Mã tự
phong là đại diện duy nhất của bố con ác thần Jehovah và Jesus
và tự cho là có quyền coi trái đất này là của riêng của giáo,
rồi ban hành hàng lọat các thánh chỉ hay sắc chỉ ăn cướp dành
cho Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha độc quyền đem quân đi đánh chiếm
đất đai ở ngòai lục địa Âu Châu là lục địa và cưỡng bách các dân
tộ nạn nhân làm nô lệ cho các đế quốc này và cho giáo hội. Sau
này cả hai để quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha suy yếu, các cuờng
Anh, Pháp, Đức và Ý trở nên hùng mạnh lấn át cả Bồ Đào Nha và
Tây Ban Nha, thì giáo hội lại thi hành chính sách cấu kết với
tất cả các đế quốc thực dân xâm lược để duy trì và bành trướng
quyền lực. Với chính sách này, giáo hội đã trở thành đồng minh
khắng khít với các đế quốc thực dân xâm lược Âu Mỹ. Vì thế mà
các dân tộc thuộc địa thù ghét các đế quốc thực dân xâm lược Âu
Mỹ và nổi lên đánh đuổi những đế quốc này ra khỏi lãnh thổ để
đòi lại chủ quyền độc lập cho dân tộc của họ, thì họ cũng thù
ghét và đánh đuổi Giáo Hội La Mã ra khỏi đất nước của họ. Không
những thế mà họ còn muốn khử diệt tất cả những cái gì của hay
thuộc về hoặc là biểu tượng cho giáo hội. Ai cũng biết rằng giáo
hoàng là biểu tượng rõ ràng nhất và cụ thể nhất cho Giáo Hội La
Mã. Cũng vì thế mà người mang chức vụ này trở thành cái đích cho
các nạn nhân của Giáo Hội La Mã nhắm tới để trút bỏ lòng uất
hận và căm thù đối với giáo hội. Lời tuyên bố đầy uất khí dưới
đây của nhà báo Jacques René Hebert trong thời Cách Mạnh Pháp
1798 nói lên thực trạng này:
"Các bạn người Pháp, các bạn hãy nói cho
tôi nghe xem có được không? Nếu cái người mà các bạn gọi là Đức
Thánh Cha cướng quyết chống lại luật pháp của các bạn, các bạn
có ngu xuẩn và hèn hạ đến độ phải từ bỏ luật pháp của các bạn.
Các bạn hy vọng gì ở một ông Giáo Hoàng. Đ.M Giáo Hoàng, hãy tin
ở tôi ði, bây giờ là ðến lýợt các bạn; cả trong mýời thế kỷ qua,
Giáo Hoàng ðã áp bức các bạn quá nhiều rồi.". (Tell me,
Frenchmen, is it possible? if that man you call the Holly Father
takes it into his head to oppose your laws, do you dare, are you
stupid and base enough, to give them up? What do you expect from
a Pope? Screw the Pope, believe me; it is your turn at last; for
ten centuries the Pope has screwed you."
[1]
Thiết tưởng rằng bất kỳ quốc gia nào có bàn
tay quyền lực của Vatican vươn tới cũng đều có cái mối căm thù
đối với Giáo Hội la Mã giống như nhà báo Jacques René Hebert
người Pháp trên đây. Đậy cũng là cái quy luật lịch sử và tâm lý
về mối ác cảm của các dân tộc bị trị đối với những người ngoại
quốc đến cướp nước và thống trị họ cũng như đối với bọn ngườn
bản địa bán nước cho Vatican.
Vì các ngài biết rõ các ngài hơn ai hết và
biết rằng ngòai bọn con chiên cuồng tín ra, bất kỳ người nào ở
bất kỳ nơi đâu hay bất kỳ quốc gia nào cũng thù ghét Giáo Hội La
Mã và thù ghét các ngài đến tận xương tận tủy. Với tình trạng
bị thù ghét như vậy thì tất nhiên là bất kỳ ở nơi nào và bất kỳ
vào thời điểm nào, nếu có cơ hội là người ta nhào tới hạ sát các
ngài. Rút được kinh nghiệm trong quá khứ về những hành động có
chủ tâm làm nguy hại đến sinh mạng của các ngài qua các vụ chính
các ngài trong giáo triều Vatican thánh toán lẫn nhau đề giành
ngôi giáo chủ suốt trong chiều dài lịch sử của giáo hội, và các
vụ người ta thù ghét các ngài (như đã nói ở trên), cả Giáo Hoàng
John Paul II và Giáo Hoàng Benedict XVI đều cho rằng tốt hơn hết
là phải sử dụng các đạo quân cận vệ và an ninh hộ tống rất hùng
hậu mỗi khi di chuyển ra khỏi phòng ngủ để đi đến chỗ làm việc,
phòng tiếp khách hay các nơi khác ở trong khuôn viên Điện
Lateran. Nếu phải di chuyển ra khỏi Điện Lateran để đi đến tham
quan bất cứ nơi nào trong nội địa nước Ý hay đi thăm viếng một
quốc gia nào khác, việc canh chừng và bảo vệ các ngài phải được
tổ chức cực kỳ chu đáo:
1.- Các đội ngũ cận vệ, hộ tống và an ninh
để canh chừng và bảo vệ phải vô cùng hùng hậu.
