Trích "Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam" nxb. Hương Quê 1988
Phần II: "CHÍNH SÁCH THỰC DÂN và CHÍNH SÁCH CỦA CÁC VỊ TRUYỀN GIÁO TẠI BẮC KỲ-
(MT đánh máy gửi SH).
Chúng ta đã thấy năm 1873, nước
Pháp phải chọn một trong ba giải pháp sau đây :
1- Xâm lăng Bắc kỳ và toàn thể
Trung kỳ nữa, rồi đem ghép vào thuộc địa hiện có là Nam kỳ hay đem làm một
thuộc địa riêng .
2- Lật đổ vua hiện tại và thay
thế bằng một kẻ trung thành hơn với quyền lợi của Pháp, kẻ đó hoặc ở trong
đám con cháu nhà Lê, hoặc ở đâu đó cũng được.
3- Vẫn giữ vua hiện tại trên
ngôi và chỉ lập nền bảo hộ thôi.
Giải pháp đầu đã bị Paris cương
quyết bác bỏ vì xâm lăng Bắc kỳ và Trung kỳ để làm thuộc địa không phải là
một hành động quân sự quá khó, nhưng giữ nó, cai trị nó, thuộc địa hóa nó,
thật ngoài sức của người Pháp. Ngoài ra, giải pháp nầy còn dẫn đến các khó
khăn với những nước khác.
Giải pháp thứ nhì được các giám
mục muốn và xúi gịuc hết sức, cũng không kém nguy hiểm và bất tiện hơn sự
xâm lăng trực tiếp. Muốn duy trì một ông vua do Pháp lựa chọn, muốn mọi
người nhận sự uy quyền của ông vua nầy, cũng phải cần nhiều cố gắng ,
không ít binh sĩ và chiến trận hơn nếu so với việc duy trì một chính phủ
trực tiếp, và nguy cơ việc Tự Đức kêu gọi ngoại quốc can thiệp thì cũng thế.
Mặt khác, những kẻ chủ trương phương thức hành động đó đã tìm ra một kẻ
nào lên ngôi mà có được đảm bảo được lòng dân, mềm mỏng, thiện chí đầy đủ
khiến cho có thể vì danh giá, quyền lợi y mà nuớc Pháp có thể lao mình vào
một cuộc phiêu lưu to tát như thế ? Dòng họ nhà Lê ở đâu ? Con cháu họ có
những gì giá trị ? Đâu là bằng chứng dòng dõi chính thống của họ ?
Vì việc xâm lăng trực tiếp, cũng
tạo nên một vương quốc chư hầu của Pháp không mang lại đủ lợi lộc để bù vào
các nguy hiểm của một hành động như thế cũng như để bù lại các phí tổn về
nhân lực và tài sản do hành động đó mang lại, Pháp đã nghỉ đến giải pháp
thứ ba . Nhưng nó không đi đến cùng vì Dupré không theo kìp tình thế, bị
đào thải rõ rệt, lại vội phải kết thúc vấn đề, bị bắt buộc phải bỏ danh từ
“Bảo Hộ” thay bằng danh từ “Bảo Vệ” quá mơ hố (điều 3) . Do đó, mà có một
tình trạng mơ hồ trong các tương quan giữa Pháp và Việt nam, Việt nam không
hoàn toàn tự chủ cũng không hoàn toàn nô lệ Pháp.
Què quặt ngay khi mới sinh, hiệp
ước 1874 là cái đích của những lờ ichỉ trích nghiêm khắc, đòi xét lại bằng
sự công bằng, nhận rõ ràng nền bảo hộ đích thực qua một hiệp ước mới.
Đâu là diển tiến từ “Bảo vệ” qua
“Bảo Hộ” ?
I-
CHÍNH SÁCH PHÁP ĐỐI VỚI TRIỀU ĐÌNH HUẾ SAU HIỆP ƯỚC 1874
Cũng như sau hiệp ước 1862, có
vụ xâm lăng toàn thể Nam kỳ 1867, người Pháp sau hiệp ước 1874 cần nghỉ
ngơi và yên tỉnh, những người thay thế Dupré, cố gắng, ít nhất thì cũng bề
ngoài, “quên” Bắc kỳ đi. Sau hiệp ước buôn bán ký vội vã trong chuyến đi quá
ngắn ngủi của Đô đốc Krantz, Dupré, từng làm Thống đốc trong ba năm không
còn được ai biết nếu tên tuổi y không gắn liền với việc đào kinh rạch qua
đầm lầy Nam kỳ. Người ta bắt đầu lại nói đến hòa bình, đến tình hữu nghị bất
chấp các khó khăn to lớn do vấn đề Thiên Chúa giáo gây nên.
Dĩ nhiên, những kẻ truyền đạo
không muốn có sự hòa dịu giữa người Pháp và người Việt. Họ cố gắng thuyết
phục người Pháp rằng chúng đã sa vào cạm bẩy do chính triều đình Huế dăng ra
khi ngây thơ tin vào những lời hứa hẹn đó. Họ quả quyết rằng triều đình Huế
là chuyên viên về “chính sách Đạo đức giả” , vì vừa ký hiệp ước lại vừa ra
lệnh cho các quan và các nhà nho nổi dậy chống con chiên và người Pháp.[1].
Vì thế những cuộc “tàn sát” con chiên tại Bắc kỳ năm 1873 và ở Nghệ An năm
1874, Triều đình Huế và nhóm Văn Thân đã hợp tác cũng như các vụ khởi nghĩa
ở Nam kỳ đều do vua Tự Đức âm mưu và lãnh đạo. Không những các quan không
làn gì để bắt các nhà Nho mà họ còn thúc đẩy hành động gấp để người Pháp
không có thì giờ can thiệp.[2]
Giám mục Puginier tố cáo “chính sách xão quyệt” đó của triều đình Huế trong
những bức thư dài gửi Thống đốc Sài gòn cũng như cho Công sứ HàNội , y
khuyến cáo Thống đốc Sai gon: “ Thưa Đô đốc. Tôi yêu cầu Ngài đừng để chính
sách xão quyệt đó đánh lừa và đừng tin vào bề ngoài tử tế của triều đình Huế
đối với Ngài, vì họ sẽ làm cho ngài vừa y chút đỉnh về các đòi hỏi chính
đáng của ngài ; không phải chỉ ngày hôm nay họ mới biết dùng mưu mẹo và dối
trá để che đậy chính sách thù nghịch của họ…”[3]
và ông ta nói với Công sứ Hà Nội : “Tôi nói với ngài, nói chung, các quan và
các nhà Nho đều là những kẻ thù của ngài cũng như của chúng tôi. Hận thù
không phải bắt đầu từ các biến cố mới đây, đúng vậy, nó được phát triển
nhưng knông phải được sinh ra. Họ biết các con chiên yêu nước Pháp và họ
muốn tận diệt đi. Dù họ thấy các con chiên gần như không nhận được sự cứu
nguy trong khi đau khổ, họ vẫn tin niềm tin sâu xa rằng những tín đồ tân
tong của chúng tôi vẫn còn kính yêu và sẽ mãi mãi kính yêu người Pháp, bởi
vì các dây ràng buộc họ với người Pháp là các dây thiêng liêng. Đó là nguyên
nhân chính của lòng căm thù và cái gút thật sự của chính sách họ là cứ tiếp
tục làm suy yếu con chiên, nếu không muốn nói là tiêu diệt. Mục đích của họ
là cướp mất đi số bạn bè đông đảo của nước Pháp và trung rthành càng ảnh
hưởng mà nước Pháp đã thực hiện từ lâu ở vương quốc An Nam.”[4]
Các kẻ truyền đạo được Rheinart
ủng hộ hoàn toàn và theo ý kiến của chính Krantz, Rheinart chịu ảnh hưởng
“một ít” của giám mục Puginier và các con chiên.[5].
Viên công chức cao cấp nầy gửi rất nhiều báo cáo cho Krantz và Dupré, lúc
nào y cũng dăn chừng hai người nầy đề phòng những “hành động” của triều đình
Huế và các quan, y buộc tội họ thông đồng với những nhà Nho, thiếu thiện chí
và xão quyệt.
“Một bộ phận quan lại lúc nào
cũng thù ghét chúng ta, trong bọn họ có những viên chức cao cấp, những quan
đó tin tưởng vào đường lối xão quyệt, gian ý cổ truyền, họ không từ bỏ hy
vọng đánh lừa chúng ta. Họ bị buộc phải thương thuyết, nếu họ không thể
không ký hiệp ước, tôikhông tin rằng họ có sẳn thiện chí thi hành. Vì thế có
lẽ nên cẩn thận đoán trước những khó khăn tương lai và hãy chiếm đi một vài
địa điểm bảo đảm…”[6]
“Đói hỏi, trưng bày, phản đối
không có nghĩa lý gì trong hoàn cảnh hiện giờ của chúng ta …Trong sự kiêu
ngạo, trong sự mù quáng, kẻ thù hy vọng sẽ thắng chúng ta bằng xão quyệt và
bằng số đông. Nên nghỉ rằng họ đang buộc chúng ta làm cho họ sáng mắt ra,
khi chúng ta đè bẹp họ một cách không thương tiếc, họ sẽ bắt đầu tôn trọng
những hiệp ước và các lời cam kết”[7]
Khi khuyên cáo chính sách sức mạnh, Rheinart đã biện hộ cho ý tưởng của giám
mục Puginier, kẻ đã không ngừng chủ trương giải pháp quân sự, cho đó là giải
pháp duy nhất để kết thúc vấn đề Việt Nam.[8]Người
ta tưởng như giám mục đọc báo cáo của Rheinart.
“…Mọi liên minh với chính phủ
nầy đều không thể làm được …mọi hiệp ước ký với Tự Đức đều hư ảo; vì lợi ích
của mọi người, chúng ta phải đi tìm một đồng minh khác để thay thế và rất có
thể ông ta buộc chúng ta phải làm việc đó …”[9]
“…Dù chúng ta có muốn kết thúc
việc làm tại Bắc kỳ mà không phải tăng viện, không phải chinh phạt, rồi
chúng ta cũng sắp bị lôi kéo và dấn mình vào một cuộc chiến đấu thật sự.
