CHARLES DARWIN và
THUYẾT TIẾN HÓA
nguồn:
http://www.giaodiem.com/doithoaiIII/09_tcn_darwin.htm
Trần Chung Ngọc
http://sachhiem.net/TCN/TCNkh/TCNkh11.php
- 25 tháng 8, 2007
T
uy đầu đề bài
viết này là “Charles Darwin & Thuyết Tiến Hóa”
nhưng đây không phải là bài viết về thuyết Tiến Hóa.
Tôi sẽ trình bày thuyết Tiến Hóa trong một bài khác.
Trong bài này, tôi chỉ muốn trình bày chỗ đứng của
Darwin, và do đó, thuyết Tiến Hóa, trong thế giới văn
minh tiến bộ ngày nay, dù Darwin và thuyết Tiến Hóa đã
phải đối diện với nhiều chống đối từ phía các tôn giáo
thờ thần. Thật vậy, Darwin và thuyết Tiến Hóa đã thường
xuyên bị chống đối từ phía các “Độc Thần” Giáo như Ki Tô
Giáo, Do Thái Giáo, Hồi Giáo. Hung hăng nhất là vài hệ
phái bảo thủ Tin Lành.
Sự chống
đối phần lớn là từ những tín đồ Tin Lành cuồng tín, đầu
óc thiếu chất oxy nên trở thành oxymoron, cho nên ngày
nay mà vẫn còn tin vào sự hiện hữu của một Thần Cha (God
the Father) “sáng tạo” ra vũ trụ trong 6 ngày, cách đây
khoảng 6000 năm, thấy tác phẩm sáng tạo của mình toàn
hảo (very good), nghĩa là không có gì cần phải thay đổi
nữa, rồi xoa tay ngồi chơi sơi nước ngày thứ bảy; và tin
vào một Thần Con (God the Son) Do Thái, tự leo lên cây
thập giá, “tình nguyện” được đóng đinh để chuộc cái gọi
là “tội tổ tông” không hề có của nhân loại, và cũng
chẳng có ai nhờ vả ông ta, và có khả năng “phán xét”
trong ngày “tận thế” mà đáng lẽ ra đã xảy ra cách đây
gần 2000 năm, theo như những lời phán không thể sai lầm
của chính ông ta, Thần Con (Giê-su) trong Tân Ước, bất
kể là nhân loại, khoảng trên 5 tỷ người, phần lớn
chẳng cần biết ông ta là ai, chẳng coi ông ta ra gì, và
riêng đối với tôi thì tôi không cho phép ông ta phán xét
tôi, dù ông ta có xin phép thì tôi cũng từ chối
(permission to judge denied). Những tín đồ thuộc loại
này cũng còn tiếp tục tin rằng ông ta sẽ phù phép làm
cho sống lại những người đã chết, bất kể là họ chết từ
bao giờ và như thế nào, chết yên lành trên giường hay
tan xác pháo ngoài mặt trận, bất kể là xương thịt của họ
đã rũa nát hay chưa, để cho những người chết này, vì chỉ
cần tin ông ta mà được hưởng một cuộc sống đời đời trên
thiên đường (mù) cùng ông ta. Những đầu óc thuộc loại
này thì miễn bàn, không thể đối thoại, không có cách nào
có thể mở mang thêm, ít ra là về vấn đề tôn giáo.
Khoa học
và “dức tin” khó mà có thể đi cùng trên một lộ trình của
kiến thức và trí tuệ. Tại sao? Vì khoa học là tương
đối, là thay đổi để tiến bộ trí thức, trong khi “đức
tin”, nhất lại là thuộc loại “đức tin” Ca Tô không cần
biết, không cần hiểu [Xin đọc Đỗ Mạnh Tri trong Ngón
Tay và Mặt Trăng], hoặc “đức tin” Tin Lành, tin vào
sự không thể sai lầm (sic) của cái gọi là “Holy Bible”
(sic), thì cố định, tuyệt đối, không bao giờ thay đổi,
không cho phép chấp nhận bất cứ cái gì trái ngược với
những loại “đức tin” đó, bất kể sự hiện hữu của những
bằng chứng khoa học không ai có thể phủ bác. Loại đức
tin này như nước trong một vũng nước tù, lâu ngày trở
nên ô nhiễm, sinh ra nhiều độc tố, gây hại cho nhân
loại. Trong xã hội, nó như một tế bào ung thư, dần dần
lan rộng nếu không tìm cách ngăn chận. Lịch sử Ki Tô
Giáo trong 2000 năm nay đã chứng minh như vậy [Xin đọc
Những Lời Xưng Thú 7 Núi Tội Lỗi của Giáo Hoàng
John Paul II trước nhân loại, hay đọc cuốn Theo Đúng
Như Sách Viết: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại
Gây Ra Bởi Quyền Năng Thánh Kinh (Going By The
Book: Past and Present Tragedies of Biblical
Authority) của Mục sư Ernie Bringas]. Cho nên, những
người vẫn còn tự nguyện hạ mình xuống hàng con cừu (con
chiên), giới chăn chiên bảo sao nghe vậy, giắt đi đâu đi
theo đó (Ca Tô), hay tự nguyện làm đầy tớ xiêng năng hầu
hạ việc Chúa (Tin Lành), không hề sử dụng đến đầu óc,
tất nhiên không thể đi trên cùng một xa lộ tinh thần với
những con người đúng nghĩa là một con người, có đầu óc
để suy tư, và có lý trí để phán đoán.. Con người không
thể đối thoại với con cừu, và một người làm chủ chính
mình thì không nên đối thoại với những người đã mất đi
nhân cách, chỉ có thể làm những việc hầu hạ của đầy tớ,
vì họ đã được Thánh Kinh dạy kỹ: Đầy tớ không hơn được
chủ.
Qua
những tài liệu trong bài này, quý độc giả có thể thấy rõ
một vấn nạn trong những xã hội Ki Tô Giáo, một vấn nạn
gây ra bởi những người Ki Tô cuồng tín, nhất là Tin
Lành, những người vẫn tiếp tục lên tiếng chống đối
thuyết Tiến Hóa vì cho rằng thuyết Tiến Hóa đã chống lại
“Độc Thần” hay ông “Thần Độc” của họ, tuy rằng thuyết
Tiến Hóa, cũng như mọi thuyết khoa học khác, chỉ là sản
phẩm trí thức của con người trong sự tìm hiểu và giải
thích những qui luật trong vũ trụ và nhân sinh. Nếu
trong những giải thích có những điểm trái ngược với đức
tin của Ki Tô Giáo thì đó không phải là chủ ý “chống tôn
giáo” của những khoa học gia, bởi vì những sự kiện khoa
học thì không thiên vị, phi tôn giáo, và phổ quát. Sự
chống đối trên thậm vô lý vì khoa học chỉ trình bày
những sự kiện khoa học như chúng là như vậy (as they
really are).
Trong
tinh thần khoa học, không ai bắt buộc ai phải tin vào
thuyết Tiến Hóa tuy chúng ta có thể nói, chưa có một
đóng góp nào cho nhân loại rộng lớn như thuyết Tiến
Hóa, vì ngày nay, thuyết Tiến Hóa đã trở thành một sự
kiện, và đi vào mọi bộ môn của khoa học như vũ trụ học,
sinh học, sinh hóa học, cổ sinh vật học, nhân chủng học
v..v... Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận là, tư
tưởng chính đàng sau thuyết Tiến Hóa: con người
sinh ra không phải là do Thần Cha (God) “sáng tạo” mà
tiến hóa từ những dạng sống thấp hơn, đã giúp
con người ra khỏi vòng mê tín của thuyết Sáng Tạo, bác
bỏ vai trò sáng tạo của Thần Cha (God) trong Ki Tô Giáo,
biến những chuyện như “tội tổ tông”, “chuộc tội”, “cứu
rỗi” v..v.. trong Ki Tô Giáo thành những chuyện hoang
đường không thể chấp nhận trong thế giới ngày nay, ít ra
là đối với giới hiểu biết ở trong cũng như ở ngoài các
giáo hội Ki Tô. [Xin đọc những bài Huyền Thoại Cứu
Rỗi của Linh mục James Kavanaugh, Giê-su Là Đấng
Cứu Thế: Một Vai Trò Cần Phải Dẹp Bỏ của Giám mục
John Shelby Spong, và Những Lời Châu Ngọc Về Ki Tô
Giáo của Robert G. Ingersoll trên trang nhà Giao
Điểm. TCN].
Hiển
nhiên là Ki Tô Giáo không đội trời chung với Charles
Darwin vì Ki Tô Giáo muốn con người phải tin vào những
điều viển vông, hoang đường, phản khoa học, phi lý trí,
không thể kiểm chứng được, nếu không muốn nói là làm ô
nhiễm đầu óc con người trong thời đại ngày nay. Cũng
vì vậy, ngay từ khi thuyết Tiến Hóa ra đời, Ki Tô Giáo
đã ra công tích cực chống đối thuyết Tiến Hóa, chống đối
vì cần tiếp tục nhốt tín đồ trong những ngục tù tư
tưởng, trói chặt tín đồ bằng những xiềng xích trí tuệ,
và nuôi dưỡng sự mê tín trong đám tín đồ thấp kém, từ đó
mới có thể duy trì được quyền lực tinh thần tự tạo của
giới chăn chiên trên đám tín đồ, và tiếp tục hưởng thụ
vật chất trên sự nghèo khổ của đa số tín đồ nghèo khó.
Điều lạ là sự chống đối đó vẫn còn tiếp tục cho tới ngày
nay từ một vài ốc đảo Ki Tô với sự phụ họa của một số
tân tòng Tin Lành Việt Nam qua những luận cứ rất ấu trĩ
và hoang đường như sẽ được dẫn chứng trong một đoạn sau.
Trước
khi đi vào phần trình bày chỗ đứng của Darwin và thuyết
Tiến Hóa trong thế giới ngày nay, tôi nghĩ chúng ta cũng
nên nói sơ qua về căn bản của thuyết Tiến Hóa và những
chống đối cuồng nhiệt từ phía Ki Tô Giáo, của những đầu
óc tuyệt đối tin vào sự không thể sai lầm của Thánh
Kinh, nguồn gốc của nhiều thảm họa đã tới với nhân loại
trong 2000 năm nay.