2.- Các đội ngũ này phải được thiết bị bằng
những máy móc dò mìn tối tân nhất, hiện đại nhất, có khả năng
phát hiện những vũ khí, đạn dược và plastic bén nhạy nhất và hữu
hiệu nhất để đề phòng mọi bất trắc có thể xẩy ra.
3.- Phải có một chiếc xe đặc biệt gọi là
Popemobile được thiết bị bằng một loại kính đặc biệt có khả năng
chống đạn hữu hiệu nhất để cho các ngài di chuyển.
(Cũng nên biết, mỗi một chuyến đi thăm
viếng một quốc gia nào, chưa kể chiếc Popemobile được mang theo
để giáo hoàng thu mình vào trong đó cho được an toàn, chính
quyền sở tại còn phải chi ra một số tiến rất lớn trả công cho
các đội ngũ cảnh sát an ninh bào vệ ông ta. Theo bản tin có tựa
đề là “Pope’s immunity could be challenged in Britain” do
phóng viên Paisley Dodds của Liên Hiệp Thông Tấn Xã truyền đi
ngày 4/4/2010 trong đó có nói rõ về việc chi phí cho việc đón
tiếp Giáo Hoàng Benedict XVI đến thăm viếng nuớc Anh bốn ngày
trong tháng 9/2010 sẽ lên tới hơn 15 triệu Anh Kim tức là vào
khoảng 22.5 Mỹ kim: (More than 10,000 people have signed a
petition on Downing Street's website against the pope's 4-day
visit to England and Scotland in September, which will cost U.K.
taxpayers an estimated 15 million pounds ($22.5 million).
Những việc làm như trên để bảo vệ an ninh
cho cá nhân giáo hoàng mỗi khi di chuyển ra ngòai kinh thành
Rome cho chúng ta thấy rằng chính các ngài cũng nhìn nhận rằng,
ông Chúa Toàn Năng và khả năng Chúa Quan Phòng của cả Chúa Bố
Jehohova, Chúa Mẹ Maria Đồng Trinh và Chúa Jesus cũng không bằng
khả năng của chiếc xe Popemobile và sự quan phòng của các binh
đoàn cảnh sát, an ninh và đoàn lính hộ tống được sử dụng để bảo
vệ cho mạng sống của các ngài. Như vậy, rõ ràng là những cụm từ
"Thiên Chúa toàn năng ", và mọi việc “Có Chúa Quan
Phòng,...” mà Giáo Hội La Mã thường lớn tiếng dạy dỗ tín đồ
và rao truyền trong những khi truyền đạo chỉ là những lời láo
khoét và bịp bợm! Như vậy rõ ràng là Giáo Hội La Mã là một tổ
chức đại bịp gồm tập đoàn hơn 400 ngàn tu sĩ áo chùng đen. Tập
đoàn này quả thật những tên đại bịp quốc tế. Chính vì cái đặc
tính đại bịp này mà hoàng đế Napoléon I (1769-1821) mới nói
rằng: "Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian dối
và sai lầm." (Priests have verywhen and everywhere
introduced fraud and falsehood) và nhà ái quốc Ý Đại Lợi
Giuseppe Garibaldi (1807-1882) cũng tuyên bố:"Linh muc là
hiện thân của sự gian trá". (The priest is the
personification of falsehood). Cũng chì vì thế mà khi Tổng Giám
Mục Ngô Quang Kiệt và mấy người đồng nghiệp “áo chúng đên” của
ông khi đi qua phi cảng nào cúa các quốc gia trên thế giới cũng
đều “bị chiếu cố” rất kỹ khiến cho ông ta phải than phiền
rằng “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là
nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam. Đi đâu cũng bị soi xét
chúng tôi buồn lắm chứ…”
[2]
Thủ đoạn đại bịp này được phơi bày ra qua
những hành động như đã nói ở trên và qua hành động của Giáo
Hoàng John Paul II được thể hiện ra bằng những lời dạy dỗ con
chiên của ngài rằng, “đừng lo sợ" (Be not Afraid) [John
Paul II, Crossing the Threshold of Hope (New YorK: Afred A.
Knopf, 1994), p.218.], trong khi chính các ngài lại hết sức lo
sợ, lo sợ đến độ phải dùng đủ cả mọi biện pháp cực kỳ chu đáo để
để phòng mọi bất trắc có thể xẩy ra cho các ngài.
Dù là đã được canh chừng và bảo vệ chu đáo
như vậy, nhưng cả Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005) và đương
kim Giáo Hoàng Bennedict XVI (2005-) cũng vẫn còn cảm thấy lo sợ
cho sinh mạng của quí ngài. Rõ ràng là lúc nào các ngài cũng lo
sợ sẽ bị “Chúa nhân lành” gọi lên thiên đường hưởng nhan
Chúa trong khi các ngài còn thiết tha say mê, lưu luyến với
quyền lực và quyền uy mà các ngài hiện đang được hưởng thụ ở
trên thế gian này.
