|
đăng ngày 28 tháng
9, 2007
|
Lời Tòa Soạn.-
Gần đây (thế kỷ 21) bỗng nhiên Ca-tô giáo Việt Nam chú ý đến thuyết Tiến
Hóa của Darwin từ thế kỷ 19. SH thấy trên trang
nhà VietCatholic có vài bài viết về Thuyết Tiến Hóa: Bài Nguồn gốc loài
người và thuyết tiến hóa qua cuộc phỏng vấn Giáo sư Yves Coppens, một
chuyên gia hàng đầu về nhân chủng học, bài Một góp ý về thuyết tiến hóa:
Không có Thiên Chúa, thì cũng chẳng có gì cả của Linh mục Nguyễn Hữu
Thy, và bài Thuyết tiến hóa không đáp ứng được mọi câu hỏi của con người
của Tiến Nhân, viết về quan điểm của Benedict XVI về Thuyết Tiến Hóa.Nhận
thấy những bài này có ích cho sự hiểu biết của chúng ta về Thuyết Tiến Hóa
tuy rằng có nhiều điều mâu thuẫn trong 3 quan điểm trong ba bài trên.Chúng
ta nhận thấy trong những quan điểm của Linh mục Nguyễn Hữu Thy và của Giáo
Hoàng Benedict XVI có những điều mâu thuẫn, không như quan điểm nhất quán
của Giáo sư Yves Coppens ngoài một điểm nhỏ về “biến cố tình cờ” vì thực
ra không có gì là tình cờ cả, tất cả đều do duyên sinh, đủ duyên thì thành,
hết duyên thì diệt. Bài của Linh mục Thy và của Tiến Nhân có thể có đáp
án qua một nhận định rất sâu sắc sau đây.
Cách đây hơn một thế kỷ, Herbert Spencer, một khoa
học gia nổi tiếng, đã nhận định:
Những người dũng cảm như hiệp sĩbác bỏ thuyết
Tiến Hóa vì thuyết này không có đầy đủ sự kiện chứng minh có vẻ như quên
rằng thuyết Sáng Tạo của họ không được chứng minh bởi bất cứ một sự kiện nào
.”
(Those who cavalierly reject the Theory of
Evolution, as not adaquately supported by facts, seem quite to forget that
their own theory of creation is supported by no facts at all)
SH xin phép được đăng lại ba bài này và không bình
luận để quý độc giả tự nhận định.Để cho được đầy đủ, SH cũng xin phép Gs
Trần Chung Ngọc được đăng lại bài Nguồn Gốc Con Người: Thuyết Tiến Hóa
của Gs vì SH nhận thấy bài này khá đầy đủ và có thể giải đáp những thắc mắc
trong cả ba bài trên.Ngoài ra, để có thể nhận định đứng đắn về các bài
trên, SH xin nhắc để quý độc giả nhớ rằng: Thánh Kinh của Ki Tô Giáo là
những lời mạc khải không thể sai lầm của Thiên Chúa, và trong đó Thiên Chúa
đã sáng tạo ra vũ trụ và muôn loài trong 6 ngày và cách đây khoảng 6000 năm.
VietCatholic News (Thứ Ba 27/05/2008 18:13)
Nguồn gốc loài người và thuyết tiến hóa
Phỏng vấn giáo sư Yves Coppens, chuyên viên cổ nhân chủng học về nguồn
gốc loài người và thuyết tiến hóa
Hồi năm 1974 các nhà khảo cổ và nhân chủng học đã khám phá ra các xương của
một phụ nữ tại miền nam Etiopia và đặt tên cho bà là Lucia.
Trong số các chuyên viên cổ nhân chủng học thuộc nhóm khám phá hồi đó có
giáo sư Yves Coppens. Bà Lucia được xếp loại là ”Australopitecus afarensis”,
sống cách đây 3 triệu năm. Cho tới thời đó đây đã là vết tích cổ xưa nhất
của con người trên Trái Đất.
20 năm sau cũng trong vùng này, người ta tìm thấy bộ xương của một người đàn
ông đầy đủ hơn bộ xương của bà Lucia, và các nhà khảo cổ và nhân chủng học
gọi là ”Chồng bà Lucia”. Người đàn ông này sống cách đây khoảng 3,5 triệu
năm.
Mùa hè năm 2003 người ta còn tìm thấy các xương người cổ xưa hơn nữa tại
nước Ciad bên Phi châu, sống cách đây khoảng 5-7 triệu năm. Cho tới nay đây
đã là các mẫu người cổ xưa nhất mà khoa học biết được.
Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của giáo sư
Yves Coppens, chuyên viên cổ nhân chủng học (paleoantropologia) về nguồn gốc
loài người và thuyết tiến hóa.
Giáo sư Coppens hiện là một trong những nhà cổ nhân chủng học quan trọng
nhất thế giới. Bài phỏng vấn được ông Carlo Dignola thực hiện cho số mới của
nguyệt san ”Sự sống và tư tưởng” của Đại Học Công Giáo Milano, xuất bản năm
hai lần. Giáo sư Coppens dậy môn cổ nhân chủng học và tiền sử tại Collège de
France và khoa nhân chủng học tại Viện bảo tàng quốc gia Lịch sử thiên nhiên
Pháp. Giáo sư là thành viên của Hàn Lâm Viện Khoa Học Pháp.
Trong các năm làm việc bên Etiopia giáo sư đã đưa ra ánh sáng 7 người tiền
sử trong đó có bà Lucia năm 1974, và năm 2000 một mẫu người khác là
”Australopitecuc Orrorin tugenensis”, là móc xích định đoạt của dây xích
nhân chủng này.
Giáo sư Coppens thiết định rằng con người có nguồn gốc cổ
xưa hơn điều người ta tưởng nghĩ rất nhiều và đã có lịch sử dài 3, 4 triệu
năm. Nó đã biến mất khỏi rừng tranh Phi châu nhiệt đới, vì khí hậu thay
đổi và trở thành khó sống, chứ không phải bên Trung Hoa như có người giả
thuyết. Từ đó nó di cư đi khắp mọi nơi, nhưng bắt nguồn từ một giống duy
nhất.
Ngoài ra con người không phát xuất từ ”khỉ” như nhiều người vẫn còn
tin ngày nay.
Hỏi: Thưa giáo sư Coppens, giáo sư khước từ viễn tượng ”Chương
trình thông minh” [alias Thiết Kế Thông Minh]
cho rằng có một bàn tay
vô hình hướng dẫn việc tiến hóa. Nhưng đồng thời giáo sư cũng giả thuyết
rằng sự lựa chọn tự nhiên dấu ẩn một cơ cấu mà chúng ta không biết được.
Giáo sư nghĩ tới điều gì vậy? Một ”con đường thứ ba” hay sao?
Đáp: Vâng, một cái gì tương tự như thế. Tôi đã làm việc bên Etiopia, nhất là
tại miền nam Etiopia, nơi chúng tôi đã tìm thấy bộ xương của bà Lucia, giáp
giới với hai nước Sudan và Kenya. Giữa các năm 1967 và 1976 năm nào tôi cũng
sống nhiều tháng tại vùng này, và trong các cuộc tìm kiếm tôi đã đứng trước
một loạt các lớp di tích khảo cổ tuyệt vời cách đây từ hơn 3 triệu năm cho
tới 1 triệu năm. Trong các vùng đất này tôi đã thấy khí hậu ẩm ướt ngày càng
trở thành khô ráo và tôi quan sát một vài thú vật bị tuyệt nòi: điều này
chứng minh cho thấy một cách hiển nhiên là hệ thống thích ứng của chúng đã
không hoạt động.
Tôi cũng đã chứng kiến nhiều thú vật di cư đi nơi khác
tìm đất sống; nhưng trái lại cũng có một số đông các loài vật khác đã thích
ứng với các điều kiện khí hậu mới. Trong số các sinh vật ấy có con người.
Khi tôi quan sát thấy biết bao nhiêu loài vật ghi nhận ”một sự thay đổi
ích lợi” chính lúc chúng cần đến, thì khó mà có thể nói đó là chuyện tình cờ
được. Đàng khác khi chúng ta nói chuyện với các chuyên viên di truyền học và
sinh học phân tử, thì họ nói: ”Tôi bảo đảm với qúy vị, sự thay đổi là một
tiến trình tuyệt đối tình cờ”. Như thế phải tin cái gì bây giờ? Khi các đồng
nghiệp nói với tôi rằng: ”Ông phải lắng nghe chúng tôi”, thì dĩ nhiên là tôi
đồng ý với họ. Nhưng mà khi tôi là người có 50 năm kinh nghiệm trong lãnh
vực này đưa ra các nhận xét, thì họ cũng phải lắng nghe tôi chứ.
Có một giải pháp có thể, đó là các thay đổi là các biến cố tình cờ, nhưng có
lẽ có một ”kho chứa”: chúng được chất chứa ở trong tế bào một cách thụ động,
và có thể là khi khí hậu thay đổi và sự lựa chọn tự nhiên, thì trong một
chuỗi các thay đổi tình cờ đã được tích trữ đó, nó chọn cái đúng đắn. Tôi
chưa biết cái gì đã thực sự xảy ra, nhưng chắc chắn là khi tôi thấy các thú
vật như: voi, heo, hươu, ngựa thay đổi tất cả các đặc thái vật lý của chúng
trong chiều hướng đúng và vào đúng lúc, thì tôi tự hỏi: lẽ nào tất cả chúng
được hướng dẫn bởi sự tình cờ sao?Người ta có cảm tưởng là có một bí quyết
nào đó.
Hỏi: Phải tìm các ”kho chứa” mà giáo sư giả thuyết đó ở đâu? Bên trong
các yếu tố di truyền hay thế nào?
Đáp: Vâng, có lẽ đúng vậy. Tôi nghĩ giải pháp nằm bên trong phân tử. Ngoài
ra như là chuyên viên cổ nhân chủng học tôi không thể trả lời câu hỏi này.
Chính các nhà sinh học nắm trong tay phương pháp giúp lượng định xem một
điều như thế có được kiểm chứng hay không, hay phải tìm các giải pháp khác.
Nhưng chắc chắn là chúng ta chưa nhận được cơ cấu của sự tiến hóa.
Chúng
ta tất cả đều đồng ý nói rằng nó không phải là một lý thuyết nữa, mà là một
sự kiện, nhưng trên thực tế chúng ta chưa biết nó tiến triển như thế nào.
Hỏi: Thưa giáo sư, giáo sư cho rằng con người đã phát triển tại miền tây
Rift Valley, là vùng cách đây 10 triệu năm đã chia Phi châu thành hai. Nếu
không có sự thay đổi môi trường đó, thì con người đã không bao giờ xuất
hiện. Ngày nay, theo vài học giả thì đang xảy ra một sự đảo lộn khí hậu: nó
có gây ra hậu qủa tai hại đối với cuộc sống của loài người hay có làm nảy
sinh ra một tiến hóa mới hay không thưa giáo sư?
Đáp: Trước hết cần phải nói rằng các thay đổi khí hậu là một sự kiện tuyệt
đối bình thường: nó thường xuyên xảy ra trong bậc thang phát triển của con
người trên Trái Đất này. Nếu nó đã không xảy ra, thì đã không có một sự tiến
hóa nào, để cho các sinh vật trong một môi trường nhất định nào đó được quân
bình. Và khi thế quân bình đó bị bẻ gẫy, thì một vài cá nhân tìm một thế
quân bình mới, bằng cách thích ứng với các điều kiện đã thay đổi. Như thế
chủng loại tiến hóa. Các con người đầu tiên diễn tả câu trả lời cho việc
thích ứng với một môi trường trở thành khô ráo hơn: khí hậu thay đổi đã xác
định một khúc rẽ trong lịch sử các con người đầu tiên. Thề rồi khi con người
có ý thức hơn, với việc suy tư nó đã phát triển nền văn hóa, và văn hóa từ
từ đã khiến cho con người có khả năng không chịu đựng môi trường một cách
thụ động nữa, mà sử dụng môi trường và lợi dụng nó.