Năm
1859, Charles Darwin cho ra đời cuốn Về Nguồn Gốc Các
Chủng Loại Do Chọn Lọc Tự Nhiên (On the Origin of
Species By Means of Natural Selection). Then chốt của
thuyết này là ở phần cuối tên cuốn sách: “Chọn Lọc Tự
Nhiên”. Nói ngắn gọn, khi các chủng loại truyền giống,
bao giờ cũng có những sự biến thiên (variations), tuy
rất nhỏ, từ thế hệ này sang thế hệ khác, biến thiên trên
kích thước, sức mạnh, hình dạng, sự thông minh, sự chịu
đựng v..v.. Sự tiến hóa bao giờ cũng từ thấp tới cao, từ
những dạng sống thấp của các sinh vật lên những dạng
sống cao hơn dần, cho tới loài người, và tiến trình này
xảy ra trong một thời gian rất lâu dài, có thể tới hàng
triệu hay hàng tỷ năm. Do đó, các sinh vật tồn tại hoặc
tuyệt chủng là do khả năng tự thích nghi với môi trường
xung quanh, và mọi sinh vật, trong đó có con người, đều
liên hệ với nhau vì cùng tiến hóa từ những mầm sống xa
xưa. Thuyết này là kết luận khoa học của sự quan sát
lâu dài của Darwin về sự biến thiên của một số sinh
vật. Và trong 150 năm nay, kể từ khi cuốn sách trên ra
đời, dựa vào ý kiến trong thuyết Tiến Hóa trên, nhiều
tiến bộ rất ngoạn mục đã đạt được trong nhiều bộ môn
khoa học, những tiến bộ đã làm cho thuyết Tiến Hóa chính
xác về chi tiết hơn và vững vàng hơn. Ngày nay, các
chuyên gia về sinh học và trong nhiều ngành khoa học
khác đã chấp nhận Tiến Hóa là một sự kiện (fact), không
còn gì để bàn cãi nữa. Tuy nhiên, các khoa học gia vẫn
còn tranh luận về một số chi tiết về vấn đề mầm sống
nguyên thủy từ đâu mà ra, và cơ chế tiến hóa hay sự vận
hành của tiến hóa (mechanism of evolution) như thế nào
(how). Và đây chính là đặc tính của khoa học, tìm hiểu
cặn kẽ, rốt ráo để đi tới sự thật.
Khi
thuyết Tiến Hóa của Darwin ra đời, nhiều khoa học gia đã
tích cực ủng hộ thuyết này: Thomas Henry Huxley ở Anh,
Ernst Haeckel ở Đức, Asa Gray ở Mỹ, William Dawson
LeSueur ở Gia Nã Đại, Marquis Gastonde Saporta và Albert
Gaudry Quenot ở Pháp, Cesare Lombroso ở Ý, Bozidar
Knezevic’ ở Nam Tư, Vladimir O. Kovalevskii ở Nga, và
nhiều nhân vật khác.
Tuy
nhiên, trong thế giới Tây phương vào giữa thế kỷ 19,
một thế giới ngự trị bởi Ki Tô Giáo trong hơn 1000 năm,
một thế giới mà Ki Tô Giáo tự cho là mình nắm chân lý
trong tay, một thế giới mà tuyệt đại đa số người dân,
dưới sự cai trị độc tài của Thần quyền và thế quyền Ki
Tô, bắt buộc phải tin vào sự không thể sai lầm của Thánh
Kinh Ki Tô Giáo, thuyết Tiến Hóa đã trở thành một cái
gai đâm vào tim óc của các nhà thần học Ki Tô Giáo. Vì
thuyết Tiến Hóa, tuy không chống bất cứ niềm tin nào,
nhưng hiển nhiên những ý tưởng khoa học trong đó đã làm
cho mọi điều trong Thánh Kinh, nhất là thuyết Sáng Tạo
của Ki Tô Giáo, trở thành vô giá trị. Do đó, Ki Tô
Giáo, Ca Tô cũng như Tin Lành, vô cùng hoảng sợ, và đã
hợp sức chống đối thuyết Tiến Hóa. Chúng ta hãy lược
duyệt vài “lý luận” chống đối Darwin và thuyết Tiến Hóa
của Ki Tô Giáo ngoài những sách lược hèn hạ cố hữu như
bôi bẩn, mạ lỵ cá nhân, chế giễu, ngụy biện, xuyên tạc,
vu khống v..v.. đối với cá nhân Darwin, khi Ki Tô Giáo
đã suy thoái, mất đi quyền hành, không còn khả năng giết
hay thiêu sống con người.
Charles
Darwin là người Anh nên sự chống đối bắt đầu từ bên Anh
với giám mục Samuel Wilberforce ở Oxford. Giám mục
Wilberforce lên án Darwin phạm tội “có khuynh hướng
giới hạn sự vinh quang của Thần Cha (God) trong sự sáng
tạo” (Guilty of “a tendency to limit God’s glory in
creation”); rằng “nguyên lý chọn lọc tự nhiên thì
tuyệt đối không tương hợp với lời của Thần Cha” (the
principle of natural selection is absolutely
incompatible with the word of God); rằng nguyên lý này
“đối ngược với sự mạc khải về những mối liên hệ giữa
sự sáng tạo và đấng sáng tạo” (contradicts the
revealed relations of creation to its Creator); rằng
thuyết này “không phù hợp với sự tràn đầy vinh quang
của Thần Cha” (inconsistent with the fullness of His
glory); rằng có một “giải thích đơn giản hơn về sự
hiện diện của những dạng kỳ lạ trong những tác phẩm của
Thần Cha – sự giải thích đó là “sự sa ngã của Adam””
(a simpler explanation of the presence of these strange
forms among the works of God – that explanation being
“the fall of Adam”). Rõ ràng là đầu óc của ông giám mục
này, và có lẽ của đa số các giám mục khác trong thời đó,
cũng như đầu óc của những tín đồ hạ căn cuồng tín ngày
nay, không chứa được cái gì khác ngoài những điều tin
nhảm tin nhí vào Thánh Kinh, cho rằng tất cả những lời
“mạc khải” của Thần Cha, do con người trong thời bán
khai viết trong Thánh Kinh, tất nhiên phải là những chân
lý.
Có một
câu đối thoại rất thú vị giữa giám mục Wilberforce và
Thomas Henry Huxley, một khoa học gia thời đó ủng hộ
thuyết Tiến Hóa của Darwin. Sau một bài nói trước công
chúng để phê bình thuyết Tiến Hóa của Darwin, trong đó
giám mục Wilberforce tự khen mình là không phải là dòng
dõi của một con khỉ, rồi ông quay sang Huxley và hỏi một
cách giễu cợt là “theo phía ông nội hay bà nội mà
Huxley là dòng dõi của một con khỉ?” (whether it was
on his grandfather’s or grandmother’s side that Huxley
descended from an ape?). Huxley đứng lên trả lời là tất
cả những gì Wilberforce vừa phê bình không có gì mới lạ,
trừ câu hỏi về dòng dõi của Huxley. Và về câu hỏi này
Huxley đã trả lời như sau: “Nếu hỏi là tôi thà có một
con khỉ khốn khổ làm ông nội hay là một người có nhiều
khả năng thiên nhiên và có nhiều phương tiện và ảnh
hưởng nhưng chỉ sử dụng những khả năng và ảnh hưởng đó
với mục đích đem sự chế giễu vào trong một cuộc thảo
luận khoa học nghiêm chỉnh thì tôi không do dự mà khẳng
định là tôi sẽ chọn con khỉ” (If then, the question
is put to me would I rather have a miserable ape for a
grandfather or a man highly endowed by nature and
possessed of great means and influence and yet who
employs these faculties and that influence for the mere
purpose of introducing ridicule into a grave scientific
discussion I unhesitatingly affirm my preference for the
ape).
Cả cử
tọa phá ra cười, và câu trả lời này đã vang dội khắp
nước Anh và lẽ dĩ nhiên, lan sang nhiều nước khác. (The
audience broke out in laughter, and this shot
reverberated through England, and indeed through other
countries).
Rồi đến
hồng y Manning lên tiếng tuyên bố “căm thù quan điểm
mới về thiên nhiên” (declared his abhorrence of the
new view of Nature), và mô tả quan điểm này là “một
triết lý thô bạo – nghĩa là, không làm gì có Thần Cha,
và con khỉ là Adam của chúng ta” (a brutal
philosophy – to wit, there is no God, and the ape is our
Adam).
Một mục
sư Tin Lành, phó giám đốc viện “chống khoa học “nguy
hiểm”” (institute to combat “dangerous” science), tuyên
bố là lý thuyết của Darwin là “một toan tính truất
ngôi Thần Cha” (an attempt to dethrone God).
Nhiều vị
lãnh đạo Ki Tô Giáo khác đã lên án Darwin là chủ trương
“Thần Cha đã chết” (God is dead); “Nếu thuyết
của Darwin đúng thì chuyện sáng thế là láo khoét, toàn
thể cuốn sách về sự sống tan ra từng mảnh, và sự mạc
khải của Thần Cha cho con người, mà người Ki Tô chúng ta
biết, là một ảo tưởng và một cái bẫy” (If the
Darwinian theory is true, Genesis is a lie, the whole
framework of the book of life falls to pieces, and the
revelation of God to man, as we Christians know it, is a
delusion and a snare).