Có một điều vô cùng khôi hài là lúc nào
các ngài cũng lo sợ phải lên thiên đường bất ngờ đến nỗi phải
tìm đủ mọi cách chống đỡ những món quà bom đạn của những người
thù ghét giáo hội gửi đến ban tặng cho các Ngài. Như vậy, rõ
ràng là các ngài chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện lên thiên đường
để hưởng nhan Chúa đời đời giống như những lời các ngài dạy dỗ
con chiên của các ngài đồ rằng “Chúa ở cùng anh chị em”,
"Thiên Chúa là Tình Yêu", "hãy cầu nguyện liên lỉ", "Sống trong
tình yêu Chúa,"...rồi sẽ được "Chúa thưởng cho lên nước
thiên đàng," hoặc "hưởng nhan Chúa đời đời." Những
hành động này của các ngài đã chứng tỏ cho mọi người thất rằng
các ngài chỉ là những tên đại bịp và các ngài đã bịp người đời
một cách quá ư lộ liễu và hết sức trắng trợn! Bịp ơi là bịp!
Bịp hết chỗ nói!
Hầu như tất cả nhân dân thế giới đều biết
rõ như vậy. Ngay cả các Giáo Hoàng John Paul II, Giáo Hoàng
Bennedict XVI và tất cả các giáo hoàng tiền nhiệm cũng như toàn
bộ tập đoàn tu sĩ áo đen trong hệ thống quyền lực của Giáo Hội
từ những vị chức sắc nắm giữ những chức vụ cao cấp trong giáo
triều Vatican cho đến các linh mục quản nhiệm các họ đạo tại các
địa phương đều biết rõ như vậy cả.
Chỉ riêng có tín đồ Ca-tô ngoan đạo người
Việt mới không biết hay không muốn biết mà thôi!
Điều khôi hài là tuy các nhà truyền giáo hay tu sĩ của Giáo
Hội đều dạy dỗ giáo dân rằng các tôn giáo hay nền văn hóa khác
là “mọi rơ”, là “man di” là “tà đạo” là “dã man”, thì hầu hết
những nạn nhân này của Giáo Hội lại có những đời sống lương
thiện. Những người bị Giáo Hội La Mã gọi là man di này lại biết
phải, biết trái, biết hành xử “sao cho vừa mắt ta ra mắt
người” (kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân), biết dĩ hòa vi quý,
chín bỏ làm mười, biết khoan dung và độ lượng, sẵn sàng chấp
nhận và sống chung với những người bất đồng chính kiến hay khác
tôn giáo với họ, biết mở rộng lòng nhân đối với mọi người, coi
mọi người trong thiên hạ như anh em trong một nhà (tứ hải giai
huynh đệ).
Trong khi đó thì tất cả mọi thành phần trong Giáo Hội La Mã,
từ những người lãnh đạo cao cấp nhất là các giáo hoàng cho đến
các hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, sư huynh, nữ tu
và tất cả giáo dân được coi là ngoan đạo đều có những suy tư,
thái độ và hành động cực kỳ ngược ngạo, hết sức mọi rợ và vô
cùng dã man. Lịch sử cho thấy rõ như vậy, và kinh nghiệm sống
hàng ngày cũng cho thấy rõ như vậy. Bằng chứng là:
Thứ nhất, Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005) nói rằng
“Phật Giáo là vô thần” và Giáo Hội La Mã thường lớn tiếng nói
rằng những người vô thần là xấu xa, là tội ác là đủ mọi thứ ghê
tởm nhất ở trên cõi đời này. Thế nhưng lịch sử cũng như trong
thực tế cho thấy rằng chính quyền của những người vô thần và của
những tín đồ Phật Giáo chưa hề có một dấu vết gì (1) liên
hệ đến chiến tranh tôn giáo, (2) liên hệ đến những việc bách hại
các tôn giáo khác, (3) liên hệ đến việc thiết lập các tòa án để
truy lùng, bắt bớ, giam cầm, tra tấn, hành hạ và tàn sát
những người hữu thần như Giáo Hội La Mã và tín đồ Ki-tô đã làm
trong gần hai ngàn năm qua. Như vậy thì giữa một bên
là những người vô thần trong đó có cả những người cộng sản và
một bên là những người hữu thần theo đạo Ki-tô hay tín đồ
của Giáo Hội La Mã, ai là những người ngược ngạo, dã man và mọi
rợ?
Thứ hai, Trái lại, đối với Giáo
Hội La Mã và tất cả giới tu sĩ áo đen, lịch sử đã cho thấy nhân
dân thế giới không những khinh bỉ (người Pháp gọi giới tu sĩ là
lũ quạ đen (les corbeaux noirs), Hoàng Đế Napoléon I
(1769-1821) và nhà đại Cánh Mạng Ý Đại Lợi Giuseppe Garibaldi
(1802-1882) và rất nhiều danh nhân khác gọi họ là những quân
gian dối, các nhà xã hội học gọi họ là những quân ăn bám xã hội.
Lịch sử cũng cho chúng ta biết nhân dân thế giới cũng rất ghê
tởm và thù ghét Giáo Hội La Mã đến tận xương tận tủy vì trong
gần hai ngàn năm qua, Giáo Hội La Mã đã gây ra hang chục rặng
núi tội ác chống lại nhân loại. Vấn đề này đã được trình bày khá
rõ ràng ở trên.