Chúng ta phải chuẩn bị không chậm trể để kết liểu mau chóng hơn, Cũng không
được thỏa mãn với kết quả nửa vời, và vì họ buộc chúng ta phải chiến
đấu,chúng ta phải nghiền nát kẻ thù đến độ đừng để chúng còn ước mơ gì đến
những cố gắng tương tự…”[10]
Nhưng cả Krantz ,Dupré và ngay
chính phủ Pháp, không ai để mặc tình cho Rheinart lôi kéo.
Để đề phòng các hậu quả nguy
hiểm mà một thái độ hiếu chiến có thể đưa đến, Krantz không ngừng dặn bảo
Rheinart không được từ bỏ đường lối “tuyệt đối hòa bình” đừng gây gổ với
chính phủ Việt nam , bất cứ giá nào và dù trong thời gian ngắn ngủi, ít nhất
là bề ngoài, hoàn toàn hòa thuận với “chính quyền hợp pháp” trong nước.
Ngoài ra, y cũng nhắc nhở Rheinart đến lệnh triệt thoái khỏi Hà Nội tất cả
quân đội và cho lên tàu để rút ra Hải Phòng trong trường hợp bị Việt nam tấn
công, chứ không tăng cường lực lượng phòng vệ như tên Giám mục Puginier
khuyến cáo.[11]
Trong một thư gửi cho Viên chỉ
huy tàu “Décrès” được phái đến Bắc kỳ để điều tra tình hình tại đó , Krantz
đã thố lộ mối lo âu sâu sắc của y về việc tranh chấp của một đàng là các kẻ
truyền đạo và Rheinart, và một đàng là nhà cầm quyền Việt nam. Y sợ bị “lôi
kéo bởi những ý kiến chính trị riêng tư và nghỉ rằng chính phủ Pháp nghỉ đến
việc lại xen vào vào chính sách nội trị của nước An Nam và thiên về phe nầy
hay phe kia của dân chúng. Ông Rheinart dễ bị lôi kéo can thiệp, không cần
thiết tí nào vào những vấn đề xâu xé xứ Bắc kỳ và đi từ thế thủ sang thế
công .”[12]
Y căn dặn phái viên của y nói cho những giám mục tại bắc kỳ hiểu rằng họ
phải hành động hết sức dè dặt và ngăn cản tín đồ họ làm loạn để chống lại
triều đình Huế.[13]
Chính sách của Krantz tóm lược
như sau :
“Thế thủ tích cực ; cương quyết
chống lại mọi sự gây hấnbất cứ từ đâu đến. Giữ liên hệ với giới chức Việt
nam đến cùng, dù gặp những hành vi xấu vẫn không chủ động tấn công. Nếu s75
việc xảy ra, phải nghiêm khắc nói với họ rằng bổn phận chính phủ An Nam (?)
là không được dung tha thái độ mập mờ, nhưng đừng đi xa hơn nữa, chừng nào
mà chính phủ nầy không công khai làm bậy chống lại chúng ta.”[14]
Muốn đứng vững trên lập trường
đó, điều kiện chính yếu là Krantz khuyến cáo đề phòng – “chống lại những
người đến nói với ông là họ có đằng sau một phần dân chúng và ép các viên
chức An Nam phải dùng biện pháp nầy, biện pháp nọ rất dễ dàng. Nếu để buông
thả theo các lời đề nghị loại đó thì người ta làm hại dân chúng và đặt cả
danh dự cùng tiền bạc đất nước vào đó mà thường thì không có mấy may mắn
được thành công và có lợi,”[15]
Những người đó hoàn toàn có lợi
khi thúc đẩy người Pháp can thiệp vào Bắc kỳ, họ “đón rình mọi tiếng đồn và
nhất là các tiếng đồn cho thấy các kế hoạch thù nghịch chúng ta; có lẽ xa
vời với sự kiện, họ phóng đại chúng lên khi báo cáo với Rheinart là người ít
bị đe dọa hơn họ tưởng”[16]
Bằng những lời lẽ đó, Krantz
cương quyết chống lại ý kiến Rheinart. Theo y, triều đình Tự Đức không hề
đồng lỏa với Văn Thân; trái lại, họ cố gắng thực sự để bình định Bắc kỳ và
Nghệ An[17]Vì
lòng thành thật của Huế quá hiển nhiên nên không có vấn đề hành quân trừng
trị ở Nghệ An hay ủng hộ một kẻ nào đó muốn làm vua ở Bắc kỳ vốn là hai giải
pháp mà Rheinart nhiều lần đề nghị. Trái lại phải ủng hộ Tự Đức chống lại
những ai muốn lệt đổ ông ta. Chính trong mục đích đó mà Krantz ra lệnh cho
Thiếu tá Dujardin đàn áp thẳng tay cuộc nổi loạn ở Hải Dương hồi tháng 7
-1874.
Lúc đó ở Hải Dương có nhiều nhóm
được thành lập do những người gọi là con cháu nhà Lê cầm đầu và muốn lập Bắc
kỳ độc lập. Các tên nầy đa số là con chiên, nói rằng chúng được nước Pháp
ủng hộ hoàn toàn. Được Tổng đốc hải Dương yêu cầu can thiệp, Thiếu ta
Dujardin ra lệnh dán khắp tỉnh các tuyên ngôn yêu cầu nhân dân đừng nghe lời
những tên làm loạn, và ra lệnh cho bọn nầy phải tránh xa nếu không sẽ bị
pháo hạm Pháp bắn.[18]
Khi báo cáo việc nầy lên Bộ
trưởng, Krantz viết “Tôi tán thành tất cả những gì mà thiếu tá Dujardin đã
làm, ông theo hết sức đúng các chỉ thị mà ông nhận được. Chúng ta không thể
để người ta tin rằng trong lúc chúng ta ký với nước An nam các hiệp ước hòa
bình và buôn bán, trong lúc chúng ta hứa giúp đở và viện trợ họ chống lại
những kẻ làm loạn và trộm cướp, chúng ta lại đi cấu kết với những kẻ muốn
tách rời Bắc kỳ ra khỏi An nam.”[19]
Bốn chục năm sau, tờ báo của
những kẻ truyền đạo, tờ ‘Avenir du Tonkin’ khi bình luận biến cố nầy đã chỉ
trích nghiêm khắc Krantz và Dujardin khi bỏ mặc “bạn bè cho sự trả thù khốc
liệt của quan lại”. Hai người nầy đã phạm lỗi lầm, theo tờ báo nầy, là “các
tội ác chính trị mà lương tâm không thể tha thứ được, những lỗi lầm không
thể dung tha được.”[20]
Đô đốc Dupré(1875-1877) và La
Font (1877-1879) nối tiếp Krantz làm thống đốc Nam kỳ, cũng theo đường lối
đó đối với triều đình huế, Giám mục Puginier đã phí công đích thân đến Sài
gòn để bàn trực tiếp với Dupré, Dupré vẫn cương quyết không can thiệp vào
những vấn đề nội bộ Bắc kỳ. Dupré viết cho Bộ trưởng : “Những lần nói chuyện
của tôi với giám mục đó trước khi ông rời sài gòn, không thay đổi lòng tin
của tôi, vì thế tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét của tôi đã trình bày với
ngài, dù vị giám mục nầy đã khổ công khuyến cáo hãy bỏ đi chính nghĩa đã tạo
được tại nước Pháp nhiều cảm tình dân chúng khi theo một đường lốimà những
người khen Garnier là anh hùng đang bị kết án, những người nầy không biết
được những khó khăn của tình thế mà viên sĩ quan khốn nạn đó đã để lại cho
chúng ta.”[21]
Giám mục Gauthier cũng không
thay đổi được ý kiến của Dupré :
“Chắc chắn tôi sẽ không làm vui
lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được dù lòng nhiệt thành của ngài đã lên
đến cực độ và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy rằng thật quá nguy hiểm
khi chấp nhận những lời nhận xét của giám mục.”[22]
Đối với La Font, nếu cần buộc
triều đình huế phải tôn trọng tỉ mỉ các cam kết đối với nnhữg kẻ truyền đạo
và con chiên, đồng thời cũng cần giữ những người nầy trong giới hạn các
quyền mà hiệp ước đã cho họ. Một ví dụ : Thói quen của các kẻ truyền đạo là
muốn dựng lên những giáo khu ở các trung tâm riêng biệt để chăm sóc không
những quyền lợi tinh thần mà còn quyền lợi vật chất nữa. Tình thế nầy đã bảo
đảm cho họ một phương tiện tuyên truyền mạnh mẽ đối với số dân chúng có phần
dửng dưng với tôn giáo và đôi khi họ đang nằm trong sự sinh sát của các quan
. Trong mục đích đó, giám mục Puginier, yêu cầuLa Font can thiệp với chính
phủ Việt nam để họ thừa nhận để các kẻ truyền đạo có quyền khiếu nại thay
cho con chiên trước những giới chức địa phương và cả trước triều đình nữa,
đồng thời nhác họ tôn trọng đúng lúc, đúng chổ hiệp ước đã ký kết. La Font
bác thỉnh cầu nầy, mà theo y, nó nhằm không gì hơn là giao cho những kẻ
truyền đạo một vai trò chính trị và tạo cho con chiên một hoàn cảnh đặc biệt
mà kết quả trực tiếp là khiến họ thoát ra ngoài vòng hành động trực tiếp của
chính quyền cùng các thẩm phán tự nhiên của họ.[23]
Chính phủ Pháp tán thành thái độ
của các Đô đốc tại Nam kỳ và khuyên họ cương quyết duy trì đường lối đó.
