 |
¿ trở ra mục lục
| bản in |
22 tháng 3, 2010
|
Chương IV
GIÁO HỘI TRONG KHÁNG CHIẾN
(tiếp theo)
11 ─
VIỆC CẬP NHẬT HÓA
Về vấn đề này, nhiều linh mục đã ý thức đấy đủ và đã
phát hiểu rõ ràng trong một cuộc họp tại Hà Nội tháng chạp 1973. «Điều quan
trọng, chẳng phải con số đông, nhưng là phẩm chất, trình độ, trí thức và nghiệp
vụ của các chủng sinh» (Linh mục Vũ bá Nghiệp, Phát Diệm). Linh mục Trần ngọc Kỳ
đã tỏ ra thực tế hơn trong việc tuyển chọn phong chức: «Phải chọn các chủng sinh
trong số thanh niên Công giáo đã thi xong trung học, có những kiến thức nghề
nghiệp và có hoạt động yêu nước. Cũng nên chọn những con em gia đình công nhân
có công với nhân dân và Tổ quốc». Về chương trình, người ta đã hoan nghênh ý
kiến của linh mục Doãn, địa phận Hưng Hóa. Các linh mục được đào tạo kiểu xưa nỗ
lực nhiều để theo kịp Giáo dân trong lãnh vực chính trị và xã hội».
Từ ít lâu nay, nhất là từ khi lập lại hòa bình ở
miền Bắc, các cuộc họp linh mục, các buổi hội thảo gồm Linh mục và Giáo dân ra
sức dựa vào các kinh nghiệm sống mà tìm ra phương cách sống đạo trong một đất
nước xã hội chủ nghĩa. Các Linh mục và Giáo dân thừa nhận có công khai trong các
bài viết ở báo Chính Nghĩa, rằng còn nhiều khó khăn phải khắc phục. Theo Linh
mục Vương đình Ái «Điều kỳ cục là cứ nghĩ rằng hiện nay không còn vấn nạn liên
quan đến các lãnh vực tôn giáo và xã hội, trong hàng linh mục cũng như giáo dân.
Một số Linh mục không bằng lòng về thái độ của cán bộ chính quyền. Một số giáo
dân lo lắng về tương lai của tôn giáo. Một số Linh mục không thỏa mãn về nghị
quyết chung của Hàng giáo sĩ liên quan đến việc sửa đổi nghi thức, về tuần Tam
nhật sao cho phù hợp với đời sống mới của dân chúng, giản đơn các cuộc rước, các
cuộc lễ theo một hình thức văn hóa tân thời hơn, văn minh hơn...«Theo tác giả,
các lời phản đối đó là tự nhiên, bởi nó bộc lộ những do dự, những vấn đề được
đặt ra cho việc thích ứng với đời sống xã hội chủ nghĩa. Đó là những chi tiết
phải nghiên cứu lâu dài, mới đi tới chỗ khám phá ra con đường trở lại với dân
tộc.
Những khó khăn liên quan tới kinh nọ kinh kia đã
được soạn ra và một thời điểm lịch sử nào đó đòi phải được xem lại, sửa đổi,
hoặc tu chỉnh cho hay hơn. Có những cuộc tranh luận chung quanh vấn đề đào tạo
giáo sĩ. Người muốn được chịu chức phải được chọn bởi một mình Giám mục theo các
tiêu chuẩn riêng của giáo luật thôi, hay phải được chọn bởi Giám mục vùng với ý
kiến của nhân dân theo tiêu chuẩn xã hội và chính trị? Trong việc tuyển chọn
Linh mục, Giáo hội có thể chấp nhận một thứ tô vẽ của Nhà nước chăng, khi có
bằng cớ rằng người nọ người kia muốn chịu chức Linh mục, mà không phải là công
dân tốt, hoặc không chu toàn nghĩa vụ công dân mình chăng? Giáo hội có phải đem
lòng yêu nước đặt ngang hàng với các đức tin Kitô giáo chăng? Trong xã hội mới,
phải chăng cần nhấn mạnh hơn về các đức tính tập thể hơn là nhân đức cá nhân?
Đương nhiên các nỗ lực nghiên cứu đó còn nằm ở cấp
linh mục và giáo dân thôi. Phần đông các Giám mục coi các sáng kiến đó là khả
nghi, vì hàng Giáo phẩm cứ sợ rằng Nhà nước lợi dụng các điều đó mà hạn chế tính
độc lập của Giáo hội. Đàng khác, như một linh mục phát biểu, «các Giám mục của
chúng tôi đều đã quá già nua để có thể bắt được làn gió mới! Giám mục địa phận
tôi đã trên 71 tuổi, từ lâu chẳng biết gì về sự sống của Giáo hội cả...»