Hỏi: Thưa giáo sư chúng ta có bị đảo lộn vì mực nước biển dâng cao hay
không?
Đáp: Từ mười ngàn năm nay các đá băng đang tan chảy và nước dâng cao: mực
nước Địa Trung Hải đã dâng cao hơn 100 mét. Gần thành phố Marseille ở miền
nam nước Pháp, có một cái hang gọi là ”Hang bờ biển”, mà ngày nay nó nằm ở
40 mét sâu dưới mực nước biển. Các bức tường của hang có các hình vẽ. Như
thế mực nước biển đã dâng khá cao. Sự kiện khí hậu từ chỗ thật lạnh trở
thành dịu hơn đã khiến cho nhiều loại ngũ cốc như lúa mì, lúa mạch và lúa
miến phát triển và mọc tốt hơn nhiều, và nó cũng tạo ra vùng đất phì nhiêu
mà chúng ta gọi là “Nửa vành trăng phì nhiêu” trong vùng Cận Đông, bao gồm
từ Ai Cập cho tới vùng Medopotamia, là vùng Lưỡng Hà, tức Iran Irak ngày
nay. Trái lại nhờ có văn hóa, thay vì chịu đựng khí hậu thay đổi, con người
lại sử dụng chính sự thay đổi của khí hậu. Đây đã là giai đoạn định đoạt thứ
hai trong tiến trình phát triển của loài người. Giai đoạn thứ ba đã chỉ bắt
đầu cách đây 200 năm, với hiện tượng dân số gia tăng mau lẹ: vào năm 1815
trên thế giới chỉ có khoảng 1 tỷ người, nhưng chưa đầy 200 năm sau trái đất
đã có hơn 6 tỷ người. Cùng với sự phát triển các kỹ thuật và việc sản xuất
hàng loạt, khí hậu cũng lại có các thay đổi mới, một phần là tự nhiên, nhưng
một phần do chính con người gây ra. Ngày nay các thay đổi khí hậu này khiến
cho chúng ta lo âu, vì chúng ta không thể chế ngự được sự tiến triển của khí
hậu. Nhưng chúng ta phải có khả năng điều hòa việc thải các thán khí như
nidrad carbon và metano vào trong khí quyển.
Hỏi: Giáo sư đã đưa ra giả thuyết liên hệ giữa sự phát triển nông nghiệp
và việc nảy sinh ra chiến tranh. Tương quan đó như thế nào thưa giáo sư?
Đáp: Vào thời du mục chúng ta đã không tìm thấy các dấu vết chấn thương tập
thể. Trái lại từ khi người ta bắt đầu có tư sản là đất đai, thu hoạch, hạt
giống và súc vật, thì cũng có dấu vết của nhiều cuộc tấn kích hơn. Các mồ
chôn tập thể cũng bắt đầu với việc khám phá ra kim loại. Nếu đã không có đủ
các mỏ thiếc và mỏ đồng để làm hài lòng mọi người, thì khi khám phá ra một
quặng mỏ, cần phải tuyệt đối bảo vệ nó, để các dân tộc lân cận không chiếm
hữu được nó. Và cũng từ lúc đó, tức cách đây khoảng 5-6 ngàn năm, chúng ta
tìm thấy các hố đầy xác người. Khi nghiên cứu lịch sử cổ xưa, thì người ta
hiểu lịch sử ngày nay: vấn đề dầu lửa bên Irak cũng y như thế.
Hỏi: Khi nghiên cứu lịch sử cổ xưa của loài người, giáo sư cũng đã cung
cấp các yếu tố giúp hiểu biết hướng phát triển của loài người trong tương
lai, có đúng thế không?
Đáp:
Điều mà tôi nhận thấy sau 3 triệu năm loài người xuất hiện trên Trái
Đất này: đó là trong lịch sử của loài người đã có một sự tiến triển trên tất
cả mọi bình diện. Con người đã tiến triển trong việc đẽo đá, trong các
kỹ thuật, nhưng cũng tiến triển trong cung cách hành xử ngày càng thanh nhã
và văn minh hơn. Nhất là có sự tiến triển trong ”chương trình” tức trong
việc dự kiến: con người có khả năng thấy trước. Chẳng hạn cách đây 2 triệu
năm, ”Homo abilis”, con người khéo tay đẽo đá; rồi đến ”Homo erectus” con
người đứng thẳng biết sáng chế vật dụng có hai mặt, theo hình thể song song
với nhau: nó tỏ ra chuyên môn hơn, sẵn sàng sử dụng vật dụng đó một cách cẩn
thận hơn, trong một thời gian lâu hơn chừng vài tuần. Nghĩa là viễn tượng
thời gian của nó kéo dài hơn. Những người đã trang hoàng các hang đá Lascaux
ở miền Tây nam nước Pháp đã sử dụng một loại bùn trộn lẫn với máu của loài
bò rừng bison: họa sĩ đã có trong đầu óc mục đích vẽ các hình trên vách đá
để chúng có thể kéo dài với thời gian. Ông ta sống trong hy vọng tác phẩm
của mình kéo dài vài năm, hay cả sau cuộc sống của ông nữa. Tác phẩm của một
người luôn luôn kéo dài viễn tượng của nó trong thời gian.
Có một sợi dây nối liền tất cả các lịch sử này:
đó là sự tiến bộ không
thể chối cãi được. Khi nhìn qúa khứ tôi thấy một niềm hy vọng cho tương
lai. Con người sẽ còn tiến bộ trong cung cách hành xử. Điều này đã luôn luôn
xảy ra, và tôi tin tưởng rằng nó sẽ tiếp tục trong tương lai.
15 tỷ năm
lịch sử đã dậy cho chúng ta biết rằng thể chất không ngừng trở thành phức
tạp hơn và tự tổ chức: điều này giúp hé mở cho chúng ta trông thấy một số cơ
phận của loài người còn phức tạp hơn và có tổ chức hơn nữa. Ngày mai của
nhân loại phải là ngày mai của một thể chất suy tư hơn, hay siêu suy tư. Hay
có lẽ tốt hơn phải nói một cách đơn sơ như thế này: đó là ngày mai của thể
chất suy tư. Thiên tài của con người chưa hết gây ngạc nhiên cho chúng ta.
(Avvenire 15-1-2008) Linh Tiến Khải
VietCatholic News (Thứ Năm 06/12/2007 04:24)
Một góp ý về thuyết tiến hóa: Không có Thiên Chúa, thì cũng chẳng có gì
cả
Lm Nguyễn Hữu Thy
Trên nguyên tắc, thì thuyết tiến hóa của vạn vật không hề đi ngược lại đức
tin Kitô giáo cho rằng Thiên Chúa đã sáng tạo nên trời đất và vạn vật; hay
nói cách khác và vắn tắt hơn, đức tin Kitô giáo không phủ nhận thuyết tiến
hóa.
Nhưng nếu sự tương quan giữa thuyết tiến hóa và đức tin về sự sáng tạo vũ
trụ không có được một sự nhận thức rõ ràng, thực tiễn và đúng đắn, thì các
cuộc tranh cãi về sự sáng tạo vũ trụ và sự tiến hóa, về cứu cánh tính
(téléologie) và sự ngẫu nhiên, ở trong thiên nhiên, ở trong xã hội và trong
Giáo Hội sẽ không bao giờ hết sôi nổi.
Trong một cuộc phỏng vấn thăm dò dư luận của viện Gallup-Institut, thì có
tới 50% người dân Hoa Kỳ không tin rằng sự sống con người được bắt đầu từ
trạng thái những tế bào đơn thuần và rồi phát triển liên tục trong thời gian
mà thành. Theo cuộc phỏng vấn thăm dò dư luận của Forsa thì chỉ có 1/3 dân
chúng tin có như vậy.
Ngay ở Vatican, vấn đề này cũng rất được quan tâm theo dõi. Vào tháng 9.2006
tại Castel Gandolfo, sau cuộc họp mặt và hội thảo giữa Đức Bênêđíctô XVI và
các học trò cũ của ngài, người ta đã cho xuất bản một tài liệu nghiên cứu
tựa đề là «Công trình tạo dựng và sự tiến hóa». Thực ra những gợi ý
cho đề tài của cuộc gặp gỡ họp mặt các học trò cũ như trên, là phát xuất từ
Đức Hồng Y Christoph Schönborn, Tổng Giám Mục Wien/Áo quốc.
Chính ĐHY Schönborn, trong một bài báo với tựa đề là «Finding Design in
Nature» đăng trên tờ Báo «New York Times» năm 2005, đã đưa ra một quan
điểm về thuyết tiến hóa như sau: «Sự tiến hóa theo nghĩa một sự xuất phát
chung (của tất cả mọi sinh vật) có thể là một điều đúng, nhưng đó không phải
là sự tiến hóa theo nghĩa của phái Tân Đác-vin, tức một sự diễn tiến tự
nhiên và đột biến của một sự thay đổi tình cờ và của một sự đào thải tự
nhiên. Một hệ thống tư duy phủ nhận hay tìm cách tránh giải thích một sự
hoàn toàn hiển nhiên trong sinh vật học, thì chỉ là một học thuyết, chứ
không phải là khoa học.»
Sự phát biểu của ĐHY Schönborn đã gây nên một sự chú ý rộng lớn trong giới
khoa học trên khắp thế giới: Cách diễn tả quá dè dặt cho rằng thuyết tiến
hóa có thể đúng, cũng như sự sử dụng ý niệm tiếng Anh «design» - mà trong
tiếng Việt có nghĩa là kế hoạch hay chủ đích – làm cho người ta có cảm tưởng
rằng ĐHY Schönborn tìm kiếm sự tương quan đồng thuận giữa Giáo Hội Công Giáo
và cái mà người ta gọi là «kế hoạch chuyển động thông minh», một hình
thức của trào lưu ôn hòa của thuyết sáng tạo. Nếu sau phản ứng về bài báo,
mà Đức Hồng Y rút lại quan điểm của mình về thuyết sáng tạo, về thuyết tiến
hóa và về ý tưởng học của chủ thuyết tiến hóa, thì theo ông Albert Käuflein,
giám đốc trung tâm đào tạo Roncalli ở Krarlsruhe: «Đức Hồng Y lại tạo ra
sự bất đồng mới giữa Giáo Hội với những thành quả theo nhãn quan khoa học về
thuyết tiến hóa». Trong bài thuyết trình về chủ đề «Sự tiến hóa,
Design thông minh, và Tư tưởng về sáng tạo» tại trung tâm đào tạo này
của Giáo phận Freiburg, Dr. Helmut Hoping, giáo sư về Tín Lý, đã đưa ra
những suy tư dựa theo tài liệu cuộc họp mặt của các học trò cũ Josef
Ratzinger «Công trình sáng tạo và sự tiến hóa». Dựa theo Thông điệp
«Humani Generis» của Đức Giáo Hoàng Piô XII, giáo sư Hoping đã nhấn
mạnh: «bao lâu người ta không phủ nhận linh hồn thiêng liêng đã được
chính Thiên Chúa trực tiếp dựng nên, thì thuyết tiến hóa và công trình sáng
tạo không hề có sự mâu thuẫn lẫn nhau.»
Theo giáo sư Hoping, thì những lý thuyết tân thời ngày nay về nguồn gốc vũ
trụ và về sự tiến hóa của sự sống, bác bỏ việc cho rằng công trình sáng tạo
của Thiên Chúa được thu gọn lại chỉ còn là một sự kiện đã xảy ra độc nhất vô
nhị lúc khởi đầu. Để có thể hiểu được lịch sử của vũ trụ và sự tiến hóa phức
tạp của sự sống, thì cần phải suy tư về công trình sáng tạo của Thiên Chúa
như là bản chất đích thực của một sự sáng tạo từ hư không và của một sự sáng
tạo liên tục theo diễn tiến thời gian, nghĩa là «creatio ex nihilo»
và «creatio continua».