Giới giáo sĩ Ki Tô
Giáo ở khắp nơi tiếp tục lên tiếng chống đối thuyết Tiến
Hóa trong nhiều năm liền, và sự chống đối này lan sang
nhiều nước Ki Tô khác ở Âu Châu như Pháp, Đức, Ý
v..v..và lan sang cả Mỹ và Úc. Chúng ta có thể đọc
những lời chống đối tương tự ở các quốc gia trên, thí dụ
như: “lên án Darwin là không tin vào Thần Cha”
(Infidelity); là “vô thần” (atheist); hoặc
“Nếu giả thuyết này đúng thì Thánh Kinh chỉ là một
chuyện giả tưởng không thể dung thứ được.. như vậy trong
gần 2000 năm nay các tín đồ Ki Tô đã bị lừa dối bởi một
lời nói láo vĩ đại..Darwin đòi hỏi chúng ta không nên
tin vào lời đầy quyền năng của Đấng Sáng Tạo” (If
this hypothesis be true, then is the Bible an unbearable
fiction..then have Christians for nearly two thousand
years been duped by a monstrous lie..Darwin requires us
to disbelieve the authorative word of the Creator);
“Thuyết Tiến Hóa trái ngược với những điều rõ ràng trong
Tân Ước cũng như Cựu Ướ飺 Nếu tất cả chúng ta, người và khỉ, sò và chim
ưmg, đều phát triển từ một mầm gốc, thì lời tuyên bố vĩ
đại của Thánh Paul: “Không phải mọi sinh vật đều có cùng
một loại xương thịt, có một loại cho người, một loại
khác cho thú vật, một loại khác cho cá, và một loại khác
cho chim” – là sai bét” (The evolution theory is as contrary to the
explicit declarations of the New Testament as to those
of the Old – If we have all, men and monkeys, oysters
and eagles, developed from an original germ, then is St.
Paul’s grand deliverance – “All flesh is not the same
flesh; there is one kind of flesh of men, another of
beasts, another for fishes, and another for birds” –
untrue); “Tạo trong những độc giả một sự không tin
vào Thánh Kinh” (to produce in their readers a
disbelief of the Bible); “một bức tranh chế giễu sự
sáng tạo” (a caricature of creation); “đuổi đấng
Sáng Tạo ra khỏi cửa” (turned the Creator out of
doors); “quyết tâm săn Thần Cha ra khỏi thế giới”
(resolved to hunt God out of the world); “hoàn toàn
không phù hợp với Thánh Kinh” (utterly inconsistent
with the Scriptures); “không biết đến sự thiết kế
trong việc sáng tạo của Thần Cha là truất ngôi Thần
Cha” (to ignore design as manifested in God’s
creation is to dethrone God); “một Thần Cha vắng mặt,
không làm gì cả, đối với chúng ta là không có Thần Cha”
(an absent God, who does nothing, is to us no God);
“thuyết tiến hóa và thuyết sáng tạo trong Thánh Kinh về
nguồn gốc con người không thể nào hòa hợp với nhau được”
(evolutionism and the scriptural account of the
origin of man are irreconciable); “không biết đến
Thần Cha và không tuân theo phúc âm của con ông ta
(nghĩa là Thần Con = Giê-su)” (know not God and obey
not the gospel of his Son); “nếu thuyết của Darwin
đúng thì không có chỗ nào cho Thần Cha” (if the
Darwinian view is true, there is no place for God)
v..v..
Trước
những sự chống đối thuyết Tiến Hóa của Ki Tô Giáo dựa
trên niềm tin tuyệt đối vào sự không thể sai lầm của
Thánh Kinh, Herbert Spencer, một khoa học gia cùng thời
với Darwin, đã đưa ra một lời phê bình sắc bén:
“Những người dũng cảm như hiệp sĩ bác bỏ thuyết Tiến
Hóa vì thuyết này không có đầy đủ sự kiện chứng minh có
vẻ như quên rằng thuyết Sáng Tạo của họ không được chứng
minh bởi bất cứ một sự kiện nào ﮦ#148; (Those who
cavalierly reject the Theory of Evolution, as not
adaquately supported by facts, seem quite to forget that
their own theory of creation is supported by no facts at
all)
Năm
1871, Darwin cho ra đời tiếp cuốn Dòng Dõi Con Người
(The Descent of Man) trong đó ông khẳng định hai mục
đích: thứ nhất, chứng tỏ rằng các chủng loại không
được tạo ra một cách riêng rẽ [bởi Thần Cha như được
viết trong Cựu Ước. TCN], và thứ nhì, sự chọn lọc tự
nhiên là yếu tố chính làm thay đổi.. (giữa các chủng
loại). (firstly, to show that species had not been
separately created, and secondly, that natural selection
had been the chief agent of change..)
Trước sự
tiến bộ trí thức của nhân loại, trước sự kiện tư tưởng
tiến hóa của Darwin càng ngày càng được giới khoa học và
trí thức kiểm chứng và chấp nhận, những tiếng chống đối
từ phía Ki Tô Giáo phai nhạt dần. Andrew D. White, tác
giả cuốn sách đồ sộ dày gần 900 trang, Một Lịch Sử về
Cuộc Chiến Giữa Khoa Học và Thần Học trong Ki Tô Giáo
(A History of the Warfare of Science with Theology in
Christendom), đã đưa ra kết luận như sau về những chống
đối của Ki Tô Giáo đối với thuyết Tiến Hóa của Darwin
trong hậu bán thế kỷ 19 :
“Mọi
chống đối đều không đi tới đâu; tác phẩm của Darwin và
danh tiếng của ông ta được bảo đảm. Khi chúng ta nhìn
lại cuộc sống tốt đẹp của ông ta – giản dị, lươong
thiện, khoan nhượng, từ ái – và nghĩ đến những công cuộc
vĩ đại của ông ta trong việc tìm kiếm sự thật, mọi sự
tấn công đều phai nhạt vào hư vô.”
(All
opposition had availed nothing; Darwin’s work and fame
were secure. As men looked back over his beautiful life
– simple, honest, tolerant, kindly – and thought upon
his great labours in the search for truth, all the
attacks faded into nothingness.)
Sau đây,
chúng ta hãy xét đến chỗ đứng của Darwin và thuyết Tiến
Hóa trong thế giới ngày nay.
Trước
hết, chúng ta nên biết nước Mỹ có 85% theo Ki Tô Giáo
(Ca Tô, gần 300 hệ phái Tin Lành, Chính Thống, Mormon
v..v..) nhưng năm 1984, trước phong trào của một số địa
phương Ki Tô Giáo đòi hỏi phải dạy song song thuyết Tiến
Hóa và thuyết Sáng Tạo trong các trường học, Hàn Lâm
Viện Khoa Học Quốc Gia Hoa Kỳ đã khẳng định trong bài
Khoa Học và Chủ Thuyết Sáng Tạo: Một Quan Điểm Của
Hàn Lâm Viện Quốc Gia Khoa Học (Science and
Creationism: A View From the National Academy of
Sciences) như sau:
“Thật
là quan trọng phải làm sáng tỏ bản chất của khoa học và
giải thích tại sao chủ thuyết sáng tạo không thể được
coi như là một bộ môn khoa học. Đòi hỏi phải dạy cả hai
(thuyết tiến hóa và thuyết sáng tạo) đồng đều trong cùng
một lớp học phản ánh sự hiểu lầm về thế nào là khoa học
và khoa học đã được theo đuổi như thế nào. Những nhà
nghiên cứu khoa học tìm hiểu các hiện tượng thiên nhiên
bằng quan sát trực tiếp và thực nghiệm. Những diễn giải
về những sự kiện khoa học luôn luôn chỉ có tính cách tạm
thời và phải được kiểm chứng. Những lời phán quyết từ
bất cứ một quyền lực nào, lời mạc khải nào, hay viện đến
đấng siêu nhiên đều không thích hợp với quá trình khoa
học này vì không có bằng chứng để chứng minh. Tuy
nhiên, trong thuyết sáng tạo, cả hai, quyền lực cũng như
mạc khải, được đặt trên những bằng chứng. Những kết
luận của những người theo thuyết sáng tạo không hề thay
đổi, cũng không thể coi là đúng khi đặt trong sự kiểm
chứng của những phương pháp khoa học. Do đó, có một sự
khác biệt sâu đậm giữa niếm tin tôn giáo vào sự sáng tạo
đặc biệt và những giải thích khoa học trong thuyết Tiến
Hóa. Sự trình bày cả hai chủ thuyết trên đồng đều trong
lớp học chỉ mang đến kết quả là sự hoang mang, không có
ích lợi gì.”
(It is
important to clarify the nature of science and to
explain why creationism cannot be regarded as a
scientific pursuit. The claim that equity demands
balanced treatment of the two in the same classroom
reflects misunderstanding of what science is and how it
is conducted. Scientific investigators seek to
understand natural phenomena by direct observation and
experimentation. Scientific interpretations of facts
are always provisional and must be testable. Statements
made by any authority, revelation, or appeal to the
supernatural are not germane to this process in the
absence of supporting evidence. In creationism,
however, both authority and revelation take precedence
over evidence. The conclusions of creationism do not
change, nor can they be validated when subjected to test
by the methods of science. Thus, there are profound
differences between the religious belief in special
creation and the scientific explanations embodied in
evolutionary theory. Neither benefits from the
confusion that results when the two are presented as
equivalent approaches in the same classroom.
Và năm
1998, trong một cuốn sách hướng dẫn cho các thầy giáo,
phụ huynh học sinh, nhà trường, và các nhà đưa ra chính
sách giáo dục, Hàn Lâm Viện Quốc Gia Khoa Học (Hoa Kỳ)
đã viết :
“Trong cộng đồng khoa học, không còn có sự tranh luận về
sự tiến hóa có xảy ra hay không, và không có bằng chứng
nào chứng tỏ là sự tiến hóa đã không xảy ra.”
(“There
is no debate within the scientific community over
whether evolution has occured, and there is no evidence
that evolution has not occured”, the National Academy of
Sciences said in a guidebook intended for teachers,
parents, school administrators and policymakers.)
Sự kiện
này cho thấy, ở Mỹ, tôn giáo, dù là Ki Tô Giáo, tôn giáo
của đa số người dân, chỉ là vấn đề tín ngưỡng riêng tư,
và những kẻ trong Ki Tô Giáo, thường là Tin Lành, vẫn
tiếp tục cất lên tiếng nói chống thuyết Tiến Hóa, chẳng
qua chỉ là những kẻ cuồng tín, đi ngược thời gian.
Những tiếng chống đối này không bao giờ có thể có chỗ
đứng trong thế giới tiến bộ của nhân loại ngày nay. Tuy
Pháp Viện Tối Cao Hoa Kỳ đã phán quyết là các trường
công không thể dạy là Thần Cha tạo ra vũ trụ (The
Supreme Court ruled that public schools cannot teach
that God created the universe.), tại một vài tiểu bang
mà Ki Tô Giáo mạnh, Tin Lành vẫn còn cố gắng vận động để
thuyết sáng tạo được dạy song song với thuyết tiến hóa.
