Trích "Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân tại Việt Nam" nxb. Hương Quê 1988
PHẦN I: Đạo Thiên Chúa Và Sự Xâm Lăng Nam Kỳ - (MT đánh máy gửi SH). [Trong ấn phấm ở Việt Nam, tựa: Cuộc Viễn Chinh Nam Kỳ: Một Vấn Đề Tôn Giáo]
Đêm 31-8-1858, một hạm đội do Đề đốc Rigault de Genouilly chỉ huy xuất hiện ở Đà Nẳng. Ngày 1-9 viên chỉ
huy, sau khi thúc giục các quan ta phải giao thành lũy trong hai giờ, đã
cho quân Pháp và Tây Ban Nha đổ bộ lên bờ. Sau một trận khá dữ dội,
thành lũy bị tấn công và bị chiếm. Cuộc đổ bộ nầy mở một giai đoạn mới
trong lịch sử Việt Nam: Giai đoạn thực dân thống trị.
Chắc là Napoléon III đã nghĩ đến các khía cạnh chiến lược, kinh tế và
buôn bán khi quyết định cuộc biểu dương Hải quân nầy tại Đà nẳng.
Ý tưởng có được một điểm tựa hải quân ở Viễn Đông đã được Guizot đưa ra, từ lâu Pháp đã hiểu cần có trong vùng biển Việt Nam một cảng tiếp liệu,
sửa chữa và ẩn trú cho tàu bè của mình [1].
Các nỗi bận tâm kinh tế trước đây đã thúc đẩy các cường quốc Tây phương can thiệp vào Trung quốc cũng có một vai trò trong vấn đề Việt Nam; Chính trong mối liên hệ với vấn đề Trung quốc mà Napoléon III đã lấy quyết định trên vấn đề Việt Nam
[2]. Việc hạm đội Rigault de Genouilly đã tham chiến lực lượng Anh trong các trận chiến ở Trung quốc - chiến tranh chấm dứt với hiệp ước Thiên Tân ngày 27-6-1858, cho thấy bận tâm ấy. Thật vậy, vào lúc đó vấn đề mở cửa thị trường ở Viễn Đông càng trở nên ngày càng rõ nét dưới sức ép của chủ nghĩa tư bản sơ khai.
Nhưng chúng ta không thể nói rằng Napoléon III có một mục đích thực
dân rõ rệt khi phái Rigault de Genouilly đến Đà Nẵng . Đúng hơn, y đã
lấy quyết định đó là vì ảnh hưởng chính trị trong nước. Chế độ muốn
thành độc tài, đế chế mới sinh cần phải có những thành công quân sự mà
nó có thể hy vọng nơi các cuộc viễn chinh xa xôi để vuốt ve tự ái dân
tộc. Tạo ra được những chiến thắng dễ dàng, các cuộc viễn chinh thực dân
lại còn cho phép thăng cấp, khen thưởng và chức vị, khiến cho quân đội
cán bộ của nó gắn liền với chế độ. Mặt khác, ở trong nước, Napoléon III
tìm cách dựa vào phe đảng Gia Tô. Trong những năm đầu của đế chính,
đảng nầy đã ủng hộ ông như sau nầy, vấn đề Rôme đã tách rời những người
Gia tô ra xa vua vì họ lo sợ những hậu quả tai hại do nền thống nhất
nước Ý mà vua bảo trợ có thể gây ra cho Giáo hoàng. Chính để quy tụ các
tín đồ Gia Tô mà Napoléon III đã cố gắng thỏa mãn họ bằng cách ủng hộ
các đòi hỏi của các đoàn truyền giáo Gia Tô ở Đông Á và đóng lại vai trò
cổ truyền của Pháp: lính của Giáo Hội. Chúng ta có thể nói rằng cuộc
viễn chinh Đà nẵng chỉ là bộ phận của thực dân, của một chính sách tổng
quát đối nội cũng như đối ngoại, một chính sách thuờng đầu mâu thuẩn.
Chúng ta sẽ chứng minh điều đó khi nghiên cứu sức ép Gia Tô trên
Napoléon, sự dốt nát hoàn toàn của các vị Thượng Thư của Vua về một xứ
mà lúc đó họ gọi là Cochinchine [3].
Và các chỉ thị đưa ra cho Đề Đốc Rigault de Genouilly.
I- VẬN ĐỘNG CỦA CÁC NGƯỜI TRUYỀN GIÁO VỚI
NAPOLÉON III.
Khởi đầu cho cuộc “biểu dương” hải quân do hai Chính phủ Pháp và Tây
Ban Nha quyết định chung, là việc các thừa sai tung ra một hoạt
động mạnh mẽ bên cạnh Vua cũng như bên cạnh phái bộ Pháp ở Trung Quốc.
Theo lời kêu gọi của các nhà truyền giáo, các đại diện nưóc Pháp ở Thiên
triều luôn luôn yêu cầu một sự can thiệp. Về vấn đề nầy, Đặc phái viên
ngoại giao De Bourboulon đã viết thư hai lần, vào tháng 8 và 9-1852, cho
Thượng thư Ngoại giao. Năm 1855 De Courcy, bí thư của phái đoàn Pháp ở
Trung Quốc, theo lệnh vua muốn tập trung tài liệu về các phái bộ truyền
giáo ở Đông Dương đã tiếp xúc với các đại diện Giáo Hoàng ở Thái Lan,
Việt Nam và Kampuchia, chính căn cứ vào các tin tức do những người này
cung cấp mà chính phủ Pháp đã quyết định phái Montigny thực hiện sứ mệnh
vùng này.
Chính các vận động để được ủng hộ về sự can thiệp của các nhân vật
quan trọng như Tổng giám mục Bonnechose
[4] ở Rouen và của chính Hoàng hậu, bà này đã thuyết phục
được nhà vua, dù lúc đó vua không có kế hoạch thực dân nào rõ rệt. Các
vận động này được thực hiện bởi hai người truyền giáo: Linh mục Huc,
hội viên hội thánh Lazare, cựu đại diện Giáo hoàng ở Trung Quốc, tác giả
“đạo Thiên Chúa ở Trung quốc,Tartarie, và Tây Tạng” cùng nhiều tác phẩm
khác về Trung Hoa, và Giám mục Pellerin, đại diện Giáo hoàng tại Nam kỳ.
1- NHỮNG VẬN ĐỘNG CỦA LINH MỤC HUC
Trong văn thư đệ lên vua, linh mục Huc trình bày các mối lợi mà việc
chiếm Việt Nam có thể mang lại cho Pháp
[5]. Lợi về chiến lược: "Đà Nẵng nằm trong tay người Pháp chắc
sẽ là hải cảng kiên cố ,và là một cứ điểm quan trọng nhất để chế ngự Bắc Á". Lợi về Kinh tế và thương mại: "Lãnh thổ Cochinchine[6]
mầu mở có thể sánh được với các vùng giàu có nhất ở giữa hai miền nhiệt
đới. Xứ đó rất thích hợp cho việc trồng trọt các sản phẩm thuộc địa. Các
sản phẩm chính và phương tiện trao đổi hiện giờ của nó là: đưòng, gạo,
gổ, ngà voi…và cuối cùng là vàng, bạc mà các mỏ rất phong phú đã được
khai thác từ lâu" Lợi tôn giáo tất nhiên: "Dân chúng hiền hòa, cần
mẫn, rất dễ bị thu hút trước việc truyền đạo Thiên Chúa…chỉ cần một ít
thời gian là biến nó hoàn toàn theo Gia tô và trung thành với pháp. “Vì
thế, theo linh mục Huc về mọi phương diện, Nam kỳ là cái đồn thuận tiện
nhất cho Pháp. Mặt khác, việc chiếm đóng xứ này là "việc dễ nhất trên
đời", "nước Pháp không tốn kém gì cả” vì dân chúng "rên xiết dưới
chế độ tàn bạo ghê gớm nhất" … sẽ tiếp đón chúng ta như những người giải
phóng và ân nhân. Tóm lại, vì Pháp cần có một thuộc địa giàu, mạnh ở
Đông Á, nên tuyệt đối cần chiếm “Cochinchine”. Và làm gấp chừng nào hay
chừng ấy vì Anh đã “dòm ngó Đà Nẵng". Chính Linh mục Huc đã dâng văn
thư này lên vua vào tháng giêng 1857 Napoléon III giao cho Thượng thư
ngoại giao Walewski và ông này yêu cầu Cintrat, Giám đốc Cục Chính Trị
làm bản báo cáo căn cứ vào văn thư này. Sau báo cáo, vua quyết định đưa
vấn đề cho một Ủy Ban
[7] thành lập ngày 22-4-1857 khảo sát.
Sau cuộc hội kiến với Napoléon III , linh mục Huc tràn đầy hy vọng ,
ngày 3-1-1857 ông viết cho đại diện truyền giáo ở Hương Cảng: “Chắc
ngài sắp thấy điều mới lạ ở Cochinchine. Tôi sẽ thảo luận lâu với Hoàng
Thượng về vấn đề này”.
[8]
2- NHỮNG VẬN ĐỘNG CỦA GIÁM MỤC P.PELLERIN
Thất vọng vì sự trhất bại của phái đoàn Montigny, theo lời khuyên của
bạn bè, Giám mục P.Pellerin quyết định “đi Pháp để trình bày với nhà vua
tình trạng thê thảm của các đoàn truyền giáo do các biện pháp nửa vời
gây nên". Đến Pháp vào đầu tháng 5, ngày 16-5 ông trình bày trước Ủy
Ban và ngày 21-5 trao cho họ một bản thuyết trình đầy chi tiết trưóc khi
được Napoléon III tiếp kiến . Giám mục đã cho chúng tôi biết vài chỉ dẫn
đáng lưu ý về cuộc hội kiến trong một bức thư gửi cho một người truyền
giáo tại Tây tạng:” Nhà vua tiếp tôi rất niềm nở dù tôi không xin gặp,
Hoàng thượng hết sức sẵn lòng giúp đỡ các phái bộ và ý ngài muốn rằng
các nhà truyền giáo Pháp phải được tự do khắp nơi, cần phải cầu nguyện
Thượng đế giử lại người của Chúa ở lại trên ngôi, Các phái bộ của ngài,
các phái bộ ở Cao ly, ở Nhật Bản, cũng sắp được tự do nay mai, phải hy
vọng điều đó . Nước Pháp sẽ ở vững vàng tại các xứ đó và rồi sẽ không
thể còn bị đàn áp nữa “[9]
Nhưng sự vụ hình như kéo dài sốt ruột, Giám mục tin là nên nhắc lại
Napoléon III “Thần xin Chúa Thượng , chúng ta thấy trong thư ngày
30-8-1857 của ông, cho phép thần lại nói đến các người mới theo đạo khốn
khổ ở xứ Cochinchine và các nhà truyền giáo ở xứ An Nam , hiện giờ máu
họ đang đổ và tình cảnh họ còn kinh khủng hơn từ cuộc vận động sau chót
của nước Pháp không làm lại gì cho bọn thần, e rằng đạo Thiên Chúa bị
tận diệt ở tại càc vùng hình như sẵn sàng đón tiếp lợi ích của đạo Thiên
Chúa và văn minh. Thần đến xin Chúa Thượng đừng bỏ rơi bọn thần. Điều bệ
hạ làm cho bọn thần sẽ khiến cho ân phúc của Chúa ban xuống cho bệ hạ và
triều đại huy hoàng của bệ hạ …”
[10].