Những phân biệt rõ ràng xác thực của giáo sư Hoping đã nói lên nội dung các
tư tưởng của ông, đó là các khoa học tự nhiên tân thời khảo sát nguồn gốc vũ
trụ cũng như sự tiến hóa của sự sống luôn luôn đưa ra những cấu trúc phức
tạp, hoàn toàn thuộc về phương diện vật thể. Tất cả mọi sự tiến triển đều
đặt cơ sở trên một nguyên nhân tác động tự nhiên; Những nguyên nhân cuối
cùng và những nguyên nhân mục đích theo như nền triết học tự nhiên thời
thượng cổ và thời trung cổ nhận thức, thì hoàn toàn xa lạ đối với các khoa
học tự nhiên tân thời. Sau cùng, trong thuyết tiến hóa khoa học không còn
chỗ cho Thiên Chúa nữa và thu gọn toàn bộ thực tại vào vật chất, biến đổi
thực tại thành một thuyết tiến hóa và được coi như ý tưởng học của chủ
thuyết tiến hóa. Chính thuyết sáng tạo cũng là một học thuyết, bởi vì nó
được dựa trên sự trình bày của Sách Sáng Thế về sự sáng tạo.
Còn Giáo Hội ngay từ ban đầu đã có lập trường ngược lại cả hai quan điểm quá
khích trên. Năm 1996, trong sứ điệp của ngài với tựa đề «Hình ảnh con
người theo Kitô giáo và những thuyết tiến hóa tân thời», gửi Hàn lâm
viện khoa học phủ Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh rằng sự giải
thích của khoa học tự nhiên về sự tiến hóa mang nhiều giá trị, chứ không chỉ
là một giả thiết mà thôi. Theo Đức Giáo Hoàng, thì sự giải thích đó là một
«lý thuyết» khoa học tự nhiên, nghĩa là một sự giải thích thực nghiệm khả
kiểm chứng, một sự giải thích mang nhiều giá trị chứ không chỉ là sự giả
thiết hay chỉ là lý thuyết suông và luôn cần đến một sự kiểm chứng khoa học.
Như thế Đức Gioan Phaolô II cùng đồng quan điểm với Đức Piô XII về thuyết
tiến hóa như một giả thiết khoa học có thể công nhận và đồng thuận với những
nhận thức của các khoa học tự nhiên tân thời. Vào giữa thế kỷ XX, chính các
khoa học tự nhiên tân thời đã thành công trong việc đồng hóa được chất DNA
(Desoxyribonucleinacid) của con người trong những yếu tố cấu trúc di truyền
và phân tử của chúng. Tuy nhiên, Đức Gioan Phaolô II hoàn toàn phủ nhận
những chủ trương của thuyết tiến hóa coi tinh thần «chỉ là một hiện tượng
phụ» của vật chất, vì những chủ trương đó không đặt cơ sở trên việc tôn
trọng phẩm giá con người.
Khi dựa theo tài liệu cuộc hội thảo ở Castel Gandolfo, giáo sư Hoping cũng
đã đề cao điểm đó, ông viết: «Cám ơn Chúa là ngoài các hiện tượng vật
chất ra còn có những hiện tượng khác nữa, như cảm giác, sự hiểu biết, sự ý
thức, sự tự do và và các công trình có tính cách sáng tạo như văn chương,
thơ nhạc, nghệ thuật và tiếp đến là tôn giáo.» Nếu các khoa học tự nhiên
cũng định nghĩa những sự kiện đó như là những giả thiết của sự phát triển
vật chất, thì các khoa học đó đã không đưa ra được sự giải thích. Về điểm
này thì sự khảo cứu về não bộ con người trong cuộc thảo luận «Mind-Brain»
cũng bị rơi vào ngõ bí, nếu như cuộc thảo luận muốn tìm cách giải thích sự
diễn tiến sinh-hóa học trong não bộ mà lại loại bỏ hiện tượng tinh thần. Sau
cùng, ở các đại học cũng có những loại khoa học khác nhau phù hợp với sự
phân biệt đó, tức những khoa học quan tâm đến những tương quan khác nhau với
thực tại, đó là: «khoa học», «nghệ thuật», nghĩa là những khoa học tự nhiên
và những khoa học tinh thần, mà vì những khoa học đó, vấn đề ở đây là đòi
hỏi một sự giải thích có tính cách khoa học về phương diện vật chất của con
người, đồng thời liên quan đến ý nghĩa của con người trong toàn thể và trong
phẩm giá của nó.
Qua đó chúng ta thấy rằng công trình sáng tạo «không phải là thành quả do
chúng ta khám pha được khi nghiên cứu về lịch sử vũ trụ. Cụm từ ‘Công trình
sáng tạo’ được dùng để đề cập tới sự tương quan của những diễn biến trong
công việc hình thành vũ trụ với nguyên ủy ngoại tại bên ngoài vũ trụ của nó,
với ý định của Thiên Chúa», đúng lời xác nhận của giáo sư Hoping
Vì thế, là một điều hữu lý khi suy tư và nhận định rằng công trình sáng tạo
của Thiên Chúa là một tác động từ hư không, tức «creation ex nihilo»,
và vẫn tiếp tục trong thời gian, tức «creatio continua», và chính đây
là điểm mà lý trí con người cần phải nại tới để lý giải vấn nạn lưỡng diện
của thuyết tiến hóa đến, tức : Một đàng, tại sao và làm thế nào để lý luận
và cho rằng sự hình thành một vũ trụ đầy phức tạp, nhưng lại hoàn toàn tuyệt
diệu, hoà điệu như thế, lại là một sự kiện tự nhiên, đột biến, chứ không do
một quyền lực ngoại tại nào khác như là tác nhân. Đàng khác, tại sao và làm
thế nào để cắt nghĩa được hiện tượng luôn luôn có sự nẩy sinh tình cảm tính,
sự dụng ý và sự ý thức hay sự tự tín từ diễn tiến thuần tuý vật chất mới,
như là thành quả đột biến của sự biến dịch và sự đào thải tự nhiên.
Nói tóm lại, trong công trình sáng tạo vũ trụ của Thiên Chúa gồm có hai giai
đoạn «creatio ex nihilo» và «creatio continua»; nói cách khác,
vũ trụ vật chất và vạn vật đã được hình thành bởi một quyền lực ngoại tại
như là tác nhân chính, tức Thiên Chúa, và sự hình thành đó vẫn diễn tiến mãi
trong thời gian. Do đó, nếu thuyết tiến hóa được hiểu như «creatio
continua», thì chẳng nhưng không đi ngược lại, nhưng hoàn toàn phù hợp
với đức tin Kitô giáo về sự sáng tạo vũ trụ. Ví dụ: Giáo Hội không hề phủ
nhận giả thiết cho rằng con người phát xuất từ loài khỉ. Nhưng Giáo Hội chỉ
khẳng định rằng một khi con khỉ đã trở thành người, thì nó không còn là con
khỉ nữa, bởi vì con khỉ chỉ là một sinh vật thuần tuý vật chất, trong khi
con người ngoài yếu tố vật chất, còn có linh hồn thiêng liêng và bất tử.
Chính nhờ đặc điểm này con người được gọi là «hình ảnh của Thiên Chúa».
Như thế, điều hiển nhiên là công trình sáng tạo - dù là «creatio ex
nihilo» hay «creation continua» - đều nằm trong lịch trình sáng
tạo vũ trụ của Thiên Chúa; nói cách khác, không có Thiên Chúa, thì cũng
chẳng có gì cả.
VietCatholic News (Chúa Nhật 12/08/2007 12:48)
Thuyết tiến hóa không đáp ứng được mọi câu hỏi của
con người
Tiến Nhân
TREVISO, Itlaia -- Trong cuộc gặp gỡ với 400 Linh mục
của các địa phận Belluno và Trevise, ở Aronzo, ngày 24/7/2007, nhân câu hỏi
của một linh mục về cuộc khủng hoảng của giới trẻ, Đức Thánh Cha Biển Đức
XVI phân tích sự khủng hoảng ý nghĩa nơi các bạn trẻ, cuộc khủng hoảng đôi
khi dẫn đến nạn tự tử. đối với Ngài, thuyết tién hóa không đáp ứng được mọi
câu hỏi của con người, đặc biệt câu hỏi về ý nghĩa của sự sống.
Đức Thánh Cha nói : « trước tiên, chúng ta có cảm tưởng không cần đến Thiên
Chúa, không có ngài chúng ta sẽ tự do hơn, thế giới sẽ thoải mái hơn. Nhưng
rồi sau đó, nơi những thế hệ tiếp theo, người ta chứng kiến những gì diễn ra
khi Thiên Chúa biến mất ».
Đức Thánh Cha nói tiếp : « vấn đề lớn đó là nếu Thiên Chúa không tồn tại và
nếu Ngài cũng không phải là Đấng Tạo Hóa của sự sống của chúng ta, thì trên
thực tế, sự sống không gì hơn chỉ mà một mảnh đơn giản của sự tiến hóa. Nó
không có ý nghĩa tự tại ».
Đối với Đức Thánh Cha, chúng ta phải mang lại ý nghĩa cho nó.
Đức Thánh Cha tiếp đến đã nhắc đến cuộc tranh luận hiện nay, ở Đức Quốc và
Hoa Kỳ, giữa « thuyết tạo dựng » (créationísme) và « thuyết tiến hóa »
(évolutionisme), trong đó người ta đã trình bày hai thuyết này như là loại
trừ lẫn nhau : « ngừơi nào tin vào Đấng Tạo Hóa thì không thể nghĩ đến
thuyết tiến hóa và ngược lại, người nào chủ trương thuyết tiến hóa thì phải
loại trừ Thiên Chúa ».
Đức Thánh Cha cho rằng sự đối lập này là phi lý, nhất là bởi vì tồn tại
nhiều bằng chứng khoa học ủng hộ thuyết tiến hóa như một thực tại mà chúng
ta phải nhìn nhận, như một thực tại làm phong phú sự hiểu biết của chúng ta
về sự sống, về hữu thể. »
Tuy nhiên, đối với ĐTC, « học thuyết tiến hóa không đáp ứng được mọi câu
hỏi, nhất là vấn nạn triết học : mọi sự từ đâu đến ? và làm thế nào mà sau
cùng chúng hình thành nên con người ? » Đức Thánh Cha giải thích tiếp :
« đối với tôi dường như rất quan trọng việc lý trí được mở ra hơn, việc nó
nhìn thấy những dữ kiện này nhưng nó cũng hiểu rằng chúng không đủ để giải
thích tất cả thực tại. ». « tự sâu thẳm, lý trí của chúng ta không phải là
một sự vật phi lý tính, một sản phẩm của cái phi lý tính (l’irrationnel),
nhưng lý trí có trước tất cả, lý trí sáng tạo, và chúng ta thật sự là nét
phản ảnh của lý trí sáng tạo »
ĐTC nhấn mạnh : « Chúng ta được nghĩ đến, được mong muốn. vì thế có một ý
tưởng có trước chúng ta, một ý nghĩa có trước chúng ta, ý nghĩa mà chúng ta
phải khám phá, đi theo và dứt khoát mang lại cho cuộc sống của chúng ta ».
Đối với ĐTC, cái nhìn này cũng cần thiết để hiểu ý nghĩa của sự đau khổ.
Sau hết ĐTC kết luận :Thật quan trọng để giúp cho những bạn trẻ khám phá ra
Thiên Chúa, giúp cho họ khám phá ra tình yêu đích thực, một tình yêu rõ ràng
trở nên lớn lao trong sự từ bỏ, và như thế cũng giúp cho họ khám phá ra điều
tốt lành nội tại của sự đau khổ (la bonté intérieure de la souffrance), điều
làm cho chúng ta tự do hơn và lớn lên ».