Theo viên Bộ trưởng hải Quân, quyền lợi của Pháp không nằm trong sự ủng hộ
những ý tưởng phân ly của giám mục Puginier cùng các bạn của ông ta
[24],
cáccông việc đó làm cho triều đình Huế phải ở trong tư thế thực thi những
điều khoản họ đã ký kết, trong khi vẫn rút tỉa được lợi lộc do tình trạng ở
Bắc Kỳ mang lại. Để làm
công việc ấy, nên vẫn theo viên Bộ trưởng Hải quân, quan sát kỹ lưỡng diễn
tiến những biến cố trong nước, hiểu biết rạch ròi các phe nhóm tranh quyền,
đánh giá sức mạnh cùng cân nhắc phần sẽ mang thắng lợi lại cho họ, và khi mà
địa vị Tự Đức quá tồi tệ thì cho ông ta thấy xa xa khả năng ủng hộ của nước
Phápgiúp ông ta dựng lại quyền bính đã quá lung lay. Dĩ nhiên điều quan
trọng là phải làm thế nào làm cho Tự Đức phải đứng ra xin giúp đở, vì rằng
lúc đó người Pháp sẽ ở vào tư thế tốt hơn để ra điều kiện và quy định các
bảo đảm mong muốn. Ví dụ, người Pháp sẽ đòi Tự Đức, để đổi lấy sự ủng hộ của
họ, chịu trả những phí tổn hành quân bằng cách giao quyền thuế quan vào tay
người Pháp, và bảo đảm những quyền lợi buôn bán bằng các cách hữu hiệu hơn,
ví dụ lập những công sứ và chiếm đóng những điểm chiến lược.[25]
Làm thế, nước Pháp sẽ có tư cách
can thiệp trực tiếp hơn vào các vấn đề Bắc kỳ, nhưng khác với cách Giám mục
Puginier đề nghị, sự can thiệp nầy hợp pháp vì chính do Tự Đức yêu cầu. Cách
hành động đó là cách duy nhất phù hợp với quyền lợi Pháp vì nếu làm khác đi,
nước Pháp sẽ không rút ra được lợi lộc gì trong một hiệp ước có mục đích lập
các “liên lạc mật thiết” hơn giữa hai nước.
Thái độ của viên Bộ trưởng Ngoại
Giao lại còn ôn hòa, hòa hoản hơn. Được viên Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa
yêu cầu cho biết ý kiến về đề nghị của Dupré, theo đề nghị nầy nước Pháp
phải cương quyết lựa chọn giữa hai việc : xâm lược và bỏ hẳn Bắc kỳ.[26]
mọi giải pháp khác đều không thể làm được. Qu’ai D’Orsay đã mạnh mẽ khuyến
cáo giữ nguyên tình trạng hiện thời và giữ thái độ ôn hòa trong những liên
lạc với Huế : “Tôi nghỉ rằng chúng ta phải giữ nguyên trong vị trí hiện thời
đối với chính phủ nước ngoài cũng như đối với chính phủ An Nam, trừ ra,
trong thực tế nếu cần, thì nên làm dịu bớt và thay đổi cả thái độ viên chức
của chúng ta để ngăn chận chững vụ tranh chấp, và tránh đi những hy sinh mới
bằng cách tự chế, bảo vệ tình trạng chúng ta hiện giờ. Đứng trên quan điểm
có các liên lạc sau nầy của chúng ta với nước An Nam cũng như quyền lợi
chúng ta trong những xứ viễn đông. Tôi không nghi ngờ gì nữa nhờ được ngài
sai sáng cho, Pho Đô đốc La Font sẽ tránh được những chướng ngại nguy hiểm
mà tình thế hiện giờ cho thấy, và có thể đứng ngay tại có khoảng cách bằng
nhau giữa các quyết định có thể đẩy chúng ta vào các hành động quá xa với
lòng chúng ta muốn và những quyết định từ bỏ mà chính sự dè dặt cũng khuyên
chúng ta chớ làm.”[27]
Thế là người ta giữ nguyên trạng
. Nhưng tình thế do hiệp ước 1874 gây nên càng lúc càng khó khăn cho người
Pháp. Viên Khâm sứ tại Huế không được hội kiến riêng với vua dù y một mực
yêu cầu. Trộm cướp vẫn không bị dẹp yên . Sông Hồng bị bỏ mặc cho giặc cờ
đen và cờ vàng. Những sở thuế quan làm việc kém cõi, Buôn bán chỉ là con số
0 . Tóm lại giao hoàn một cách chân thật cho người chủ chính đáng của nó,
Bắc kỳ không mang lại gì , hay gần như không mang lại gì cho nước Pháp.
Tình trạng đó không thể kéo dài.
Thật vậy, ngay từ năm 1879, ý muốn bành trướng của Pháp hình như lằng nhằng
kể từ khi hiệp ước được ký kết, đã thức tỉnh và việc dòm ngó thuộc địa lại
xuất hiện.
II - VẤN ĐỀ BẮC KỲ NỔI DẬY
1-
SỰ CẦN THIẾT CỦA CHẾ ĐỘ BẢO HỘ :
Trong những chỉ thị gửi vào năm
1879 cho viên Thống đốc dân sự đầu tiên là Le Myre de Villers . Khi tên nầy
sắp nắm quyền cai trị tại Nam kỳ , Viên Bộ trưởng hải quân và Thuộc địa đặc
biệt lưu ý viên công chức cao cấp nầy về tình trạng mập mờ của Pháp tại bắc
kỳ và về những phương pháp trị liệu to tát một tình thế đang có cơ trở thành
nguy hại cho quyền lợi cũng như uy tín nước pháp. Ngay trong báo cáo đầu
tiên, viên Thống đốc mới đã nhấn mạnh đến một giải pháp tức thời và hữu hiệu
để chấm dứt các khó khăn cứ sinh sôi mãi không ngừng, và đặt chính phủ Pháp
trước sự lựa chọn sau đây : “Hoặc thành lập thẳng thắng và rõ ràng chế độ
bảo hộ ở Bắc kỳ hoặc thu gọn hành động chúng ta và những chế độ lãng sự “.
Cũng như viên Thống đốc nam kỳ,
viên Bộ trưởng Hải quân không còn tin vào khả năng một giải pháp thứ ba.
Thật vậy, các biện pháp chần chờ, các sự lật lừa trước những khó khăn do
hiệp ước mang lại đã, theo ý bộ trưỏng, hoàn toàn thất bại, một đằng, do ý
muốn các giới chức Việt Nam muốn thoát ra khỏi những ràng buộc mà những tác
giả thảo ra bản hiệp ước mong muốn, một đằng, đối với triều đình Huế, nhận
thấy các nước ngoài có chiều hướng theo một thái độ giống như thái độ mà
hiệp ước 1874 đã ấn định là chỉ nhằm dành riêng cho nước Pháp, nhưng họ lại
không chịu trả các phí tổn nếu không muốn nói là ăn ké vào nước Pháp. Hơn
nữa, Vua Tự Đức cố gia sức lập lại ở Bắc kỳ một chính quyền tuy quá yếu kém
nhung vẫn không yêu cầu Pháp can thiệp dù rằng hiệp ứơc có quy định, và
người Tây Ban Nha theo gương người Anh và người Đức tìm cách giao thiệp trực
tiếp với triều đình Huế, thế là trái với hiệp ước vì nó đòi phải có sự trung
gian của Pháp trong các mối giao thiệp giữa triều đình Huế và các nước khác.
Do đâu mà sau gần 5 năm hiệp ước
1874 có thể nói là vô hiệu ? Ly do, viên Bộ trưởng trả lời, hoàn toàn do do
các danh từ mơ hồ của một văn kiện rõ ràng là sửa soạn cho một cuộc bảo hộ,
nhưng tự sự chính sách nầy lại bị bôi bỏ vào phút chót. Người ta hy vọng
rằng những điều mơ hồ đối với hoàn cảnh ấy tránh khỏi các nước lúc đó có
những quyền lợi khác nhìn thấy, và rằng nhờ có lực lượng võ trang chung
quanh, trong thực tế các viên lãnh sự có thể dần dần biến thành các viên
chức thực sự của nước bảo hộ .
Nhưng rũi thay, sự việc không
xảy ra như thế. Ý thức được sự yếu kém của người Pháp, chính phủ Anh là kẻ
đầu tiên không thừa nhận quyền tư pháp đối với những người Âu mà hiệp ước đã
giao cho người Pháp, và sau một cuộc trao đổi văn thư ngoại giao, nước Pháp
chịu nhượng bộ trước đòi hỏi gắt gao của nội các Saint James và công nhận
rằng quyền tư pháp của nhân viên Pháp đối với công dân Anh có tính cách tùy
ý. Nước Đức cũng đưa ra các đòi hỏi tương tự, rồi Tây Ban Nha, chắc chắn là
được hai kinh nghiệm kia khuyến khích, tỏ ý định cương quyết trực tiếp
thương thuyết với Huế. Và rồi chính Tự Đức, để dẹp những loạn lạc ở Bắc kỳ,
thích sự giúp đở của Trung quốc hơn là Pháp mà ông sợ sự can thiệp quá trực
tiếp vào các vấn đề của mình.
Người Pháp hy vọng là loạn lạc
sẽ giúp nước Pháp thiết lập nền bảo hộ hoặc là với sự đồng ý của Tự Đức
trong trường hợp ông kêu cứu nó để thiết lập uy quyền, hoặc là với sự thỏa
thuận của viên chỉ huy quân sự nổi loạn, trong trường hợp Tự Đức bị cướp mất
Bắc kỳ sau khi khước từ sự giúp đở của Pháp.
Nhưng Tự Đức không yêu cầu Pháp
giúp đở, và không một kẻ đầu đảng nổi loạn nào có thể chiến thắng dứt khoát
hay có được khá nhiều uy quyền để lôi kéo người Pháp theo mình, Tình trạng
bất ổn có cơ kéo dài mà nước Pháp lại không thu được lợi lộc gì.
Nhưng mọi chậm trể trong việc
tìm kiếm giải pháp ngày càng làm cho địa vị người Pháp thêm trầm trọng; giao
thiệp giữa họ và triều đình Huế ngày càng khó khăn, và sự bầt lực của Pháp
không còn là điều bí mật đối với các chính phủ Châu Âu, họ bèn gia tăng
những cố gắng để tiêu diệt các nguồn lợi mà nước Pháp thu được trong năm
1874.
Vì thế đã đến lúc Pháp cần có
một biện pháp minh bạch và cương quyết ở Bắc kỳ, Biện pháp nào ? Mọi người
đều đồng ý là cần phải lập chế độ bảo hộ. Nhưng làm sao đây ? Bằng phương
tiện gì ?
Hai tư tưởng chống đối nhau :
một ý thì khuyên dùng sức mạnh, ý khác thì khuyên ký một hiệp ước bổ túc.