Những người quan sát đời sống hằng ngày của giáo dân
miền Bắc lấy làm lạ, một đàng trước sự hăng hái và dũng cảm của họ, kể cả hy
sinh mạng sống mình để kháng chiến chống Mỹ, để làm cách mạng và xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Sự hăng hái và dũng cảm đó được nhiều linh mục đồng tình chia sẻ,
đàng khác trước một nỗi đắng cay, một sự âu lo khó chịu che giấu đối với thái độ
Hàng Giáo phảm lên án Cách mạng, lên án chủ nghĩa xã hội và thái độ bàng quan
của Giáo hội đối với cuộc Kháng chiến.
Dưới một số khía cạnh, hoàn cảnh người
Công giáo Việt Nam giống như hoàn cảnh của người Công giáo Ý sau khi quân đội
của Victo Frumannuen II đánh chiếm Nước Tòa thánh và thống nhất nước Ý qua cuộc
trưng cầu dân ý ngày 2-10-1070. Là tín hữu họ phải vâng lời Giáo quyền đang lên
án việc truất của cải Tòa thánh và chẳng ưa thích gì đường lối chính trị của Nhà
nước, nhưng trong tư cách công dân, họ lại trung thành với Chính phủ, dẫu có
nhiều khó khăn trong và ngoài nước, đã không bỏ qua một chương trình nào được
vạch ra từ tháng 8-1945: độc lập và thống nhất đất nước, dân chủ nhân dân, tập
thể tư liệu sản xuất, xây dựng xã hội mới.
Nhưng khác với Ý, nước Việt Nam, dầu
có bị bom đạn Mỹ tàn phá man rợ, đã xây dựng lại được đất nước từ số không, nhờ
thành công trong các chương trình thanh toán nạn cùng khổ, nạn mù chữ, nạn mãi
dâm và liên tục kiên trì giải quyết các tồn tại của chủ nghĩa phong kiến và chủ
nghĩa thực dân. Đối với hàng Giáo phẩm, một số biện pháp được sử dụng để đạt các
mục tiêu đó là vi phạm quyền tự do của dân chúng. Chia đất, cưỡng bức binh dân
học vụ, bắt buộc lao động, cưỡng bức giáo dục các cô gái mãi dâm, cấm một số tập
tục và thói quen bị coi là mê tín dị đoan, hoặc bất nhân... Dĩ nhiên, Giáo hội
Việt Nam được gầy dựng bởi các Giáo hội phương Tây, cũng theo gót các Giáo hội
này mà lên án mọi hình thức cách mạng (Cách mạng Pháp 1789, Cách mạng Nga
1917...) và phải mất nhiều thời gian mới hiểu được Cách mạng. Chẳng hạn trước
cảnh nghèo khổ của dân chúng, Giáo hội lo bố thí, làm những việc từ thiện, nhưng
trái lại, chống tất cả mọi thay đổi cơ cấu xã hội qua đó có thể đem lại cho mọi
người cái tối thiểu để sống.
Đối với Giáo hội Việt Nam, phát xuất từ chế độ phong
kiến và thực dân, việc xây dựng một xã hội vô giai cấp, việc xóa bỏ các nguyên
nhân cơ cấu của nghèo đói, việc khước từ những giá trị từ trước vẫn được coi là
nguyên lý thần học Kitô giáo (như tư hữu được coi là thiêng liêng, quyền Giáo
hội tự cho là xã hội tối cao được mở và điều khiển học đường, bịnh viện, quyền
của Giáo hội như kẻ duy nhất nắm trọn chân lý, bắt giáo dân phải theo luật riêng
của mình và được kết án bè rối, lạc đạo...) tất cả những điều đó rõ ràng ngược
với giáo huấn trong các sách thần học và bị coi là quá nguy hiểm cho đức tin.