Sau đây xin mời quí vị đọc bài của giáo sư Trần Chung
Ngọc về Thuyết Tiến Hóa
NGUỒN GỐC CON NGƯỜI:
THUYẾT TIẾN HÓA
Trần Chung Ngọc
Trước hết, có lẽ tôi cần phải
thú nhận là không có cách nào tôi có thể trình bày đầy đủ về
thuyết Tiến Hóa.Lý do chính là: Tiến Hóa là một quy luật
thiên nhiên trong vũ trụ, và trong gần 150 năm nay đã được
kiểm chứng, phát triển, từ đó giải thích được nhiều điều
trong vũ trụ, thiên nhiên. Ngày nay, thuyết Tiến Hóa bao
trùm rất nhiều bộ môn khoa học. Do đó, không ai có thể tự
cho là mình biết hết về thuyết Tiến Hóa.Một khó khăn khác
tôi vấp phải khi viết về thuyết Tiến Hóa là những danh từ
chuyên môn mà tôi không đủ khả năng để dịch ra tiếng Việt
hoặc không biết là đã được dịch ra tiếng Việt.Vì những lý
do trên, trong bài khảo luận này, tôi chỉ tự hạn trong chủ
đề “Nguồn Gốc Con Người: Thuyết Tiến Hóa”, để
bổ túc cho phần trước: “Nguồn Gốc Vũ Trụ: Thuyết Big
Bang.”.Nhưng ngay khi thu hẹp bài viết trên chủ đề
“Nguồn Gốc Con Người: Thuyết Tiến Hóa”, vì là một bài
viết cho quảng đại quần chúng đọc, cho nên tôi sẽ cố gắng
viết thật đơn giản và tránh đi vào chi tiết cũng như dùng
những danh từ chuyên môn trong thuyết Tiến Hóa.Phần tài
liệu cuối sách có thể giúp quý độc giả đi sâu vào những chi
tiết, nếu muốn.
Với sự hiểu biết hiện nay về nguồn
gốc con người trên trái đất thì Thuyết Tiến Hóa ngày nay
là một sự kiện vững chắc đã được xác nhận bởi nhiều bộ môn
khoa học, và lý trí.Thuyết Tiến Hóa mà chúng ta hiểu
ngày nay là sự tổng hợp của hàng núi những bằng chứng trong
nhiều bộ môn khoa học như Sinh Học, Sinh Hóa Học, Cổ Sinh
Vật Học, Nhân Chủng Học, Di Truyền Học, Khảo Cổ Học, Vật Lý
Học, Vũ Trụ Học v..v.., có những bộ môn mà trong thời của
Darwin chưa được khám phá ra. Xin đừng nhầm lẫn, cho rằng
Thuyết Tiến Hóa là của riêng Charles Darwin.Tư tưởng Tiến
Hóa đã có trong nhân loại từ lâu.Nhưng không ai có thể phủ
nhận là Charles Darwin đã lập thuyết Tiến Hóa một cách khoa
học và từ đó, thuyết Tiến Hóa đã được kiểm chứng và phát
triển như ngày nay.
Tuy nhiên, những thắc mắc muôn đời
như: con người từ đâu mà ra, sau khi chết sẽ đi về đâu
v..v.. vẫn là những mối thắc mắc của con người, ngay trong
thời đại này.Và vì vậy, con người, trải qua nhiều thế hệ
đã đưa ra những giải đáp khác nhau, tùy theo mỗi nền văn
hóa.Những giải đáp thuộc lãnh vực siêu hình dần dần mất
đi tính cách thuyết phục, vì không còn hợp với trình độ hiểu
biết của con người ngày nay.Tri thức con người phát
triển và tiến bộ, từ đó khoa học cũng phát triển theo và con
người không còn tin vào những thuyết lý không thể kiểm
chứng.Con người phải nhờ đến khoa học để tìm hiểu về vũ
trụ, nhân sinh.Khoa học không phản đối niềm tin của bất cứ
ai, mà chỉ tìm cách giải thích những thắc mắc trong thế giới
vật lý của chúng ta, và khoa học sẵn sàng loại bỏ những giải
thích nào không còn hợp thời, không còn đúng với những khám
phá mới trong khoa học.
Cho tới ngày nay, tuyệt đại đa số
trong giới khoa học đã chấp nhận thuyết Big Bang nói về
nguồn gốc của vũ trụ, và thuyết Tiến Hóa nói về nguồn gốc
của con người. Chấp nhận cho đến khi khám phá ra những
bằng chứng mới chứng tỏ toàn bộ thuyết Big Bang và toàn bộ
Thuyết Tiến Hóa không còn đúng. Các khoa học gia công nhận
là trong thuyết Big Bang cũng như trong Thuyết Tiến Hóa còn
có một số nhỏ những chi tiết chưa giải đáp được.Nhưng xét
về toàn bộ thì những thuyết này có tính cách thuyết phục
nhất và các khoa học gia hi vọng trong tương lai, gần hay xa
còn là một ẩn số, họ sẽ tìm ra những manh mối để giải thích
dứt khoát chúng.Những khám phá mới trong nhiều bộ môn khoa
học đã chứng minh được rằng: Không còn nghi ngờ gì nữa,
loài người chúng ta đã tiến hóa từ các dạng sống thấp hơn,
tất cả đều có chung một nguồn gốc xa, rất xa, và do đó liên
hệ đến mọi sinh vật trên trái đất, và tất nhiên liên hệ tới
cả vũ trụ này.
1.ĐẠI CƯƠNG THUYẾT TIẾN HÓA.
Khi nói đến thuyết Tiến Hóa, người
ta thường nghĩ đến Charles Darwin.Thật ra thì Darwin không
phải là người đầu, mà cũng không phải là người cuối, làm cho
thuyết Tiến Hóa trở thành một sự kiện khoa học như hầu hết
các khoa học gia và giới trí thức đã công nhận ngày nay.Vì
thế cho nên tôi nghĩ có lẽ tôi cũng nên nhắc qua đến những
tác giả đã có những tư tưởng về tiến hóa trước Darwin, sau
đó sẽ viết về thuyết Tiến Hóa trong việc giải thích nguồn
gốc con người, và sau cùng nói qua về giá trị và chỗ đứng
của thuyết Tiến Hóa ngày nay trong nhân loại, đặc biệt là
trong những giới hiểu biết.Làm công việc này, tôi vấp phải
một sự bất ngờ rất thú vị.Đó là, nhiều tư tưởng trong Phật
Giáo đã đi trước và rất phù hợp với thuyết Tiến Hóa.
Thật ra, nhiều tư tưởng về tiến hóa
đã có trước Darwin. Ngay từ trước thời đại thông thường ngày
nay (B.C.E = Before Common Era), ở Đông phương chúng ta có
thể thấy tư tưởng tiến hóa trong Áo Nghĩa Thư (800 B.C.E)
của Ấn Độ, trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử và sau được phát
triển bởi Trang Tử, và trong Kinh Dịch.Ở Tây phương, chúng
ta có thể kể Thales, Anaximander (học trò của Thales),
Xenophanes, Anaxagoras, Empedocles, Aristotle, Lucretius.
Trong thời đại thông thường ngày nay (C.E = Common Era) có
Plotinus (205-270 C.E.), Avicenna (980-1037), Leonardo da
Vinci (1452-1519), Carolus Linnaeus (1707-1778), Georges
Louis Leclearc, Comte de Buffon (1707-1788), Erasmus Darwin
(1731-1802), Jean Baptiste de Lamark (1774-1829), đó là chỉ
kể những tên chính.Nhưng đặc biệt nhất là nhiều tư
tưởng trong Phật Giáo, nhất là thuyết Duyên Sinh hay Duyên
Khởi, đã đi trước và rất phù hợp với thuyết Tiến Hóa,.
Ngay cả những phương pháp tu tập trong Phật Giáo cũng là
những quá trình tiến hóa.Nhưng hiển nhiên không có cách
nào tôi có thể đi vào chi tiết của những chủ đề này trong
một bài viết, và ngay trong cả một cuốn sách.
Sau Darwin thì những đóng góp trong mọi
lãnh vực khoa học để kiện toàn thuyết Tiến Hóa thì quá
nhiều, không kể sao cho hết.Vài người được biết đến nhiều
nhất là Teilhard de Chardin, Linh mục dòng Tên;
Ernst Mayr, Giáo sư danh dự đại học Harvard; Stephen
Jay Gould, Giáo sưcác môn Cổ Sinh Vật Học và Lịch Sử
Khoa Học, đại học Harvard; Richard Leaky, nhà Cổ Sinh
Vật Học, Giám đốc Chương trình nghiên cứu những sựsống
hoang dại ở Kenya, và hàng trăm khoa học gia khác trong đủ
mọi bộ môn.Thuyết Tiến Hóa đã được kiểm chứng qua hàng núi
những bằng chứng trong hầu hết các bộ môn khoa học.Nhưng
căn bản thuyết Tiến Hóa của Darwin về loài người là Tiến Hóa
Sinh Học.
Như chúng ta đã biết, nhiều tư tưởng
Tiến Hóa đã có từ trước thời Darwin nhung phải tới năm 1859
Darwin mới đưa ra nền tảng khoa học của thuyết Tiến Hóa được
trình bày trong cuốn Về Nguồn Gốc Các Chủng Loại Do
Chọn Lọc Tự Nhiên (On the Origin of Species By Means
of Natural Selection) và sau đó cuốn Nguồn Gốc Con
Người (The Descent of Man) năm 1871.Nền tảng khoa
học của thuyết Tiến Hóa đã trở thành một cột trụ mà hầu hết
các công cuộc khảo cứu trong nhiều bộ môn khoa học đã xoay
quanh nó, và càng ngày càng làm cho nền tảng này thêm vững
chắc, đúng như nhận định vô cùng chính xác của Linh mục dòng
Tên Teilhard de Chardin trong cuốn “The Phenomenon
of Man”: Thuyết Tiến Hóa là một điều kiện tổng
quát mà mọi thuyết, mọi giả thuyết, mọi hệ thống [kể cả
hệ thống Ki-tô Giáo] phải cúi đầu trước nó và phải phù
hợp với nó nếu chúng muốn được nghĩ tới và coi là đúng.
[Gần đây, có một “lý luận” mà Ki-tô Giáo đưa ra là
thuyết Tiến Hóa nằm trong kế hoạch mầu nhiệm của Thiên
Chúa.Ki-tô Giáo đã nổi tiếng là chống không được thì nhận
vơ làm của mình, cũng như nền Thần Học Ki-tô Giáo Theo Cung
Cách Á Châu đã đang cố sức lấy những cái hay của các tôn
giáo Đông Phương, xào xáo biến đổi và nhận vơ làm của mình]
Then chốt thuyết Tiến Hóa của nhà lập
thuyết Charles Darwin là ở phần cuối tên cuốn sách: Về
Nguồn Gốc Các Chủng Loại Do Chọn Lọc Tự Nhiên (On the
Origin of Species By Means of Natural Selection): “Chọn Lọc
Tự Nhiên”.Có lẽ tôi cần phải giải thích chút ít về ý nghĩa
của “Chọn Lọc Tự Nhiên”.“Chọn Lọc Tự Nhiên” đặt căn bản
trên bốn đề xuất:
1.Các sinh vật sinh sản con cái, chỉ
có một số có thể sống còn và tiếp tục truyền giống.
2.Những sinh vật sống còn có khuynh
hướng thích ứng hơn với những hoàn cảnh xungquanh.
3.Những đặc tính của cha mẹ có tính
di truyền và thể hiện trong con cái.
4.Do dó, từ thế hệ này qua hàng trăm
ngàn thế hệ khác, dòng giõi những sinh vật có khả năng thích
ứng hơn sẽ tồn tại và truyền xuống các đời sau những sắc
thái để thích ứng với hoàn cảnh xung quanh.