Jauréguiberry chủ trương ý kiến
đầu. Theo y, để can thiệp bằng vũ lực ở Bắc kỳ trước hết nên thúc bách Tự
Đức lập lại trật tự trong vùng và giải tán quân cờ đen và cờ vàng đang ngăn
chận lưu thông trên sông Hồng. Trong trường hợp sự bất lực của ông bị phơi
bày, giới chức Pháp cho ông biết rõ ý định hành động trực tiếp theo chiều
hướng đó để bảo vệ quyền lợi buôn bán được quy định trong hiệp ước . Lúc đó
một cuộc chiến tranh trở nên cần thiết để chiếm Bắc kỳ cùng ở lại đó trong
mấy năm, cần phải có 3.000 bộ binh và thủy binh, 3.000 lính bản xứ và 12
pháo hạm hay tàu tuần nhỏ.[28]
Viên Bộ Trưởng Ngoại giao
Freycinet hình như sẳn sàng theo giải pháp thứ hai. Điều mà Quai D’Orsay sợ
nhất là viển tượng một cuộc chiến tranh nầy sẽ dẫn đến một sự can thiệp rộng
lớn của Trung Quốc và các binh sĩ của họ sẽ tham chiến tại những vùng Nam
Bắc Bắc Kỳ. Vì thế Freycinet đề nghị chỉ gởi quân đến Bắc kỳ với sự đồng ý
của Tự Đức để họ có thể đóng vai trò vừa là bạn vừa là người giúp đở cho nhà
vua. Nếu làm khác đi người Pháp sẽ co nguy cơ đẩy Tự Đức vào các quyềt định
cực đoan và tuyệt vọng. Không để cho ông được lựa chọn gì và sẽ đưa nguời
Pháp vào các biến cố mà hậu quả tất nhiên là rất bấp bênh.[29]
Con đường hợp lý nhất để đi đến
chế độ bảo hộ,theo Freycinet như sau :
- Cẩn thận tránh xa những gì có
thể gán cho sự can thiệp của Pháp tính cách đó là một vụ xâm lăng thực sự.
- Chỉ trở lại tinh thần các cuộc
thương thuyết trước hiệp định 15-3-1874, nghĩa là minh định rõ ràng và làm
cho triều đình Huế chấp nhận nguyên tắc lập chế độ bảo hộ ở Nam kỳ và Bắc
kỳ.
- Cuối cùng, sau khi thỏa thuận
được trên căn bản nầy rồi sẽ làm chủ vùng đồng bằng sông Hồng, bằng cách
chiếm những địa điểm chiến lược đã được lựa chọn kỹ bằng số quân không nhiều
lắm và phải đồng ý với chính phủ Việt nam trước khi mang quân ra Bắc kỳ.[30]
Sự dè dặt của Quai D’Orsay đã
giảm đà hăng hái của Bộ trưởng Hải Quân. Thay đổi ý kiến vừa mới trình bày,
Jauréguiberry bào chửa rằng mình không muốn chiếm Bắc kỳ hay tách rời nó ra
khỏi An Nam, đề nghị của y, y nói, chỉ nhằm bảo đảm sự thi hành sít sao bản
hiệp ước và buộc phải “ xác định rỏ hơn địa vị tương đối của hai bên ký
kết”. Muốn đạt mục đích đó, chỉ cần thương thuyết với Huế về một hiệp ước
mới có ghi rõ ràng danh từ Bảo Hộ. Nếu cần, các cuộc thương thuyết đó sẽ
được trợ lực bằng các cuộc biểu dương lực lượng khá hùng hậu để mau chóng đi
đến kết quả thuận lợi, nhưng sự biểu dương sẽ không được ggiống tí nào với
một hành động xâm lăng.[31]
Hội đồng Bộ trưởng tán thành đề
nghị ôn hòa nầy của Jauréguiberry và thông qua số tiền cần thiết để thực
hiện.
Bất ngờ, vào tháng 7 lập trường
của Bộ ngoại giao thay đổi hoàn toàn. Qua văn thư Mật trả lời cho Bộ trưởng
hải quân ngày 26-7-1880 Fraycinet đã nhìn thẳng đến giải pháp chiếm đóng mà
nhiều lần Quai D’Orsay bác bỏ :
“ Sau khi nghiên cứu các tài
liêu mới về Bắc kỳ,[32]
tôi tin rằng đề nghị đầu tiên của ngài ođ2i chiếm đóng xứ nầy xác đáng hơn
là đề nghị một cuộc giám sát thuần túy các cửa sông nầt mà hội đồng Bộ
trưởng đã tán thành và đã thông qua một số tiền bổ túc như ngài đã biết.
Theo tôi, cần phải trở về ý kiến một cuộc chinh phạt thật sự đưa đến sự
chiếm đóng vững chắc con sông cho đến tận phần phía trên. Theo các chứng cớ
mới đây người ta gởi cho tôi, 3.000 người là đủ và chúng sẽ được bồi hoàn
rộng rãi bằng số thu hoạch thuế quan trên các cảng buôn bán của các con
sông. Có lẽ không có rắc rối gì về phía Trung Quốc, chắc họ lại càng vui
lòng thấy có người chia sớt bớt phần giám sát khi có khi không như hiện nay
trên các cửa sông để bảo vệ việc buôn bán của họ ở Quảng Đông. Sau cùng,
nước Đức cho tôi biết rằng họ không ganh tị gì khi thấy chúng ta thống trị
Bắc kỳ. Đồng nghiệp thân mến, trong tình cảnh đó, tôi nghỉ là nên chuẩn bị
một dự luật để thay thế cho khoản tiền bổ túc nói trên, và trong đó chúng ta
đề cập thẳng đến ý kiến chiếm sông Hồng.”[33]
Tại Huế, sau gần 3 năm làm Khâm
sứ, theo lời yêu cầu của y , Philastre được nghỉ việc và Rheinart, người chủ
trương dùng vũ lực, thay thế.[34]
Người ta trách Philastre về “cảm tình khét tiếng của ông đối với giống người
An nam”[35]
và vì thái độ thân thiện của y với triều đình Huế, một thái độ không còn
thích hợp với tình thế mới.
[36]
Việc Philastre ra đi cùng những
tin đồn về một cuộc xuất chinh mới của Pháp làm Tự Đức hết sức lo lắng, Ông
đã tìm cách nói chuyện thẳng với chính phủ Pháp bằng cách cử một phái bộ
sang Paris , nhưng vô ích. Ông cũng có ý định gửi một phái bộ sang Madrid,
một giám mục Tây Ban Nha trong đoàn truyền giáo đã nhiệt thành khuyến cáo dự
định nầyvà còn tiến cử một kẻ truyền đạo làm thông dịch viên. Chúng ta biết
rằng từ lâu, các kẻ truyền đạo Tây ban Nha ganh ghét với sự phát triển thế
lực Pháp ở Bắc kỳ, là nơi mà họ có quá nữa số con chiên. Phái bộ nầy cũng sẽ
đến các thủ đô khác, rồi đến Nhật . Viên trưởng phái đoàn chính là thượng
thư Ngoại giao, có viên cựu lãnh sự ở Sài Gòn và một viên thông dịch cùng
đi. Vì các biến cố dồn dập ở Bắc kỳ, mà kế hoạch ngoại giao to lớn đó phải
đình hoản.
Vì thế Tự Đức lại hướng về Trung
Quốc và năm 1880 lại nộp đồ cống tại Bắc kinh như trước, việc nầy trong lúc
bình thường chỉ phải làm tại Nam kinh ở bên kia biên giới để giao cho đại
diện vua Trung quốc, cử chỉ nầy dù hoàn toàn phù hợp với hiệp ước 1874, vẫn
liền bị giới chức Pháp cho là “hành vi bội tín” .
Đó là giai đoạn các bộ trưởng
Pháp trao đổi văn thư để chuẩn bị chiếm Bắc kỳ bằng vũ lực. Bộ trưởng và
Thống đốc tìm cách buộc tội tối đa triều đình Huế để chờ khi giờ đã điểm thì
tuyên bố là bị bắt buộc phải chiếm giữ Bắc kỳ . Chúng không ngừng nghỉ rên
rỉ về “số phận buồn tủi của Bắc kỳ” bước “phụ thuộc của An Nam “ mà dân
chúng “rên siết dưới ách thống trị ngột ngạt” đã từ lâu chờ đợi “một cuộc
chinh phạt để giải thoát họ ra khỏi các tên đàn áp bóc lột người An nam .”
2-
CUỘC XUẤT CHINH CỦA HENRY RIVIÈRE :
Từ 1879, vấn đề chế độ chính trị
được giải quyết ngay tại Pháp và những phần tử cộng hòa, ôn hòa, những “kẻ
tùy thời” nắm quyền. Vì nguồn gốc xã hội xuất thân họ dính liền với giới nhà
băng và kỹ nghệ, họ sẵn sàng nghe theo giới thương mại, chú trọng đến việc
bành trướng ra nước ngoài.
Trước khi có sự đổi hướng chính
sách của chính phủ Pháp từ năm 1879, đã có một sự thay đổi chính sách tài
chính của một vài nhà băng quan trọng với sáng kiến của “sở tín dụng
Lyon”,từ những năm sau chiến tranh Pháp-Đức, tổ chức nầy đã đầu tư vào các
nước thuộc địa và phụ thuộc. Còn kỷ nghệ Pháp, đang đà tiến mạnh, đòi hỏi
gắt gao các thị trường. Nhưng nhập vào hàng ngũ các nước, lại có thêm các
nước mới : Đức và Mỹ. Các nước nầy để bảo vệ nền kỷ nghệ phôi sinh, đã dựng
lên các hàng rào thuế quan bao quanh.
Chủ nghĩa tư bản đạt đến giai
đoạn chót : giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, xâm chiếm các vùng đất làm độc
quyền. Chính sách mới nầy đã tìm gặp ở nhà lý thuyết Leroy Beaulieu và nhà
thực hành Jule Ferry.