Kế đến, tháng 11, Giám mục Pellerin đi Rôme, Giáo hoàng Pie XI tán
thành các vận động ủng hộ cho các phái bộ truyền giáo .
Xuyên qua các can thiệp của Linh Mục Huc và Giám mục Pellerin, chúng
ta thấy ý tưởng chính sau đây : Cuộc viễn chinh của họ vận động, nhân
danh các người truyền giáo tại Việt nam, không phải chỉ là cuộc biểu
dương lực lượng đơn thuần hay một cuộc chiếm đóng tạm thời một vài địa
điểm của nước Việt nam, mà hoàn toàn là cuộc viễn chinh thực dân, vì
nhằm xây dựng một thuộc địa Pháp vĩnh viễn ở góc đất này ở Động Nam Á .
Ý tưởng này được một người truyền giáo khác, Linh mục Legrand de la
Liraye, trình bày mạnh mẽ hơn trong bản trần trình y gởi cho Napoléon
III vào khoảng tháng 12 -1857 .Cho đến nay, các người viết sử không biết
tài liệu nầy
[11] , có lẽ vì rằng vận động của Linh mục Legrand quá trể :
tháng 11 vua đã ra lệnh can thiệp vào Việt Nam.
3- TRẦN TRÌNH CỦA LINH MỤC LEGRAND DE LA LIRAYE
Điều độc đáo của Linh mục Legrand là muốn xem vấn đề “trước hết có
tính cách chính trị “. Thái độ này làm mất lòng các người truyền giáo
khác, nhưng nó cho phép trình bày vấn đề một cách rõ ràng, không quanh
co, dưới mọi khía cạnh chính trị, kinh tế , quân sự, nhất là quân sự vì
ông ta muốn đóng vai trò một nhà chiến lược.
a) LỢI ÍCH CHÍNH TRỊ VÀ CHIẾN LƯỢC.
Theo Linh mục Legrand chỉ cần nhìn vị trí của xứ “An Nam” là người ta
hiểu ngay việc chiếm đóng xứ này quan trọng cho Pháp đến đâu, Thật vậy,
“Trong hiện tình khi Anh chiếm hết Ấn Độ cho đến Singapour và sửa soạn
càng lúc càng thắt chặt Trung Quốc , cần phải cắt đứt sự giao thông của
các thuộc địa nó, cùng với Tây Ban Nha ở Philippine và Hoà lan ở Java và
Sumatra dựng nên bất cứ chướng ngại nào, một điểm trọng tài cho kẻ thua
trận nếu muốn một điểm giám sát đối với kẻ thắng trận quá tham lam, một
điểm trú ẩn, và ẩn náu cho các tàu bè hình như phiêu bạt cho khắp cả
phần Đông Á này, cuối cùng một điểm tiếp liệu và buôn bán cho các người
cung cấp hương liệu chúng ta mà mãi đến giờ chỉ có các cờ nước ngoài bảo
đảm che chở họ khi ở quá xa Tổ quốc”.
b) LỢI KINH TẾ
Xứ này rất xứng đáng là một xứ thuộc địa, về mặt giàu có của đất đai
nó hơn hẳn Philippine , Java và Bornéo cũng như về mặt dân chúng “ôn
hòa, thông minh và siêng năng “ Tài nguyên của nó “ khiến nước Pháp
thương mến, vì nó là thuộc địa đẹp nhất, quý nhất trong các thuộc địa cũ
và mới của Pháp”
c) DỄ XÂM LĂNG
Xứ đẹp và quý giá này sẵn sàng rơi vào tay Pháp, vì nhiều lý do,
Trước hết ,dân chúng luôn luôn trung thành với nhà Lê bị truất ngôi “ vì
các biến cố lớn lao ở thế kỷ qua “ họ đau khổ dưới chính phủ hiện giờ “
một chính phủ tàn bạo, bất công , lừa dối và đầy tham nhũng khiến cho
đất nước ngày càng thêm đau khổ vì thế nó cựa mình và sẵn sang nổi loạn
“
Đối diện với sự nỗi loạn trước mắt đó, quân đội “run sợ và chán nãn
trong hầu hết các tỉnh miền Bắc” đằng khác nó vừa mới chứng tỏ sự bất
lực khi làm hòa vớì các người Trung Hoa nỗi loạn và cướp phá “Đông kinh
“ ( tức Bắc Bộ) mà nó đáng lẽ phải đánh tan và tiêu diệt.
Sự nỗi loạn cũng ấp ủ trong nam bộ, tại đây có hai dân tộc thiểu số
đang sống nhục nhã , đó là người Chàm bị đưa về tình trạng bộ lạc trong
tỉnh Bình thuận và người Khmer trước kia “ bị buộc phải nhường cho kẻ
chiến thắng mọi cửa sông và các phù sa mênh mông của con sông lớn vừa
mới được dùng làm biên giới “
Cùng với các yếu tố giông bão đó, ông Vua không con nối dỏi sau mười
, mười lăm năm kết hôn “ chìm đắm trong khoái lạc sa dọa nhất, chỉ sống
giữa hơn năm nghìn cung nữ lúc ông chủ trì các lúc tắm hay đóng tuồng
của họ” , còn quan lại , “ họ chia làm hai phe, dành giựt chức vụ và
quyền thu nạp bộ hạ , họ tạo ra đầy dẫy tại các tỉnh những kẻ tham lam,
ăn của đút và gian ác, bọn nầy lấy sự đau khổ dân chúng làm trò vui và
đàn áp họ “.
Nước Pháp sợ chăng một cuộc viễn chinh tốn kém ? Hãy yên tâm “ Hải
quân An Nam có thể nói không còn nữa từ sau vụ Đà Nẳng 1847 : đã có lệnh
đừng đóng thuyền theo Châu Âu, còn ghe trong nước thì thiếu trang bị.”
Vậy về mặt thủy chiến không gì phải sợ. Trên bộ “quân đội thiếu tổ chức
và khí giới có tính đân sự hơn quân sự và không biết dùng đại bác và
súng ống mà chỉ có một số rất ít binh lính dùng trong bộ phận này “ Quân
đội đó có khoảng 60 đến 70 ngàn người cho toàn xứ, không thể tụ tập tại
một điểm quá số 10 hay 15.000 tinh binh mà “theo ý thần, kỹ thuật chiến
đấu và bình tỉnh không thể chống lại nổi một quân đội Pháp” sau rốt
“thành lũy bị hư nát, chỉ còn lũy tre bao bọc thành phố,chỉ làng mạc là
đáng sợ, nhưng không khó gì việc chiến thắng các chất dễ cháy đó, vã lại
thần không tin rằng dân tộc đó đủ can đảm để nhất quyết chiến đấu sau
thành lũy nầy“
Kết luận: Quả đã quá chin rục rồi để không rụng xuống , lạy
chúa đừng để nó rụng vào tay người Anh ! mọi người dân chúng và chính
phủ “ mọi người, thần nói mong thấy nước Pháp cắm cờ mình trên bờ biển
này “ Mọi người sốt ruột, ngạc nhiên trước thái độ bất động của Pháp,
trước sự chậm trể của nó, trước các vận động sai lầm đến giờ của nó, mọi
người mong đợi “từng ngày tàu chúng ta dùng súng đại bác đến đòi “ những
quyền mà hiệp ước 1787 đã đem lại cho Pháp mà người An Nam cho đến nay
đã phủ nhận một cách “ bất công và hèn hạ “
d)-KẾ HOẠCH XÂM LĂNG
Đó là những nhận xét đại cương. Còn về kế hoạch xâm lăng, Linh mục
Legrand de la Liraye đề nghị một cuộc tấn công ngoại giao tiếp nối bằng
một cuộc can thiệp vũ trang trong trường hợp nó bị thất bại.
Cuộc tấn công ngoại giao mở đầu bằng việc dâng một vật tặng cho Vua –
đó là thói quen trong nước, đằng khác “ vật tặng luôn luôn có một hiệu
quả tốt” -kế đến sẽ trình bày tại Đà Nẵng hay tại cửa sông của Kinh Đô
một bbức thư nói đến sự tự do buôn bán, đến “thiệt thòi” mà “nước này đã
gây ra cho Pháp” những bất công nó thi hành chống lại người Pháp khi tàn
phá thương mại của họ, khi xử tử các người truyền giáo Gia tô, khi cho
con chiên là thủ phạm vì các lời “khuyên bảo và ôn hòa” mà nước Pháp đã
đưa ra nhiều lần để giúp đỡ họ, cuối cùng về sự bội ơn mà “nó tự hiến
mình, thành thủ phạm trước mắt thế giớikhi đoạn tuyệt một cách vô liêm
sĩ với một nước đồng minh” sau khi đã tiếp nhận “nhiều giúp đỡ về người
và về tiền bạc “Để kết luận, chúng tôi đòi :
1- Quyền thay mặt do một sĩ đoàn sĩ quan tại nhiều địa
điểm (Phú Quốc,Cam Ranh, Đà Nẵng, Cửa Cấm ) để bảo đảm tự do lưu thông,
tự do buôn bán tại các cảng lớn trong nước, từ nay để mọi con chiên được
tự do tín ngưỡng và cấp quyền cư trú cho các nhà truyền giáo như thời
Gia Long.
2- Chiếm giữ vĩnh viễn Đà Nẵng và các đảo tiếp cận, Hội
An ở phía nam Hải Vân, Cù lao Chàm ở phía Bắc để làm điểm trú ẩn, tiếp
liệu và kho chứa .
3- Cuối cùng, một liên minh tự vệ và tấn công.