Khi các chủng loại truyền giống, bao
giờ cũng có những đột biến di truyền (genetic mutation), tuy
rất nhỏ, từ thế hệ này sang thế hệ khác, biến thiên trên
kích thước, sức mạnh, hình dạng, sự thông minh, sự chịu đựng
v..v.. Sự tiến hóa bao giờ cũng đi theo chiều từ thấp tới
cao, từ những dạng sống thấp của các sinh vật lên những dạng
sống cao hơn dần, cho tới loài người.Do đó, các sinh vật
tồn tại hoặc tuyệt chủng là do khả năng tự thích nghi với
môi trường xung quanh, và mọi sinh vật, trong đó có con
người, đều liên hệ với nhau vì cùng tiến hóa từ những mầm
sống xa xưa.Thuyết này là kết luận khoa học của sự quan
sát lâu dài của Darwin về sự biến thiên của một số sinh
vật.Và trong 150 năm nay, kể từ khi cuốn sách trên ra đời,
dựa vào ý kiến trong thuyết Tiến Hóa trên, nhiều tiến bộ rất
ngoạn mục đã đạt được trong nhiều bộ môn khoa học, những bộ
môn mà chính Darwin cũng không hề biết đến vì chúng chưa
được khám phá ra, những tiến bộ đã làm cho thuyết Tiến Hóa
chính xác về chi tiết hơn và vững vàng hơn.Ngày nay, các
chuyên gia về sinh học và trong nhiều ngành khoa học khác đã
chấp nhận Tiến Hóa là một sự kiện (fact), tuy vẫn còn tranh
luận về một số chi tiết về vấn đề tiến hóa như thế nào
(how), nghĩa là về cơ chế tiến hóa hay sự vận hành của tiến
hóa (mechanism of evolution).
Tuy nhiên, đọc cuốn Nguồn Gốc Các
Chủng Loại, chúng ta thấy Darwin chưa nói đến Nguồn Gốc
Con Người, tác giả chỉ đưa ra một nhận định: “Rồi ánh sáng
sẽ soi sáng nguồn gốc và lịch sử của con người” (Light will
be thrown on the origin of man and his history).Nhưng đọc
cuốn Nguồn Gốc Các Chủng Loại thì ai cũng có thể thấy
rằng thuyết Tiến Hóa của Darwin áp dụng cho mọi chủng loại
có thể dễ dàng áp dụng cho loài người.Và đây chính là điều
mà từ đó Darwin đã gặp mọi sự chống đối từ phía những người
tin vào con người là do một Thượng đế nào đó sáng tạo ra.
Trong cuốn Nguồn Gốc Con Người
(The Descent of Man), Charles Darwin viết:
Kết luận chính đạt tới trong tác
phẩm này, rằng con người có nguồn gốc từ một dạng sống nào
đó thấp hơn, sẽ làm cho nhiều người rất khó chịu, tôi rất
tiếc phải nghĩ như vậy.Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa là
chúng ta đã là hậu duệ của những kẻ mọi rợ.2
Nếu chúng ta dùng hình ảnh của một
cái cây, cây của sự sống (tree of life), còn được biết dưới
tên “cây tiến hóa” (tree of evolution) để biểu thị tất cả sự
sống trên thế gian có cùng một nguồn gốc, thì nhân loại chỉ
là một nhánh nhỏ trên cái cây đó trong số vô vàn nhánh khác
nhau trên cái cây đó.Điều này đã được Giáo sư Trịnh Xuân
Thuận diễn giải đại cương trong cuốn “Sự Vô Tận Trong
Lòng Bàn Tay”(L'Infini Dans La Paume de la Main”) như
sau:
"Tiến hóa từ những cát bụi của
những ngôi sao, chúng ta chia sẻ cùng một lịch sử vũ trụ với
những con sư tử trong những vùng hoang mạc và những bông hoa
tỏa mùi thơm"
(Poussières d'étoiles, nous
partageons la même histoire cosmique avec les lions des
savanes et les fleurs de lavande).
Mầm của sự sống đã có từ khi vũ trụ
này hình thành khoảng 15 tỷ năm trước từ một Big Bang, và
rồi Thái Dương Hệ thành hình cách đây khoảng 5 tỷ năm trong
đó có trái đất mà chúng ta đang sống trên đó.Nhưng mãi
gần đây, khoảng 5 triệu năm trước, cái cây của sự sống trên
trái đất mới tách ra một nhánh đặc biệt, nhánh của loài
người. Sự kiện khám phá bởi khoa học này đã kiểm chứng
ý tưởng tổng quát về Tiến Hóa của Charles Darwin trong cuốn
Nguồn Gốc Các Chủng Loại và nhất là cuốn Nguồn Gốc Con
Người.Loài người có cùng chung một cơ chế vận hành căn
bản về di truyền với tất cả các chủng loại khác, định hình
bởi những lực tiến hóa.Đây là một sự kiện đã được kiểm
chứng.Tất cả những lý thuyết khác về nguồn gốc con người,
nhất là từ những tín điều tôn giáo mà còn một số người vẫn
còn tin cho đến ngày nay, đều chỉ là huyền thoại.
Sự kiện trên bắt nguồn từ sự khám
phá ra “bộ gen” (genome), còn được biết là “mật mã di
truyền” (genetic code) trong cơ thể con người.Điểm kỳ diệu
trong tư tưởng của Darwin là khi hoàn thành những tác phẩm
để đời trên, Darwin không hề có một ý niệm gì về “gen” hay
DNA (Deoxyribose Nucleic Acid), một hóa chất mà cho tới năm
1953 các khoa học gia mới biết là giữ vai trò quyết định
trong cơ chế di truyền.Từ đó, các nhà Di Truyền Học đã so
sánh DNA trong các dân số khác nhau trên thế giới, cộng với
những kết quả đã tìm thấy của các nhàkhảo cứu Cổ Sinh Vật
Nhân Chủng Học(paleoanthropologists) về các di vật của
người đã hóa thạch (fossils)cùng vài bộ môn khoa học khác
như sinh học, sinh hóa học v..v.., ngày nay các khoa học gia
đã có thể biết được khá chính xác về nguồn gốc con người,
nguồn gốc các sắc dân trên thế giới.
Những hiểu biết ngày nay về “bộ
gen” (genome) đã cho phép chúng ta giải thích được
nguồn gốc của con người, lịch sử loài người và bản chất con
người.Những khám phá khoa học này lẽ dĩ nhiên không
phải là được tất cả mọi người chấp nhận.Edward O. Wilson
đã đưa ra một nhận định rất ý nhị: “Có vẻ như là đầu óc con
người (Ki Tô) đã tiến hóa để tin vào các thần chứ không tiến
hóa để tin vào sinh học” (It seems that the human
(Christian) mind evolved to believe in gods.It did not
evolve to believe in biology).Sinh học, cũng như mọi bộ
môn khoa học khác, không thích hợp để cho những tín đồ Thần
giáo tin.
Có lẽ chúng ta cũng nên biết chút ít
về “bộ gen” trong cơ thể con người.“gen” là những đơn vị
di truyền trong mọi sinh vật.“Bộ gen” (genome) của con
người là một tập hợp đầy đủ những “gen” của con người, được
gói ghém thành 23 cặp riêng biệt sắc tố (chromosome).Trong
số 23 cặp này, 22 cặp được đánh số theo kích thước, số 1 lớn
nhất, số 22 nhỏ nhất.Cặp thứ 23 còn được gọilà “sắc tố
định giới tính” (sex chromosome): trong nữ giới gồm có hai
sắc tố X lớn, kích thước trong khoảng giữa số 7 và 8, và
trong nam giới gồm một sắc tố X và một sắc tố nhỏ, Y.Ngày
nay, các khoa học gia đã biết rõ, trong quá trình truyền
giống, nếu sắc tố X của người cha hợp với sắc tố X của người
mẹ thì đứa con sinh ra sẽ là con gái (X,X).Nếu sắc tố Y
của người cha hợp với sắc tố X của người mẹ thì đứa con sinh
ra sẽ là con trai (X,Y).Khám phá này đương nhiên đã bác bỏ
huyền thoại Giê-su sinh ra từ một trinh nữ, bởi phép của Đức
Chúa Thánh Thần (ngôi ba thiên chúa) alias Thánh Linh (Holy
Spirit) alias Thánh Ma (Holy Ghost) [Theo Kinh Tin Kính của
Ki Tô Giáo]. Bởi vì, bằng phép lạ nào đi chăng nữa, nếu
không có tinh khí của đàn ông trong đó có sắc tố Y, thì
Giê-su chỉ có thể là con gái.Đây là một sự kiện khoa
học, sự kiện này chỉ bác bỏ một huyền thoại cổ xưa chứ không
bác bỏ niềm tin vào huyền thoại này của bất cứ ai.Khoa học
chỉ có mục đích gần sát với Phật Giáo: “Như Thực Tri Kiến”,
và khoa học không bắt buộc ai phải tin vào những khám phá
của khoa học.
Trong cơ thể con người có khoảng
một triệu triệu (trillion) tế bào, hầu hết kích thước nhỏ
hơn 1/10 của một milimét (1/10 mm).Trong mỗi tế bào có một
nhân.Trong nhân có hai “bộ gen” (genome) đầy đủ.Một bộ
do người cha , và một bộ do người mẹ truyền xuống.Mỗi “bộ
gen” gồm có khoảng 60000 – 80000 “gen” xây dựng trên cùng 23
sắc tố.Trên thực tế, thường có sự khác nhau vi tế giữa
những “gen” của cha và của mẹ, nguyên nhân của, thí dụ như,
màu mắt khác nhau.Mỗi sắc tố là một cặp phân tử dài DNA.
Trong nhiều thập niên, con người đã
dựa nhiều vào những di vật hóa thạch để lại bởi tổ tiên loài
người đã được tìm thấy để tìm hiểu nguồn gốc loài người.
Nhưng những di vật này không đầy đủ và có những quãng cách
trong quá trình Tiến Hóa nên một số nhà bảo thủ Ki Tô Giáo
đã dựa vào sự thiếu sót này để tấn công, bác bỏ thuyết Tiến
Hóa, và lấp vào những khoảng cách đó bằng sự sáng tạo của
Thượng đế của họ.Tiến thêm một bước trong công việc đi
tìm về nguồn gốc của con người, khoa học gia John Joe
McFadden trong cuốn “Quantum Evolution”, đề nghị, trang 72:
“Để đi sâu vào lịch sử của sự sống, chúng ta cần đào sâu
vào DNA thay vì vào các hòn đá (những sinh vật hóa
thạch)” [To go deeper into the history of life we need to
dig into DNA, rather than rocks].DNA (DeoxyriboNucleic
Acid) là hóa chất trong nhân của mỗi tế bào trong cơ thể của
chúng ta và có tác dụng truyền đi những huấn thị truyền
giống để tạo thành sinh vật từ buổi sơ khai đến ngày nay.
Và quả vậy, trong vòng 20 năm gần đây, các khoa học gia
đã tìm thấy những dấu tích cổ xưa của loài người trong DNA
của những người hiện sống ngày nay.
Mật mã di truyền của loài người, hay
“bộ gen” (genome), thì hoàn toàny như nhau tới 99.9%trên
khắp thế giới [The human genetic code, or genome, is 99.9%
identical throughout the world]
Sự sai biệt còn lại, vào khoảng 0.1%
, trong DNA là nguồn gốc của sự khác biệt cá nhân – thí dụ
màu mắt hay cơ thể dễ bị nhiễm bệnh, và có những DNA vô
dụng, không có một tác dụng gì.Bởi vậy, Phillip Kitcher,
Giáo sư Đại học Columbia, đã viết:“Rất nhiều DNA
trong những tế bào không cần đến – chỉ là đồ vô dụng.Nếu
đó là sự “thiết kế thông minh” [của Thượng đế]
thì Thượng đế cần phải trở lại trường học”
(A lot of the DNA in there is not needed – it’s junk.If
it’s “intelligently designed”, then God needs to go back to
school)
Trong quá trình tiến hóa, một sự đột
biến vô hại (a harmless mutation) có thể xảy ra trong một
trong những DNA vô dụng này, rồi truyền xuống cho tất cả các
hậu duệ.Nhiều thế hệ sau, thấy cùng một sự đột biến, gọi
là dấu tích (marker), trong DNA của hai người thì chúng ta
biết rằng hai người đó có cùng một tổ tiên.So sánh những
dấu tích này trong rất nhiều dân tộc khác nhau, các khoa học
gia có thểtìm ra dấu vết của những liên hệ tổ tiên.Trong
hầu hết “bộ gen”, những sự thay đổi vi tế này thường không
rõ rệt khi “bộ gen” của cha hợp với “bộ gen” của mẹ để sinh
con.Nhưng có hai nơi trong các “bộ gen” thường xuyên duy
trì những sự thay đổi vi tế này.Một gọi là “mitochondrial
DNA” (mtDNA) được truyền xuống đứa con nguyên vẹn từ người
mẹ, và hầu hết các sắc tố Y, sắc tố quyết định sinh con
trai, được người cha truyền xuống nguyên vẹn cho đứa con
trai.So sánh mtDNA và sắc tố Y của người dân trong
nhiều dân tộc khác nhau, các nhà di truyền học đã có thể
biết được đại khái khi nào thì loài người bắt đầu tách ra
thành một nhánh riêng trên cái cây của sự sống hay cây tiến
hóa.