Trái lại, đối với những người vô thần, ngọai trừ Giáo Hội La
Mã (tất cả các tu sĩ và giáo dân cuồng tín), nhân dân thế giới
không hề thù ghét những người vô thần vì rằng đây là quyền tư do
tư tưởng và tín ngưỡng của họ. Từ khi Quốc Hội Anh công bố Bản
Dân Quyền (the Bill of Rights) vào tháng 12 năm 1689, chính
quyền Cách Mạng Pháp 1789 ban hành Bản Nhân Quyền (The
Declaration Of The Rights Of Man) vào ngày 4/8/1791, và Hoa Kỳ
ghi bản dân quyền (10 tu chính hiến đầi tiên) vào Hiến Pháp vào
năm 1791, thì cái quyền vô thần của mọi người trên thế giới đều
được tôn trọng triệt để, ngọai trừ những thành phần cuồng tín
của Thiên Chúa Giáo. Riêng đối với chế độ cộng sản, nếu có những
người thù ghét chế độ này, thì chỉ là vì người ta không thích
cái chế độ đó mà thôi, và người ta chỉ muốn thay đổi chính sách
hà khắc của nó mà thôi. Người ta không những không hề khinh bỉ
và thù ghét các nhà lãnh đạo các chế độ này mà lại còn rất kính
trọng họ vì rằng họ là những người thành thực, quyết tâm theo
đuổi lý tưởng đem lại công bằng cho xã hội, nâng cao mức sống và
trình độ kiến thức của người dân theo đà tiến hóa của nhân
lọai. Có thể là có những người thù ghét họ, nhưn mức độ thù ghẻt
cũng giới hạn trong một phạm vi nào đó và con số người rthù
ghẻt cũng ở trong một giới qua nhỏ nếu so với con số những người
ở khắp mọi nơi trên thế giới thù ghét đạo Ki-tô hay Giáo Hội La
Mã. Bằng chứng là các nhà lãnh đạo các nước cộng sản của Liên
Bang Xô Viết như ông Michael Gobachev, các ông Nguyễn Minh
Triết, Nguyễn Tấn Dũng và nhà lãnh đạo Phật Giáo như Đức Lạt
Lai Lạt Ma (người lãnh đạo của một tôn giáo lớn mà Giáo Hoàng
John Paul II gọi là một tôn giáo vô thần) khi di chuyển đến các
quốc gia được mời đến thăm viếng, họ không bao giờ nghĩ đến việc
phải dùng đến những chiếc xe chống đạn nào cả và cũng không cần
phải có cả một binh đoàn cảnh sát, an ninh, mật vụ bao quanh để
bảo vệ, mà chỉ có những đòan người hộ tống theo đúng nghi thức
quốc tế về việc tiếp đón các vị quốc khách mà thôi. Xin kể sơ lược về những chuyện này.
Chuyện thứ nhất là Đức Lạt Lai Lạt Ma:
Đức Đạt Lai
Lạt Ma là vị lãnh tụ Phật Giáo Tây Tạng. Cũng như những người
tiền nhiệm, ngài được cả nhân dân thế giới vô cùng kính trọng,
ngọai trừ bọn cừu non đã bị điều kiện hóa bởi chính sách nhu dân
của Vatican. Nhưng ngài và các vị tiền nhiệm của ngài đều:
1.- không hề tự phong hay tự xưng là Đức Thánh Cha, không hề
tự phong đạo Phật là “Hội Thánh duy nhất thánh thiện, công
giáo và tông truyền”,
2.- không hề tuyên bố rằng “đạo Phật của ông phải nắm
quyền chỉ đạo các thế quyền”,
3.- không hề ban hành một quyết định nào với dã tâm vơ vét
quyền lực chính trị vào trong tay các nhà lãnh đạo của đạo Phật
như Giáo Hội La Mã đã ban hành Bản Tuyên Ngôn "Dictatus papae"
gồm 27 điều gọi là nguyên tắc có hiệu lực như luật vào năm 1075
trong thời Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085),
4.- không hề ban hành hàng loạt các thánh lệnh hay sắc chỉ ăn
cướp như Giáo Hội La Mã đã làm trong thế kỷ 15,
5.- không hề cấu kết với các cường quyền tại địa phương để
củng cố và duy trì quyền lực,
6.- không hề phát động những cuộc chiến tôn giáo đem quân
lính đi tàn sát các dân tộc thuộc các tôn giáo khác, hủy diệt
nền hóa và văn minh của các dân tộc nạn nhân như Giáo Hội La Mã
trong những năm 1095-1293,
7.- không hề thiết lập các tòa án đặc biệt để truy lùng, bắt
giam, tra tấn, hành hạ và sát hại những người không tin vào
thuyết lý đạo Phật,
8.- không hề cấu kết với các đế quốc thực dân xâm lược Âu
Châu đem quân đi đánh chiếm các vùng đất ở ngoài lục địa Âu Châu
làm thuộc địa để cướp đoạt tài nguyên và cưỡng bách các dân tộc
nạn nhân làm nô lệ,
9.- không hề gửi các đội ngũ điệp viên chuyên nghiệp giả
danh là các nhà truyền giáo đến các quốc gia bị chiếu cố để
phỉnh gạt và mua chuộc những người dân nghèo khổ và những phường
tham lợi háo danh, rồi dụ khị họ theo đạo,
10.- không hề tổ chức (a) những đội ngũ điệp viên đi thâu
thập tin tức tính báo chiến lược, và (b) những đạo quân thứ 5
nằm hờ chờ khi được lệnh nổi lên tiếp ứng cho đoàn quân xâm
lăng.