Việc đi từ phong kiến sang chủ nghĩa xã hội xét về lý thuyết thì xem ra thô bạo,
nhưng trong thực tiễn lại dễ dàng tại Việt Nam, vì đa số dân chúng là hạng bần
cùng. Giáo hội không chịu từ bỏ hiện trạng thần học và xã hội, đang khi một cuộc
biến chuyển tốt đẹp đang xãy ra chung quanh và ngay giữa lòng Giáo hội, nghĩa là
giữa giáo dân. «Quả là một tình hình mâu thuẫn và chua cay, như lời một linh mục
Việt Nam người Bắc phát biểu năm 1973, «vì chính người Cộng sản đang phổ biến tư
tưởng của Vatican II và đòi hỏi Giáo hội canh tân theo giáo huấn Cộng đồng, còn
các Giám mục của mình lại khước từ làm việc đó... Người ta cứ tiếp tục cái lỗi
thời, cứ sống theo quá khứ như thể không có thời gian».
XUYÊN QUA CUỘC GIẢI PHÓNG
Ngày 30 Tháng 4, 1975, lúc 5 giờ sáng, những tên
lính Mỹ cuối cùng tháp tùng đại sứ Martin rời khỏi đất Việt Nam. 10g30, Quân đội
Giải phóng tiến vào thành phố Sài Gòn. Một trang sử đã lật qua.
Giáo hội tỏ thái độ thế nào trước cuộc chiến thắng
của nhân dân Việt Nam? Giáo hội này, với 2.200.000 linh hồn - cỡ 9% dân số miền
Nam, đã tập trung chủ yếu tại vùng đất do quân lực Mỹ và thân Mỹ kiểm soát.
HỐT HOẢNG
Hốt hoảng, đó là tiếng đúng để diễn tả tâm trạng của
đa số trong Giáo hội miền Nam mấy tháng đầu năm 1975. Từ trên hai chục năm, Giáo
hội đã rao giảng «không thể đội trời chung với Cộng sản» và cuộc «Thánh chiến
chống lại kẻ thù của tôn giáo». Hơn nữa, Giáo hội hợp tác cộng khai hoặc kín đáo
với các lực lượng trong vùng Mỹ chiếm đóng. Bây giờ phải đứng trước cuộc chiến
thắng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Từ tháng 2, 1975, sự lo âu đè nặng Giáo hội. Trong
báo chí, nhất là tạp chí Tông đồ Giáo dân đã viết nhiều bài gieo rắc hoảng sợ
thay vì trấn an dân chúng. Nào là một cuộc tàn phá khủng khiếp sắp đổ xuống trên
đất nước, nào giờ trả thù đã điểm, nào có hai đạo quân, đạo quân xatăng đang
tiến vào đè bẹp đạo quân của Chúa: Báo động: Sứ điệp bí mật cuối cùng của Luyxi:
Các lời tiên tri về cuộc tận thế.
Đó là những đầu đề gieo rắc hoang mang vào tâm trí
người Công giáo đã bị rối loạn trước chiến thắng của quân đội Giải Phóng.
Một loạt rối loạn tâm thần tương tự bao trùm cả
Vatican. Hãng thông tấn Fides, báo L'Ossebvatoire Romano, cầm chắc trong tay
những tin sốt dẻo về cuộc bách hại tại các vùng mới giải phóng, loan những tin
tức rồi đây sẽ hiểu rõ là không đúng sự thật. Đức Phaolô VI xúc động trước thảm
cảnh người Việt Nam và các sự gian truân của người Công giáo.
Giám mục Nguyễn Kim Điền, Tổng giám mục Huế, viết
cho người bạn Pháp rằng mình sẽ ở lại vị trí, sẵn sàng chấp nhận «tù ngục khổ
đau và bách hại».
Phần Đức cha Nguyễn văn Bình, Tổng giám mục Sài Gòn
thì đưa ra lời kêu gọi hãy bình tĩnh và Ủy ban Tu sĩ của địa phận kêu gọi anh
chị em ở lại vị trí và sẳn sàng chịu tử vì đạo.
Tâm trạng đó mãi sau Giải phóng và mặc dầu có chính
sách hòa giải của Chính quyền Cách mạng vẫn còn tồn tại, Cách mạng không làm
phép lạ. Ngành tuyên truyền chống Cộng đã có một phần tư thế kỷ, để lại trong ý
thức và tiềm thức Việt Nam Công giáo một sự ám ảnh không dễ gì bôi xóa nhanh
được.
Một sự kiện khác biểu lộ cảnh hốt hoảng đó, tại phần
đông các địa phận, các Giám mục sử dụng quyền năng đặc biệt của Tòa thánh, đã cử
và phong chức vội vã các Giám mục phó, như thể các giáo phận sắp sửa trống ngôi
tới nơi rồi.