Tìm hiểu về nguồn gốc con người,
không chỉ là các nhà di truyền học, mà các khoa học gia đã
phối hợp kết quả nghiên cứu trong ít nhất là 7 ngành khoa
học có liên hệ với nhau và hỗ trợ nhau:Cổ Sinh Vật và
Nhân Chủng Học (Paleoanthropology), Khảo Cổ (Archaeology),
Di Truyền Dân Số Học (Population genetics),Lịch Sử Ngôn
Ngữ Học (Historical linguistics), ngành khảo cứu về các Động
Vật Linh Trưởng (Primatology), Nhân Chủng Xã Hội (Social
Anthropology), và Tiến Hóa Tâm Lý (Evolutionary
Psychology).Từ những kết quả nghiên cứu này, điều rõ
ràng là, cũng như mọi vấn đề khác trong sinh học, quá khứ và
hiện tại của giống người chỉ có thể hiểu được trong ánh sáng
của Tiến Hóa. [Like everything else in biology, the
human past and present are incomprehensible except in the
light of evolution.Wade, p. 6]
Sự kiện là, ngày nay khoa học đã
giải thích được những sắc thái của các sinh vật, không những
chỉ dựa trên ý tưởng căn bản về sự chọn lọc tự nhiên
(natural selection) của Darwin, mà còn dựa trên những quá
trình sinh học mà chính Darwin cũng không biết tới vì chưa
được khám phá ra và phát triển, thí dụ như sự chuyển giao
các gen (gene transfer), ngành khảo cứu về các sinh vật sống
chung với nhau (symbiosis), sự xếp đặt lại các nhiễm sắc tố
(chromosomal rearrangements), và hoạt động của các gen điều
hòa (action of regularor genes) v..v..Kết quả là, sự phân
tích hiện đại về các gen đã cung cấp những bằng chứng minh
xác lý thuyết của Darwin là mọi chủng loại sinh vật trong đó
có loài người đều được tiến hóa từ cùng những chủng loại tổ
tiên (ancestral species).
Những kết quả nghiên cứu về “bộ gen
“ của các loài khỉ như khỉ không đuôi có dạng giống người
(ape), khỉ đột (gorilla), đười ươi (orangutan), vượn
(chimpanzee), và “bộ gen” của người cho thấy giữa người và
vượn, 99% của “bộ gen” y hệt nhau (identical).Và từ những
kết quả này, đi ngược thời gian, các khoa học gia đã biết
được là khoảng 5 triệu năm trước, nhánh loài người đã tách
ra khỏi nhánh những con khỉ không đuôi trên cái cây tiến
hóa.Sau khi tách ra thành một nhánh riêng, loài người
nguyên thủy tiến hóa dần dần thành động vật đi hai chân và
phát triển thành da đen [bắt đầu ở Phi Châu], mất đi lông
trên người, và bộ óc lớn dần cho đến kích thước ngày nay.
Rồi cách đây khoảng 50000 năm, ngôn ngữ bắt đầu phát triển,
giúp cho loài người sống thành những bộ lạc, cộng đồng
v..v.., và bắt đầu di dân ra ngoài Phi Châu.Đó là đại khái
về nguồn gốc con người.
Ngoài ra, những công cuộc khảo cứu mới
nhất về những con bọ (fruit flies), chương trình khảo cứu
“evo devo” [evolutionary development biology] trong sinh học
về quá trình phát triển tạo ra cơ thể sinh vật và thay đổi
chúng qua thời gian [đại học Wisconsin-Madison] đã chứng tỏ
rõ ràng là loài người có cùng họ hàng không chỉ với những
loại khỉ mà còn với những con bọ, con sâu trong quá khứ xa
nữa (Analysis of the genes that build our bodies show our
clear skinship not just to the apes but all the way back to
bugs, worms and beyond); rồi chương trình điện toán Avida về
các sinh vật tượng trưng bằng số (digital organisms) ở đại
học Michigan, Avida không phải là sự tái tạo tiến hóa trên
máy điện toán mà chính là hiện tượng tiến hóa (Avida is not
a simulation of evolution; it is an instance of it); và
nhiều khám phá mới trong mọi ngành khoa học đã càng ngày
càng cho thấy Tiến Hóa không còn là một lý thuyết mà là một
sự kiện. Kết luận: Không còn nghi ngờ gì nữa, thuyết Tiến
Hóa ngày nay đã không còn là một thuyết, mà đã trở thành một
sự kiện.
2. VÀI NHẬN ĐỊNH NGÀY NAY VỀ
THUYẾT TIẾN HÓA.
Thuyết Tiến Hóa đã trở thành một
sự kiện, tuy nhiên, một số ốc đảo cuồng tín trong Ki Tô Giáo
vẫn còn tiếp tục chống đối thuyết Tiến Hóa, định thay thế
thuyết Tiến Hóa bằng những sản phẩm Thần Học hạ đẳng bắt
nguồn từ niềm tin vào sự “sáng tạo” của Thiên Chúa của Ki Tô
Giáo như “Khoa học Sáng tạo” (Creation Science) hay “Thiết
Kế Thông Minh” (Intelligent design), nhưng tất cả đều đã
thất bại.Ki Tô Giáo ngày nay đang cố gắng đưa ra những
ngụy thuyết để hòa hợp với thuyết Tiến Hóa.Một trong những
ngụy thuyết này là cho rằng thuyết Tiến Hóa nằm trong kế
hoạch của Thiên Chúa, cố tình quên rằng Thánh Kinh đã viết
rõ, sau khi sáng tạo ra vạn vật Thiên Chúa đã tự khen là
những sản phẩm sáng tạo của mình đều rất tốt đẹp (very good)
cho nên không cần phải thay đổi gì nữa, vì là sản phẩm sáng
tạo của một bậc toàn trí toàn năng, và con người đã được
sáng tạo ra theo hình ảnh của thiên chúa...Một trong những
ngụy thuyết này là của Giáo hoàng John Paul II.Chúng ta
biết rằng Giáo hoàng John Paul II đã chính thức công nhận
trước thế giới thuyết Big Bang về nguồn gốc vũ trụ và thuyết
Tiến Hóa về nguồn gốc con người.Nhưng để vớt vát mặt mũi
cho Thiên Chúa của Ngài, ngày 22 tháng 10, 1996, trong một
thông điệp cho Hàn Lâm Viện Khoa Học của Giáo hoàng
(Pontifical Academy of Sciences), Ngài lý luận: “Giữa những
con khỉ tổ tiên và con người hiện đại, có một khoảng bất
liên tục về bản thể, một khoảng trong đó Thiên Chúa đã chích
vào giòng giống các động vật một linh hồn của người” (Matt
Ridley, p. 24:Between ancestral apes and modern human
beings, there was an “ontological discontinuity” – a point
at which God injected a human soul into an animal lineage).
Ngài hi vọng như vậy có thể hòa hợp thuyết sáng tạo với
thuyết Tiến Hóa.Nhưng các khoa học gia lại cho rằng cái
bước nhảy vọt bản thể ấy là lúc mà có thể là 2 sắc tố của
loài khỉ hợp nhất với nhau và những “gen” cho linh hồn nằm
ngay khoảng giữa sắc tố số 2 (Matt Ridley, Ibid.,:Perhaps
the ontological leap came at the moment when two ape
chromosomes were fused, and the genes for the soul lie near
the middle of Chromosome 2)
Trước hàng núi những bằng chứng khoa
học về thuyết Tiến Hóa, một số nhân vật có uy tín trong lãnh
vực tôn giáo như Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục , Mục sư,
học giả v..v.. cũng phải cúi đầu trước thuyết Tiến Hóa,
khoan kể đến giới khoa học gia đã chấp nhận thuyết Tiến Hóa
từ trên trăm năm nay rồi.Sau đây chúng ta hãy đưa ra nhận
định của một số nhân vật tôn giáo cũng như khoa học về
Thuyết Tiến Hóa nói chung, trước những hiểu biết của chúng
ta về Thuyết Tiến Hóa, và trước những bằng chứng trong khoa
học:
1. Giáo Hoàng John Paul II phát biểu
năm 1996:
Thân xác con người có thể không
phải là sự sáng tạo tức thời của Thượng đế, mà là kết quả
của một quá trình tiến hóa dần dần... Những kiến thức mới
nhất dẫn đến việc phải chấp nhận Thuyết Tiến Hóa hơn chỉ là
một giả thuyết.3
2.Linh mục dòng Tên Teilhard de
Chardin trong The Phenomenon of Man:
Tiến Hóa là một thuyết, một hệ
thống, hay một giả thuyết?Nó còn nhiều hơn nữa: nó là một
điều kiện tổng quát mà mọi thuyết, mọi giả thuyết, mọi hệ
thống phải cúi đầu trước nó và phải phù hợp với nó nếu chúng
muốn được nghĩ tới và coi là đúng.. Tiến Hóa là một ánh sáng
soi sáng mọi sự kiện, một đường cong mà mọi đường thẳng phải
theo nó... 4
3.Mục sư Ernie Bringas trong cuốn:
Going By The Book:Past and Present Tragedies ofBiblical
Authority:
Thuyết Tiến Hóa là một trong
những cấu trúc tuyệt vời và thành công nhất của tư tưởng con
người.Mọi ngành khoa học đều tiếp tục ủng hộ và kiểm chứng
quan niệm về sự tiến hóa.Thuyết Tiến Hóa , giống như
Thuyết Tương Đối, không còn là một "thuyết" theo nghĩa thông
thường nữa, mà là một nguyên lý khoa học đặt căn bản trên
rất nhiều bằng chứng không còn phải bàn cãi nữa. 5
4. Giám mục John Shelby Spong trong
cuốn Why Christianity Must Change or Die:
Thuyết Tiến Hóa làm cho Adam và
Eve trở nên may nhất là những nhân vậttheo truyền thuyết.
Thuyết Tiến Hóa không dễ gì cho tổ chứctôn giáo chấp nhận,
và ngày nay vẫn còn những tiếng nói cất lên từ những miền
hẻo lánh của thế giới để chống đối thuyết này.Những tiếng
nói này sẽ không bao giờ thành công.Nhân loại rõ ràng là
tiến hóa theo một quá trình trải dài từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ
năm.Không làm gì có hai cha mẹ đầu tiên (nghĩa là Adam và
Eve. TCN), và do đó cái hành động bất tuân lúc đầu của hai
bậc cha mẹ đầu tiên không thể nào có ảnh hưởng đến toàn thể
nhân loại.Do đó cái huyền thoại về tội tổ tông đã bị một
đòn khai tử, và cái câu chuyện vững chắc về sự cứu rỗi do
những người bảo vệ Ki-tô giáo dựng lên qua nhiều thời đại đã
bắt đầu chao đảo.6
5. Ernst Mayr, Giáo sư danh dự đại học
Harvard, trong cuốn What Evolution Is?:
Tiến Hóa không chỉ đơn thuần là
một ý tưởng, một lý thuyết, hay một quan niệm, mà là tên của
một quá trình trong thiên nhiên. Sự xảy ra của quá trình
này có thể chứng minh bằng tài liệu của hàng núi bằng chứng
mà không ai có thể phủ bác được.Ngày nay,xét đến số
lượng to lớn những bằng chứng đã được khám phá ra trong 140
năm nay để chứng minh sự hiện hữu của tiến hóa, thật là lạc
dẫn khi ta coi Tiến Hóa như là một thuyết.Tiến Hóa không
còn là một thuyết, nó đơn giản là một sự kiện. 7
6. James Birx trong Interpreting
Evolution:
Tiến Hóa là một sự kiện vững
chắc đã được cả khoa học và lý tríxác nhận; nhân loại
chúng ta thì nối kết với sự sống, lịch sử của trái đất,
thiên hà này (giải ngân hà mà thái dương hệ, trong đó có
trái đất, nằm trong đó), và cả vũ trụ.