Không những đã không hề làm 10 rặng núi tội ác trời không
dung đất không tha trên đây, tôn giáo của ngài cũng như đạo
Phật, đạo Khổng, đạo thờ cúng tổ tiên và các tôn giáo khác của
các dân tộc Đông Phương đều có chủ trương giáo dục rèn luyện
con người thành những người biết sử dụng lý trí. Những bài dạy
người đời của các tôn giáo này đều có chủ đích dạy cho học viên
hay người đời biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật (cách vật
trì tri), không nhắm mắt tin vào những lời Đức Phật hay Đức
Khổng tử hoặc các nhà tu hành rao truyền hay dạy bảo một cách vô
điều kiện. Người dân được dạy phân biệt giữa đúng và sai, giữa
thuận lý và nghịch lý, giữa thương yêu và thù hận, giữa thánh
thiện và tội ác, giữa thực tế và hão huyền, giữa tự cao, tự đại
và khiêm cung, khiêm nhường, giữa hiếu sát khát máu và hiếu hòa,
nhẫn nhịn, v.v…. Xin đọc Chương 9, Phần II, sách Nguời Việt Nam
& Đạo Giê-su”. Cươnh sách này có tựa đề là “Nền Đạo Lý Phản Nhân
Luân” và có thể đọc online trên sachhiem.net.
Vì có những đặc tính cao quý trên đây, cho nên:
a.- Phật giáo, Khổng Giáo và tất cả các tôn giáo khác ở Đông
Phương (1) không bị gọi là “cái tôn giáo ác ôn” như văn
hào Voltaire đã gọi đạo Ca-tô, (2) không bị gọi là “Cái Giáo
Hội Khốn Nạn” như học giả Henri Guillemin đã gọi Giáo Hội La
Mã, và (3) không bị gọi là “đạo máu”, “đạo bịp”
như học giả Charlie Nguyễn đã gọi đạo Ki-tô La Mã,
b.- Các nhà lãnh đạo và các nhà chân tu Phật giáo cũng như
các nhà tu hành của các tôn giáo ở Đông Phương không bị nhân dân
thù ghét và không hề bị gọi là “lũ quạ nâu” hay “quạ
vàng” như nhân dân Âu Châu thù ghét giới tu sĩ Ki-tô La Mã
và gọi họ là “lũ quạ đen” (les corbeaux noirs),
c.- Các nhà lãnh đạo Phật giáo như Đức Đạt Lai Lạt Ma đi đến
đâu cũng (1) để đầu trần, không cần phải đội mũ ba tầng, (2) hai
tay luôn luôn ở thế sẵn sàng chắp lại vái vái để đáp lễ những
người chào đón, chứ không cầm gậy trượng làm oai với thiên hạ,
(3) không ngồi trong một chiếc xe chống đạn đặc biệt để đề
phòng bị những người dân thù ghét tấn công hay sát hại vì thực
ra chẳng có ai thù ghét họ cả, và (4) cũng không có những đội
ngũ cận vệ và những toán quân cảnh sát, an ninh hộ tống để canh
chừng và bảo vệ. Ấy thế mà vẫn không có một người nào nhào vô
vừa tấn công vừa sỉ vả ngài là “quân đạo đức giả” cả.
Ngoài ra, Phật Giáo lại còn được Diễn Đàn của Hội Liên Minh
Quốc Tế Tiến Bộ Tôn Giáo Và Tâm Linh (ICARUS) tại Geneve
tặng cho “Giải Thưởng Tôn Giáo Tốt Nhất Thế Giới”. Sự
kiện này được tờ Tribune de Geneve số ra ngày 15/7/2009 loan tin
với nguyên văn như sau:
“Ngày 15 tháng 7 năm 2009, Tribune de Geneve (Diễn Đàn
Geneve) Hội Liên Minh Quốc Tế Tiến Bộ Tôn Giáo Và Tâm Linh
(ICARUS) tại Geneve đã ban tặng Cộng Đồng Phật Giáo năm nay
“Giải Thưởng Tôn Giáo Tốt Nhất Thế Giới”.
Giải thưởng đặc biệt này được bầu chọn
bởi bàn tròn quốc tế gồm hơn 200 vị lãnh đạo của các tôn giáo
khác nhau. Điều thú vị là các vị lãnh đạo tôn giáo đã chọn Phật
Giáo thay vì chọn tôn giáo của họ mặc dầu các thành viên Phật tử
chỉ là một thiểu số rất nhỏ của ICARUS. Sau đây là những lời
bình luận của 4 thành viên đã bỏ phiếu:
Jonna Hult, Giám đốc Nghiên Cứu cho
ICARUS nói: “Tôi không ngạc nhiên khi Phật Giáo được bầu chọn
“Giải Thưởng Tôn Giáo Tốt Nhất Thế Giới”, bởi vì chúng ta có thể
tìm ra từng chữ rằng không có đến một trường hợp nào chiến
tranh gây ra mà nhân danh Phật Giáo, trái với những tôn giáo
khác hình như luôn thủ sẵn một khẩu súng trong tủ để phòng hờ
trường hợp Chúa quyết định sai lầm.. Ngay chúng ta khó tìm thấy
một Phật tử trong quân đội. Họ tu tập theo giáo pháp đến độ
chúng ta không thể viện dẫn bằng các truyền thống tâm linh
khác.