Họ vẫn tiếp tục chống đối thuyết tiến hóa và cùng lúc,
đưa thuyết sáng tạo lên như một bộ môn khoa học, không
phải là tôn giáo, để tránh né điều khoản trong Hiến
Pháp Hoa Kỳ: tách rời nhà nước và tôn giáo. Có vài nơi,
các nhà bảo thủ Ki Tô Giáo (fundamentalists) còn vận
động đưa ra đạo luật để bỏ danh từ “tiến hóa”
(evolution) trong những sách giáo khoa, thay thế vào đó
bằng từ “thay đổi với thời gian” (change with time).
Nhưng ở khắp nơi: Arizona 1996, Illinois 1997, và Kansas
1999, Ki Tô Giáo đã thất bại trong mưu toan này.
Chúng ta
đã thấy rõ sự nguy hại của những người cuồng tín Ki Tô
Giáo trong sách lược nắm giữ đầu óc của dân chúng để ép
dân chúng phải tin vào cái ông Thần Do Thái mà họ thờ
phụng. Nếu họ ở vị thế cầm quyền như Ngô Đình Diệm ngày
trước ở Nam Việt Nam thì nền giáo dục quốc gia sẽ trở
thành nền giáo dục Ki Tô Giáo, một nền giáo dục mà trong
thế giới Tây phương tiến bộ ngày nay, chỉ còn sót lại
trong một số ốc đảo Ki Tô Giáo bảo thủ, tuyệt đối không
có chỗ đứng trong nền giáo dục công cộng. Người Việt
Nam chúng ta không bao giờ nên quên chính sách bạo tàn
của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với các tôn giáo khác,
một chính sách bắt nguồn từ sự cuồng tín vào Ca Tô Giáo
Rô Ma của ông ta và gia đình. Chúng ta cũng không bao
giờ nên quên vai trò thực dân, gián điệp của những giáo
sĩ Ca Tô đến Việt Nam để vừa cướp nước vừa đầu độc đầu
óc những người dân Việt Nam nghèo khổ ít học, khiến cho
họ trở thành những kẻ phản bội quê hương. Chúng ta cũng
không bao giờ nên quên vai trò của Ca Tô Giáo Rô Ma ở
Việt Nam trong cuộc xâm lăng của Pháp vào hậu bán thế kỷ
19, trong cuộc kháng chiến chống toan tính tái lập chế
độ thực dân ở Việt Nam của Pháp, với sự hỗ trợ của Anh,
Mỹ, và trong cuộc chiến Quốc Cộng kéo dài 20 năm do Mỹ
khởi xướng. Chúng ta có thể tha thứ cho những đồng bào
lầm đường lạc lối có tội với dân tộc này, và trên thực
tế chúng ta đã tha thứ. Nhưng chúng ta không có quyền
quên đi lịch sử vì quên đi lịch sử thì lịch sử lại có cơ
hội tái diễn. Vấn đề cấp thiết ngày nay là chúng ta
phải dấn thân mở mang dân trí làm sao để cho cái lịch sử
bạo tàn, cuồng tín, mang đau thương đến cho dân tộc Việt
Nam không thể tái diễn.
Ngoài
Hàn Lâm Viện Khoa Học Quốc Gia trên, nếu chúng ta theo
dõi báo chí hàng ngày thì chúng ta sẽ thấy, hầu như toàn
thể báo chí, ngay cả những tờ báo có ảnh hưởng nhất trên
nước Mỹ như Wall Street Journal, Newsweek, Time v..v.. ,
đều đưa lên những thông tin mới nhất về những bằng chứng
khoa học chứng tỏ thuyết Tiến Hóa là đúng. Sau đây là
một thí dụ điển hình. Trong tờ Chicago Tribune Sep. 22,
2002, Katrin Schultheiss trong một bài về đề tài Tiến
Hóa, đã viết :
Trong
vòm trời của những người có uy tín về khoa học, ít có
ngôi sao nào sáng như Charles Darwin. Chúng ta có thể
biện luận rằng, Darwin và Copernicus, và có thể là
Pasteur và Freud, là những người duy nhất đã khởi sự các
cuộc cách mạng. Và không phải chỉ là cách mạng khoa
học, mà còn là cách mạng trí thức và văn hóa.
(In the
firmament of scientific luminaries, few stars shine as
brightly as Charles Darwin. He and Copernicus, and
possibly Pasteur and Freud, are arguably the only
scientists who started revolutions. And not merely
scientific revolutions, but intellectual and cultural
revolutions as well.
Tưởng
chúng ta cũng nên biết, cách đây hơn một thế kỷ, Robert
G. Ingersoll đã viết về Charles Darwin một cách chính
xác như sau :
“Thế
kỷ này (TK 19) sẽ được gọi là thế kỷ của Darwin. Ông ta
là một trong những vĩ nhân trên trái đất. Ông ta đã
giải thích rõ ràng những hiện tượng về sự sống hơn là
tất cả những ông thầy dạy của Ki Tô Giáo. Một bên, viết
tên của Charles Darwin, và bên kia viết tên của mọi nhà
thần học từ trước tới nay, và từ tên của Darwin đã tỏa
ra nhiều ánh sáng hơn là ánh sáng của tất cả các nhà
thần học gộp chung lại. Thuyết Tiến Hóa, thuyết sống
còn thích ứng nhất với hoàn cảnh xung quanh, thuyết
nguồn gốc các chủng loại của ông ta đã cất bỏ cái vết
tích cuối cùng của Ki Tô Giáo ra khỏi những người có
đầu óc. Ông ta không chỉ nói lên mà còn chứng minh là
những người được Thần linh khải cho viết Thánh Kinh
không biết gì về thế giới này, về nguồn gốc con người,
về địa chất học, về thiên văn học, về thiên nhiên; rằng
Thánh Kinh được viết do sự ngu si – với sự dọa dẫm để
làm cho sợ hãi. Hãy nghĩ đến những người đã trả lời
(phê bình) ông ta. Càng ngu bao nhiêu thì họ càng hồ
hởi làm công việc này. Darwin bị chế giễu, khinh khi và
coi thường bởi thế giới của Ki Tô Giáo, tuy vậy mà khi
ông ta chết, Anh Quốc đã hãnh diện chôn ông ta cùng với
những nhân vật cao quý nhất và vĩ đại nhất của nước Anh.
[Darwin được chôn ngay gần Isaac Newton trong điện
Westminster (Westminster Abbey). Trước sự kiện này, Mục
sư Laing đã phê bình “đây là một bằng chứng chứng
minh nước Anh không còn là một quốc gia theo Ki Tô Giáo
nữa” (a proof that England is no longer a Christian
country). TCN] Charles Darwin đã chinh phục thế giới
trí thức, và những lý thuyết của ông ta ngày nay đã được
chấp nhận như là những sự kiện.
Giáo hội
Ki Tô dạy rằng con người đã được sáng tạo ra thật là
hoàn hảo, và trong 6 ngàn năm qua con người đã thoái
hóa. Darwin đã chứng minh sự sai lầm của cái tín lý
này. Ông ta chứng minh rằng con người, trong nhiều ngàn
thời đại, đã không ngừng tiến bộ; rằng cái Vườn Eden là
huyền thoại của kẻ ngu; rằng giáo lý về tội tổ tông
không có nền tảng dựa trên sự kiện; rằng chuộc tội là
một sự vô nghĩa; rằng con rắn không có quyến rũ con
người ham muốn, và con người không có “sa ngã”.
Charles
Darwin đã phá sập Ki Tô Giáo. Chẳng có gì khác còn lại
ngoài một đức tin vào cái mà chúng ta biết không thể xảy
ra và đã không hề xảy ra. Ki Tô Giáo và khoa học là kẻ
thù của nhau. Một bên là mê tín, bên kia là một sự
kiện. Một bên đặt nền tảng trên sự sai lầm, một bên
trên sự chân thật. Một bên là kết quả của sự sợ hãi và
đức tin, bên kia là sự tìm tòi để hiểu biết và lý trí.
Chúng ta
hãy lương thiện. Tất cả những linh mục ở Rô Ma gộp lại
có gia tăng sự phong phú của tâm linh như là Bruno
không? Tất cả những linh mục ở Pháp gộp lại có góp phần
lớn lao nào vào nền văn minh của thế giới như là Diderot
và Voltaire không? Tất cả các mục sư ở Scotland gộp lại
có gia thêm vào kiến thức của nhân loại như là David
Hume không? Những người trong giới chăn chiên, mục sư,
linh mục, giám mục, hồng y và giáo hoàng, từ ngày Giê-su
thăng thiên đến cuộc bầu phiếu cuối cùng, có góp phần
vào sự tự do của con người như là Thomas Paine không? –
góp phần vào khoa học như là Charles Darwin không?
Thế giới
đã trở thành cái gì nếu không có những người không tin
vào Ki Tô Giáo?
(This
century will be called Darwin’s century. He was one of
the greatest men who ever touched this globe. He has
explained more of the phenomena of life than all of the
Christian religious teachers. Write the name of Charles
Darwin on the one hand and the name of every theologian
who ever lived on the other, and from that name has come
more light to the world than from all those. His theory
of evolution, his theory of the survival of the fittest,
his theory of the origin of species, has removed in
every thinking mind the last vestige of Christianity.
He has not only stated, but he has demonstrated, that
the inspired writer knew nothing of this world, nothing
of the origin of man, nothing of geology, nothing of
astronomy, nothing of nature; that the Bible is a book
written by ignorance – at the instigation of fear.
Think of the men who replied to him. The more ignorant
he was the more cheerfully he undertook the task. He
was held up to the ridicule, the scorn and contempt of
the Christian world, and yet when he died, England was
proud to put his dust with that of her noblest and her
grandest. Charles Darwin conquered the intellectual
world, and his theories are now accepted facts.
The
Christian church teaches that man was created perfect,
and that for six thousand years he has degenerated.
Darwin demonstrated the falsify of this dogma. He shows
that man has for thousands of ages steadily advanced;
that the Garden of Eden is an ignorant myth; that the
doctrine of original sin has no foundation in fact; that
the atonement is an absurdity; that the serpent did not
tempt, and that man did not “fall”.