Có một nền thần học hiện đại nào
mà chấp nhận cả hai quan điểm về vũ trụ và thuyết Tiến Hóa
trong một cách nhìn khoáng đạt và không có huyền thoại về
thế giới?Cuối cùng thìtín lý mù quáng của đức tin tôn
giáo với những câu chuyện đã lỗi thời và những giá trị cận
thị thực sự không còn mấy giá trị nữa; đó chỉ là sự mơ ước
từ đó đặt niềm tin vào sự bất diệt của con người và vào một
vũ trụ tâm linh.8
7. Stephen Jay Gould, trong phần Dẫn
Nhập của cuốn “Tiến Hóa: Sự Chiến thắng Của Một Ý Tưởng”
(Evolution: The Triumph of an Idea), tác giả là Carl Zimmer,
một cuốn sách đi kèm với chương trình dài 8 tiếng đồng hồ
của đài truyền hình PBS về thuyết Tiến Hóa (a companion to
the PBS 8-hour television series on Evolution):
Khoa học, nhưcác chuyên gia
chúng tôi thường vạch rõ, không thể thiết lập sự thật tuyệt
đối; do đó, những kết luận của chúng tôi luôn luôn là có
tính cách không dứt khoát.Nhưng sự hoài nghi lành mạnh này
không cần phải đưa nó đến độ hư vô, và chúng tôi có thể chắc
chắn nói rằng, một số sự kiện đã được kiểm chứng với đủ mức
tin cậy cho nên chúng tôi có thể coi những sự kiện này là
đúng sự thật trong bất cứ nền văn hóa địa phương nào trên
thế giới.(tính phổ quát (universality) của các sự kiện
khoa học. TCN)
Có lẽ tôi không thể tuyệt đối
chắc chắn là quả đất thì tròn thay vì phẳng, nhưng dạng hình
cầu của hành tinh của chúng ta đã được kiểm chứng đủ để cho
tôi không cho phép “cái xã hội của những người tin trái đất
phẳng” được hưởng đồng đều thời gian để dạy thuyết của họ,
hay hưởng bất cứ khoảng thời gian nào, trong lớp dạy về khoa
học của tôi.
Tiến Hóa, quan niệm căn bản của
mọi khoa học về sinh học, đã được kiểm chứng rất kỹ, và do
đó có thể coi như là đúng với sự thật.9
3.-TÓM LƯỢC TỔNG KẾT VỀ CON
NGƯỜI VÀ VŨ TRỤ.
Ngày nay, thuyết Big Bang về Nguồn
Gốc Vũ Trụ và Thuyết Tiến Hóa về Nguồn Gốc Con Người hầu như
đã được toàn thể thế giới chấp nhận, nhất là trong giới khoa
học và giới trí thức hiểu biết.Sau đây tôi xin trình bày
một bảng tóm lược tổng kết về những hiểu biết mới nhất về vũ
trụ và con người.Tất cả những con số chỉ là ước tính,
không phải là những con số chính xác.
13.7 Tỷ Năm Trước:
Vài giây sau Big Bang,dương tử
(proton) và trung hòa tử (neutron) cùng hiện hữu trong nhân
của các nguyên tử đơn giản như hi-dro-gen.30000 năm sau,
các điện tử (electrons) bắt đầu quay xung quanh nhân, tập
hợp với proton và neutron thành những nguyên tử (atoms).
13.5Tỷ Năm Trước:
Những đám mây khí trở thành vô cùng
đặc, tạo thành các sao, họp với nhau thành các thiên hà.
5 Tỷ Năm Trước:
Mặt Trời hình thành trong Giải Ngân Hà
(Milky Way), tạo ra trái đất và các hành tinh, họp thành
Thái Dương Hệ.
4 Tỷ Năm trước:
Các nguyên tử hi-dro-gen và o-xy-gen
nối kết với nhau thành phân tử nước.Nước giúp cho sự tạo
ra những phân tử khác.
3,9 Tỷ Năm trước:
Một loại màng sinh ra bao quanh những
nhóm phân tử và tạo thành những sinh thể đơn tế bào gọi là
vi khuẩn.Các tế bào có tính chất tăng trưởng, tự phân
chia, và xuất hiện trên khắp trái đất.
1 Tỷ Năm Trước:
Những tế bào rong, rêu (algae) sống
cùng với nhau, họp thành loại thực vật đầu tiên.Sự sống
chung này khiến cho mỗi tế bào có một nhiệm vụ riêng biết.
Để cho những nhiệm vụ này không lập đi lập lại, những tế bào
phát sinh ra những chất hormone có thể liên lạc với nhau.
700 Triệu Năm trước:
Nhiều sinh vật đa tế bào phức tạp được
tiến hóa thành, trong đó gồm có con sứa (jellyfish), sinh
vật này phát triển những bắp thịt và thần kinh và các tế bào
có thể liên lạc với nhau hữu hiệu hơn.
570 Triệu Năm Trước:
Những con sứa tiến hóa thành một loại
sâu đầu tiên (flatworm) có những cơ quan như dạ dày và óc,
và một cấu trúc đối xứng (giây thần kinh đi xuống hai bên),
khởi đầu cho những dạng sinh vật cao hơn.
500 Triệu Năm Trước:
Phát sinh sinh vật có xương sống, một
vài sinh vật này là tổ tiên của loài cá mút đá (lamprey)
ngày nay, phát triển ở trong nước.
470 Triệu Năm trước:
Dưới dạng cổ rêu, những dạng sống đầu
tiên rời nước và sống trên đất liền.
100 Triệu Năm Trước:
Loài vật có vú đầu tiên xuất hiện.
Những con khỉ đầu tiên xuất hiện 80 triệu năm sau đó.
100000 Năm Trước:
Loài người tiến hóa với một bộ óc lớn
nhất tính theo tỷ lệ với kích thước của thân thể.
Trên đây là nguồn gốc con người.Nhưng
chúng ta từ đâu đến?Sau đây là tóm tắt những hiểu biết mới
nhất về giống người, theo National Geographic, March 2006:
Các khoa học gia từ trước vẫn cho rằng
các sắc dân xuất xứ từ Phi Châu.Và gần đây các chuyên gia
về Di Truyền Học đã đi tới cùng một kết luận như vậy qua
những khảo cứu về DNA.Theo sự hiểu biết trong giới khoa
học ngày nay thì con người xuất hiện trên khắp thế giới qua
6 giai đoạn di dân:
1.Cái nôi Phi Châu:Hầu hết các nhà
cổ sinh vật – nhân chủng học (paleoanthropologists) và các
nhà di truyền học đồng ý là con người hiện đại bắt đầu xuất
hiện ở Phi Châu cách đây kho ảng 200000 năm.Di vật hóa
thạch của con người sớm nhất được tìm thấy ở Omo Kibish,
Ethiopia.Ở nhiều điểm trên đất Do Thái có nhiều bằng chứng
về sự hiện diện của con người ngoài Phi Châu, nhưng nhóm
người này không di dân xa hơn nữa và tuyệt chủng vào khoảng
90000 năm trước đây.
2.Đi ra khỏi Phi Châu:Những dữ kiện
về di truyền chứng tỏ rằng một nhóm nhỏ con người hiện đại
đã rời khỏi Phi Châu vào khoảng từ 70000 đến 50000 năm trước
đây và thay thế cho những người cổ xưa hơn như Neandertals.
Tất cả những người không phải là Phi Châu đều là hậu duệ của
nhóm người di dân ra khỏi Phi Châu này, có thể theo đường từ
đầu ngọn của Hồng Hải và đi xuống theo một lối mở nhỏ hẹp ở
phía Nam.
3.Những người Úc đầu tiên:Những
khám phá ở hai nơi cổ xưa – những dụng cụ do người làm ra
tìm thấy trong vùng Malakunanja và những di vật hóa thạch ở
hồ Mungo – chứng tỏ rằng con người hiện đại đã theo con
đường bờ biển dọc theo Nam Á và tới Úc khoảng 50000 năm
trước đây.Những hậu duệ của nhóm người này, các thổ dân Úc
(Australian Aborigines), về di truyền, vẫn giữ lại sự riêng
biệt cho đến ngày nay.
4.Những người Âu Châu đầu tiên:
Những nhà cổ sinh vật – nhân chủng học từ lâu đã nghĩ rằng
người Âu Châu theo đường từ Bắc Phi qua Levant.Nhưng những
dữ kiện di truyền chứng tỏ rằng DNA của những người Tây Âu
lai Á (Western Eurasians) thì giống DNA của những người Ấn
Độ.Rất có thể là con người đã di dân từ Á Châu đến Âu Châu
trong khoảng từ 40000 đến 30000 năm về trước.
5.Dân Á Châu:Vào khoảng 4000 năm
trước đây, con người đi đến Trung Á và tới miền cao phía Bắc
Hi Mã Lạp Sơn.Cùng lúc họ đi qua Đông Ná Á và Trung Quốc,
rồi tới Nhật Bản và Siberia.Những bằng chứng di truyền cho
thấy con người ở miền Bắc Á đã di dân đến Mỹ Châu.
6.Tới Tân Thế Giới:Thời điểm chính
xác con người đầu tiên tới Mỹ Châu vẫn còn trong vòng bàn
cãi.Bằng chứng di truyền cho thấy thời điểm đó trong
khoảng từ 20000 tới 150000 năm trước đây, khi mực nước biển
thấp và đất liền nối Siberia với Alaska.Những vùng băng đá
ở Bắc Mỹ bắt buộc những người mới tới Mỹ phải di chuyển
xuống phía Nam..
Trên đây là những gì chúng ta biết
ngày nay về nguồn gốc con người và đại khái là chúng ta từ
đâu đến.Nhưng cũng như mọi ngành khoa học khác, sự hiểu
biết trên không đứng một chỗ, và chúng ta hi vọng trong
tương lai, xa hay gần chúng ta không định đoạt được, càng
ngày chúng ta càng biết nhiều hơn và chính xác hơn về loài
người của chúng ta.
Tôi xin kết bài này bằng một đoạn
của Robert G. Ingersoll đã viết về thuyết Tiến Hóa của
Charles Darwin cách đây hơn một thế kỷ như sau:
“Thế kỷ này (TK 19) sẽ
được gọi là thế kỷ của Darwin.Ông ta là một trong những vĩ
nhân trên trái đất.Ông ta đã giải thích rõ ràng những hiện
tượng về sự sống hơn tất cả những ông thầy dạy của Ki Tô
Giáo.Một bên, viết tên của Charles Darwin, và bên kia viết
tên của mọi nhà thần học từ trước tới nay, và từ tên của
Darwin đã tỏa ra nhiều ánh sáng hơn là ánh sáng của tất cả
các nhà thần học gộp chung lại.Thuyết Tiến Hóa, thuyết
sống còn thích ứng nhất với hoàn cảnh xung quanh, thuyết
nguồn gốc các chủng loại của ông ta đã cất bỏ cái vết tích
cuối cùng củaKi Tô Giáo ra khỏi những người có đầu óc.
Ông ta không chỉ nói lên mà còn chứng minh là những người
được Thần linh khải cho viết Thánh Kinh không biết gì về thế
giới này, về nguồn gốc con người, về địa chất học, về thiên
văn học, về thiên nhiên; rằng Thánh Kinh được viết do sự ngu
si – với sự dọa dẫm để làm cho sợ hãi.Hãy nghĩ đến những
người đã trả lời (phê bình) ông ta.Càng ngu bao nhiêu thì
họ càng hồ hởi làm công việc này.Darwin bị chế riễu, khinh
khi và coi thường bởi thế giới của Ki Tô Giáo, tuy vậy mà
khi ông ta chết, Anh Quốc đã hãnh diện chôn ông ta cùng với
những nhân vật cao quý nhất và vĩ đại nhất của nước Anh.