Leroy Beaulieu trong tác phẩm
xuất bản năm 1882 (De la colonization chez les peuples modernes), đã xác
nhận : “Bên cạnh các nước khổng lồ đó (Nga, Đức, các nước Anglo-Saxon,
Trung Hoa) nước Pháp sẽ ra sao ? Một chúa tể đang chết dần, chết mòn. Nhước
chúng ta có một cách thoát khỏi sự suy đồi không phương cứu chữa đó : đi
chiếm thuộc địa. Đi chiếm thuộc địa là một vấn đề sống chết đối với nước
Pháp.”
Tác phẩm nầy đã gây một ấn tượng
mãnh liệt vào một trong các nhà chính trị lên cầm quyền với đà đi lên của
phe cộng hòa : Jule Ferry. Đối với tên nầy –chính sách Pháp đầu tiên mà
đường lối ngoại giao bị sự bành trướng thuộc địa chỉ huy- “chính sách thuộc
địa là con đẻ của chính sách kỷ nghệ, phải làm trồi lên các tầng lợp tiêu
thụ mới, nếu không, xã hội hiện đại phải phá sản.”
Đồng thời cũng xuất hiện trong
tác phẩm (Journal đe Voyages) của y,Dupis và “Lịch sử sự can thiệp Pháp ở
Bắc kỳ từ 1872-1874” của Romanet du Callaud. Cả hai tên đều lệch lạckhi
trình bày các sự kiện thực tế, chúng muốn lôi kéo dư luận chú ý vào sự cần
thiết chiếm Bắc kỳ làm thuộc địa vĩnh viễn. Ý kiến nầy lại được hội Địa lý
nhắc lại, đại hội mở tại Balê năm 1878 đã bày tỏ nguyện vọng là “nước pháp
hãy dùng các biện pháp để bảo đảm việc thi hành hiệp ước 1874” và cũng được
phòng Thương mại dùng tờ báo cổ động cho các lý lẽ đã được đưa ra từ nhiều
năm nay do các phần tử chủ trương xâm lăng.
“Tất cả các vùng của nước Pháp
đều chú trọng đến việc mở thêm thị trường to lớn đó (Bắc kỳ)… Marseille thì
vì hàng hải, Lyon thì vì tơ lụa, Bordeau Nante, Le Havre thì vì sản phẩm
thuộc địa.
Việc chiếm một nhóm mới gần
15.000.000 người tiêu thụ…Các thị trường mà sản phẩm kỹ nghệ chúng ta trao
đổi dễ dàng với nguyên liệu, đáng làm cho chúng ta cố công.
Việc chiếm có tính cách chiến
lược sông Hồng chỉ đáp ứng phần nào ước mơ của nền thương mại Pháp. Cái cần
để góp phần to lớn vào việc diệt trừ khủng hoảng kinh tế, đó là con đường
buôn bán của sông Hồng, đó là toàn thể Bắc kỳ với 15.000.000 dân của nó”[37]
Một “đảng thực dân” thực sự được
tổ chức mạnh mẽ hơn là vào năm 1862-1864 và được Jule Ferry giúp đở, đã mở
một chiến dịch quy mô đòi xét lại hiệp ước 1874, vì cho là thiếu sót. Chính
trong toàn bộ cơ cấu chính trị, kinh tế, tài chánh đó, kế hoạch can thiệp
bằng vũ lực của Pháp thành hình, thêm vào đó các hoạt động của quân cờ đen
cùng sự hiện diện của quân đội Trung Hoa tại Bắc kỳ là những cái cớ đúng
lúc.
Sau khi bị Quốc hội bác bỏ nhiều
lần, lần nầy món tiền do hai bộ Hải quân và Ngoại giao cùng đứng xin được
chấp thuận vào tháng 7-1881.
Lập tức, Đô đốc Cloué, Bộ trưởng
Hải quân trong nội các đầu tiên của Ferry (9.1880 – 11.1881) và Le Myre de
Vilers đang nghỉ phép ở Pháp vạch kế hoạch can thiệp vào Bắc kỳ. Kế hoạch
của chúng không nhằm sự xâm lăng bằng vũ lực, vì bị cho là nguy hiểm, cũng
không nhằm các cuộc thương thuyết mở lối với triều đình Huế, vì bị cho là vô
ích. “Nâng cao uy tín của chính quyền Pháp đã bị những do dự và yếu kém của
chúng ta làm suy giảm , nhưng trước hết, coi chừng không được lao vào các
cuộc phiêu lưu trong cuộc xâm lăng quân sự, đó là mục tiêu mà chúng ta phải
đặt ra cho chính sách của mình ở Bắc kỳ.”[38]
Muốn được chấp nhận, chính sách
đó phải dựa vào một cuộc biểu dương lực lượng không hề có tính chất một hành
động quân sự, nhưng đủ để làm người khác hiểu rằng có những phương tiện để
áp đặt ý muốn mình. Để làm việc đó, kế hoạch đề nghị gửi toàn thể lực lượng
Hải quân hiện trong tay Nam kỳ và một gia tăng thêm một ít lực lượng phòng
vệ Hà Nội và Hải Phòng.[39]
Không để mất thì giờ, Le Myre de Vilers phái chỉ huy trưởng Henry Rivière ra
Hà nội để tăng cường lực lương phòng vệ ở Bắc kỳ lấy cớ là bảo vệ quân đội
Pháp khỏi bị quân cờ đen tấn công bất ngờ. Henry Rivière được lệnh rõ ràng
là phải hết sức tránh quân đội Trung hoa, và uđ72ng gây nên xua động quốc
tế. “chính bằng chính trị, bằng hòa bình, bằng hành chính mà chúng ta mở
rộng và củng cố thế lực của chúng ta ở Bắc kỳ và ở An Nam.” Viện thống đốc
Nam kỳ đã viết cho y như thế.[40]
Để dùng lời lẽ đẹp đẽ của Henry Rivière “chỉ có việc tiến bước tới một sự
kiên nhẫn đầy hòa dịu.”[41]
Sự hiện diện bất ngờ của Henry
Rivière tại Hà Nội ngày 3-4-1882 , với một lực lượng tùy tùng hai đại đội –
trong hiệp ước 1874 chỉ công nhận cho nước Pháp có một số binh sĩ 100 người
là tối đa – đã làm cho chính quyền Việt nam lo ngại, mà lo ngại là phải. Cảm
thấy bị đe dọa, giới chức quân sự Việt Nam chuẩn bị mọi phương tiện phòng vệ
để đề phòng một cuộc tấn công bất ngờ. Ngày 25-4 Henry Rivière đứng ra tuyên
bố : “bị sự chuẩn bị chiến đấu của Việt nam đe dọa” y bèn tấn công và chiếm
giữ thành trì. Tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu tự tử.
Tin chiếm Hà Nội làm Le Myre de
Vilers đặc biệt bối rối vì đòn vũ lực nầy không những làm hỏng kế hoạch
ngoại giao tế nhị của y, mà còn có nguy cơ đánh thức dậy các ý đồ dòm ngó
Việt Nam của nhà Thanh. Thật vậy, trước các ý đồ của Pháp ở Bắc kỳ, nhà
Thanh, để ngăn chận việc Pháp xâm nhập Vân Nam, đã hết sức lưu tâm đến việc
bảo vệ chủ quền giả tạo của họ trên nước láng giềng ở phía nam. Trong mục
đích đó, đã ra lệnh cho sứ giả họ ở Ba lê viết thư và lên tiếng trình bày
với Bộ trưởng Ngoại giao Pháp về các quan điểm, căn cứ vào chủ quyền của họ
ở Việt Nam và đòi quân đội Pháp rút ra khỏi Bắc kỳ.[42]
Về phần mình, Tự Đức xúc động về
tin Hà Nội bị mất, đã nhờ Tổng đốc Quãng Đông cầu cứu với Bắc kinh. Ngày
30-6-1882 Tổng Đốc Vân Nam tuyên bố một đạo quân Trung Hoa sẽ vào Việt Nam
để cùng với quân cờ đen, với sự thỏa thuận của triều đình Huế. Vào tháng 8
một đội tiền phong gồm 400 lính chính quy vượt biên giới tại Lào-kay, dùng
ghe xuôi dòng sông Hồng và đóng tại Tuyên Quang . Việc thâm nhập của các
toán quân khác đông hơn đang tiếp tục kéo sang, không những từ Vân Nam mà
còn từ Quãng tây, chiếm toàn thể tỉnh Lạng sơn, đóng tại Bắc ninh và cả đến
ngoại vi thành phố Hà Nội.
Thế là sự can thiệp của nhà
Thanh mà người Pháp rất sợ đã thực sự xẩy ra dù họ gia tăng đề phòng để
tránh. Với sự can thiệp nầy, chính sách “tằm ăn dâu” của Le Myre de Vilers
bị công kích kịch liệt và vấn đề Bắc kỳ có nguy cơ kết thúc tai hại cho
Pháp.
Phải quy lỗi nầy cho ai ? Theo
viên Thống đốc Nam Kỳ rủi ro, hành động thiếu dè dặt Rivière là nguyên nhân
trực tiếp của tình thế tuyệt vọng nầy. Nhưng còn một nguyên nhân gián tiếpcó
một tầm quan trọng không thể không nhấn mạnh đến, phải tìm nghuyên nhân nầy
trong toàn thể chính sách của Pháp. Thật vậy, việc nhà Thanh can thiệp chỉ
là hậu quả “logic” của chính sách Thiên Chúa giáo, chính sách đó biểu lộ
chân tướng của hành động Phápở Đông Á nước Pháp, theo De Vilers đã có thể dễ
dàng trở thành đồng minh tự nhiên của Trung hoa để chống lại tham vọng đế
quốc của Anh ở Châu Á. Đáng lẽ theo chính sách đồng minh như thế, thì trong
tình thế hiện tại , có thể giúp cho Pháp được dễ dàng trong việc làm ở Bắc
kỳ, trái lại nước Pháp đã làm cho các nước Khổng Giáo nghi ngờ qua chính
sách Thiên Chúa giáođả biến thành lý thuyết quốc gia.