Cha Ted O'Shaughnessy, một nhà tu Công Giáo nói từ Belfast
“Chừng nào tôi còn yêu Giáo hội Công Giáo, tôi luôn luôn cảm
thấy khó chịu vì chúng ta thường rao giảng lòng bác ái trong
kinh Thánh, tuy nhiên lại tuyên bố là ý Chúa khi cần giết những
người khác. Chính vì thế mà tôi phải bỏ phiếu cho Phật Giáo”.
Giáo sĩ Đạo Hồi Tal Bin Wassad, nói từ Pakistan qua một
thông dịch viên: “Trong khi tôi là một người tôn sùng đạo Hồi,
tôi có thể thấy biết bao sự giận dữ và máu đổ được đưa vào trong
diễn đàn tôn giáo thay vì ở mức độ cá nhân. Người Phật tử đã
thấy rõ điều đó”. Ông Bin Wassad, một thành viên ICARUS bỏ phiếu
đại diện Cộng đồng Hồi giáo Pakistan nói tiếp: “ Thật thế, một
số trong những bạn tốt của tôi là những Phật tử”.
Và Rabbi Shmuel Wasserstein nói từ Jerusalem: “Lẽ dĩ
nhiên, tôi yêu đạo Do Thái và theo tôi đó là một tôn giáo vĩ đại
nhất thế giới. Nhưng nói thật, tôi thực tập thiền định mỗi ngày
trước khi cầu nguyện theo nghi lễ Do Thái giáo hằng ngày kể từ
năm 1993. Vậy là tôi hiểu rồi”.
Tuy nhiên có một trở ngại. ICARUS không thể tìm được người
nào để trao giải thưởng. Tất cả những Phật tử mà họ đã gọi đều
trả lời rằng họ không cần giải thưởng.
Khi hỏi tại sao cộng đồng Phật giáo Miến Điện từ chối giải
thưởng, tu sĩ Phật giáo Bhante Ghurata Hanta trả lời từ Miến
Điện : “Chúng tôi cám ơn quý vị đã công nhận, nhưng chúng tôi sẽ
tặng giải thưởng này cho toàn thể nhân loại, bởi vì Phật tính có
sẵn trong mỗi chúng tôi”. Ông Groehlichen nói tiếp: “ Chúng tôi
sẽ tiếp tục gọi khắp nơi cho đến khi chúng tôi tìm được một Phật
tử nhận giải thưởng này. Chúng tôi sẽ cho quý vị biết khi nào
chúng tôi tìm ra”. -Chánh Minh chuyển dịch - USA,
31-07-2009. [3]
2.- Chuyện nước Liên Xô và ông
Tổng Bí Thư Cộng Đảng Liên Xô Mikhail Gobachev (1931- ) đến thăm
nước Mỹ.
Liên Bang Xô Viết gọi tắt là Liên Xô, là một siêu
cường lãnh đạo khối cộng sản đối đầu với siêu cường Hoa Kỳ suốt
trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh (1947-1990). Nói cho rõ, trong
thời Chiến Tranh Lạnh, Liên Xô là kẻ thù số 1 của nước Mỹ.
Ông Michael Gobachev vốn là một người vô thần, không tin có
thượng đế hay Chúa gì cả, và là một đảng viên của Cộng Đảng Liên
Xô. Vì thế, ông mới bị Tòa Thánh Vatican và tất cả tín đồ ngoan
đạo của Giáo Hội La Mã gọi là quỷ Satan hay tên đại ác quỷ. Năm
1970, ông được Đảng Cộng Sản Nga đưa lên nắm giữ chức Tổng Bí
Thư Đảng. Sau đó ít năm, có lẽ vào cuối thập niên 1970 hay đầu
thập niên 1980, với tư cách là Tổng Bí Thư Cộng Đảng Liên Xô và
là nhà lãnh đạo cao cấp nhất của chính quyền Liên Xô, ông đến
viếng thăm Hoa Kỳ. Trong chuyến viếng thăm này, có một bữa, ông
tự ý một mình (không có cận vệ và cũng không có đoàn hộ tống bảo
vệ an ninh) đi bộ xăm xăm ra ngoài đường xá đông người trong
trung tâm thành phố New York. Người dân trong khu phố bất chợt
thấy ông, xúm lại vây quanh ông, chào mừng ông, chen chúc đến
gần bên ông để được bắt tay ông. Thấy vậy, nhân viên an ninh ào
ào nhào tới để bảo vệ ông, nhưng ông vẫn không hề quan tâm đến
chuyện an ninh cho cá nhân ông, ông vẫn xăm xăm xông xáo đi hết
khu phố này đến khu phố khác mà không tỏ ra một chút sợ hãi nào
cả, vẫn hồn nhiên, vẫn niềm nở vui cười, vươn cao tay vẫy chào
mọi người, và nhân dân ở đây cũng không có một người nào có ý
định ám hại ông, dù rằng lúc đó Hoa Kỳ và Liên Xô đang kình
chống nhau mãnh liệt, cùng coi nhau như là kẻ thù bất cộng đái
thiên.