Charls
Darwin destroyed the foundation of Christianity. There
is nothing left but faith in what we know could not and
did not happen. The Christian religion and science are
enemies. One is a superstition; the other is a fact.
One rests upon the false, the other upon the true. One
is the result of fear and faith, the other of
investigation and reason.
Let us
be honest. Did all the priests of Rome increase the
mental wealth of man as much as Bruno? Did all the
priests of France do as great a work for the
civilization as Diderot and Voltaire? Did all the
ministers of Scotland add as much to the sum of human
knowledge as David Hume? Have all the clergymen,
friars, ministers, priests, bishops, cardinals and
popes, from the day of Pentecost to the last election,
done as much for human liberty as Thomas Paine? – as
much for science as Charles Darwin?
What
would the world be if infidels had never been?)
Chúng ta
nên để ý, Ingersoll viết bài trên vào cuối thế kỷ 19,
khi mà Thuyết Tiến Hóa bị Ki Tô Giáo chống đối dữ dội,
dựa trên một số chi tiết trong thuyết Tiến Hóa chưa thể
kiểm chứng được. Với thời gian qua, càng ngày những kết
quả nghiên cứu của các khoa học gia càng chứng tỏ là
thuyết Tiến Hóa có một căn bản vững chắc và có thể giải
thích được rất nhiều điều trong nhiều bộ môn khoa học,
nhất là trong Sinh Học. Sau đây, tôi sẽ đưa ra nhận
định điển hình về thuyết Tiến Hóa, trước hết của một số
khoa học gia và học giả, sau đến của các nhà lãnh đạo
tinh thần Ki Tô Giáo, và sau cùng của vài “trí thức” tân
tòng Tin Lành Việt Nam.
James
Birx trong cuốn Diễn Giải Sự Tiến Hóa
(Interpreting Evolution) đã viết như sau :
“Tiến
Hóa là một sự kiện vững chắc đã được cả khoa học và lý
trí xác nhận; nhân loại chúng ta thì nối kết với sự
sống, lịch sử của trái đất, thiên hà này (giải ngân hà
mà thái dương hệ, trong đó có trái đất, nằm trong đó),
và cả vũ trụ.
Có
một nền thần học hiện đại nào mà chấp nhận cả hai quan
điểm về vũ trụ và thuyết Tiến Hóa trong một cách nhìn
khoáng đạt và không có huyền thoại về thế giới? Cuối
cùng thì tín lý mù quáng của đức tin tôn giáo với những
câu chuyện đã lỗi thời và những giá trị cận thị thực sự
không còn mấy giá trị nữa; đó chỉ là sự mơ ước từ đó đặt
niềm tin vào sự bất diệt của con người và vào một vũ trụ
tâm linh.”
(Evolution is an established fact supported by both
science and reason; our own species is linked to life,
earth history, this galaxy, and the universe itself.
Is there
a modern theology that embraces both a cosmic
perspective and the evolutionary framework within an
openended and myth-free worldview? Eventually, the
blind dogma of religious faith with its outmoded stories
and myopic values wears very thin, indeed; it is simply
wishful thinking to believe in human immortality and a
spiritual cosmos.)
Stephen
Jay Gould, trong phần Dẫn Nhập của cuốn “Tiến Hóa: Sự
Chiến thắng Của Một Ý Tưởng” (Evolution: The Triumph
of an Idea), tác giả là Carl Zimmer, một cuốn sách đi
kèm với chương trình dài 8 tiếng đồng hồ của đài truyền
hình PBS về thuyết Tiến Hóa (a companion to the PBS
8-hour television series on Evolution), viết :
“Khoa học, như các chuyên gia chúng tôi thường vạch rõ,
không thể thiết lập sự thật tuyệt đối; do đó, những kết
luận của chúng tôi luôn luôn là có tính cách không dứt
khoát. Nhưng sự hoài nghi lành mạnh này không cần phải
đưa nó đến độ hư vô, và chúng tôi có thể chắc chắn nói
rằng, một số sự kiện đã được kiểm chứng với đủ mức tin
cậy cho nên chúng tôi có thể coi những sự kiện này là
đúng sự thật trong bất cứ nền văn hóa địa phương nào
trên thế giới.(tính phổ quát (universality) của các
sự kiện khoa học. TCN
Có lẽ
tôi không thể tuyệt đối chắc chắn là quả đất thì tròn
thay vì phẳng, nhưng dạng hình cầu của hành tinh của
chúng ta đã được kiểm chứng đủ để cho tôi không cho phép
“cái xã hội của những người tin trái đất phẳng” được
hưởng đồng đều thời gian để dạy thuyết của họ, hay hưởng
bất cứ khoảng thời gian nào, trong lớp dạy về khoa học
của tôi.
Tiến
Hóa, quan niệm căn bản của mọi khoa học về sinh học, đã
được kiểm chứng rất kỹ, và do đó có thể coi như là đúng
với sự thật.”
(Science, as we professionals always point out, cannot
establish absolute truth; thus, our conclusions must
always remain tentative. But this healthy skepticism
need not be extended to the point of nihilism, and we
may surely state that some facts has been ascertained
with sufficient confidence that we may designate them as
“true” in any legitimate, vernacular meaning of the
world.
Perhaps
I cannot be absolutely certain that the earth is round
rather than flat, but the roughly spherical shape of our
planet has been sufficiently well verified that I need
not grant the “flat earth society” a platform of equal
time, or even any time at all, in my science class.
Evolution, the basic organizing concept of all the
biological sciences, has been validated to an equally
high degree, and may therefore be designated as true or
factual.)
Và trong
Lời Nói Đầu của cuốn sách trên, Richard Hutton , nhà đạo
diễn chương trình truyền hình Tiến Hóa trên đài
PBS, đã viết :
“Triết gia Daniel Dennett đã có lần viết về thuyết Tiến
Hóa: “Nếu tôi được trao một giải thưởng cho một ý tưởng
(về khoa học. TCN) duy nhất và hay nhất từ xưa
tới nay, tôi phải trao nó cho Darwin, trước cả Newton và
Einstein và mọi người khác. Chỉ trong một sáng kiến, ý
tưởng về tiến hóa do chọn lọc tự nhiên đã kết hợp cảnh
giới của sự sống, ý nghĩa, và mục đích của sự sống với
cảnh giới của không gian và thời gian, nhân và quả, cơ
chế vận hành và luật vật lý. Nhưng nó không chỉ là một
ý tưởng kỳ diệu. Đó là một ý tưởng nguy hiểm.”
(Philosopher Daniel Dennett once wrote of the theory of
evolution: “If I were to give an award for the single
best idea anyone has ever had, I’d give it to Darwin,
ahead of Newton and Einstein and everyone else. In a
single stroke, the idea of evolution by natural
selection unifies the realm of life, meaning, and
purpose with the realm of space and time, cause and
effect, mechanism and physical law. But it is not just
a wonderful idea. It is a dangerous idea.)
Tại sao
lại nguy hiểm? Richard Hutton giải thích :
“Nguy
hiểm vì, đối với những người tin những gì viết trong
Thánh Kinh, ý tưởng này đe dọa những niềm tin tôn giáo
mà họ trân quý về một quá trình sáng tạo (ra vũ trụ)
trong 6 ngày.”
(Dangerous because, for people who interpret the Bible
literally, it threatens dearly held religious beliefs
about a six-day process of creation.)
Trong
cuốn Tiến Hóa Là Gì? (What Evolution Is?), mới
xuất bản gần đây, Ernst Mayr, Giáo sư danh dự đại
học Harvard, đã viết :
Tiến Hóa
không chỉ đơn thuần là một ý tưởng, một lý thuyết, hay
một quan niệm, mà là tên của một quá trình trong thiên
nhiên. Sự xảy ra của quá trình này có thể chứng minh
bằng tài liệu của hàng núi bằng chứng mà không ai có thể
phủ bác được. Ngày nay, xét đến số lượng to lớn những
bằng chứng đã được khám phá ra trong 140 năm nay để
chứng minh sự hiện hữu của tiến hóa, thật là lạc dẫn khi
ta coi Tiến Hóa như là một thuyết. Tiến Hóa không còn
là một thuyết, nó đơn giản là một sự kiện.
(Evolution is not merely an idea, a theory, or a
concept, but is the name of a process in nature, the
occurrence of which can be documented by mountains of
evidence that nobody has been able to refute...It is now
actually misleading to refer to evolution as a theory,
considering the massive evidence that has been
discovered over the last 140 years documenting its
existence. Evolution is no longer a theory, it is
simply a fact.)
Trên đây
là vài nhận định về Charles Darwin và Thuyết Tiến Hóa
của một số nhân vật, khoa học gia cũng như trí thức, có
tên tuổi trên nước Mỹ. Trước những bằng chứng bất khả
phủ bác về thuyết Tiến Hóa, một vài giới lãnh đạo Ki Tô
Giáo đã cảnh tỉnh và chấp nhận chỗ đứng của Thuyết Tiến
Hóa trên thế giới ngày nay. Sau đây là vài nhận định
điển hình từ phía Ki Tô Giáo, Ca Tô cũng như Tin Lành.
Trước
hết là Giáo Hoàng John Paul II, vị chủ chăn của Ca Tô
Giáo Rô Ma. JPII phát biểu năm 1996 như sau :
“Thân
xác con người có thể không phải là sự sáng tạo tức thời
của Thượng đế, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa
dần dần...Những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải
chấp nhận Thuyết Tiến Hóa hơn chỉ là một giả thuyết.”
(The human
body may not have been the immediate creation of God,
but is the product of a gradual process of
evolution...Fresh knowledge leads to recognition of the
theory of evolution as more than just a hypothesis).
Nhưng
trước đó, Linh mục dòng Tên Teillard de Chardin
đã đưa ra nhận định sau đây trong cuốn Hiện Tượng Về
Con Người (The Phenomenon of Man) :
“Tiến
Hóa là một thuyết, một hệ thống, hay một giả thuyết?
Nó còn nhiều hơn nữa: nó là một điều kiện tổng quát mà
mọi thuyết, mọi giả thuyết, mọi hệ thống phải cúi đầu
trước nó và phải phù hợp với nó nếu chúng muốn được nghĩ
tới và đúng.. Tiến Hóa là một ánh sáng soi sáng mọi sự
kiện, một đường cong mà mọi đường thẳng phải theo nó...”