NHỮNG CUỘC RA ĐI
«Sự kinh hoàng của đa số người Công giáo trước tình
hình có thể phải chung sống với Cộng sản là hậu quả của một chủ nghĩa chống Cộng
mù quáng và tiêu cực», đó là lời của cha Nguyễn Hồng Giao, dòng Phanxico. Những
kẻ gây rối lợi dụng tâm não đó, tung ra những điều đồn đại kinh khủng: «bộ đội
giết linh mục, hãm hiếp nữ tu, bắt buộc Công giáo di cư phải đi bộ hoặc đi bằng
đầu gối về làng cũ ngoài Bắc - cách 1600 hoặc 2000 kilômét v.v.. ». Nguồn gốc các bản tin «đáng tin cậy» đó thường là linh mục nọ linh
mục kia mới thoát khỏi vùng «mới bị chiếm đóng của Việt cộng», hoặc là xơ nọ khi
mới «thoát khỏi nạn thảm sát».
Trước ngày 30 tháng 4-1975, Sài Gòn sống với những
lời đồn đại như thế, «Tòa thánh và Hàng Giáo phẩm đứng ra tổ chức di cư toàn bộ
người Công giáo». Đứng trước mức độ ghê gớm của những tin đồn đó, đức Tổng Giám
mục Sài Gòn đã phải lên tiếng cải chính trong lời kêu gọi ngày 8-4-1975, sau đó
đã nói rõ với báo chí: «Hàng Giáo phẩm không tổ chức di cư, giáo dân và các Giám
mục đều ở tại chỗ». (AFP).
Một số linh mục, tu sĩ nam nữ và giáo dân đã bỏ chạy
trước ngày Sài Gòn được giải phóng: chừng 100 linh mục, 400 tu sĩ nam nữ, 50.000
giáo dân. Khó mà khẳng định rằng họ là nạn nhân của cuộc bách hại Công giáo, là
trường hợp Đức Khâm sứ Hăngri l.omecơro do chính quyền Cách mạng lâm thời đề
nghị rời khỏi Việt Nam ngày 5-6-1975.
Trước ngày giải phóng Sài Gòn, một nhóm sinh viên
Công giáo đã gửi qua Đức Giáo Hoàng một bức thư yêu cầu Ngài rút vị khâm sứ về,
vì đã quá dính líu với chế độ cũ. Một bức thư khác, do 2 nhóm ký tên ngày
14-5-1975, nài xin đức Khâm sứ hãy rời khỏi Việt Nam. Sau cùng, một công văn do
Bộ ngoại giao chính phủ Cách mạng Lâm thời đến yêu cầu Khâm sứ ra đi. Lý do của
biện pháp này đã được một vị đại diện Chính phủ Cách Mạng Lâm thời trình bày cho
giới giáo sĩ địa phận thành phố Hồ Chí Minh.
Sau cùng, việc ra đi của các thừa sai nước ngoài
(chứng 150 linh mục, tu sĩ nam nữ thuộc nhiều quốc tịch) đã gây nhiều xôn xao
trong dư luận phương Tây. Người ta nói đến «lễ mồ cho miền Nam» (P.Gheddo, It
Nostro Tempo, 30-11-75), về việc «khó sống đạo tại miền Nam» (P. Gheddo, Mhnde
et Missiono, 3-76), về «Giáo hội thánh Thầm lặng» (S. Quercette, America
18-9-78), về "cái chết thứ hai của Việt Nam» (AA. Gelinas Express, số 1325 và
1329, 26-11 và 5-12-76)... Tại Việt Nam, cuộc ra đi đó chẳng làm nhiều người bực
bội gì.
Cuộc ra đi của thừa sai không tạo ra lỗ hổng. Tại
miền Nam, hiện có tới 25 Giám mục trong đó 15 vị tại tòa, cỡ 2000 linh mục và
gần 7500 tu sĩ nam nữ, tất cả là người Việt.