3.- Chuyện Chủ tịch nước Việt
Nam Nguyễn Minh Triết thăm viếng Hoa Kỳ và Tòa Thánh Vatican:
Giống như trường hợp ông Michael Gobachev khi đi viếng thăm
Hoa Kỳ, trong chuyến đi thăm viếng Hoa Kỳ và Tổng Thống George
Bush ngày 22/6/2007 cũng như khi đến thăm viếng quốc gia Vatican
và Giáo Hoàng Benedịct XVI vào ngày 11/12/2009, ông Chủ Tịch
Nước Việt Nam Nguyễn Minh Triết cũng không hề sử dụng một chiếc
xe đặc biệt chống đạn nào cả, và cũng không có một đạo quân cảnh
sát và an ninh vô cùng hùng hậu để che chở và bảo vệ như các
Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005) và Giáo Hoàng Benedict XVI
đã làm mỗi lần đi ra khỏi kinh thành Rome trong mấy chục năm gần
đây.
4.- Chuyện Thủ
Tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thăm viếng Hoa Kỳ và Tòa Thánh
Vatican:
Tương tự như hai ông Michael Gobachev và Nguyễn
Minh Triết, khi còn là Phó Thủ Tướng Việt Nam, ông Nguyễn Tấn
Dũng đến thăm viếng Hoa Kỳ và làm việc tại đây trong thời gian
từ ngày 9 đến ngày 14/12/2001. Khi được đưa lên nắm giữ chức vụ
Thủ Tướng Việt Nam, cuối tháng 1 năm 2007 , ông đến thăm nhiều
nước Âu Châu và ghé thăm Giáo Hoàng Benedict XVI vào ngày
25/1/2007, rồi tuần lễ từ ngày 16/6 đến hết ngày 23/6/2008, ông
lại đến viếng thăm Hoa Kỳ và Tổng Thống George W. Bush. Tất cả
những chuyến đi này, ông đều không sử dụng một chiếc xe đặc biệt
chống đạn nào cả, ngoài một số đoàn cảnh sát đi theo hộ tống
theo đúng thủ tục lễ nghi quốc tế về việc đón tiếp một vị quốc
khách, quốc gia chủ không cần phải sử dụng cả một binh đoàn cảnh
sát và an ninh rất hùng hậu để che chở và bảo vệ an ninh cho
ông.
Những sự kiện trình bày trên đây cho
chúng ta thấy rõ rằng, trong khi Tòa Thánh Vatican và tín đồ
ngoan đạo của giáo hội khinh rẻ và thù ghét những người Cộng Sản
như muốn khử diệt họ bằng tất cả khả năng của giáo hội như giáo
hội đã từng khử diệt những người vô thần trong gần hai ngàn năm
qua, thì trái lại, các các nhà lãnh đạo của Phật giáo và của các
nước theo chủ nghĩa cộng sản lại được nhân dân thế giới vô cùng
kính trọng. Trong mấy thập niên vừa qua, chúng ta thấy rằng
không hề có một cá nhân hay tổ chức hoặc tập thể nào nghĩ đến
việc mựu hại họ, ngọai trừ những tín đồ Ca-tô thuộc lọai siêu
cuồng tín hay những người mà chính bản thân hay ông cha họ đã
từng được hưởng những đặc quyền đặc lợi của các chính quyền đạo
phiệt của Giáo Hội La Mã.
Trái lại, Giáo Hội La Ma thi lại bị cả
nhân dân thế giới đều khinh bì, đều căm giận và thù ghét. Văn
hào Voltaire gọi là “tôn giáo ác ôn”, học giả Henri
Guillemin gọi là “cái giáo hội khốn nạn”, học giả Charlie Nguyễn
gọi là “đạo máu” và “đạo bịp”, và giới tu sĩ thì
bị dân Pháp gọi là “lũ quạ đen” (les corbeaux noirs),
Hoàng Đế Napoléon I (1769-1821) nói thẳng thừng cho mọi người
biết rằng "Ở mọi nơi và mọi thời, linh mục đã đưa vào sự gian
dối và sai lầm", và nhà cách mạng ái quốc ý Đại Lợi Giuseppe
Garibaldi (1807-1882) cũng nói rằng, “Linh muc là hiện thân
của sự gian trá". Chính Giáo Hoàng John Paul II và đương
kim Giáo Hoàng Benedict cũng biết rõ như vậy. Vì biết như vậy,
cho nên các ngài mới lo sợ rằng rất có thể ngài bị mưu hại
vào bất cứ nơi nào và bất cứ vào thời điểm nào. Vì thế mà mỗi
khi thò đầu ra khỏi phòng ngủ dù là chỉ đi loanh quang trong
điện Lateran thôi mà các ngài cũng phải sử dụng các đội ngũ an
ninh cảnh sát để bảo vệ để đề phòng có người mưu hại các ngài.