(Is
evolution a theory, a system or a hypothesis? It is
much more: it is a general condition to which all
theories, all hypotheses, all systems must bow and which
they must satisfy henceforth if they are to be thinkable
and true. Evolution is a light illuminating all facts,
a curve that all lines must follow...)
Mục sư
Ernie Bringas, trong cuốn Theo Đúng Như Sách
Viết: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Gây Ra
Bởi Quyền Năng Thánh Kinh (Going By The Book: Past
and Present Tragedies of Biblical Authority), đã nhận
định về thuyết Tiến Hóa như sau :
“Thuyết
Tiến Hóa là một trong những cấu trúc tuyệt vời và thành
công nhất của tư tưởng con người. Mọi ngành khoa học
đều tiếp tục ủng hộ và kiểm chứng quan niệm về sự tiến
hóa. Thuyết Tiến Hóa , giống như Thuyết Tương Đối,
không còn là một "thuyết" theo nghĩa thông thường nữa,
mà là một nguyên lý khoa học đặt căn bản trên rất nhiều
bằng chứng không còn phải bàn cãi nữa”.
(The
theory of evolution is among the most elegant and
fruitful structures of human thought... All scientific
disciplines continue to support and verify the concept
of evolution. The theory of evolution, like the theory
of relativity, is no longer a "theory" in the popular
sense, but a scientific principle based on considerable,
indisputable evidence.)
Và Giám
Mục John Shelby Spong, trong cuốn Tại Sao Ki
Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Tịch (Why
Christianity Must Change or Die), cũng đã viết :
“Thuyết
Tiến Hóa làm cho Adam và Eve trở nên may nhất là những
nhân vật theo truyền thuyết. Thuyết Tiến Hóa không dễ
gì cho tổ chức tôn giáo chấp nhận, và ngày nay vẫn còn
những tiếng nói cất lên từ những miền hẻo lánh của thế
giới để chống đối thuyết này. Những tiếng nói này sẽ
không bao giờ thành công. Nhân loại rõ ràng là tiến hóa
theo một quá trình trải dài từ 4 tỷ rưỡi đến 5 tỷ năm.
Không làm gì có hai cha mẹ đầu tiên (nghĩa là Adam
và Eve. TCN), và do đó cái hành động bất tuân lúc đầu
của hai bậc cha mẹ đầu tiên không thể nào có ảnh hưởng
đến toàn thể nhân loại (nghĩa là không làm gì có tội
tổ tông. TCN). Do đó cái huyền thoại về tội tổ tông
đã bị một đòn khai tử, và cái câu chuyện vững chắc về sự
cứu rỗi do những người bảo vệ Ki-tô giáo dựng lên qua
nhiều thời đại đã bắt đầu chao đảo.”
(The
theory of evolution made Adam and Eve legendary at best.
Evolution was not easy for the religious establishment
to accept, and still voices are raised today in
remote areas of the world to resit it. Those voices
will never succeed. Human life clearly evolved over a
four-and-a-half-to-five-billion-year process. There
were no first parents, and so the primeval act of
disobedience on the part of first parents could not
possibly have affected the whole human race. The myth
was thus dealt a blow, and the monolithic story of
salvation built by Christian apologists over the age
began to totter.)
Trên đây
là vài nhận định về thuyết Tiến Hóa của một số nhân vật
lãnh đạo trong Ki Tô Giáo. Hiển nhiên là những người
này, hoặc đối diện với sự thật nên bắt buộc phải chấp
nhận thuyết Tiến Hóa như Giáo Hoàng John Paul II, hoặc
vì sự lương thiện trí thức nên không thể không thấy rõ
chỗ đứng của thuyết Tiến Hóa trong thế giới ngày nay như
linh mục Teillard de Chardin, mục sư Ernie Bringas,
và giám mục John Shelby Spong.
Đa số
những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo ngày nay đã chấp
nhận thuyết Tiến Hóa và tìm cách giải thích Thánh Kinh
khác đi cho phù hợp với sự tiến bộ trí thức của nhân
loại. Tuy nhiên, trong giới bảo thủ Ki Tô vẫn còn những
tiếng chống đối cất lên từ những ốc đảo ngoài sa mạc.
Giám mục Spong đã nhận định: Những tiếng nói này sẽ
không bao giờ thành công.
Thật ra thì những sự chống đối thuyết Tiến Hóa, ngày nay
hầu hết thuộc hệ phái Tin Lành trong Ki Tô Giáo, không
phải vì trong thuyết Tiến Hóa có những vấn nạn chưa giải
quyết được thỏa đáng, một đặc tính của khoa học, mà vì
thuyết Tiến Hóa đã phá vỡ nền tảng của đức tin trong Ki
Tô Giáo. Ca Tô Giáo không có mấy chống đối thuyết tiến
hóa, nhất là trong vài thập niên gần đây, vì Ca Tô Giáo
đã thành công xây dựng được một định chế trong đó tín đồ
tuyệt đối tuân phục những lời giáo hội dạy, bất kể là
những giáo điều này trái với sự thật khoa học. Trái
lại, Tin Lành bảo thủ, tuyệt đối tin rằng Thánh Kinh Ki
Tô Giáo là những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không
thể nào sai lầm, do đó vẫn tiếp tục chống đối thuyết
Tiến Hóa, dựa trên những hiểu biết ấu trĩ và nông cạn
của họ về khoa học. Những người Tin Lành lên tiếng chống
đối thuyết Tiến Hóa thường không hiểu thuyết Tiến Hóa là
gì. Cho nên, khi họ cố gắng đưa ra một vài điều “nguỵ
biện” để bác thuyết Tiến Hóa thì những điều ngụy biện đó
trở thành ngớ ngẩn, vì thực chất chỉ phản ánh niềm tin
đã lỗi thời của họ qua một khẳng định vô trách nhiệm.
Một “lý luận” quen thuộc của họ là, mỗi khi đọc đến
những phân tích Thánh Kinh của một tác giả nào đó trái
ngược với những lời dạy của “hội thánh” Tin Lành, thì họ
lập tức lên tiếng phê bình tác giả đó là đọc Thánh Kinh
mà không hiểu, nhưng không bao giờ nói rõ không hiểu ở
chỗ nào, và không bao giờ trình bày cái hiểu của họ về
Thánh Kinh để phủ bác. Một “lý luận” khác của họ đối
với những tác giả này là chụp lên đầu những tác giả này
những cái mũ “satan” và “CS vô thần”. Họ đần độn đến độ
không hiểu rằng “satan” chính là một tạo vật của Thần
của họ, và “vô thần” là “thói xấu của một số người thông
minh” như Voiltaire đã nhận định, và vô thần và CS là
hai thực thể khác nhau. Và “lý luận” ngớ ngẩn nhất của
họ là: “nếu trong sự Tiến Hóa của sự sống có một điểm
nào đó chưa giải thích được thỏa đáng thì tất nhiên
thuyết Sáng Tạo trong Ki Tô Giáo phải đúng.” Chúng ta
có thể thấy rõ điều này qua vài luận cứ Tin Lành dùng để
bác thuyết Tiến Hóa (Rubin Alves, Protestantism and
Repression, p. 65) :
Thánh
Kinh hoàn toàn không đồng ý với thuyết này. Cái gọi là
thuyết Tiến Hóa, ủng hộ bởi Darwin, Huxley và nhiều
người khác, ngày nay là một chủ đề đã chết vì đã bị bác
bỏ một cách khoa học.
(The
Bible disagrees completely with this theory. The so
called theory of evolution, espoused by Darwin, Huxley,
and others, is today a dead issue that has been
scientifically discredited)
Lẽ dĩ nhiên, Tin Lành
không bao giờ nói rõ là lý luận khoa học nào đã bác bỏ
thuyết Tiến Hóa, và cứ tiếp tục giơ Thánh Kinh ra làm
như tất cả những điều viết trong Thánh Kinh đều không
thể sai lầm, một cách nhìn Thánh Kinh trái ngược hẳn với
những kết luận nghiên cứu về Thánh Kinh trong vòng mấy
trăm năm nay: “Thánh Kinh có đầy những sai lầm về
khoa học cũng như thần học”. Ngày nay chỉ có những
ngườ詠một là đần độn,
hai là cuồng tín, mới thường trích dẫn lạc lõng những
câu vụn vặt trong Thánh Kinh, coi đó là những lời của
Thần Cha (God) nên không thể sai lầm. Họ thường thích
trích dẫn câu đại khái là “Kẻ ngu không tin có Thiên
Chúa”, hàm ý người nào không tin Thiên Chúa của họ là
người ngu. Nhưng họ không biết rằng trong thế giới tiến
bộ trí thức, khoa học ngày nay, chỉ có kẻ đầu óc đần
độn mới có thể tin vào Thiên Chúa như được viết trong
Thánh Kinh. Chứng minh?
Nếu
không đần độn thì làm sao có thể tin vào một Thiên Chúa
“sáng tạo” ra cả vũ trụ trong 6 ngày, cách đây khoảng
6000 năm, không biết cả quả đất (một tạo vật chính mình
tạo ra) có hình cầu, và có một tính tình đồng bóng, bất
công, ác ôn, khát máu, giết người như ngóe? Họ đã đọc
Cựu Ước chưa, và có thấy những hành động này của Thiên
Chúa viết rõ ràng trong đó chưa? Nếu họ đã đọc thì họ
phải biết Thiên Chúa của họ đã đòi hỏi và thừa nhận
sự hi sinh tế thần (Leviticus 27. 28-29; Judges 11.
29-40; 2 Samuel 21. 1-9); đã giết tất cả những đứa
con đầu lòng trong các gia đình người Ai Cập (Exodus
12. 29); thừa nhận chế độ nô lệ (Exodus 21. 2-6;
Leviticus 25. 44-46) và bán con gái của mình
(Exodus 21.7); ra lệnh giết phù thủy (Exodus 22.