Trong hai điều phải có một, hoặc Vua chấp nhận yêu cầu của Pháp hoặc
Vua “tức giận và từ chối”. Trong trường hợp một : Pháp sẽ lập nền bbảo
hộ và thương thuyết đàng hoàng và giữ Vua ở lại ngôi cùng với các quyền
hạn và chính phủ “với các điều kiện hợp lý “. Nhưng Linh mục Legrand
không tin giả thuyết đầu. Vậy chỉ còn giả thuyết sau, thế là chiến
tranh, “theo thần, chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm
chỉnh tại nước đó. Cần phải chấp nhận nó vì đó là cách tốt nhất, phải
đánh gấp Bắc kỳ, Huế và Đà Nẵng cùng một lúc, nếu được thì lật đổ chính
phủ, bàn đến chuyện giải phóng hai dân tộa thua trận ở Cochinchine, và
đặt lên ngôi ở Bắc bộ, một kẻ giả danh là con cháu nhà Lê “.Ông ta đã
chứng tỏ là người có khiếu về quân sự cũng ngang khiếu về tôn giáo, ông
ta lập một kế hoạch hành quân đầy đủ, nêu lên các phương tiện xử dụng,
ấn định các điểm nên chiếm, giải thích lý do, ước lượng số tàu và quân
đội dùng trong trận chiến v.v…để chấm dứt, ông ta tình nguyện tham gia
cuộc viễn chinh với tư cách thông ngôn để tuyển mộ tại chổ “ những người
bản xứ gia nhập vào đội binh chúng ta và họ sẽ hết sức vui mừng được
mang khí giới cùng phù hiệu nước Pháp. Tóm lại, chính sách chủ trương
của linh mục Huc, giám mục Pellerin, linh mục Legrand là một chính sách
thực dân. Chính sách thực dân nầy được cả một chiến dịch báo chí do
những tín đồ Gia tô phát động suốt những tháng cuối 1857. Trong mục đích
đó, từ “Univers” của Louis Veuillot ngày 18-11 đã in bài tựa của linh
mục Huc cho tác phẩm của ông ta “đạo Thiên Chúa ở Trung quốc, Tây Tạng,
và Tartarie” : “thật là đẹp và vinh dự cho triều đại Napoléon III trong
việc dựng lên trên những nền tảng vững chắc, ảnh hưởng Pháp trên Đông
Dương và cũng có lẽ đòi luôn các quyền mà vua Louis XVI đã quy định tại
Versailles “.
Tiếp theo là các bài in trong các số tháng 12 kết án các biện pháp
nửa vời và đòi hỏi phải xâm lược : “xứ Cochinchine sẽ thuộc về chúng tan
ngay khi nào chúng ta xuất hiện ở đó…vùng đất thuộc địa giàu có nầy sẽ
trả đủ trong năm đầu mọi chi phí do cuộc chiếm đóng quân sự “.[12]
Chính Louis Veuillet, vào tháng tư đã viết một loạt, ba bài xả
thuyết, để tán dương việc truyền giáo, sặc mùi đế quốc cực đoan chỉ đạo
: “Các thay đổi mà các bành trướng lớn lao (của Nga và Anh ) gây nên cho
quân binh của Châu Âu, buộc chúng ta phải có được Madagasca trong biển
Ấn Độ, Cochinchine trong biển Trung Hoa, và Cao Ly trong các biển miền
Bắc Viễn Á “.[13]
Từ “người thông tin”, tạp chí Gia tô, ngày 25-12 đã in một bài của
P.Douhaire nhấn mạnh việc cần phải tránh những biện pháp nửa vời : “hoặc
không làm gì cả…hoặc quyết tâm, vì chúng ta có đủ sức mạnh và can đảm
hoàn thành việc chinh phục “ và chứng minh lợi ích kinh tế và chính trị
của thuộc địa Nam kỳ, đem lại cho kỷ nghệ Pháp nhất là lụa, bông ,
đường. Tác giả không quên nói thêm, như các người truyền giáo, cuộc xâm
lăng sẽ dễ dàng và người Pháp được đón tiếp như những kẻ giải phóng.
[14]
Vậy thái độ của Ủy ban Nam Kỳ thế nào trước các đề nghị trên của
những thừa sai ?
II – THÁI ĐỘ CỦA ỦY BAN NAM KỲ.
Được chỉ đinh ngày 22-4, Ủy ban Nam kỳ gồm có năm ủy viên và một thư
ký.
Chức vụ chủ tịch giao cho Hầu tước Brenier, công sứ toàn quyền
Naples.
Pierre Cintrat, Giám đốc Cục Chính trị 1848 và đầu năm 1849, giữ chức
Chưởng bạ , chức vụ lúc đó của y, cùng với Brenier đại diện cho Bộ Ngoại
giao.
Bộ Hải quân do hai sĩ quan Hải quân đại diện : Phó Đề Đốc Fourichon
và Đại tá Hải Quân Jaures
Thượng thư Bộ Thương mại chỉ định Fleury đại diện.
Thư ký là De Mofras.
Ủy ban có tất cả bảy phiên họp : phiên đầu 28-4, phiên chót
18-5-1857.
Trong số các Ủy viên, chi có Cintrat là do dự, trái lại Fourichon,
Jaures, Fleury rất tán thành cuộc viễn chinh . Ủy ban phải giải quyết
bốn vấn đề chính :
- Vấn đề thứ nhất là vấn đề luật pháp : Nước Pháp có quyền đòi thi
hành, có lợi cho mình , các điều khoản hiệp ước 1787 như các người
truyền giáo chủ trương không ?
Như chúng ta thấy trong chương mở đầu, hiệp ước này được ký kết giữa
Giám mục Bá Đa Lộc (l’évèque d’adran)- đại diện toàn quyền cho Nguyễn
Ánh- và chính phủ Louis XVI , chưa bao giờ được người Pháp thi hành, Vì
thế ủy ban đành phải chấp nhận, sau nhiều cuộc cãi vã lâu dài, không thể
buộc thi hành hiệp ước tức là buộc nhường Đà Nẵng và Côn Đảo, nhưng căn
cứ vào lý lẻ của Huc va Pellerin họ chứng nhận “sự giúp đở “ không chối
cải được của người Pháp cho “vua Nam Kỳ “ .[15]
Ba vấn đề khác thuộc kinh tế, chính trị, quân sự và thuộc địa. Can
thiệp vào Nam kỳ c ólợi gì về kinh tế và buôn bán ? Về chính trị ? Phải
xử dụng gì cho cuộc viễn chinh nầy ? Tính chất thuộc địa Pháp ở Nam kỳ
là gì ? Vê các vấn đề đó, Ủy ban hình như theo ý kiến của các thừa sai.
1- VẤN ĐỀ KINH TẾ VÀ BUÔN BÁN.
Việt Nam được các nhà truyền đạo trình bày là một xứ rất giàu, “nước
Pháp, Giám mục Retord viết, sẽ tìm thấy ở xứ đẹp đẽ này nhiều mỏ vàng,
mỏ bạc, đồng, sắt, than, nhiều gổ để đóng tàu, nó có một hải cảng kiên
cố cho các hạm đội và thực phẩm cho lính thủy của mình. Tại đây còn là
nơi buôn bán quan trọng về gạo, bông, muối, vải, lụa và nhiều hàng
khàc…”
Giám mục Pellerin còn trình bày trước ủy ban về khả năng phát riển
trong việc tròng café, khi mỏ vàng, mỏ than, mỏ đồng, mỏ sắt.[16]
Các lời tuyên bố thuộc loại đó sẽ không làm cho Đại diện Bộ Thương
Mại xúc động .Viên này trình bày cho bạn đồng sự về điểm kỷ nghệ phải
cần biết bao thị trường mới để bán sản phẩm và mua nguyên liệu với giá
rẻ, 25 triệu về đường nước ngoài, 20 triệu về lúa, 17 về chàm, 62 về tơ
sống, 65 về gổ, 121 về bông và hỏi là Nam kỳ có giúp cho nước Pháp gì
không về xuất cảng cũng như nhập cảng[17].
Về vấn đề này, Đề đốc Pourichon và Đại tá hải quân Jaures trả lời rằng :
họ hoàn toàn tin rằng xứ Nam Kỳ đáp ứng đầy đủ các điều kiện đó, nếu
không về mặt tiêu thụ, thì cũng về mặt sản phâm .[18]
2- LỢI ÍCH CHÍNH TRỊ
Nói chung, theo ủy ban lợi ích kinh tế hình như chắc chắn rồi, nhưng
theo Fleury các lý do quyết đinh hoàn toàn có tính cách chính trị, các
lý do buôn bán chỉ đứng hàng thứ hai .[19].
Đằng khác, nó cũng là ý kiến của Linh mục Huc, vì trong văn thư y cũng
đã đặc biệt nhấn mạnh đến lý do chính trị của cuộc viễn chinh : theo y
miền Viễn Á sắp xáo trộn. Lậy lại ý kiến của các nhà truyền giáo, Đề đốc
Fourichon nêu câu hỏi : “ trong lúc, Nga bành trướng xuống phía Nam
Amour, quần đảo phía Bắc Nhật bản, Anh chắc chắn sẽ chiếm và có lẽ Đài
Loan và nhiều điểm ( Chusan ) dọc biển Trung quốc, Hòa lan bành trướng
đến Malaysia (mã lai), Mỹ tìm những căn cứ trú ẩn và tiếp liệu, còn Tây
Ban Nha phát triển nhóm quần đảo đẹp Philippines, thì lẽ nào Pháp có thể chỉ đóng vai trò xem mà không tìm cách làm sống lại những ngày huy
hoàng của sự bành trướng hàng hải và thuộc địa của mình . “Dĩ nhiên là y
không nghỉ thế và hy vọng công việc của Ủy ban sẽ làm sáng tỏ vấn đề này
cho chính phủ" [20]
3- SỰ TIẾP ĐÓN CỦA DÂN CHÚNG VIỆT NAM ĐỐI VỚI SỰ CAN THIỆP CỦA
PHÁP
Để lôi kéo nước Pháp vào cuộc xâm lăng, chiến thuật của người truyền
giáo là trình bày như thể rằng đây là một việc vô cùng dễ dàng. Chúng ta đã nghe những
lời khẳng định dứt khoát của linh mục Huc, của giám mục Pellerin, và
linh mục Legrand về điểm này. Nhưng cuộc xâm lăng càng trở nên dễ dàng
hơn khi dân chúng bị đè nén dưới sự áp bức của triều đình và quan lại Huế, sẽ
đón tiếp người Pháp như kẻ giải phóng. Đó là lời của Linh mục Huc và
giám mục Pellerin trước Ủy ban. Các thừa sai khác, như linh mục
Libois, đại diện các Sứ Bộ Truyền giáo
Hải ngoài tại Hồng Kông, và giám mục Retord, Khâm sai Tòa Thánh tại Tây Bắc bộ, cũng lập lại
mãi điều đó với đại diện của Pháp tại Trung Quốc[21]
Các giáo sĩ thừa sai đó xác nhận rằng chắc chắn người Pháp sẽ nhận được
sự giúp đỡ và hợp tác của người Thiên Chúa Giáo Việt Nam. Linh mục Huc dù chưa bao giờ sống tại Việt nam tuyên bố rằng 600.000 con chiên bản xứ, tuyệt đối trung thành với các
thừa sai, vẫn còn giữ truyền thống hữu nghị đối với Pháp. Giám mục Pellerin còn đi xa hơn nữa, và quả quyết rằng 600.000 con chiên này sẽ giúp đỡ người
Pháp và các thầy giảng do các thừa sai đào tạo “biết phong
tục tập quán và hầu như rành ngôn ngữ của chúng ta" có khả năng "trở thành nơi đào tạo để chúng ta tuyển những quan lại mới".