Suy nghĩ về việc Pháp có thể bất
ngờ bị thất bại ở Bắc kỳ , đe Vilers đã tự phê bình :
“Đáng lẽ phải là đông minh tự
nhiên của Thiên quốc, khốn thay, chúng ta lại tự xưng là những tay quán quân
của đạo Thiên Chúa cùng của việc tuyên truyền đạo, là việc mà trong nước
này, chỉ là tuyên truyền làm loạn, và đã xảy ra điều bất thường là, dù dưới
hình thức chính phủ nào, nước Pháp dân chủ lại đi dạy các thuyết duy thần
cho một dân tộc đã đưa nền dân chủ đến chỗ xã thôn tự trị. Ví thế chúng ta
trở thành kẻ thù không những của Thiên quốc mà còn của một dân tộc chân thật
chỉ thấy chúng ta chỉ là những bạn đồng minh và những kẻ che chở. Họ chống
lại bọn du đảng, bọn bi xua đuổi, bọn trộm cướp tức là những kẻ vì không
thuộc giai cấp nào trong gia đình, đất nước, bèn chui rúc, trốn tránh trong
các xứ đạo, một thứ cộng hòa độc lập, mà nhờ sự ủng hộ của chúng ta đã thoát
ra ngoài uy quyền của pháp luật.
Không có một nuớc nào trên thế
giới lại dung thứ cho một tình trạng như thế, tình trạng mà chỉ có một sự tự
do gần như tuyệt đối mà người Châu Á được hưởng trong thôn xã, cũng như sự
yếu đuối của chính phủ trung ương mới biện giải được. Điều nầy thật là quá đúng, khi
đến xứ Nam kỳ để bảo vệ các nhà truyền đạo, hành vi cai trị đầu tiên của
chúng tan gay sau hôm chinh phục là đặt con chiên dưới luật phổ thông và
tước bỏ của các linh mục các quyền hành vô giới hạn mà quan lại An Nam đã
nhường cho họ. Chúng ta quá gắn bó với quá khứ và chúng ta không thể thay
đổi trong một sớm một chiều chính sách chúng ta, không thể dập tắt được mọi
nghi kỵ chính đáng, và trở thành đồng minh với một quốc gia lâu nay chỉ có
oán tách chúng ta. Ngoài ra, địa vị đó đã bị người Đức chiếm lấy, tại bắc
kinh cũng như tại Constantinople, họ thành những cố vấn và những kẻ ký lục
cho chính phủ, mà vẫn giữ gìn không trộn lẫn tôn giáo và chính trị.
“…Một báo cáo mà tôi nghỉ là
chính viên Tổng đốc Quảng tây, cho chúng ta các chỉ dẫn có ích về chính sách
của triều đình Bắc Kinh Điều mà Trung Hoa sợ trước nhất là tiếp giới với một
nước Châu Âu, chính để trì hoãn việc bất ngờ đó mà nó đã đòi chủ quyền khi
nó xem các nước chư hầu như là vòng đai ngăn chận địch hay vùng trung lập.
Nó tiếp nhận tin Nam kỳ bị chiếm một cách dững dưng, tấm đệm còn khá dầy,
việc chiếm Huế không quan trọng lắm, nhưng sự hiện diện của chúng ta tại Bắc
kỳ là một tai họa công khai, vì chúng ta sẽ sát bên Thiên quốc. Khi chúng ta
biết phong tục, tập quán,tổ chức xã hội của các dân tộc da vàng, chúng ta sẽ
thấy những nỗi sợ hãi đó không có gì quá đáng.
“…Trong hoàn cảnh như thế, tốt
nhất có lẽ là nên thỏa thuận với Trung quốc, nhằm tạo nên một vùng phòng
vệ tinh thần trung lập mà nó đánh giá cao để bảo vệ biên giới phía nam
tỉnh Quảng Tây và Đông nam Vân Nam, và chúng ta để mặc cho người Anh thu xếp
lấy biên giới phía Tây.”[43]
Bourée, đại sứ Pháp tại Bắc
kinh, được Balê giao trách nhiệm mở các cuộc thương thuyết với Tsong -Li-
Yamen (Lý hồng Chương ?) để làm ông ta không chú ý đến vấn đề Bắc kỳ. Sau
nhiều cuộc trao đổi ý kiến, viên ngoại giao Pháp, ngày 20-12-1882 , đã thảo
luận với nhà chính trị trung quôc về việc chia cắt Bắc kỳ ma không đếm xỉa
và cũng không cho người chủ, tức nước Việt Nam, là kẻ hửu quan chính biết
đến : nhà Thanh sẽ chiếm tả ngạn sông Hồng, để cho người Pháp chiếm hửu
ngạn.[44]
Nhưng việc phân chia đẹp đẽ
thành hai phần “Bắc kỳ mỏ” và “Bắc kỳ gạo” nầy bị Jule Ferry, tên thực dân
xác tín và Challemel Lacour, bộ trưởng ngoại giao bác bỏ , chúng không chịu
chấp nhận, bất cứ dưới hính thức nào, sự xâm nhập của Trung quốc vào Bắc kỳ,
lại càng không từ bỏ ý đồ đế quốc của chúng ở Việt nam.
Ngay khi thành lập nội các thứ
nhì (21-2-1883) Jule Ferry đánh dấu ý định thay đổi chính sách trước đó bằng
cách cắt đứt các cuộc thương thuyết với Trung hoa, và thay đổi nhân viên
ngoại giao, cùng đi theo một chương trình hành động mạnh mẽ vừa tại Bắc kỳ,
vừa tại bắc Kinh .
Ngày 13-3 Challemel Lacour đã
làm cho thượng viện vỗ tay hoan hô ý chí chính phủ muốn thoát ra khỏi chính
sách thường đổi thay, lừng khừng, từ 20 năm nay. Ngày 26 y đưa ra trước quốc
hội một dự luật cấp một số tiền 5.500.000 để duy trì một đạo quân chiếm đóng
gồm 3.000 lính Pháp, 1.000 lính khố đỏ bản xứ dưới quyền lãnh đạo của một
tổng ủy dân sự của nền Cộng hòa. Ngày 15-5 Quốc hội đã thông qua số tiền
bằng 351 phiếu thuận, 48 phiếu chống. Chỉ còn chờ đợi cuộc đầu phiếu của
Thượng viện, cuộc thảo luận công khai ở Hạ viện, cùng thời hạn điều động
quân lính mà thôi
Giữa lúc đó, Rivière mở một loạt
chiếm giữ ở Bắc kỳ : sau Hà Nội, y chiếm Nam Định, Hải Phòng, mỏ than Hòn
Gay. Người Việt, có quân Cờ Đen đi tiên phong vẫn tiếp tục bao vây Hà nộivà
đêm đêm lại nã đại bác vào nữa.
Ngày 19-5-muốn phá vỡ vòng vây,
Rivière tấn công ra và đã tán thây như Garnier trước kia.
Ngày 27-5 chính phủ Pháp gửicho
đoàn quân viễn chinh một điện tín : “Nước Pháp sẽ trả thù cho các đứa con
oanh liệt của mình” và các lực lượng tăng viện to lớn được phái đến.
III- TỪ HIỆP ƯỚC HARMAND (1883) ĐẾN HIỆP ƯỚC PATENOTRE
Không phải dễ dàng
gì mà Ferry đã được quốc hội thông qua số tiền vào ngày 15-5 . Để thắng, y
phải đánh bại các do dự của các nhân viên nội các, sự chống đối của chính
đảng y và sự phản kháng của Quốc hội luôn luôn không ưa vấn đề Bắc kỳ.
Đã đành, tử 1879,
người ta quyết định hành động cương quyết ở Bắc kỳ để lập nền bảo hộ. Nhưng
bằng phương cách nào ? Một cuộc can thiệp quân sự vượt quá phương tiện hành
động của Thống đốc Nam kỳ và của chính Bộ trưởng nữa. Việc đó cần phải có
việc phái quân đội, việc hạ vi5ên thông qua số tiền. Nhưng cả dư luận cũng
như đa số tại Hạ viện đều không sẳn sàng mở một cuộc viển chinh xa xăn, ở
một xứ mà họ không biết gì cả, làm sao mà đẩy nước Pháp vào một cuộc phiêu
lưu mà nó không muốn ?
Không những có các
quan điểm khác nhau tại Paris, Sai gòn, Hà Nội, bắc Kinh, Huế v àcách giải
quyết vấn đề, mà còn những ai đứng ra lãnh đạo chính sách Pháp đềuluồn chính
sách mình theo sức ép của hoàn cảnh chứ không theo lập trường nhất định nào.
Tại Paris,
Jauréguiberry, kẻ chủ trương một cuộc viễn chinh thật sự ở Bắc kỳ, trước sự
chống đối của hội đồng Bộ trưởng và quốc hội, đã bị bắt buộc phải tán thành
chính sách “hòa bình’của de Vilers, rồi lại chỉ phái, dù y cho là nguy hiểm,
700 lính tăng viện thay vì số 6.000 mà y cho là cần thiết. Y không tiếc lời
khen ngợi Rivière, tán thưởng sự hăng hái, nồng nhiệt của tên chỉ huy cuộc
viễn chinh lần thứ nhì ở Bắc kỳ khi chiếm Hà Nội.[45],nhưng
đồng thời y cũng lại tán thành chương trình “hòa bình” của De Vilers, vì y
biết Rivière thiếu quân mà quốc hội không chịu gởi thêm.
Bị tê liệt về vấn
đề Ai Cập, dưới nội các Freycine, y lại được tự do hành động với chính ohủ
Duclerc. Ngày 21-10-1882 , hội đồng Bộ trưởng tán thành kế hoạch xâm chiếm
Bắc kỳ của Bộ trưởng hải quân và yêu cầu y đệ nạp một kế hoạch hành động
[46] Nhưng khi Jauréguiberry lấy lại chương trình 1880,
yêu cầu nội các họp ở Elysée vào đầu tháng chạp, cấp cho 10.000.000 và 6.000
lính, ấn tượng gây ra thật tai hại. Thật vậy, các bộ trưởng biết rằng với
trạng thái tư tưởng quốc hội bây giờ, một kế hoạch như thế sẽ phải bị thất
bại, và nội các sẽ phải từ chức.
Thấy không thuyết
phục được đồng nghiệp, viên bộ trưởng hải quân chụp lấy một tờ giấy trắng và
bắt đầu viết một đơn từ chức. Y lại đổi ý và ném tờ giấy vào lửa và rời khỏi
phiên họp.