18); xử chết những người lạc đạo (heresy) (Exodus
22.20); xử chết những người không theo luật sabbath
(nghỉ làm việc ngày thứ Bảy) (Exodus 31. 14-15);
xử chết những kẻ ngoại tình (Leviticus 20.10); xử
chết những kẻ phỉ báng (Leviticus 24. 16); ném đá
chết những người không giữ được trinh bạch cho tới khi
kết hôn, luật này chỉ áp dụng cho phái nữ
(Deuteronomy 22. 20-21); giết một lúc 70000 người vì
David làm cuộc kiểm tra Israel (2 Samuel 24); sai
hai con gấu cắn xé nát 42 đứa trẻ vì chúng chế giễu tiên
tri Elisha (2 Kings 2. 23-24)..., và đây chỉ là một
số nhỏ điển hình trong số hàng trăm những hành động
tương tự khác của Thiên Chúa. Nếu không đần độn thì làm
sao có thể tin một người Do Thái bị đóng đinh trên thập
tự giá cùng với hai tên ăn trộm cách đây 2000 năm mà lại
có thể sống lại và làm “Chúa Cứu Thế” (sic) của cả nhân
loại trong khi kiến thức của ông ta về khoa học và vũ
trụ không hơn gì mức hiểu biết trung bình của một người
dân sống vào thời đó, và chính ông ta tự xưng là xuống
trần chỉ để cứu dân Do Thái mà thôi.
Chúng ta
hãy tự hỏi, những người có đầu óc lành mạnh, sáng suốt,
có thể tin được một ông Thần Cha (God) như vậy không?
Đừng có nói là Thần Con (Giê-su) khá hơn, vì trong Tân
ước ông ta đã khẳng định là xuống trần (sic) để thi hành
luật cho người Do Thái của Cha ông ta, và dạy không được
bỏ bất cứ luật nào của Cha ông ta. Hơn nữa, như
Ingersoll đã nhận định trong bài Những Lời Châu Ngọc
Về Ki Tô Giáo, cái giáo lý của Giê-su đọa đầy vĩnh
viễn xuống hỏa ngục những người không tin ông ta còn ác
ôn gấp bội tất cả những hành động ác ôn của Thần Cha
trong Cựu Ước. Vậy mà người ta vẫn cứ tiếp tục đưa ra
những luận điệu lố bịch, hoàn toàn sai sự thực như:
“Thiên Chúa quá thương yêu thế gian..” và quảng cáo
đầy đường “Giê-su Yêu Bạn” (Jesus loves you)
v..v.. Những lời nói láo giả dối này, hoàn toàn trái
ngược với Thánh Kinh, chỉ có thể thuyết phục được những
đầu óc kém mở mang, cả tin, và thực chất chỉ là những
lời chiêu dụ đám người đầu óc thấp kém để tạo quyền lực
thế tục cho giới giáo sĩ chăn chiên mà thôi.
Lại nữa,
một “lý luận” khác chống thuyết Tiến Hóa như sau :
Thuyết
Tiến Hóa được phát minh ra để loại bỏ dứt khoát ý tưởng
về sự hiện hữu của Thần Cha (God)... Thuyết này, trước
hết và chính yếu, là một sự tấn công vào nguồn cảm hứng
của Thánh Kinh.
(The
theory of evolution was invented to completely rule out
the idea of God’s existence..It is, first and foremost,
an attack on the inspiration of the Scriptures)
Đây
chính là những luận điệu hoang tưởng của Tin Lành đưa ra
để cho đám tín đồ cuồng tín kém hiểu biết, tin tất cả
vào Thánh Kinh, chống thuyết Tiến Hóa. Cho nên chúng ta
không lấy gì làm lạ khi thấy một vài tân tòng Tin Lành
Việt Nam dập theo khuôn Tin Lành bảo thủ để chống đối
thuyết Tiến Hóa như trong vài thí dụ sau đây :
Trước hết
là ông "Tiến Sĩ" Tin Lành Lê Anh Huy ở Mỹ, trong bài
"Nguồn Gốc Con Người: Học Thuyết & Đức Tin", Bách Hợp
số 3, 9-1999 :
“Một
lý thuyết khoa học phải được thực tế kiểm chứng và phải
có tính tiên đoán cao. Học thuyết Darwin thiếu cả hai
lãnh vực trên và do đó chỉ xứng đáng là một giả thuyết
thay vì lý thuyết như các nhà vô thần vẫn đề cao.
Rồi đến
một ông tự xưng là Nguyễn Em-ma-nu-en Khuất Minh, cựu
đảng viên CS, nay theo Tin Lành, viết một “Tâm Thư ngỏ”
gửi cho tờ An Ninh Thế Giới, mở đầu bằng câu: “Tạ
ơn Đức Chúa Trời, nhân danh một công dân của vương
quốc Thiên Đàng của Đức Chúa Jésus Christ, tôi trân
trọng gửi lời chào đến quý ông...”, trong đó ông ta
viết :
“Thuyết “nguồn gốc các loài” (hay còn gọi là thuyết
tiến hóa) của Đác Uyn là ngụy thuyết, đã bị nhiều người
nhạo báng và bị nhiều nhà khoa học phản bác. Gần 150
năm qua, thuyết này được những người vô thần theo học
thuyết duy vật lịch sử cho in thành sách giáo khoa phổ
thông, coi nó như là chân lý khoa học, liệu đấy có phải
là động cơ chính trị không?”
Những luận điệu chống thuyết Tiến Hóa trên chứng
tỏ là các ông Lê Anh Huy và Khuất Minh không hiểu
thuyết Tiến Hóa là gì, không biết rằng Darwin là người
rất sùng đạo, và không biết rằng “vô thần” là cha đẻ của
những sáng kiến khoa học ngoạn mục nhất của loài người,
và “hữu thần” chỉ là một ngục tù tư tưởng, không hơn
không kém. Mấy người này thường kết hợp “vô thần” với
Cộng Sản mà không biết rằng “vô thần” đã có từ mấy ngàn
năm nay, và theo Voltaire thì “vô thần là thói xấu của
một số ít người thông minh”. Và ngày nay, đối với những
người “vô thần” Âu Mỹ thì những người “hữu thần” chỉ là
những người thuộc loại hạ căn, mù lòa tin bướng tin
càn. Nhưng sách lược của những con vẹt “hữu thần” là
nói lấy được và không bao giờ cần chứng minh, không bao
giờ cần biết đến những tiến bộ khoa học trong chính
những chủ đề mà họ nói tới.
Và sau cùng là ông tân tòng Tin Lành Phan Như
Ngọc, một người tự xưng là “khoa học gia”, đưa ra nhận
định sau đây về thuyết Tiến Hóa :
“Vũ
trụ học, cũng giống như Thuyết Tiến Hóa, không phải là
những khoa học vì không kiểm chứng được.”
Chúng ta
thấy, ngày nay, trừ những đầu óc thuộc loại khuyết tật
hay có một điểm mù tôn giáo như của Lê Anh Huy, Khuất
Minh, Phan Như Ngọc v..v.., hay của những tín đồ thông
thường của Ki-tô giáo, Ca-tô cũng như Tin Lành, chỉ biết
nhắc lại như con vẹt những luận điệu chống thuyết Tiến
Hóa rất ấu trĩ của Ki Tô Giáo, hầu hết các khoa học gia
và giới trí thức có hiểu biết, ở trong cũng như ở ngoài
các giáo hội Ki-tô, đều đồng thuận ở điểm: Thuyết Tiến
Hóa đã trở thành một sự kiện (fact). Những tiếng chống
đối thuyết Tiến Hóa cất lên từ những ốc đảo si ngây mê
tín đã trở thành lạc lõng trong thế giới loài người.
Nhưng chúng vẩn tiếp tục cất lên vì trong thế giới loài
người ngày nay, không ít người, kể cả những người được
gọi là trí thức, vì một đức tin không cần biết, không
cần hiểu, nên vẫn sống trong bóng tối và nhắm mắt đi
theo một quá trình giật lùi, đồng nghĩa với thoái hóa.
Thật vậy, trong khi phần lớn thế giới đã ra khỏi vòng mê
tín thì một số lại quay đầu đi trở về những mê tín phi
lý trí, phi lô-gic, phản khoa học của thời Trung Cổ. Tệ
hơn nữa, họ còn tìm đủ mọi cách để kéo những người khác
đi vào vòng tăm tối như họ. Như Giám mục Spong đã nhận
định ở trên, những tiếng nói này không bao giờ có thể
thành công, vì nhân loại không đi giật lùi, và những kẻ
đi giật lùi trước sau gì cũng bị đào thải.. Ngoài ra,
có một vấn nạn mà người Ki Tô không sao tháo gở ra được,
đó là: “Tại sao một tôn giáo tự nhận là thiên khải,
thánh thiện, duy nhất v..v.. và những giáo hội tự nhận
là “hội thánh”, tôn thờ một “Thiên Chúa Quá Thương Yêu
Thế Gian..”, một “Giê-su Yêu Bạn” v..v.. lại chính là
tôn giáo duy nhất trên thế gian có một lịch sử ô nhục,
đẫm máu, gây nên nhiều thảm họa nhất cho nhân loại, với
khoảng 200 triệu sinh mạng vô tội trên bờ vai [Xin nhắc
là cả Ca Tô lẫn Tin Lành đều đã lên tiếng thú tội và xin
lỗi ở nhiều nơi trên thế giới], trong khi các tôn giáo
thấp kém hay “tà đạo” (sic) khác lại không hề dính một
vết máu nhơ? Vậy cái gì mới thực sư là chính, cái gì
mới thực sự là tà ở đây? Trả lời làm sao đây và có thể
thuyết phục được ai đây, ngoài những người thuộc loại Lê
Anh Huy, Huệ Nhật, Phan Như Ngọc, Khuất Minh v..v..?
Qua sự
trình bày về Charles Darwin và Thuyết Tiến Hóa ở trên,
chúng ta rút tỉa được những gì?
Thứ
nhất, trong suốt dòng lịch sử, Ki Tô Giáo đã cố sức ngăn
chận sự tiến bộ trí thức của nhân loại, đã cố sức giam
hãm đầu óc của tín đồ vào một niềm tin không cần biết,
không cần hiểu. Và cái nguy hại chính của Ki Tô Giáo là
ở nơi nào mà Ki Tô Giáo nắm được vị thế có quyền lực, ở
nơi đó sự trở lại thời man rợ và đen tối trí thức (the
age of barbarism and intellectual darkness) không phải
là không thể xảy ra. Đối với lớp người tự nhận là
công dân của vương quốc Thiên Đàng của Đức Chúa Jésus
Christ và luôn luôn cảm thấy hãnh diện tự
nguyện làm đầy tớ, xiêng năng hầu việc Chúa, thì không
làm gì có quốc gia và dân tộc, không làm gì còn nền văn
hóa, truyền thống quốc gia và dân tộc. Đây là một mối
nguy hại có thực nếu chúng ta áp dụng thái độ của con đà
điểu, rúc đầu vào cát, không nhìn thấy gì hết, và cho đó
là yên, sẽ không có chuyện gì xảy ra.