Các tuyên bố nầy đã gây ảnh hưởng to lớn trên Ủy ban và ủy ban lấy các
tin tức do các nhà truyền giáo cấp cho làm của mình. Đề đốc Fourichon và
Đại tá Jaures khẳng định rằng sự đón tiếp của dân chúng sẽ tuyệt diệu,
người Pháp nhất định “chờ đợi một cuộc tiếp đón đầy thân thiện “ họ sẽ
“được dân chúng bị đè nén dưới sự sách nhiễu và gông cùm gớm ghiếc của
quan lại đón tiếp như những người giải phóng", cần tin vào sự giúp đở
của 600.000 con chiên bản xứ “ ngay từ đầu chúng ta phải dựa vào họ và
có thể “có một số sẽ gia nhập quân đội chúng ta“.[22]
Cintrat cũng thế, dựa vào các báo cáo của người truyền giáo “cảm tình
lâu đời ‘ của dân chúng đối với Pháp từ thời Giám mục Bá Đa Lộc và ý của
họ muốn thay đổi chế độ vì sự “ tàn bạo ghê gớm nghiền nát họ“, y tin
rằng về phía dân chúng , sự tiếp đón chỉ có thể là thuận lợi cho người
Pháp
[23].
Chỉ có Hầu tước Brerier là tỏ ra dè dặt : “Có thể chúng ta, ý nói, sẽ
được ủng hộ của dân chúng bị một chính phủ tàn bạo, tham lam và cướp
bóc, đàn áp, có lẽ họ xem chúng ta là những người giải phóng, nhưng
chúng ta không thể chờ đợi ở họ một hợp tác hữu hiệu, chỉ trừ may ra là
ở tín đồ Gia tô nhưng điều này cũng đáng ngờ“
[24]Kinh nghiệm chúng ta đã thấy, cho thấy sự dè dặt nầy có
lý.
4- TÍNH CHẤT THUỘC ĐỊA LẬP NÊN
Ba giải pháp được đưa ra: chiếm đóng một số điểm ở bờ biển, chiếm
đóng hết và loại trừ giòng họ đang trị vì, đặt nền bảo hộ.
Các thừa sai, đặc biệt là những người ở Bắc bộ rõ ràng là
muốn giải pháp bảo hộ. Linh mục Legrand sau khi noí đến nền bảo hộ trong
trường hợp vua Việt nam chấp thuận các điều kiện do Pháp đưa ra, nghỉ
rằng tốt hơn, kể cả trường hợp chiến tranh xảy ra,là giữ lại chính phủ
quân chủ đã từng cai trị một nước quá lớn và quá đông “ chính phủ đó
thỏa mãn hoàn toàn cho nhu cầu dân chúng nó điều hkiển, trong khi chúng
ta, dù trong hai mươi năm, có thể trong năm mươi năm, chúng ta không thể
có cách nào làm cho nó đuợc, dân chúng chịu đựng nổi và có ích cho mục
đích chúng ta “ .[25]
Ý nghỉ của Gíam mục Retord lai còn rõ rệt hơn. Ông tuyên bố: “người Pháp cần phải,
làm cái gì lớn lao, quan trọng lâu dài và xứng đáng với nước đó và với hoàng đế.
Nếu nước Pháp chinh phục xứ này (và việc này không khó) và cai trị trực tiếp, người dân Bắc Kỳ sẽ khá hài lòng, nhưng họ thích
sống dưới sự bảo hộ và ảnh hưởng của Pháp với một ông Vua riêng của nước
họ hơn".[26]
Linh mục Huc hình như muốn đi xa hơn: Chế độ bảo hộ, theo ông, chỉ là
giai đoạn đầu, mục đích là chiếm luôn cả xứ làm thuộc địa. Ông giải thích trước Ủy Ban Nam Kỳ: “Có một gia
đình xưng là thuộc ngành vua
chính thống mà có lẽ chúng ta có thể xử dụng để lật đổ triều đại hiện
giờ…nên ngay từ nguyên tắc phải thiết lập chế độ bảo hộ cùng với việc giữ yên nhà Vua lại trên ngôi, nghiên cứu
việc tổ chức xứ sở ấy (xứ này tổ chức gần giống chúng ta) và cuối cùng chúng ta tuyên
bố chúng ta là chủ của xứ đó”[27]
. Dù sao, y có lẽ cũng nhận rằng chế độ bảo hộ thích hợp nhất cho giai
đoạn đầu tiên xâm lăng.
Còn Giám mục Pellerin ban đầu ông ta tuyên bố chỉ cần đến Huế buộc
vua ký hiệp ước rồi công bố một chỉ dụ. Nhưng khi Contrat và Fleury bày
tỏ nghi ngờ hành động đó không đủ bảo vệ quyền lợi tôn giáo, buôn bán và
kiều dân, Giám mục tuyên bố rõ rệt tán thành nền bảo hộ “Việc lập một
hiệp ước có chữ ký vua, việc có mặt của một lãnh sự, việc mở các cảng ,
việc xuất hiện của Hải quân bảo đảm được trong một thời gian mọi quyền
lợi chúng ta, nhưng một sự chiếm đóng hay một nền bảo hộ thì tốt hơn
nhiều," Nói rõ ý nghĩ mình, ông ta khuyên “ngay khi vừa đến là bắt giữ
ngay vua va để lại cho ông một quyền có danh không thực” thay vì truất
phế ông ta và chiếm đóng xứ sở, là những biện pháp, mà theo ông ta có
thể đụng chạm đến tình cảm quốc gia và gây nên “những bối rối đối nội
cũng như đối ngoại”. Ông ta cũng tiên liệu trường hợp bi thảm là nhà
vua sẽ tự ải “cũng như tể tướng ông ta “[28]
như thế càng tốt, chúng ta sẽ cai trị “ với người nối ngôi ông ta là
người có chắc chắn không có lý do tự ái nào để tự sát “ Và kết luận đầy
lạc quan việc Giám mục hình như đã lôi kéo được cả kẻ ít tin tưởng nhất
trong ủy ban : “ việc giữ nguyên ông vua và lợi ích phát sinh trực tiếp
từ sự công bình, sự thanh liêm của nền cai trị do Pháp lãnh đạo sẽ làm
cho tên tuổi nước Pháp được thờ kính và làm cho toàn xứ sẽ vui mừng tiếp
nhận nền bảo hộ “[29]
Tại sao, các thừa sai lại thích chế độ bảo hộ ? Lý do thật
giản dị. Mộng ước của mọi thừa sai là có được một ông hoàng hết
lòng với họ, một Constantine phương Đông . Nhưng các người truyền giáo ở
Bắc đã ra được một người mà họ muốn có ngày đặt lên ngôi ở Bắc. Đó là
một con chiên tự nhận là thuộc con cháu nhà Lê[30]
Vì thế - Linh mục Legrand và Gíam mục Retord cả hai đều truyền đạo ở Bắc-
đều là những luật sư triệt để ủng hộ chế độ thuộc địa võ trang cả đổi
triều đại. Vấn đề này, ý kiến của Giám mục Pellerin không rõ, không có
liên hệ đến tên “Con cháu nhà Lê “ – Giáo khu Ông ta ở Nam- Giám mục tỏ
vẽ khá dửng dưng về việc thay đổi triều đại.
Trong bản điều trần, ông ta, khuyên thay đổi triều đại hiện giờ “bị
dân chúng căm ghét” bằng một triều khác, chắc triều sau sẽ biết ơn nước
Pháp về việc lập nên nó.
Trong lời thuyết trình bằng miệng trước Ủy Ban Nam Kỳ, y xác nhận
rằng việc gia đình của triều trước trở lại có thể xảy ra, nhưng ông ta
không tránh né các khó khăn, họ đang duy trì, do chế độ nhiều vợ, mà
theo y có độ 3000 người đều muốn giữ ngôi vua. Vì thế, ông ta không
chống đối việc giữ triều hiện giờ, miễn là, dĩ nhiên tìm ra kẻ nối ngôi
Tự Đức là kẻ chấp nhận nền bảo hộ Pháp và quyền thiêng liêng của những
thừa sai.
Ủy ban chấp nhận hoàn toàn quan điểm các thừa sai, đồng thanh
ủng hộ thiết lập chế độ bảo hộ vì nó chứa đựng các điều kiện thuận lợi
cho quyền lợi Pháp và vì nó là biện pháp không khó thực hành .[31]
Để bắt đầu, người ta đề nghị, vẫn luôn luôn theo ý kiến của các người
truyền giáo, chiếm ba kinh đô Huế, Hà Nội, Sài gòn và cảng Đà Nẵng.
[32]
Các cuộc thảo luận của Ủy ban đã đem lại vài ý kiến chính :
1- Việc lo chiếm thuộc địa thật rõ ràng , đại diện bộ
Thương mại Fleury, nhấn mạnh mãi về “sự lợi ích, cần thiết nữa, cho kỷ
nghệ chúng ta, vì việc có thị trường và nơi tiếp tế mới “ và báo cho ủy
ban biết là có nhiều chủ tàu ở các cảng Pháp, đặc biệt là Nantes bày tỏ
ý định phái tàu chở đầy qua Đông dương cùng ý muốn của họ cần sự bảo vệ
và bảo đảm an ninh của chính phủ Pháp trong miền đó"
[33]
2- Những quyền lợi vật chất không phải là động cơ duy
nhất thúc đẩy Ủy ban chấp nhận kế hoạch chiếm đóng thuộc địa tại Việt
Nam. Còn nhiều lý do khác hổ trợ. Trước hết lý do uy tín do Cintrat chủ
trương và theo Branchswig đó là nổi bận tâm chính của chính sách thực
dân của các vua Pháp
[34]. Trung thành với đường lối ngoại giao Pháp thời đó,
Cintrat hoài nghi về ích lợi vật chất mà thuộc địa Đông Dương đem lại,
nhưng y công nhận cần phải bảo vệ uy tín quốc tếmà nền đế chế vừa mới
đạt được ở Crimée và cần phải thỏa mãn niềm tự hào dân tộc bị xúc phạm
bởi sự thất bại mới đây của phái bộ Montigny. Chính Fleury cũng công
nhận, theo y và căn cứ vào những gì sắp xảy ra ở Trung quốc, các lý do
quyết định để thi hành kế hoạch đều hoàn toàn chính trị.
Kế đến, điều nầy còn quan trọng hơn nhiều, đó là tư tưởng về tính
cách hơn hẳn của đạo Thiên Chúa, của văn minh Tây phương và giòng giống
Châu Âu. Tư tưỏng này nó là một tín điều của văn hóa phương tây ở thế kỷ
19 và chúng ta đã phân tích trong phần mở đầu, được chủ tịch Brerier
diển đạt trước ủy ban : “ Các sự đàn áp các nhà truyền giáo chúng ta,
các quyền lợi buôn bán chúng ta, và tính cách hơn hẳn của các nguyên lý
văn minh chúng ta đối với các giống người và các chính phủ dã man tạo
cho chúng ta quyền đòi những gì mà bọn chúng từ chối trước những đề nghị
hòa bình của chúng ta. Cái mà người ta gọi, với một niềm tự hào chính
đáng, sự chinh phục của văn minh Tây phương chỉ là kết quả tổng hợp của
thuyết phục và sức mạnh : ban đầu là thuyết phục, kế đến là sức mạnh.