[Darwin được chôn ngay gần Isaac Newton trong điện
Westminster (Westminster Abbey). Trước sự kiện này, Mục sư
Laing đã phê bình “đây là một bằng chứng chứng minh nước Anh
không còn là một quốc gia theo Ki Tô Giáo nữa” (a proof that
England is no longer a Christian country). TCN]Charles
Darwin đã chinh phục thế giới trí thức, và những lý thuyết
của ông ta ngày nay đã được chấp nhận như là những sự kiện.
Giáo hội Ki Tô dạy rằng con
người đã được sáng tạo ra thật là hoàn hảo [vì theo hình ảnh
của Thiên Chúa], và trong 6 ngàn năm qua đã không ngừng
thoái hóa.Darwin đã chứng minh sự sai lầm của cái tín lý
này.Ông ta chứng minh rằng con người, trong nhiều ngàn
thời đại, đã không ngừng tiến bộ; rằng cái Vườn Eden là
huyền thoại của kẻ ngu; rằng giáo lý về tội tổ tông không có
nền tảng dựa trên sự kiện; rằng chuộc tội là một sự vô
nghĩa; rằng con rắn không có quyến rũ con người ham muốn, và
con người không có “sa ngã”.
Charles Darwin đã phá sập Ki Tô
Giáo.Chẳng có gì khác còn lại ngoài một đức tin vào cái mà
chúng ta biết không thể xảy ra và đã không hề xảy ra.Ki Tô
Giáo và khoa học là kẻ thù của nhau.Một bên là mê tín, bên
kia là một sự kiện.Một bên đặt nền tảng trên sự sai lầm,
một bên trên sự chân thật.Một bên là kết quả của sự sợ hãi
và đức tin, bên kia là sự tìm tòi để hiểu biết và lý trí.
Chúng ta hãy lương thiện.Tất
cả những linh mục ở Rô Ma gộp lại có gia tăng sự phong phú
của tâm linh như là Bruno không?Tất cả những linh mục ở
Pháp gộp lại có góp phần lớn lao nào vào nền văn minh của
thế giới như là Diderot và Voltaire không?Tất cả các mục
sư ở Scotland gộp lại có gia thêm vào kiến thức của nhân
loại như là David Hume không?Những người trong giới chăn
chiên, mục sư, linh mục, giám mục, hống y và giáo hoàng, từ
ngày Giê-su thăng thiên đến cuộc bầu phiếu cuối cùng, có góp
phần vào sự tự do của con người như là Thomas Paine không? –
góp phần vào khoa học như là Charles Darwin không?
Thế giới đã trở thành cái gì
nếu không có những người không muốntin vào Ki Tô Giáo?
10
Chúng ta nên để ý, Ingersoll viết
bài trên vào cuối thế kỷ 19, khi mà Thuyết Tiến Hóa bị Ki Tô
Giáo chống đối dữ dội, dựa trên một số chi tiết trong thuyết
Tiến Hóa chưa thể kiểm chứng được.Với thời gian qua, càng
ngày những kết quả nghiên cứu của các khoa học gia trong
nhiều bộ môn khoa học mà chính Darwin cũng không biết đến
càng chứng tỏ là thuyết Tiến Hóa có một căn bản vững chắc và
có thể giải thích được rất nhiều điều trong nhiều bộ môn
khoa học, nhất là trong Sinh Học, đặc biệt là về Nguồn Gốc
Con Người.
Như trên đã nói, thuyết Tiến Hóa của
Charles Darwin và những phát triển về sau trong nhiều bộ môn
khoa học đã mở mang đầu óc con người rất nhiều và có ảnh
hưởng vô cùng lớn lao trên xã hội loài người.Đi từ thuyết
Tiến Hóa con người đã phát triển ra những bộ môn khoa học có
ích cho con người, nhất là về sinh học, khám phá ra Genome,
DNA, “gen” v…v… và tiến một bước dài trong y học để đối trị
với những bệnh tật như ung thư, AIDS v..v.. mà ngày nay vẫn
còn một số người tin rằng do Thiên Chúa của họ tạo ra để
trừng phạt những đứa con bị Thiên Chúa ghét.
Trong bài viết trên, tôi đã cố gắng
viết thật đơn giản về thuyết Tiến Hóa, không đi vào những
chi tiết chuyên môn thí dụ như sự sao y chính bản
(replication) của các DNA, sự chuyển dịch (translation), sự
tạo ra các RNA từ DNA v..v.. và vô số các hiện tượng khác
trong Sinh Học cũng như chi tiết về “cây Tiến Hóa”.Đây là
những đề tài vô cùng phong phúvà thích thú, cho nên tôi
muốn đề nghị với quý độc giả mấy cuốn sách căn bản, qua đó
quý vị có thể hiểu rõ chi tiết đầy đủ hơn về “Nguồn Gốc Vũ
Trụ” và “Nguồn Gốc Con Người”:
Angela, Piero & Alberto, The
Extraordinary Story of Life on Earth, Prometheus Books,
New York , 1996.
Birx, James, Interpreting Evolution:
Darwin & Teilhard De Chardin, Prometheus Books, New
York, 1991
Davis, Bernard D., The Genetic
Revolution, The John Hopkins University Press,
Baltimore, 1991.
Gould, Stephen Jay, General Editor,
The Book of Life, W.W. Norton & Company, New York, 2001
Gribbin, John, In The Beginning:
After COBE & Before The Big Bang, Little Brown &
Company, New York, 1993
Gribbin, John & Cherfas, Jeremy,
The First Chimpanzee:In Search of Human Origins,
Barnes & Noble Books, New York, 2001.
Leaky, Richard & Lewin, Roger,
Origins Reconsidered: In Search of What Makes Us Human,
Doubleday, New York,1992.
Liebes, Sidney & Sahtouris, Elisabeth &
Swimme, Brian, A Walk Through Time: From Stardust to Us,
The Evolution of Life on Earth, John Wiley & Sons, Inc.,
New York, 1998.
Lockley, Martin, The Eternal Trail:
A Tracker Looks at Evolution, Perseus Books, Reading,
Massachusetts, 1999.
Mayr, Ernst, What Evolution Is?,
Perseus Books, New York, 2001.
Ridley, Matt, Genome: The
Autobiography of a Species in 23 Chapters,
HarperCollinsPublishers, New York, 1999.
Shapiro, Robert, Origins: A Skeptic
Guide To The Creation of Life on Earth, Bantam Books,
New York, 1987.
Singh, Simon, Big Bang: The Origin
of the Universe, Fourth Estate, New York, 2004.
Wade, Nicholas, Before The Dawn:
Recovering The Lost History of Our Ancestors, The
Penguin Press, New York, 2006.
Zimmer, Carl, Evolution: The Triumph
of an Idea, HarperCollinsPublishers, New York, 2001.
*
**
1. George Bernard Shaw in a toast to
Einstein at a black-tie banquet in 1930:Belief in
(Christian) God explains everything about the material
universe, therefore it explains nothing...Religion is always
right, Religion solves every problem and thereby abolishes
problems from the universe....Science is the very
opposite.Science is always wrong.It never solves a
problem without raising ten more problems
2.The main conclusion arrived at in
this work, namely, that man is descended from some lowly
organized forms, will, I regret to think, be highly
distasteful to many.But there can hardly be a doubt that
we are descended from barbarians.
3.The human body may not have been
the immediate creation of God, but is the product of a
gradual process of evolution...Fresh knowledge leads to
recognition of the theory of evolution as more than just a
hypothesis.
4.Is evolution a theory, a system or
a hypothesis?It is much more: it is a general condition to
which all theories, all hypotheses, all systems must bow and
which they must satisfy henceforth if they are to be
thinkable and true.Evolution is a light illuminating all
facts, a curve that all lines must follow...
5.The theory of evolution is among
the most elegant and fruitful structures of human thought...
All scientific disciplines continue to support and verify
the concept of evolution.The theory of evolution, like the
theory of relativity, is no longer a "theory" in the popular
sense, but a scientific principle based on considerable,
indisputable evidence.
6.The theory of evolution made Adam
and Eve legendary at best.Evolution was not easy for the
religious establishment to accept, and still voices are
raised today in remote areas of the world to resit it.
Those voices will never succeed.Human life clearly evolved
over a four-and-a-half-to-five-billion-year process.There
were no first parents, and so the primeval act of
disobedience on the part of first parents could not possibly
have affected the whole human race.The myth was thus dealt
a blow, and the monolithic story of salvation built by
Christian apologists over the age began to totter.
7.Evolution is not merely an idea, a
theory, or a concept, but is the name of a process in
nature, the occurrence of which can be documented by
mountains of evidence that nobody has been able to
refute...It is now actually misleading to refer to evolution
as a theory, considering the massive evidence that has been
discovered over the last 140 years documenting its
existence.Evolution is no longer a theory, it is simply a
fact.
8.Evolution is an established fact
supported by both science and reason; our own species is
linked to life, earth history, this galaxy, and the universe
itself.
Is there a modern theology that
embraces both a cosmic perspective and the evolutionary
framework within an openended and myth-free worldview?
Eventually, the blind dogma of religious faith with its
outmoded stories and myopic values wears very thin, indeed;
it is simply wishful thinking to believe in human
immortality and a spiritual cosmos.
9.Science, as we professionals
always point out, cannot establish absolute truth; thus, our
conclusions must always remain tentative.But this healthy
skepticism need not be extended to the point of nihilism,
and we may surely state that some facts has been ascertained
with sufficient confidence that we may designate them as
“true” in any legitimate, vernacular meaning of the world.
Perhaps I cannot be absolutely
certain that the earth is round rather than flat, but the
roughly spherical shape of our planet has been sufficiently
well verified that I need not grant the “flat earth society”
a platform of equal time, or even any time at all, in my
science class.
Evolution, the basic organizing
concept of all the biological sciences, has been validated
to an equally high degree, and may therefore be designated
as true or factual.
10.This century will be called
Darwin’s century.He was one of the greatest men who ever
touched this globe.He has explained more of the phenomena
of life than all of the Christian religious teachers.Write
the name of Charles Darwin on the one hand and the name of
every theologian who ever lived on the other, and from that
name has come more light to the world than from all those.
His theory of evolution, his theory of the survival of the
fittest, his theory of the origin of species, has removed in
every thinking mind the last vestige of Christianity.He
has not only stated, but he has demonstrated, that the
inspired writer knew nothing of this world, nothing of the
origin of man, nothing of geology, nothing of astronomy,
nothing of nature; that the Bible is a book written by
ignorance – at the instigation of fear.Think of the men
who replied to him.The more ignorant he was the more
cheerfully he undertook the task.He was held up to the
ridicule, the scorn and contempt of the Christian world, and
yet when he died, England was proud to put his dust with
that of her noblest and her grandest.Charles Darwin
conquered the intellectual world, and his theories are now
accepted facts.
The Christian church teaches that
man was created perfect, and that for six thousand years he
has degenerated.Darwin demonstrated the falsify of this
dogma.He shows that man has for thousands of ages steadily
advanced; that the Garden of Eden is an ignorant myth; that
the doctrine of original sin has no foundation in fact; that
the atonement is an absurdity; that the serpent did not
tempt, and that man did not “fall”.
Charls Darwin destroyed the
foundation of Christianity.There is nothing left but faith
in what we know could not and did not happen.The Christian
religion and science are enemies.One is a superstition;
the other is a fact.One rests upon the false, the other
upon the true.One is the result of fear and faith, the
other of investigation and reason.
Let us be honest. Did all the
priests of Rome increase the mental wealth of man as much
as Bruno?Did all the priests of France do as great a work for
the civilization as Diderot and Voltaire?Did all the
ministers of Scotland add as much to the sum of human
knowledge as David Hume?Have all the clergymen, friars,
ministers, priests, bishops, cardinals and popes, from the
day of Pentecost to the last election, done as much for
human liberty as Thomas Paine? – as much for science as
Charles Darwin?
What would the world be if
infidels had never been?
Trang khoa học