VỤ GIÁM MỤC NGUYỄN VĂN THUẬN
Vì đi liền với Hăngri Lơmetơrơ, vụ Giám mục Nguyễn
văn Thuận tạo ra một bầu không khí u ám trong Giáo hội và trong quan hệ giữa
Giáo hội và Nhà nước. Đức cha Thuận, 46 tuổi, trước là giám mục Nha Trang. Theo
các nguồn tin chính thức, ông được đặt làm Giám mục phó Sài Gòn ngày 25.4.1975
(với quyền kế vị Tổng giám mục Sài Gòn). Việc Vatican cử đức cha Thuận bị một
số linh mục và giáo dân đặt thành nghi vấn, bởi vì hình như Khâm sứ tòa thánh đã
dùng quyền năng bất thường của Tòa thánh ban cho Đại diện Tông tòa trong trường
hợp đặt biệt khó khăn của Giáo hội. Chúng ta có tài liệu để kiểm chứng nghi vấn
này. Dầu sao, việc cắt cử Giám mục Thuận đã chỉ được công bố trong Công báo Tòa
thánh (Acto Apostolicae Sedia) tháng 7-1975, chậm những 3 tháng, gây sự nghi
ngờ. Việc cử Giám mục Thuận đã được giáo quyền giữ bí mật. Một tuần lễ sau ngày
giải phóng Sài Gòn, chừng hai chục linh mục đã đến Tòa giám mục yêu cầu đức cha
Nguyễn văn Bình hoãn tuyên bố việc cắt cử đó, bởi vì có sự có mặt của đức cha
Thuận tại Sài Gòn là không hơp thời và nguy hại cho Giáo hội. Điều đó có nhiều
lý do, trước tiên, đức cha Thuận là cháu Ngô đình Diệm, người đã bỏ tù ông
Nguyễn hữu Thọ, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Tiếp đến, ông là người ai
cũng biết đã liên hệ nhiều với Mỹ và đã hỗ trợ cho những ý đồ kín đáo của Mỹ.
Các linh mục nói trên tìm cách làm áp lực kín đáo để Giáo quyền hoãn việc công
bố sự cắt cử đó và liên hệ qua Vatican trình bày về tính bất lợi của việc Giám
mục Thuận ở Sài Gòn trong những lúc gay go này của lịch sử.
Nhưng ngày 12.5, một thông báo của Tòa giám mục công
bố tin tức về việc Giám mục Thuận làm Giám mục phó Sài Gòn. Phản ứng tức thì nổ
ra. Nhiều nhóm giáo dân tiến bộ được báo động, lên tiếng phản đối công khai.
Nhiều kiến nghị được đưa ra. Có những cuộc biểu tình được tổ chức trước tòa Khâm
sứ và tòa Giám mục. Có những cuộc mít tinh ngược lại, do những giáo dân bảo thủ
tổ chức ủng hộ Đức cha Thuận. Rồi truyền đơn, kiến nghị được tung ra, thứ thì
ủng hộ, thứ thì phản đối.
Trong lúc đó, chính quyền cách mạng can thiệp. Ngày
27.6.1975, một cuộc họp được tổ chức, một bên có hai Giám mục Bình và Thuận và
bên kia là đại diện chính phủ Cách mạng lâm thời, với sự có mặt của một số Linh
mục tiến bộ và bảo thủ. Sau khi nghe lập trường mỗi bên trình bày, đại diện
Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẵn sàng giúp đức cha Thuận gửi nhanh thư sang
Vatican (vì lúc đó chưa tái lập viễn thông) nhưng yêu cầu đức cha trở về tòa
Giám mục của ông ở Nha Trang.
Giám mục Thuận từ chối mọi giải pháp, vịn lẽ rằng
ông phải vâng lênh Tòa thánh. Hai tháng trôi qua, trong khi đôi bên vẫn giữ lập
trường cứng rắn của mình. Chính phủ Cách mạng Lâm thời trình bày cho giáo dân
hiểu lý do tại sao không chấp nhận Giám mục Thuận ở Sài Gòn. Những người Công
giáo bảo thủ lại tố cáo Chính phủ Cách mạng Lâm thời là bách hại Giáo hội.
Cuối cùng, sau hai tháng giằng co, ngày 15.8.75,
trước mặt 350 Linh mục và bề trên, Chính phủ Cách mạng Lâm thời cho biết rằng sự
kiên nhẫn của chính phủ có giới hạn và do đó đã quyết định bắt buộc Giám mục
Thuận phải ở yên tại giáo xứ, thuộc địa phận Nha Trang.
Vụ này kể như giải quyết xong cách chính thức, với
một bản thông cáo của Đức Tổng Giám mục Sài Gòn.
CHỐNG ĐỐI
Nếu tất cả mọi người Công giáo đều dễ dàng chấp nhận
chế độ cách mạng, thì đó phải là một phép mầu. Sức nặng của một quá khứ lâu dài
chống Cộng và chống cách mạng còn ở cả trên vai họ. Giáo hội bị vướng vào sự
liên lụy với ngoại bang và các đặc quyền đặc lợi, cũng khó mà cải đổi được ngày
một ngày hai.