Khi cái ban đầu bất lực và cái sau chính đáng “
[35] . Vậy dưới mắt Bá tước Brenier, các cuộc x6m lược của
Châu Âu là cuộc chiếng thắng của văn minh chống lại dã man : “Đừng quên
rằng Châu Âu nghĩa là văn minh đang lên đường chống lại Châu Á đại diện
cho dã man, nó đập khắp nơi trtên các xứ già nua dìm mình trong chế độ
chuyên chế xấu xa nhất ; ở Thỗ Nhĩ Kỳ, ở Ai Cập, ở Ba Tư, ở Án Độ rồi
đến Trung Hoa nền văn minh sẽ ngự trị nhờ chính trị và có khi bất chấp
chính trị. Nước Pháp khnôg thể ngồi yên, bất động….”[36]
Để kết luận, y tuyên bố rằng đó là một nghĩa vụ quốc gia, đối với tôn
giáo văn minh và tương lai Pháp, khi hành động trực tiếp đối với chính
phủ Nam Kỳ và lập một thuộc địa để bảo vệ thích đáng các quyền lợi đó
[37].
Như thế đạo Thiên Chúa trở thành một phần trong toàn thể kế hoạch
thực dân, một chữ C trong “ ba chữ C “ nổi tiếng mà Livingstone chủ
trương : Christianisme ( đạo Thiên Chúa ) Commerce ( thương mại ) ,
Civilisation ( văn minh )
[38].
3- Vì thiếu tài liệu chính xác về Việt Nam, Ủy ban chỉ
dựa theo bằng chứng của các thừa sai. Sự va chạm với thực tế sẽ
cho người Pháp thấy giá trị các bằng chứng đó. Nhưng, như chúng ta sẽ
thấy, chính sách thực dân của Pháp tại Việt Nam là dưa trên những chứng
liệu mà phần nhiều bị sai lầm đó.
Ủy ban chia tay ngày 18-5-1857 va trình thỉnh nguyện lên Hoàng đế
Pháp. Hai tháng sau, ngày 16-7-1857 lần đầu tiên vấn đề Việt Nam được
đưa ra Hội Đồng Thượng Thư. Thái độ các Thượng thư của Hoàng đế Napoléon
thế nào ?
III- THÁI ĐỘ CỦA CHÍNH PHỦ PHÁP.
Trước khi Ủy Ban Nam Kỳ họp, đề nghị của Linh mục Huc đượ Bộ Ngoại
giao nghiên cứu kỹ lưỡng> Một bản điều trần về vấn đề nầy được soạn thảo
và tác giả đặc biệt tỏ ra không tán thành các cuộc viễn chinh xa xôi và
việc lập thuộc địa mới
[39]
1/ BẢN ĐIỀU TRẦN CỦA BỘ NGOẠI GIAO
Trước tiên, bản điều trần bác bỏ mọi xác cứ của LM Huc về quyền của
Pháp đòi thi hành hiệp ước 1787. Về vấn đề này, bản điều trần phân biệt
rõ rệt giữa hành động cá nhân của GM Bá Đa Lộc va sự giúp đỡ chính thức
mà Pháp chưa cung cấp. Vì nước Pháp không có quyền, nên phải dùng sức
mạnh và “ muốn nhờ sức mạnh để chiếm các phần đất đó của xứ Nam kỳ, một
cuộc chiến phi nghĩa có lẽ sẽ kéo dài, dù sau khi chiếm được Đà Nẵng và
có thể lôi kéo chúng ta vào một chuổi hành động khó khăn, chi phí tốn
kém ở vùng đất quá xa xôi “.
Mặt khác, bản điều trần cũng không tán thành việc chiếm Đà Nẵng. Vì
hải cảng này không ích lợi về mặt chiến lược cũng như thuộc địa. Trên
bình diện chiến lược, khi muốn xây dựng các cơ cấu xa xôi như thế thì
việc xây dựng phải gắn chặt vào tư tưởng bao quát, vào một hệ thống lãnh
địa hàng hải va thuộc địa có thể vừa dùng làm điểm liên kết vừa dùng lám
điểm tựa . Nhưng Ile de France đã mất, Đà Nẵng khi ở trong tay Pháp chỉ
là một đồn cô lập, khó bảo vệ và cũng có thể khó giữ gìn, nó không thể
nhận sự giúp đỡ và bảo vệ của Bourbon cũng như của Pondichéry, nhất là
trong chiến tranh trên biển, việc chiếm đóng Đà Nẵng vì thế chỉ là nguồn
rắc rối và nguy cơ, vì nó sẽ phân chia và làm suy yếu hải lực Pháp. “ Vì
cần phải duy trì ở tại điểm thuộc Đông Á này các căn cứ cần cho sự an
ninh thuộc địa chúng ta “.
Về mặt thuộc địa, việc chiếm đóng Đà Nẵng có nguy cơ đem lại cho Pháp
nhiều thất vọng, buồn chán và đáng tiếc. Về điểm này, tác giả bản điều
trần nêu lên một công văn của Conway, toàn quyền Pondichéry gửi cho
Thống chế De Cartres, Thượng thư Hải quân, ngày 20-7-1788, trong đó
Conway mô tả Đà Nẵng như một xứ ngheo khốn khổ, không sản xuất gì cả, có
lẽ ngoại trừ gạo, “ một đảo hoang vu bên cạnh một lục địa hoang vu “. Về
mặt ngoại thương của Nam kỳ, Conway nói rằng : “ nó gần nằm gọn trong
tay người Trung Hoa “, một dân tộc siêng năng và tằn tiện, khéo léo
người Pháp khó mà cạnh trnh nổi, vì thương mại của Pháp tại Nam kỳ gần
như số không, và nhất là thiếu những yếu tố thích đáng để tương lai
thuộc địa Pháp ở đây được phồn thịnh. Chỉ có thể “ càng thêm đáng nghi
ngờ “.
Tác giả bản điều trần đề nghị gì ? Cốt là đừng tạo ảo tưởng về thương
mại pháp ở Đông Á : “Ở Viễn Đông chúng ta chỉ có những quyền lợi nhỏ bé
nếu so sánh với Anh, người làm chủ Ấn Độ và nhiều thuộc địa quan trọng
khác, với Hòa Lan, người làm chủ Java và với Hoa Kỳ mà thương mại với
Trung hoa ngày càng thêm bành trướng. Tại đó, chúng ta chỉ có một địa vị
tương xứng với thế lực thấp kém đó : mà ảo tưởng vấn đề này chỉ có thể
đem lại nguy hại “.
Nếu Pháp không có quyền lợi buôn bán đáng kể ở Đông Á , vậy nó có thể
đóng vai trò gì ở biển Trung Quốc ? “Hiện giờ, sứ mệnh của chúng ta thu
gọn trong vai trò quan sát kỹ lưỡng các biến cố sắp xảy ra ,bảo vệ tích
cực tôn giáo và nhân loại, gây ảnh hưởng văn minh- vì việc thực hiện các
điều đó thuộc nước Pháp- Canh chừng cẩn mật việc thi hành các hiệp ước
và trong mức độ có thể được khuyến khích các cố gắng yếu kém và rụt rè
của thương mại. Chúng ta cũng khuyến khích tất cả nhũng gì có thể cải
thiện tình trạng thương mại trong các vùng xa xôi đó ”. Phái bộ Pháp ở
Trung quốc, các tòa Lãnh sự và các cứ điểm hải quân phải hoàn thành công
việc đó.
Tóm lại, tác giả bản điều trần chỉ theo sát chính sách mà nền ngoại
giao Pháp đương thời đã ấn định, chính sách cho các vấn đề thuộc địa ở
Đông Á chỉ là phụ, và cũng vô nghĩa đối với các vấn đề chính trị ở Châu
Âu. Các vấn đề kinh tế không làm bận tâm mấy các người trách nhiệm nền
ngoại giao Pháp : chỉ có Châu Âu mới đáng được họ chú ý. Vì thế, tác giả
bản điều trần bác bỏ các đề nghị của LM Huc, họ “ không thể chấp nhận
được về mặt luật pháp và về mặt hiệp ước cũng như về mặt ích lợi va càng
ít cần thiết hơn “. Theo tác giả, người pháp có khá nhiều vấn đề và công
việc ở Châu Âu, ở Cận Đông, ở Mỹ, ở Algérie để vòn nghỉ đến việc lao
mình vào nơi khác trong những công việc bấp bênh, để còn nghỉ đến việc
tạo ra “do chính bàn tay chúng ta, ngay giữa vùng biển Ấn Độ và Trung
Hoa, các nguồn lo âu và rắc rối mới cho Pháp “. Chúng ta không biết được
ý kiến riêng của Thương thư ngoại giao về bản điều trần, Nhưng chúng ta
không thể không tháy tài liệu đó thật là rất thích thú, vì nó phản ảnh
trung thực chính sách đại cương của Bộ Ngoại giao thời đó, một chính
sách chúng ta hãy nhắc lại, chống đối việc viễn chinh đến thuộc địa xa
xôi.
2/ THÁI ĐỘ CÁC THƯỢNG THƯ CỦA NAPOLÉON III
Vì vấn đề này, có một lá sớ rất đáng quan tâm do Quận công Walewski
đệ cho Napoléon III ngày 16-7-1857, trong đó viên Thượng thư Ngoại giao
tường trình lên Vua kết quả cuộc thảo luận tại nội các về vấn đề Nam kỳ
[40].
Ngay trong câu đầu Walewski đã cho biết rằng các đồng sự của ông “ không
tán thành vấn đề Nam kỳ “.
Thượng thư Tài chánh Fould nói rằng ông ta không biết Nam kỳ ở đâu và
đó là cái gì ! Mặt khác, với tư cách Thượng thư Tài chánh, ông tuyên bố
không tán thành một chi phí 6 triệu đồng.
Một Thượng thư khác, Billaut khuyên đừng thèm để ý đến những gì mà
các thủy thủ và người truyền giáo nói – nghĩa là những người đã ở tại
chổ đó – vì những gì họ nói “ không thuộc về lương tri “ .
Abbatucci cho “ kế hoạch đó là một dự định phát xuất từ đầu óc của
những thừa sai và âm mưu tối tăm của Dòng Tên “. Còn Roland,
Thượng thư Bộ Tôn giáo thì “ vội vã minh oan không dính líu đến mọi sáng
kiến và cả mọi sự đồng lõa về một vấn đề có thể đụng chạm đến quyền lợi
Giáo hội “.
Roulier thừa nhận có quyền lợi buôn bán và chính trị nhưng lại hoài
nghi về các điểm khác. Chỉ có Thống chế Vailland thấy đây là cơ hội
thuận tiện để thực hiện ít nhất là một lần và “ Cầu May “ cái mà nước
Anh “ Không ngày nào là lhông làm “ Vì thế chúng ta không sợ làm thiệt
hại đến quyền lợi Anh, vì Anh không có mặt.