Thay vì 6.000
lính, sau việc xảy ra trên, người ta gửi 700 lính tăng viện cùng các lời
khuyến cáo nên dè dặt đến Rivière, tên nầy thất vọng, biểu lộ sự bất mãn
trong một bức thư riêng “Caí chính phủ không cương quyết gì cả nàu làm tôi
buồn chán …”
Chỉ sau khi Jule
Ferry trở lại nắm chính quyền một cách mạnh mẽ vào tháng 2 1883, vấn đề Bắc
kỳ mới sang một khúc quanh mới, Ferry sẽ cầm đầu giới thượng lưu trong đảng
y, giới nầy, khi thúc đẩy nước pháp vào các hành động thực dân, là muốn lấy
lại ở ngoài nước một phần ảnh hưởng và quyền lợi mà cuộc chiến đau khổ 1870
đã cướp mất trong lục địa.
Ngày 23-4-1884 ,
hội địa lý thông qua một kiến nghị yêu cầu chính phủ giải quyết gấp vấn đề
Bắc kỳ. Nhận thấy rằng Bắc kỳ là “một thị trường mới và rộng lớn để tiêu sản
phẩm của chúng ta, hội cũng tỏ bày ước mong chính phủ và hai viện sẽ nghiên
cứu không chút chậm trể một cách rất nghiêm chỉnh vấn đề Bắc kỳ và đưa ra
một quyết định mạnh mẽ xứng đáng với nuớc Pháp, không chút do dự” Ngày 10-5
,phòng Thương mại dùng lại lời lẽ đó.[47]
Trong cuộc
thảoluận ngày 15-5 bộ trưởng Ngoại giao nói rõ : “Điều chúng ta muốn là làm
cho cuộc bảo hộ chúng ta tại An Nam, nhất là tại Bắc kỳ, trở thành vững chắc
và hữu hiệu” Và đạo luật do quốc hội đưa ra qui định trong điều 2 “quyền
lãnh đạo tối cao sẽ giao cho một tổng ủy dân sự của nền Cộng hòa có trách
nhiệm tổ chức nền bảo hộ.”
[48]
Thế là 4 ngày sau
khi Henry Rivière chết, 10 ngày trước khi nước Pháp biết tin đó, quốc hội
Pháp đã đơn phương biến một nước độc lập thành “nước bảo hộ” mà không thèm
hỏi qua ý kiến của nước nầy.
Chế độ bảo hộ nầy,
được triều đình Huế chấp nhận ngày 25-8-1883 trong hiệp ước do Harmand áp
đặt, và đã trở thành dứt khoát với hiệp ước 6-6-1884.
1-
HIỆP ƯỚC HARMAND (25-6-1883) .
Tháng 8-1883, một đạo quân tăng
viện đến Bắc kỳ dưới quyền điều khiển của ủy viên Harmand, bạn củ của
Garnier, của tướng Bouet và đô đốc Courbet. Trong khi Bouet tiến hành một
loạt hành quân ở đồng bằng Bắc kỳ, thì Pháp ting mở một cuộc thao diển để đe
dọa ở Huế, tại đây Tự Đức vừa mới chết, sự kế vị Tự Đức gây nhiều khó khăn.
Sự xâu xé, chia rẽ triều đình Huế từ khi vua chết đã làm cho Pháp dễ dàng
thành công. Vì tham vọng, một số quan lại nghỉ đến việc hợp tác với ngoại
bang : Ví dụ Nguyễn trọng Hiệp, một trong ba quan nhiếp chính thời kỳ không
vua Nguyễn Hữu Độ, hai quan nhiếp chính khác là Tôn thất Thuyết và Nguyễn
văn Tường lại chủ trương kháng chiến, nhưng ai cũng mưu giữ quyền bính, họ
gây ra những khủng hoảng triều đình, có nguy cơ làm suy yếu hoàn toàn
nước Việt Nam, trong giờ phút quyết định nầy, Sau
Dục Đức, người mà ông vua Tự Đức khi chết đã chỉ định lên nối ngôi, mới được
một ngày, họ lại truất đi, Tường và Thuyết đưa em ruột vua Tực Đức là Hiệp
Hòa lên thay.
Lợi dụng tình thế
chính trị bấp bênh của Huế, ngày 18-8 Pháp tấn công các thành lủy bảo vệ thủ
đô. Thành trì Việt Nam bị sụp đổ sau ba ngày chiến đấu, các vị chỉ huy hoặc
bị thương hoặc tự sát. Ngày 25-8-1883 , Nguyễn trọng Hiệp, Thượng thư ngoại
giao, đã nhân danh nhà vua mà chấp nhận hiệp ước do Harmand áp đặt.
Theo điều 1, Việt
nam thừa nhận chế độ bảo hộ của Pháp, Pháp nắm lấy quyền ngoại giao “cả đối
với Trung quốc” thế là Việt Nam mất chủ quyền, Harmand nghĩ “lần nầy đã
tránh được mọi hàm hồ, và làm cho mọi sự thoái thác không thể xẩy ra được.”[49]
Bất kể các chỉ thị
nhận được, Harmand tự ghép tỉnh bình thuận vào Nam kỳ (diều 2 ), đặt Hà
Tỉnh, Nghệ An và Thanh Hóa dưới quyền cai trị của Pháp, triều đình Huế giữ
quyền nội trị tại Trung kỳ Việt nam – đã bị cắt đứt ba tỉnh phía bắc : Nghệ
an, Hà Tỉnh, Thanh Hóa, về phía nam :tỉnh Bình Thuận - ngoại trừ quyền quan
thuế cà công chánh (điều 8)
2-
HIỆP ƯỚC PATENOTRE (6-6-1884)
Bắc kỳ và Trung
quốc đều không thừa nhận hiệp ước Harmand
Tại Bắc kỳ, cuộc
kháng chiến tiếp tục, dù huế bị sụp đổ trong mùa hạ 1883, Đô đốc courbet đã
phải chiếm giữ thành Sơn Tây do Hoàng Kế Viêm giữ, được quân Cờ Đen bảo hộ
mà Nguyễn Trọng Hiệp và Nguyễn Hữu Độ ký hồi tháng 8.
Tại Huế, phe chống
Pháp do Tôn Thất Thuyết cầm đ62u lại thắng và tổ chức tại Huế các đoàn quân
chí nguyện gọi là “đoàn kiệt” Thuyết đã bí mật lập trong miền núi Bắc trung
kỳ một chiến khu to lớn tại Tân Sở để lập thủ đô kháng chiến . Hiệp Hòa bị
coi là quá chủ hòa và bị nghi là có liên lạc bí mật với Pháp
[50] bị Tường và Thuyết buộc phải uông thuốc độc tự vận,
Kiến Phúc lên thay khi mới 15 tuổi.
Nhưng mùa Xuân
1884, tiếp viện Pháp lại đến Bắc kỳ và nhờ những tổ chức Thiên Chúa giáo do
những kẻ truyền đạo đoàn ngủ hóa giúp đở, Pháp lại tấn công vùng đồng bằng :
Bắc Ninh mất hồi tháng 3, Hưng Hóa tháng 4, Tháng 5 do hiệp ước Thiên Tân
đến lược nhà Thanh thừa nhận chế đệ bảo hộ ở Việt Nam và can kết rút quân ra
khỏi Bắc kỳ .
Trước hai thắng
lợi quân sự và ngoại giao của Pháp . Tường và Thuyết , ngày 6-1-1884 chịu
công nhận hiệp ước đặt đất nước dưới quyền bảo hộ Pháp mà năm trước đối thủ
của họ là Hiệp đã ký.
Từ ngày đó, Viêt
nam nằm trong quỹ đạo của Pháp.
[1]
- Để bênh vực cho các
lời buộc tội của họ, các kẻ truyền đạo đã gửi cho giới chức Pháp các
tài liệu mà họ nói là của triều đình và của các quan to, trong đó có
đưa ra những phương cách đánh đổ người Pháp và con chiên. Đối chiếu
: Thư của giám mục Puginier gửi Rheinart 8-8-1874. thư khố Trung
ương Đông Dương , Đô đốc 13511/2 , thư của Gm Puginier gửi Krantz
30-6-1874 . Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại A30 (21) hộp 13
[2]
- Gm Puginier gửi
Rheinaet 5-5-1874 . Thư khố Trung ương Đông Dương , Đô đốc 15511/1
xin đối chiếu với thư của Gm Croc 13-4-1874 .Thư khố Trung ương Đông
Dương , Đô đốc 10827.
[3]
- Puginier gửi Krantz
27-6-1874 . Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại A30 (21) hộp 13
[4]
- Puginier gửi Rheinart
4-4-1874, Thư khố Trung ương Đông Dương , Đô đốc 13506/7
[5]
- Krantz gửi Bộ trưởng
Hải Quân và Thuộc địa 11-4-1874 . Thư khố Bộ Pháp Quốc Hải Ngoại A30
(21) hộp 13. Rheinart làm công sứ ở Hà Hội trước khi làm khâm sứ ở
Huế
[6]
- Rheinart gửi Duopré
8-3-1870 .Thư khố Trung ương Đông Dương , Đô đốc 13504/1
[7]
- Rheinart gửi Krantz
21-3-1874 . Thư khố Trung ương Đông Dương , Đô đốc 13504/1
[8]
- Trong thư gởi Rheinart
ngày 5-5-1874 (đô đốc 13511/1) Puginier khuyên công sứ nên tăng
cường lực lượng phòng vệ Hà Nội – trái với Hiệp ước – và đặt viên
chỉ huy quân sự tại Hà Nội – trái với ý kiến của Philastre-
[9]
- Rheinart gửi Dupré
9-10-1875 . Thư khố Trung ương Đông Dương , Đô đốc12774
[10]
- Rheinart gửi Krantz
5-4-1874 . Thư khố Trung ương Đông Dương, Đô đốc 13506/1
[11]
- Krantz gửi Bộ trưởng
Hải quân 11-4-1874 . Thư khố Bộ pháp qiốc hải ngoại A30 (21) hộp 13
. Dupré lúc đó ở Paris, trái lại cho rằng việc rút quân đó nguy hiểm
cho quyền lợi con chiên cũng như uy tín của Pháp ( thư Krantz gửi
hạm trưởng tàu Décrès , 8-4-1874 cùng chỉ dẫn).