Nếu đi tham quan ở một nơi nào ngoài Vatican dù là trong nội địa
nước Ý hay ở nước ngòai, thì ngoài những binh đòan cảnh sát, an
ninh, mật vụ bao vây để bảo vệ, các ngài còn phải sử dụng chiếc
Popemobile để ẩn mình trong đó thì các ngài mới bớt lo sợ. Dù là
đã đề phòng chu đáo kỹ lưỡng như vậy, Giáo Hoàng John Paul II
(1978-2005) cũng vẫn bị một tín đồ Hồi giáo tên là Mehmet Ali
Aga bắn trọng thương vào ngày 13/5/1981, và đương kim Giáo Hoàng
Benedict XVI cũng đã bị một giáo dân là cô Susanna Maiolo, 25
tuổi lao vào quật ngã xuống mặt đường vào gần nửa đêm ngày
24/12/2009 trong khi đang di chuyển để nơi làm lễ ơ Nhà Thở
Peter (Rome). Đúng là “thiên võng khôi, sơ nhi bất lậu.” (Lưới
trời thưa mà khó lọt).
NHẬN XÉT
Vấn đề 1:
Ai cũng phải công nhận
rằng, những người làm chính trị và các nhà lãnh đạo chính trị
luôn luôn là phải đối đầu với sự nguy hiểm do những thế lực đối
lập hay thù địch chủ mưu, nhưng đối với các nhà lãnh đạo tôn
giáo thì không có vấn đề này. Xin tạm gọi đó là một quy luật
lịch sử. Ấy thế mà cái quy luật này lại không đúng với Giáo Hội
La Mã, cho nên mới có những cá nhân hay thế lực mưu hại các ngài
và các ngài mới phải đề phong chú đáo như đã nói ở trên. Điểm
đặc biệt là những vụ mưu hai các ngài lại không phải là những cá
nhân hay thế lực thù địch về chính trị hay về tôn giáo mà là do
chính những tín đồ Thiên Chúa Giáo chủ mưu và thực hiện. Vậy thì
tõ ràng là có những vấn đề khúc mắc, mờ ám ghê gớm lắm trong
Giáo Hội La Mã khiến cho người đời sinh lòng oán hận, căm tức và
thù ghét cho nên mới nên nông nỗi như vậy.
Lời giải đáp cho vấn đề này là những
người hành nghề tôn giáo và lãnh đạo cao cấp của Giáo Hội La Mã
không phải là một nhà tôn giáo thuần túy hay lãnh đạo tôn giáo
thuần túy như chính họ thường cao ra Thực sự, họ chỉ là một tập
đoàn thày cúng. Vì cùng có những ý đồ bất chính mà họ tụ lại với
nhau giống như một băng đảng theo đuổi những tham vọng bất
minh, bất chính nặng tính cách gian dối, tham tàn, bạo ngược tụ
lại với nhau thành một băng đảng ăn cướp như băng đảng Bình
Xuyên ở Việt Nam từ đầu thậ niên 1940 cho đến giữa năm 1955. Họ
là những tên cáo già có rất nhiều thủ đoạn để phỉnh gạt và lừa
bịp người đời. Một trong những thủ đoạn này là mượn danh xưng
tôn giáo (gọi là Giáo Hội La Mã hay đạo Ki-tô) và tự khoác vào
mình cái danh nghĩa là các nhà tu hành để làm bức bình phong
che đậy những ý đồ bất chính và việc làm tội ác của họ.
Biết rõ sự thực này ghê tởm này không ai
khác hơn là chính những người trong Giáo Hội La Mã và các nhà
sử học. Cũng vì thế những người chủ trương và hành động mưu hại
các ngài cũng như những người tố cáo tội ác của các ngài đều
là những tín đồ hay tu sĩ trong Giáo Hội La Mã và các nhà sử
học. Bằng chứng là trong những làn sóng tố cáo tội ấu dâm của
các ngài trong mấy năm vừa qua cũng như mấy tuần lễ gần đây đều
là người trong trong giáo hội và cũng là nạn nhân của các ngài
cả.
Vấn đề 2:
Chúng ta đặt ra vấn đề
là TẠI SAO cả hai Giáo Hoàng John Paul II và Giáo Hoàng Benedict
XVI đều không có cái dũng của kẻ sĩ hay của một nhà lãnh đạo
tinh thần giống như Đức Lạt Lai Lạt Ma hay giống như các nhà
lãnh đạo chính trị như các ông Mikhail Gobachev, ông Nguyễn Minh
Triết và ông Nguyễn Tấn Dũng?
Chúng tôi xin nhường lời cho độc giả tìm
ra giải đáp cho câu hỏi này.
CHÚ THÍCH
[1] J.E. Boshier, The
French Revolution (New York: W. W Norton & Company, 1988), p
155.
[2] Xin xem Thư Gửi
Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt của tác giả Nguyễn Mạnh Quang.
Nguồn: https://sachhiem.net/NMQ/NMQ009.php
[3]
Nguồn:
www.thaivisa.com/.../Buddhism-Wins-Religion-World-Awa-t280783.html[