Còn Thượng thư Bộ Hải quân và Bộ Thuộc địa, Đề đốc Hamelin lại tỏ ra
hoài nghi hơn ai hết. Ông tỏ vẻ hoài nghi về ý kiến các đại diện của
Napoléon III, các chứng cớ của Ủy ban, tất cả những gì làm nền tảng cho
ý kiến Vua. Ông không tí nào về kết quả kinh tế của sự vụ. Một thị
trường quan trọng ? Phải… “cho vàng chúng ta “-Ông nói.
Để kết luận, Walewski nhắc hội đồng rằng Napoléon III đã “ cân nhắc
kỹ vấn đề “ và đây không phải là sự chuẩn bị lớn lao cho một kế hoạch
chinh phục qui mô vạch sẵn, mà là một cuộc viễn chinh tương đối bé nhỏ
mà người chỉ huy nhận những chỉ thị co dãn để có hành động tùy theo hoàn
cảnh và giới hạn lại, nếu các tin tức sai lầm, việc chiếm Đà Nẵng là để
đền bù các thiệt hại của chúng ta và các bảo đảm cho tương lai “.
Kế hoạch này cách biệt rất nhiều với kế hoạch của Ủy ban Nam kỳ, rồi
cuối cùng được Thượng thư đồng ý, nhất là nó phát sanh từ ý muốn của ông
vua.
Thư của Walewski chi chúng ta nhiều chỉ dẫn. Trước hết, quyết định
can thiệp vào Việt Nam đã có từ ngày đó. Thứ nhì, chỉ có Vua quyết định
mà thôi, khi đưa vấn đề ra cho các Thượng thư, không phải để hỏi ý kiến
mà chỉ để báo tin cho họ về quyết định và ý nghỉ của y. Thứ ba, hình như
Napoléon III không chỉ tuân theo ý tưởng hoàn toàn thực dân. Vì đã có
các vận động của các nhà truyền giáo, vì hạm đội của Đề đôc Rigault de
Genouilly lúc đó đang ở biển Trung Quốc, không xa Việt Nam, vì phải làm
một cái gì, người Pháp liền biểu dương Hải quân ở Đá Nẵng. Những gì tiếp
theo, chúng ta sẽ thấy. Cuối cùng, nổi hoài nghi bao trùm Hội đồng
Thượng thư về việc lập một thuộc địa Pháp ở Việt Nam. Dưới mắt các
Thượng thư “vụ Nam kỳ “ là một vụ cá nhân của vua, một vụ liên hệ đến
quyền lợi Gia Tô hơn là quyền lợi thực dân và chỉ thuộc ý muốn của vua
mà thôi, họ chỉ biết tuân phục.
Cuộc viễn chinh đã quyết định xong, chỉ còn vấn đề thực hiện, ngày
25-11-1857 Đề đốc Regault de Genouilly, chỉ huy trưởng căn cứ hải quân
Pháp trên biển Trung hoa, nhận lãnh các chỉ thị đầu tiên của Bộ.
IV- CHỈ THỊ CỦA ĐỀ ĐỐC RIGAULT DE GENOUILLY.
Viên Chỉ huy Căn cứ hải quân ở Trung quốc có hai mục tiêu : Pháp đòi
Chính phủ Việt nam bồi đền thiệt hại về vấn đề con chiên, lập các liên
lạc giữa Pháp và Việt nam. Nếu các chỉ thị về điểm đầu minh bạch, rõ
ràng thì các chỉ thị về điểm sau co dãn . Theo sát ý tưởng của Napoléon
III, Đô đốc Mamelin ra chỉ thị giới hạn hai giải pháp và tùy Rigault de
Genouilly lựa chọn tùy tình thế.
1/ PHÁP ĐÒI CHÁNH PHỦ VIỆT NAM BỒI ĐỀN THIỆT HẠI VỀ VẤN ĐỀ CON
CHIÊN.
“ Ngài Phó Đô đốc, ý Hoàng thường là muốn chấm dứt sự đàn áp tái diển
mãi không ngừng chống lại các con chiên tại Đông Dương, và bảo đảm cho
họ sự bảo vệ hữu hiệu của Pháp
[41].
Bức công văn của Thượng thư Hải quân và thuộc địa gởi cho đề đốc Rigault
de Genouilly mở đầu như thế, và y cũng được lệnh “ chiếm ngay Đà Nẵng và
đóng giữ tại đó “Công văn chỉ nói đến lý do của viễn chinh, các lý do
khác được trình bày trong văn thư mật mà cùng ngày đó Thượng thư Ngoại
giao gởi cho đồng sự tại Bộ Hải quân, bản sao văn thư này cũng được gởi
cho Đề đốc Rigault de Genouilly cùng lúc với các biên bản của Ủy ban Nam
kỳ. Theo văn thư này
[42]
Đề đốc Rigault trách chính phủ Việt nam không tôn trọng các cam kết đã
ký với Pháp năm 1857 mà cứ đàn áp những người truyền giáo và không chịu
thiết lập với Pháp các “ liên lạc hữu nghị và buôn bán “. Trong tình
cảnh đó, Pháp bắt buộc phải can thiệp để “ bảo đảm quyền lợi đó và quyền
hạn nền văn minh “ Christianisme (đạo Thiên Chúa ) Commerce ( buôn bán )
Civilisation ( văn minh ) . Vẫn là ba chử C nổi tiếng của Livingstone,
đó là các lý do để can thiệp.
2/ CO DÃN CỦA CHỈ THỊ VỀ VIỆC LẬP THUỘC ĐỊA Ở VIỆT NAM.
Một khi đã chiếm được Đà Nẵng, Đề đốc Rigault de Genouilly hãy lựa
chọn, khi đã được các tin tức mong muốn làm sáng tỏ và xét kỷỹ một đằng
là tầm quan trọng củ kết quả thu được, một đằng là các hy sinh cùng cơ
hội có thể có để đạt được, giữa hai điểm này : thiết lập chế độ bảo hộ
hay chỉ ký kết một hiệp ước hữu nghị và buôn bán với các điều khoản đặc
biệt bảo đảm an ninh trong tương laic ho các thừa sai. Trong cả
hai trường hợp “Hoàng thượng muốn để toàn quyền “ cho Đề đốc Rigault
hoặc lựa chọn hình thức bảo hộ, y cho là thíchhợp nhất, hoặc ấn định các
điều khoản hiệp ước ký kết với chính phủ Việt Nam , “ Nhưng không từ bỏ
các khoản cần thiết cho sự phát triển thương mại của chúng ta và an ninh
của nhà truyền giáo “ Dù thế nào, vẫn phải giữ Đà Nẵng để bảo đảm chắc
chắn.
Có hai nhận xét về các chỉ thị này. Trước hết, chúng ta xác nhận
những gì mà Walewsky trình bày trước Hội đồng Thượng thư : Mục đíchcuộc
viễn chinh lhông định rõ mà tùy thuộc tình thế và nhận xét của viên chỉ
huy> Thứ hai, Napoléon III bị lôi cuốn vào một cuộc viễn chinh mà y
không thấy rõ hồi kết thúc. Thật vậy, làm sao khô ng thấy trước rằng chỉ
nội việc chiếm Đà Nẵng cũng có thể đưa nước Pháp vào những hành động
rộng lớnvà quan trọng hơn ? Làm sao có thể nghỉ rằng với một đoàn quân
viễn chinh 1.200 người
[43]
lại có thể đặt chế độ bảo hộ lên một dân tộc 20 triệu dân ?
Đành rằng với một quân số như thế, có thể chiếm Đà Nẵng, nhưng việc
lập chế độ bảo hộ, chắc phải trưng dụng của nước Pháp quá nhiều hơn số
mà Napoléon III nghỉ. Tất cả những điều đó cho thấy người ta đã tự để
cho mình chịu ảnh hưởng bởi những lời khẳng định của các người truyền
đạo đến mức nào . Về điểm nầy nên lưu ý rằng chính Đề đốc Rigault de
Genouilly cũng cảnh cáo Bộ ngoại giao nổi nguy hiểm khi qua tin vào sự
tuyên truyền của các người truyền giáo. Trong thư gởi 24-6-1857 cho De
Lesseps, Giám đốc Cục Chánh trị, Đề đốc viết : “Ở đây tôi nhận thấy
rằngcác nhà truyền giáo Pháp ở Nam kỳvân động ở Ba lê một cuộc viễn
chinh chống lại chính phủ An Nam. Thói quen các nhà truyền giáo là trình
bày mọi việc đều dễ dàng v àchính bằng cách họ đã đẩy ông Lapiere vào
một cuộc viễn chinh mà kết quả khiến chúng ta trở thành lố bịch. Do đó,
nếu muốn làm gì về việc nầy, thì ta phải quyết làm đến cùng và chính phủ
biết rằng mình thiếu sức mạnh để buộc chính phủ Nam kỳ đầu hàng. Không
phải thiếu hải quân mà thiếu bộ binh “. Theo Rigault cần ít nhất “ 1000
lính thủy đánh bộ, hai tiểu đội pháp binh, và một tiểu đội công binh để
chiếm Đà Nẵng, thành trì vở, chiếm tất cả cho đến ngày chính phủ Huế đầu
hàng. Hoặc chúng ta cò thể tính toán để ăn tiệc mừng về việc đó, hoặc
chúng ta lao mình trong những hành động có thể không lấy gì làm vinh dự
và cũng không kết quả ? Đề đốc cũng không quên, để kết luận trình bày ý
kiến căn cứ vào nhận xét tại chổ vì chính y cũng tham gia cuộc viễn
chinh của Lapiere năm 1847
[44].
Căn cứ vào tất cả những gì nói trên, rõ ràng đối với Napoléon III “
vụ Nam kỳ “ trước hết là vụ Gia tô. Tất nhiên tham vọng thực dân không
phải không có trong đầu óc y, nhưng đó không phải là mục đích chánh, về
điểm này, Ý kiến y hết sức lờ mờ. Khi ra lệnh chinh phục Đà Nẵng, y muốn
giải quyết trước hết vấn đề Gia Tô đang làm y bận tâm, vấn đề kia - vấn
đề lập nền bảo hộ -chỉ là phụ và giải quyết ngay tại chổ.
V- TÍNH CHẤT TÔN GIÁO CỦA CUỘC VIỄN CHINH ĐÁ
NẴNG
Cuộc viễn chinh Đà Nẵng vì thế, chính yếu, chỉ thuần tính cách tôn
giáo, đó cũng là ý kiến của Đề đốc Rigault, Thượng thư Hải Quân và thuộc
địa, và của chính phủ Tây Ban Nha. Đó cũng là thuyết chính thức.
1/ Ý KIẾN CỦA RIGAULT DE GENOUILLY.