Thứ nhì,
tại sao chỉ có những tôn giáo “Độc Thần” như Ki Tô Giáo,
Do Thái Giáo, và Hồi Giáo là phát dị ứng đối với thuyết
Tiến Hóa, trong khi các tôn giáo Đông Phương như Thích,
Nho, Lão, và ngay cả Ấn Độ Giáo, đều không có một lời
chống đối? Phải chăng sự chống đối của Ki Tô Giáo bắt
nguồn từ một tâm cảnh thiếu tự tin và hoảng sợ trước
những sự thật khoa học có tác dụng loại bỏ những điều mê
tín hoang đường trong Ki Tô Giáo? Phải chăng Ki Tô Giáo
đã được xây dựng trên một căn bản thần học đã bị bật gốc
rễ trước những sự kiện khoa học, và do đó không còn
thích hợp với sự tiến bộ trí thức ngày nay? Phải chăng
sự chống đối chỉ có mục đích duy trì thần quyền và thế
quyền tự nhận của các giáo hội Ki Tô?
Thứ ba,
điểm đặc biệt nhất ở đây là chính những luận cứ của Ki
Tô Giáo chống đối thuyết Tiến Hóa đã quật ngược lại họ
một cách không thể cứu vãn, do đó cái đường thẳng “tin
Chúa” của Ki Tô Giáo chỉ còn có thể cúi đầu khuất phục
đi theo cái đường cong Tiến Hóa như linh mục dòng Tên
Teillard de Chardin nhận định. Thật vậy, như trên
chúng ta đã biết, những luận cứ chống đối như :
“Nếu
thuyết của Darwin đúng thì chuyện sáng thế là láo khoét,
toàn thể cuốn sách về sự sống (cuốn Thánh Kinh)
tan ra từng mảnh, và sự mạc khải của Thần Cha cho con
người, mà người Ki Tô chúng ta biết, là một ảo tưởng và
một cái bẫy”;
“Nếu giả
thuyết này đúng thì Thánh Kinh chỉ là một chuyện giả
tưởng không thể dung thứ được.. như vậy trong gần 2000
năm nay các tín đồ Ki Tô đã bị lừa dối bởi một lời nói
láo vĩ đại.. Darwin đòi hỏi chúng ta không nên tin vào
lời đầy quyền năng của Đấng Sáng Tạo”;
“Nếu thuyết
của Darwin đúng thì không có chỗ nào cho Thần Cha (God)”
“Thuyết
Tiến Hóa trái ngược với những điều rõ ràng trong Tân Ước
cũng như Cựu Ước"
Ngày
nay, nhân loại đã có câu trả lời thích đáng: “Thuyết
Tiến Hóa đúng, là một quá trình thiên nhiên, là một sự
kiện (fact) không ai có thể phủ bác, và không còn cần
phải bàn cãi nữa.” Và lẽ dĩ nhiên, câu trả lời này
kéo theo những sự kiện (facts) khác, kết luận từ những
luận điệu chống đối nêu trên :
“Chuyện
sáng thế là láo khoét, toàn thể cuốn sách về sự sống
(cuốn Thánh Kinh) đã tan ra từng mảnh, và sự mạc khải
của Thần Cha cho con người, mà người Ki Tô biết, là một
ảo tưởng và một cái bẫy”
“Thánh
Kinh chỉ là một chuyện giả tưởng không thể dung thứ
được.. và trong gần 2000 năm nay, các tín đồ Ki Tô đã
bị lừa dối bởi một lời nói láo vĩ đại..”
“Không có
chỗ nào cho Thần Cha (God)” [ở trong thế giới của
chúng ta ngày nay. TCN]
“Thuyết
Tiến Hóa đúng, vậy Thánh Kinh (Cựu Ước & Tân Ước) phải
sai.”
Hi vọng
những tín đồ Ki Tô Giáo Việt Nam, Ca Tô cũng như Tin
Lành, nhận thức được những sự thật trên và từ bỏ hi vọng
viển vông làm công dân của vương quốc Thiên
Đàng của Đức Chúa Jésus Christ, cái Thiên Đàng đã bị
Giáo Hoàng John Paul II sổ toẹt, và Giám Mục John Shelby
Spong coi như là một sự mê tìn tiền-Darwin và một sự vô
nghĩa hậu-Darwin, trở về làm “công dân yêu nước”
của nước Việt Nam, đất nước đã sinh ra và nuôi dưỡng từ
tổ tiên, ông cha, cho đến mình, và rồi đến con cháu
mình. Được như vậy thì sự hòa hợp tôn giáo và đoàn kết
dân tộc tự nhiên sẽ đến, không cần phải phải che dấu sự
thật, không cần phải ngăn chận thông tin, như Giáo hội
Ca Tô thường làm. Bởi vì, thuyết “chọn lọc tự nhiên”
(natural selection) hay “thích ứng nhất với môi trường
xung quanh” (best fit) để tồn tại và phát triển là một
qui luật thiên nhiên. Nếu cứ cố giữ bản chất lạc hậu
trong sự tiến bộ trí thức của nhân loại, thu mình trong
những ốc đảo xa lạ với nền văn hóa, xã hội xung quanh,
cứ cố giữ bản chất phi quốc gia dân tộc trong một dân
tộc có truyền thống yêu nước cao độ v..v.. thì trước sau
gì cũng bị suy tàn. Hiện tượng này đã rõ rệt ở phương
trời Âu Mỹ. Then chốt của vấn đề chính là ở điểm này.
Vài Lời
Kết.- Khi nói đến thuyết Tiến Hóa, người ta thường
nghĩ đến Charles Darwin. Thật ra thì Darwin không phải
là người đầu, mà cũng không phải là người cuối, làm cho
thuyết Tiến Hóa trở thành một sự kiện khoa học như hầu
hết các khoa học gia và giới trí thức đã công nhận ngày
nay. Nhiều tư tưởng về tiến hóa đã có trước Darwin.
Ngay từ trước thời đại thông thường ngày nay (B.C.E =
Before Common Era), ở Đông phương chúng ta có thể thấy
tư tưởng tiến hóa trong Áo Nghĩa Thư (800 B.C.E) của Ấn
Độ, trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử và sau được phát triển
bởi Trang Tử, và trong Kinh Dịch. Ở Tây phương, chúng
ta có thể kể Thales, Anaximander (học trò của Thales),
Xenophanes, Anaxagoras, Empedocles, Aristotle,
Lucretius. Trong thời đại thông thường ngày nay (C.E =
Common Era) có Plotinus (205-270 C.E.), Avicenna
(980-1037), Leonardo da Vinci (1452-1519). Nhưng đặc
biệt nhất là nhiều tư tưởng trong Phật Giáo, nhất là
thuyết Duyên Sinh hay Duyên Khởi, đã đi trước và rất phù
hợp với thuyết Tiến Hóa,. Ngay cả những phương pháp tu
tập trong Phật Giáo cũng là những quá trình tiến hóa.
Nhưng những chủ đề này không thuộc bài viết này. Tôi sẽ
trình bày những chủ đề này rõ ràng hơn với nhiều chi
tiết khi tôi viết về Nguồn Gốc Con Người: Thuyết Tiến
Hóa trong một bài khác.
Nhưng
xin đừng ngộ nhận, những bài tôi viết về Phật Giáo và
Khoa Học chỉ có mục đích chứng tỏ là nhiều tư tưởng của
Phật Giáo đã đi trước khoa học, kể cả thuyết Tiến Hóa,
khá xa, tuyệt đối không phải là dựa vào khoa học để
chứng minh Phật Giáo. Cho nên, chỗ đứng của Phật Giáo
trong nhân loại thật ra đã vững chắc trong suốt hơn 2500
năm nay, không cần phải diễn giải đi, diễn giải lại, như
nền thần học Ki Tô Giáo, để tìm cách tương hợp với khoa
học. Những ai muốn mượn khoa học để “chứng minh” (sic)
Phật Giáo thực sự đã không hiểu rõ về Phật Giáo cũng như
về khoa học.
Mời đọc thêm đề tài về Darwin:
Tiến Hóa Hay Sáng Tạo? (Trần Chung Ngọc)
Nguồn Gốc Con Người - Thuyết Tiến Hóa (Trần Chung Ngọc)
Charles Darwin và Thuyết Tiến Hóa (Trần Chung Ngọc)
Các Nước Trên Thế Giới Nghĩ Gì Về Thuyết Tiến Hóa Của Darwin (Sưu Tầm Liên Mạng)
Trang khoa học
Các bài khoa học cùng tác giả
▪
Charles Darwin và Thuyết Tiến Hóa -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Dẫn Nhập -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Phần I -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Phần I -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Phần I -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Phần II -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Phần II -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Phần II -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Phần II -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Phần II -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Phần II -
Trần Chung Ngọc
▪
Con Người và Vũ Trụ - Phần II -
Trần Chung Ngọc
▪
Darwin Hay Thượng Đế? Tiến Hóa Hay Sáng Tạo? -
Trần Chung Ngọc
▪
Khi Giáo Hoàng Nói Về Khoa Học -
Trần Chung Ngọc
▪
Nguồn Gốc Con Người - Thuyết Tiến Hóa -
Trần Chung Ngọc
▪
Nguồn Gốc Vũ Trụ - Thuyết Big Bang -
Trần Chung Ngọc
▪
Thiết Kế Thông Minh hay Ngu Đần -
Trần Chung Ngọc
▪
BOMB LADY -
Trần Chung Ngọc
▪
Chất Độc Da Cam Và Sự Vô Sỉ Của Một Số Người Việt Lưu Vong -
Trần Chung Ngọc
▪
Giải Nobel Vật-Lý Cho “Hạt Gót” -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 ▪
>>>