[12]
- Krantz gửi hạm trưởng
tàu Décrès 8-4-1874, đã dẫn
[13]
- như trên
[14]
- Nhu trên, chúng ta
thấy qua câu cuối cùng Krantz am1 chỉ Dupré nhưng không nói ra, giữa
hai tên có mối bất hòa sâu xa, và Krantz buộc tội người trước y ,
trong một báo cáo mậtgửi Bộ trưởng, đã dể thuộc địa “trong một tình
trạng nghẹt thở và đầy nguy hiểm” (xin xem báo cáo mật của Krantz,
11-8-1874 và thư trả lờicủa Dupré trong “thư gửi Bộ trưởng để trả
lời báo cáo một của phó Đô đốc Krantz” cùng chỉ dẩn
[15]
- như trên
[16]
- Krantz gửi Bộ trưởng
Hải quân và Thuộc địa 11-4-1874 , cùng chỉ dẫn. Trong thư gửi
Rheinart, Puginier viết : “Tôi tin và không phaỉ là không có lý,
ngài đang bị đe dọa. Số ít quân đội mà ngài đang có ở Hà Nội có lẽ
có thể chống được cuổc tấn công đầu tiên, nhưng trong tình trạng
không nhận được tiếp viện tức khắc, tình trạng hiện nay của ngài, số
quân đội 40 người của ngài không thể làm sợ hải nghiêm trọng kẻ thù
đông đảo vốn có mục đích xúi cả xứ nổi dậy chống ngài” (thư
5-5-1874)
[17]
- Krantz gửi Bộ trưởng
Hải quân và Thuộc địa , 30-6-1874 và 14-7-1874 cùng chỉ dẫn
[18]
- như trên 12-8-1874
[19]
- như trên , 7-9-1874 .
Nhưng cũng nên ói rõ dù giúp đở triều đình Tự Đức , Krantz vẫn giữ
những kẻ không công khai thù nghịch phe đảng nhà Lê.
[20]
- Tương lai Bắc kỳ, số
5284 , 28-8-1912
[21]
- Dupré gửi Bộ trưởng
Hải quân và Thuộc địa , 30-12-1874, Thư khố bộ Pháp quốc Hải ngoại
A30 (25) HỘP 13
[22]
- như trên 26-7-1876
A30 (26) hộp 14
[23]
-La Font gửi Bộ trưởng
Hải quân và thuộc địa 26-1-1878 . Thư khố bộ Pháp quốc Hải ngoại
A30 (30) hộp 14
[24]
- Trong thư gửi Krantz,
Bộ trưởng Hải quân viết : “ Hình như có phần nào , đó là quan điểm
của Puginier, và tôi cũng thấy thoáng, trong thư từ liên lạc với các
nhà truyền đạo, ý kiến dựng lên một ngưới đòi các quyền của triều
trước và tìm sự ủng hộ của con chiên.. . Tôi tưởng nên dặn phòng ông
chống lại một âm mưu như thế” (thư 21-9-1874, Thư khố Bộ Pháp quốc
Hải ngoại , A30 (21) hộp 13.
[25]
- Bộ trưởng Hải quân và
Thuộc địa gửi Krantz 21-9-1874
[26]
- Sự rút lui phải được
hiểu rằng người Pháp phải rút rất sớm các lính tùy tùng, hộ vệ của
các lãnh sự, các viên chức quan thuế để giao hoàn toàn lại cho
chính quyền Việt nam, giảm bớt quyền hạn của nhân viên ngoại giao và
lãnh sự chon gang với quyền hạn ở Trung hoa hay Nhật bản và cuối
cùng là, đối với người Pháp, Việt nam cũng độc lập như hai nước kia.
[27]
- Bộ trưởng Ngoại giao
gửi Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa 6-9-1877. Thư khố bộ Pháp quốc
hải ngoại A30 (30) hộp 14
[28]
-Bộ trưởng hải quân và
thuộc địa gửi Bộ ngoại giao 1-10-1879 .Thư khố Bộ Pháp quốc hải
ngoại A30 (31) hộp 14
[29]
- Bộ trưởng Ngoại giao
gửi Bộ trưởng Hải Quân và Thuộc địa (khẩn mật) 30-1-1880 .Thư khố Bộ
Pháp quốc Hải ngoại A30 (38) hộp 15.
[30]
- như trên
[31]
-Bộ trưởng hải quân và
thuộc địa gửi Bộ trưởng Ngoại giao 24-3-1880 . Thư khố Bộ Pháp quốc
hải ngoại A31 (38) hộp 15
[32]
- Trong số tài liệu nầy,
nên ghi nhớ các báo cáo về Bắc kỳ do Lasserre, cựu thư ký của
Francis Garnier, thảo theo yêu cầu của Freycines ( thư khố Bộ Pháp
quốc hải ngoại A00 (10) hộp 1
[33]
- Thư viết tay của
Freycines 26-7-1880 . Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại A30 (38) hộp
15 . Thư khố Bộ ngoại giao, Kỷ yếu và tài liệu Châu á , tập 36 tr
269.
[34]
- Khi lập chức khâm sai,
triều đình Huế bày tỏ ý muốn được thấy chính Philastre được giữ chức
vụ nầy. các kẻ truyền đạo và nhất là tên Giám mục Puginier chống đối
quyết liệt việc bổ nhiệm nầy, mà theo họ “người ta không thể đi
ngược lại quyền lợi tôn giáo của các pháo bộ An Nam và quyền lợi
nước Pháp” đưới mắt của Puginier, Philastre là một kẻ phản quốc, ô
ng ta nói :“khó mà có kẻ nào làm nhục quốc gia cho bằng Philastre,
đã làm nhục nước Pháp trước mắt người An nam.” (thư của Puginier
7-12-1874 , thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại A30 (25) hộp 13.) Trước
sự chống đối quyết liệt đó Dupré “không còn dám nài cho được
Philastre” ( diện tín 25-12-1875, thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại ,
cùng chỉ dẫn ) Rheinart nguyên công sứ Hà nội , được bổ nhiệm vào
chức vụ quan trọng nầy. Năm 1877 , Rheinart được nghỉ và vì không
tìm được nhân vật nào có thẩm quyền, người ta buộc phải cử Philastre
ra Huế.
[35]
- Bộ trưởng Hai quân gửi
Bộ trưởng Ngoại giao 18-2-1880.Thư khố Bộ Pháp quốc hải ngoại , A30
(40) hộp 15
[36]
- “Tôi nghỉ chính sách
trước kia của Philastre tại Huế khiến chúng ta nhất quyết không cử
ông sang An nam , nhất là trong tình thế hiện giờ “ (Thư Tống đốc
nam kỳ gửi Bộ trưởng hải quân , thư khố bộ Pháp quốc Hải ngoại A30
(40) hộp 15. trong một văn thư , Le Myre de Vilers viết :” Vì ổng ở
Huế quá lâu, trong thời gian nầy ông không tiếp xúc gì với người âu,
cho nên nhất thiết ông ấy chịu ảnh hưởng môi trường ông sống và vì
là một nhà trí thức và nhà ngôn ngử học , ông ta lại càng phải tỏ vẻ
ôn hòa khi tiếp xúc nhiều với văn minh và người của xứ An nam.”
(Văn thư 26-7-1879, cùng chỉ dẫn)
[37]
- Báo cáo của phòng
Thương mại . 5-1883 do J.Chesneaux trích dẫn, TP Đông dương tr
127
[38]
- Chỉ thị gửi tướng De
Trentinian (xử lý tại Sài gòn) Thư khố Bộ ngoại giao , Kỷ yếu và tài
liệu, Châu á tập 38 tr 131-133 .
[39]
- như trên
[40]
- Chỉ thị gửi Rivière ,
thư khố Bộ Ngoại giao , Kỷ yếu và tài liệu Châu á , tập 38 tr 202-
204.
[41]
- Rivière gửi Bộ trưởng
Hải quân, 19-1-1882 . Thư khố Bộ Pháp quốc Hải ngoại , A30 (54) hộp
16.
[42]
- Kỷ yếu và tài liệu
Châu á tập 38. tr 325.
[43]
-Le Myre de Vilers gửi
Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa -9-8-1882 . Thư khố Trung ương Đông
Dương . A30 (55) hộp 16
[44]
- Thư khố Bộ Ngoại giao
, kỷ yếu và tài liệu , Châu Á tập 39 , tr 363-364.
[45]
- Văn thư Nội các,
20-6-1882 , tài liệu ngoại giao Bắc bộ I , tr 244
[46]
- Việc hội đồng bộ
trưởng chấp nhận các kế hoạch của Jauréguiberry, các kế hoạch nầy
hoàn toàn trái nghịch với chính sách của De vilers, và tất nhiên đưa
đến việc triệu hồi De Vilers và đưa Thompson sang thay.
[47]
Thư khố Bộ Pháp quốc hải
ngoại , A30 (56) hộp 16
[48]
- Luật nầy, khi hiện
trên công báo, dưới hình thức vĩnh viễn, không có điều 2 liên can
đến chế độ bảo hộ. thượng viện chia cắt nó ra với cớ duy nhất là nó
dự trù đặt các viên chỉ huy quân sự dưới quyền Tổng ủy dân sự.
[49]
Kỷ yếu và tài liệu, Châu
á tập 42 tr 283.
[50]
- Theo một điện tín của
Thống đốc nam kỳ gửi Bộ trưởng Hải quân ngàt 10-12-1883 Hiệo Hòa bày
tỏ “trong mọi lúc cảm tình ông ta đối với Pháp” Y đã bí mật phái chú
là Tuy Lý Vương, niên trưởng của họ vua, đến tòa sứ pháp để hỏi
Champeaux là nếu trong trường hợp tai biến , y có được nước Pháp
giúp đở không ? . Champeaux trả lời :có và nhiệt thành khuyến khích
y chống lại cận thần . Cuộc viếng thăm nầy làm triều đình lo ngại .
họ làm đủ điều để biết nội dung câu chuyện , nhưng vô ích ( thư khố
Pháp quốc hải ngoại , A30 (58) hộp 16
Những bài cùng tác giả.