Khi còn ở Trung quốc, làm Chỉ huy trưởng căn cứ Hải quân Pháp, Đề đốc
Rigault đã tỏ ra nhiệt thành với chính sách ủng hộ quyền lợi Gia tôở
Đông Á. Ngày 27-8-1857, y đã viết thư cho Thượng thư Hải quân và thuộc
địa để trình bài ý kiến đó : “Ông Gros
[45]
đã tìm thấy ở ông Keying các dễ dàng lớn hơn ở bất cứ nhà thương thuyết
Trung hoa nào khác. Để bảo vệ quyền lợi các phái bộ truyền giáo Gia tô ở
Trung quốc và chắc chắn đó là một trong những quyền lợi quan trọng của
nước ta ở vùng nầy. Thật vậy, nếu các nhà truyền giáo Gia tô người Pháp
đã làm công việc đầu tiên là truyền đạo, thì trong vùng nầy của Viễn
Đông họ cũng tuyên truyền tân tuổi và thanh danh củ nước Pháp, họ làm
cho vùng nầy biết đến sức mạnh và sự vĩ đại của Pháp, vinh danh của
Hoàng đế để lãnh đạovà mở ra cho nước chúng ta con đường ảnh hưởng mà
tương lai có thể và phải cho thấy tầm quan trọng và giá trị. “[46].
Rất hết lòng với các đoàn truyền giáo và quyền lợi Thiên Chúa Giáo
[47]
đã nhiều lầnRigault de Genouilly kêu gọi viên Thượng thư chú ý đến “ Sự
đàn áp toàn thể người theo đạo Thiên Chúa ở Bắc kỳ và đến các vận động
của những người truyền giáo ở đây nhất là của GMRetord mà ý kiến đã được
y hoàn toàn ủng hộ “ Bởi thế ngày 8-9-1857 y đã viết cho viên Thượng thư
giữa lúc phái tàu Catinat đến Bắc kỳ để cứuGM Diaz, người Tây Ban Nha bị
nhà cầm quyền Việt Nam xử tử vì xâm phạm luật pháp trong xứ : “Tình thế
thật gấp, việc giải thoát m5ôt GM Gia tô thuộc quốc tịch ngoại quốc sẽ
đáp ứng rất tốt danh hiệu Tổng Bảo Vệ các giáo dân ở Viễn Đông mà
mọi người đã quy cho Hoàng đế Napoléon III, gấp đến nổi toi không do dự
lập tức ra lệnh, chiếc Catinat sẵn sang đi vịnh Bắc kỳ… Tôi không biết
Hầu tước Gros, người chắc chắn có sứ mệnh đòi quyền bất khả xâm phạm cho
các nhà truyền giáo và con chiên Gia tô ở Đế quốc Trung quốc, có được
quyền hành để chăm sóc đến các phái bộ truyền giáo và giáo dân ở Nam kỳ
không . Nếu chưa có, theo tôi, cần phải ban quyền đó cho ông ngay. Hoàng
thượng sẽ được các tín đồ Gia tô và Tin Lành đồng thanh thứa nhận là
người bảo vệ giáo dân Gia tô ở vùng biển Đông nầy, cũng như Hoàng đế
Louis XIV trước kia đã được xem là người bảo vệ con chiên vùng cận Đông
. Theo Đề đốc không thể khước từ “địa vị bảo vệ các quyền lợi Gia tô “
vì nước Pháp không thể tránh trút các nghĩa vụ, từ đó phtá sinh : cần
phải chấm dứt các cuộc đàn áp chống lại con chiên – các cuộc đàn áp mà
Pháp không thể tha thứ được vì đã làm thương tổn đến phẩm cách cùng
quyền lợi chính trị của Pháp bằng các cuộc thương thuyết với triều đình
An Nam, trước các cuộc thương thuyết nầy cần phải có cuộc tấn công quân
sự và Đà Nẵng “ vì đó là cách độc nhất để chúng ta được thực hiện và
thành công “[48] Đề
đốc Rigault tỏ vẻ không tán thành kế hoạch xâm lăng Bắc kỳ mà các thừa sai đề nghị, y cũng không nghỉ đến việc thay đổi triều đình đang
trị vì bằng một triều đình Thiên Chúa. Theo y, các hành động đó sẽ tai
haị cho đạo Thiên Chúa ở Đông Á. Theo y, giải pháp đứng đắn cho hoàn
cảnh phải là “ nằm trong một hiệp ước với Nam kỳ để bảo dảm sự tự do
theo đạo Thiên Chúa và đời sống các nhà truyền giáo Châu Âu phỏng theo
hiệp ước mà Hầu tước Gros sắp ký với Chính phủ Trung quốc “ Hiệp ước
được áp đặc bằng sức mạnh sẽ duy trì bằng sức mạnh, nhưng với một mục
đích xác định như thế, sức mạnh nầy có thể vừa phải : 1.200 hay 1.500
lính bộ có lẽ đủ đánh chiếm Đà Nẵng .[49]
Như thế, trước khi nhận chỉ thị đầu tiên, Rigault de Genouilly không
hề nghỉ đến chiếm Việt Nam làm thuộc địa, Trong đầu óc y cũng như trong
đầu óc Bourboulon, Công sứ Pháp ở Ma cao, đây chỉ là một cuộc bảo vệ tôn
giáo chứ không phải là chiếm thuộc địa
[50]
và cả sau khi nhận chỉ thị, hình như ý kiến không thay đổi mấy, Khi
Thượng thư hải quân báo cho y sự tham gia của Tây Ban Nha vào cuộc viễn
chinh Đà Nẵng , y không che đậy sự không đồng ý, vì “ theo tôi, sự giúp
đở trực tiếp của Tây Ban Nha, giả tỉ quan trọng, không đáng mong muốn
mấy, chỉ một lá cờ xuất hiện ở Nam kỳ : cờ chúng ta. Việc đồng minh sẽ
giảm bớt vai trò “ người bảo vệ đạoGia tô, chính yếu và duy nhất vốn
Hoàng đế Napoléon III và chỉ có khí giới của Hoàng đế mới được dùng để
đạt được việc bồi thường thiệt hạicủa các tín đồ Gia tô bất luận quốc
tịch nào”[51]
. Lại nữa : “Nếu bàn tay mạnh mẽ của Hoàng thượng ủng hộ quyền lợi của
đạo Gia tô ở đây, trong trường hợp đó, theo tôi, chính bàn tay nhân từ
của Hoàng hậu sẽ làm dịu bớt nổi thống khổ của tín hữư chúng ta…”[52].
Ngoài ra, y còn thú nhận trong văn thư ngày 26-1-1858 là vấn đề bảo hộ
cần được nghiên cứu kỹ, nhưng công việc hằng ngày ở Trung quôc không
cho phép y nghiên cứu .[53]
Y xác nhận lại ý kiến trong văn thư 6-1-1858 “ mục đích ( cuộc viễn chinh
) chính yếu là tôn giáo “.[54]
2 / Ý KIẾN CỦA THƯỢNG THƯ BỘ HẢI QUÂN VÀ THUỘC ĐỊA CÙNG THUYẾT
CHÍNH THỨC.
Trong văn thư 26-2 và 25-3 1857 Đề đốc Rigault tỏ vẻ ít tán thành
việc giúp đở của Tây Ban Nha và muốn chỉ có Pháp mở cuộc viễn chinh Đà
Nẵng , để khỏi phải chia cắt cới Tây Ban Nha các nhuợng địa mà sau nầy
ttriều đình Huế phải chấp nhận.
Thượng thư Bộ Hải quân và thuộc địa đã bác đề nghị đó trong một báo
cáo dâng lên Napoléon III : “Viên tướng lãnh nầy mà thần hết sức khâm
phục về tài quân sự. Đề Đốc Hamelin viết, rất ít biết tiếc kiệm của nhà
nước và thần tin chắc rằng, ông không tiếc tiền nếu ông được ban quyền
tím kiếm, hoặc bằng người hoặc bằng vật chất, mọi phương tiện hành động
mà ông tin mà ông tin cần để chống lại Nam kỳ. Một quyền hạn như thế sẽ
có thể khiến ông vượt quá ý định Chúa Thượng khi gợi ý với ông là bất cứ
giá nào cũng chinh phục Vương quôc An Nam “
[55]
Báo cáo nầy chi hai nhận xét : Thứ nhất, Hamelin phản đối một cuộc
viễn chinh tốn kém, do đó phản đối vụ xâm lăng . Thứ nhì, Y không muốn
đi quá xa trong vụ Nam kỳ và y giải thích ý đồ Napoléon III theo chiều
huớng đó. Được giao trách nhiệm thực hành ý đồ nhà Vua, nên có thể coi
là y biết rõ, tuy nhiên việc cầu cứu đến Đồng minh với Tây Ban Nha thật
có ý nghĩa về mặt nầy :nó cho thấy nổi chủ tâm tôn giáo ngự trị trên mọi
chủ tâm khác. Tây Ban NHa chỉ chống chính phủ Việt Nam vì những thiệt
hại thuộc loại đó.
Thuyết chính thức do báo chí chính quyền đưa ra xác nhận cái nhìn nầy
: Tờ “Le Moniteur Universel cũng đã trình bày vụ Nam ky như là một vụ
can thiệp để đòi sự bao dung tôn giáo và đòi sự bồi thường thiệt hại gây
nên cho các người đại diện nước Pháp “
[56]
“ Chính phủ của vua không thể tha thứ việc các đề nghị của ngài bị bác
bỏ một cách quá khinh mạn cũng như việc yêu cầu của ngài là nguyên nhân
đàn áp “.
Khi dấn mình một cách long trong như thế, theo quan điểm Thiên Chúa
Giáo, chính phủ đế chế đã lao mình vào một cuộc phiêu lưu mà họ không đo
lường được tầm mức to lớn cũng như không liệu trước được hậu quả.
3 / Ý KIẾN CHÍNH PHỦ TÂY BAN NHA.
Ngày 1-1-1857 thượng thư Bộ Ngoại giao Pháp chi thị cho Đại sứ Turgot
tại Tây Ban Nha hỏi chính phủ Madrid là họ có sẵn sàng góp sức với Pháp
để phòng ngừa sự tái diển “những thảm họa" giống như cái chết của Giám
mục Diaz ( Sujet : quan chức ) Tây Ban Nha có nhiều bộ binh ở Phi Luật
Tân, họ vội vàng chấp thuận đề nghị và trước cũng như sau cuộc viễn
chinh, họ không hề trao đổi ý kiến rõ ràng với chính phủ Pháp về cái giá
mà một lúc nhất định nào đó Pháp phải trả cho sự giúp đở của nó. Thái độ
nầy khiến chúng ta nghỉ rằng Tây Ban Nha thấy trong cuộc viễn chinh Đà
Nẵng , một biểu dương lực lượng ủng hộ đạo Gia tô ,mà chính nó, nó cũng
vậy, là kẻ bảo vệ hăng hái. Văn thư sau đây của Bộ ngoại giao xác nhận
quan điểm nầy…” Trong nguyên tắc, chúng ta đề nghị Tây Ban Nha hợp tác
vào cuộc viễn chinh chỉ vì sự xúc phạm gây ra cuộc viễn chinh đã đụng
vào một nhà truyền giáo Tây Ban Nha, đằng khác, vì lúc đó chúng ta không
biết cuộc viễn chinh sẽ kết thúc bằng một hiệp ước với Nam kỳ hay một
vài phần đất nên chúng ta nghỉ rằng chính phủ Tây Ban Nha, dù thế nào
cũng sẽ bằng lòngvới vinh dự loé lên trên khí giới của họ do một cuộc
viễn chinh như thế cùng với chúng ta“
[57]
Đó cũng là giải thích chính thức của Tây Ban Nha . Thật vậy, công báo
Phi Luật Tân ngàt 1-10-1858đã công bố một bức thư gửi từ Đà Nẵng của một
người Tyâ Ban Nha vào hàng quan trọng nhất trong vuộc viễn chinh Liên
minh, trong đó chúng ta có thể chú ý đến đoạn nầy: “ Ngài biết rằng cuộc
viễn chinh Nam kỳ đối với Tây Ban Nha là một vấn đề thuần túy Gia tô…một
chiến dịch thực hiện với mục đích duy nhất ( của Hoàng hậu chúng ta ) là
bảo đảm tự do tôn giáo và đời sống các nhà truyền giáo nhiệt thành…”[58]
Còn Tòa Đại sứ Tây Ban Nha tại Paris đã viết trong thư ngày 4-11-1962
: “ trong lúc thực hiện cuộc viễn chinh nầy, chính phủ của Hoàng thượng
có hai mục đích chính. Muốn góp phần vào việc truyền bá văn minh và ánh
sáng Phúc Âm ở Nam kỳ, đồng thời họ cũng lấy làm vui sướng được đóng góp
phần hành động với chính phủ đế chế “
[59]
Vậy Đề Đốc Rigault de Genouilly đến Nam kỳ với sứ mệnh chính là bảo
vệ, bằng đại bác và tàu chiến, các lời của Thánh kinh và mang lại cho
dân tộc Việt nam ánh sáng văn minh. Chắc Ý cũng nhân dịp nầy thăm dò các
cơ hội thiết lập chế độ bảo hộ, nhưng đó chỉ là một mục đích hoàn toàn
phụ thuộc .
GHI CHÚ:
[1] - Chú thích về cuộc viễn chinh Nam Kỳ , thư khố
Bộ Pháp quốc hải ngoại . Aoo (13) hộp 1
[2] - P. Renouvin, Paris, Hachette-1946 tr 66 ( La
question d’Extrême-Orient)
[3] - Thời đó phần đất Việt Nam ở nam sông Gianh,
người truyền giáo và hành khách châu Âu gọi là “ cochinchine “
[4] - Cultri, Histoire de la cochinchine Francaise
Paris, Challamel, 1920 tr 61
[5] - Thư khố Quốc gia ( tài sản Hải quân ) BB4 752B
[7] - Thư của Thượng thư Noại giao gởi cho hai thượng
thư Hải Quân và Thương mại, thư kố Bộ ngoại giao, Châu á , tập
27 tr 300
[8] - Thư khố phái bộ truyền giáo nước ngoài, thư
Linh mục Huc gởi linh mục Liboisu, do Franchini dẫn, căn nguyên
vụ Nam kỳ. Luận văn Cơ học Sorbonne.
[9] - Thư khố Phái bộ truyền giáo nước ngoài, thư gởi
giám mục Thomine Desmazures, 30-7-1858 do Franchini dẫn SĐD
[10] - Thư khố Bộ Ngoại giao tập 27
[11] - Chúng tôi tìm thấy ở Aix-En-Provece, trong thư
khố Trung ương Đông phương, tài sản của Đề đốc Ii. 106/i
[12] - Univers 3-12 và 7-12-1857
[13] - Univers 28-29-30-4-1857
[14] - Correspondan, 25-12-1857, chú ý rằng phe tự do
của Nhật báo Debats không hoàn toàn chống đối chính sách xâm
lược, nhưng họ lai chú ý trước quyền lợi kinh tế, do đó họ hơi
ôn hòa. Những người khác như Ch.Lavollée , chỉ trích các người
truyền đạo và buộc tội họ muốn một cuộc thánh chiến để cứu vớt
giáo hội mới sinh của họ, “Một quốc gia Gia tô muốn truyền đạo
bằng khí giới cầm tay, sẽ có thể bị lôi kéo đi xa hơn. Từ Nam Kỳ
, phải đi đến Nhật v.v…(Ch. Lavollée chính sách ở châu Á)
[15] - Biên bản phiên họp đầu ủy ban Nam kỳ, thư khố
quôc gia, (tài sản Hải quân) BB4 752B
[16] - Thư Giám mục Retord gởi Klezkowsky, chép lại
trong công văn12-10-1857 của đề đốc Rigault de Genouilly, thư
khố quốc gia (tài sản hải quân ) BB4 752
[17] - Biên bản phiên họp thứ hai, ủy ban nam kỳ
[18] - như trên, cũng xin biên bản phiên họp thư ba,
trong đó fleury trình bày lợi ích buôn bán.
[19] - Biên bản buổi họp lần thứ ba , Ủy ban Nam kỳ
[20] - Xem công văn số 31-12-1855 của phái đoàn Pháp
ở trung quốc gởi Bộ ngoại giao, Trung Quốc 1855-1856 tập 17 .
[21] - Thư giám mục Retord gởi Klezkowsky trong công
văn 12-10-1857 của đề đốc Rigault de Genouilly, thư khố quốc gia
( tài sản hải quân ) BB4 752
[22] - Biên bản phiên họp thứ ba , UBNK
[23] - Biên bản phiên họp thứ ba , UBNK
[25] - Legrand de la Liraye, luận văn đã dẫn
[26] - Thư của giám mục Retord gởi Kleckowsky , Đd
[27] - Trả lời của LM Huc , Biên bản phiên họp thứ
năm, UBNK
[28] - chế độ quân chủ nhà Nguyễn không có tể tướng
[29] - Biên bản phiên họp thứ sáu . UBNK
[30] - Triều Lê trước triều Nguyễn , Xin xem công văn
31-12-1855 của phái đoàn Pháp tại Trung quốc gởi Thượng thư
ngoại giao. Thư Bộ ngoại giao, Trungquốc 1855-1856 tập 17 ( tin
tức do Linh mục Libois cấp) Cũng xin xem thư của Giám mục Retord
Đd
[31] - Biên bản phiên họp thứ sáu , UBNK
[32] - Các chi tiết khác về kế hoạch viễn chinh do ủy
ban đề nghị 2.6000lính,15 đại bác, 6 pháo hạm, chi phí 2.861.212
Fr
[33] Biên bản phiên họp thứ ba , UBNK
[34] - Branchswig : Hoang đường và thực tế của đế
quốc Pháp Paris. A.Colin 1960 tr10
[35] - Biên bản phiên họp thứ ba , UBNK
[38] - Brunchswig, SĐD tr 9
[39] - Bản trần tình 20-3-1857 thư khố Bộ ngoại giao
Pháp, kỷ yếu và tài liệu Châu Á, tập 23 tr 292 đến 328.
[40] - Giấy tờ chưa xuất bản của Quận công Walewski
do Raindre, Đại sứ Pháp xuất bản . Tạp chí nước Pháp sồ 5 ngày
1-3-1925
[41] - thư khố quốc gia ( tài sản hải quân ) BB1 045
: Thượng thư Bộ Hải quân và thuộc địa gửi Đề Đốc Rigault de
Genouilly ngày 25-11-57
[42] - thư khố Bộ ngoại giao, văn thư chánh trị,
Trung quốc tập 25 ( văn thư của Hầu tước Gros 2-8-58
[43] -trích thư của đề đốc Rigault gởi cho De
Lesseps, Thư khố Bộ Ngoại giao , kỷ yếu và tài liệu, châu tập 27
tr 328
[44] - Hầu tước Gros, công sứ toàn quyền ở Bắc kinh
[45] Rigault de Genouilly gửi thượng thư Bộ Hải quân
và thuộc địạ 27-6-1857, Thư khố quốc gia, (tài sản Hải quân )
BB4 752
[46] - Năm 1848, Giám mục Percadê đề nghi y làm chỉ
huy trưởng cuộc viễn chinh bất chợt ở Đông Á. Được bổ làm chỉ
huy Hạm đội Pháp đi Trung quốc để ủng hộ Hầu tước Gros, ttrước
khi đi, y đến thăm các giám đốc chủng viện của hội truyền giáo
nước ngoài tại Paris ( Cordier, La Politique coloniale de la
France sons le second Empire )
[47] - Đề đốc Rigault gởi Thượng thư Bộ Hải quân và
thuộc địa 8-9-1857 Thư khố quốc gia ( tài sản hải quân ) BB4 752
Cũng xin xem thư cũng cùng tác giả gởi cho người nhân trên
4-10-1857, Thư khố quốc gia.
[49] - Đề đốc gửi Thượng thu Bộ Hải quân và thuộc địa
ngàt 12-10-1857, Thư khố quốc gia, ( tài sản hải quân ) BB4 752.
[50] - Về ý kiến Bourboulon, xin xem văn thư
1-9-1857. Thư khố Bộ ngoại giaoVăn thư chánh trị Trung quốc tập
22, Bourboulon viết như sau cho Thượng thư ngoại giao : “ Tôi
không tin rằng mình lầm…khi nghỉ rằng nền bảo hộ mà Hoàng thương
hạ cố đở đầu và khuyến khích các tiến bộ của đạo Thiên Chúa và
vì thế mà cũng của văn minh thật sự trong vùng nầy là một mục
tiêu rất quan trọng dưới mắt chính phjủ Hoàng thượng “
[51] - Đề đốc Rigault de Genouilly gửi Thượng thư Bộ
Hải quân và thuôc địa , Thư khố quốc gia ( tài sản hải quân )
BB4 760
[52] - như trên , 25-3-1858
[53] - như trên , 26-1-1858
[54] - như trên , 29-1-1858
[55] - Thương thư Bộ Hải quân và thuộc địa dâng lên
Napoléon ngày 13-4-1858 , thư khố quốc gia ( taì sản hải quân )
BB4 770
[56] - Moniteur Universel 25-1, 2-11 , 6-11 , 25-11
,và nhất là 15-12-1858
[57] - Văn thư không đề ngàycủa Bộ ngoại giao về việc
Tây Ban Nhahợp tác trong vấn đề Nam ky , Thư khố Bộ Ngoại Giao
,Châu Á tập 27 tr 525-534
[58] - Dẫn trong một thư mật của kẻ vô danh gởi đến
Thượng thư bộ ngoại giao 1-12-1858 như dẫn chiếu trên tr 402
[59] - Tòa Đại Sứ Tây Ban Nha gửi Bộ Ngoại Giao , thư
khố bộ ngoại giao ,châu á tập 28 tr 151-154
Những bài cùng tác giả.