Nayan Chanda, một phóng viên của tờ Kinh tế Viễn
đông đã giải thích đúng tâm não của người dân Sài Gòn trong một câu sau đây: Hôm
đầu, họ sẵn sàng từ bỏ hết để chạy thục mạng, ngày thứ hai, họ đòi lại chiếc
honđa và qua ngày thứ ba, họ đòi lại tất cả những gì họ đã có trước kia. Câu nói
đùa đó cũng áp dụng được một phần vào Giáo hội miền Nam. Sau giờ phút kinh
hoàng, người Công giáo bắt đầu nhen nhóm tổ chức chống đối chế độ.
Việc chống đối này biểu hiện trước tiên dưới dạng
tung tin nhảm và thả tờ rơi mang tính chất xem ra thuần túy tôn giáo thôi: Sau
ngày Sài Gòn giải phóng, Đức Mẹ ở nhà thờ Đakao đã khóc. Người ta thấy vết nước
mắt nơi gò má của người. Rồi tổ chức tụ tập, vào lúc mà nền an ninh còn có vấn đề
đối với đạo quân cách mạng vừa chân ướt chân ráo vào Sài Gòn. Tiên tri xuất hiện
khắp nơi: (Miền Nam mất rồi) do sự khô khan nguội lanh của giáo dân; (tận thế
sắp xảy ra với sự có mặt của Cộng sản tại miền Nam). Đức Tổng Giám mục Sài Gòn
phải lên tiếng nhằm ngăn chận những làn sóng chuyện lạ đó.
Lời cảnh cáo đầu tiên không đem lại hậu quả mong
muốn. Sự chống đối núp đằng sau quyền tự do tôn giáo, đã tổ chức những cuộc tập
hợp cả ngàn người, chẳng hạn tại trung tâm Fatima Bình Triệu, cùng ngoại ô Sài
Gòn, cho là đã có phép lạ xảy ra ở đó. Ngày 5.8-76, Đức Tổng Giám mục Nguyễn văn
Bình lại phải ra một thông cáo mới. Mưu đồ được che dậy khôn khéo, Đức Mẹ Fatima
được dùng làm dấu hiệu cho cuộc tập họp chống Cộng. Các lời kinh chứa đựng những
kiễu như, Gia đình chúng con thề quyết chống lại Cộng sản vô thần (Tôn Nữ Vương
gia đình).
Một dạng chống đối khác có vũ trang, đã được tổ chức
với sự tham gia của một số Linh mục và giáo dân. Một trong những nhóm chính, tổ
chức núp ẩn tại nhà thờ Vinh Sơn, đã bị cảnh sát phát hiện. Một vị thừa sai bị
mời rời khỏi Việt Nam, đã mô tả vụ này như một chuyện hoàn toàn do Nhà nước
dựng đứng lên. Ý kiến của ông không ăn khớp với các sự kiện khách quan và những
lời tuyên bố của nhân vật tôn giáo.
Người ta đoán chắc rằng tổ chức chống đối có vũ
trang này đã được lên kế hoạch từ ngoài, theo một chiến dịch rộng lớn, nhằm phá
hoại và âm mưu lật đổ. Biết rằng năm 1954, sau khi quân đội Pháp rút khỏi Bắc
Việt, CIA đã để lại một mạng lưới nhân sự quan trọng, nhằm phá hoại và mưu toan
lật đổ (xem tài liệu Lầu năm góc).
Dầu sao, vụ Vinh Sơn là một vụ nghiêm trọng bởi nó
núp đàng sau sự tự do tín ngưỡng và nó đụng tới cả giới Công giáo, Linh mục cũng
như giáo dân.
CỘNG TÁC
Cuối tháng 4-1975, khi Phái đoàn Huynh đệ Việt Nam
trở lại Pari với bức thư chung của Tổng Giám mục Nguyễn kim Điền và lời đức cha
tuyên bố ngày 9.4.1975, các phóng viên Pari thoạt tiên vẫn nghi ngờ. Vì trong
đó, sự lo lắng sơ hãi đã nhường cho sự vui mừng tin tưởng đối với Chính phủ Cách
mạng.
Một tháng sau, ngày 5 tháng 5, Đức cha Nguyễn văn
Bình, Tổng Giám mục Sài Gòn, cũng dùng một giọng nói như thế, trong thư chung
ngài biểu lộ sự vui mừng về hòa bình đã được lập lại và kêu gọi giáo dân tham
gia tái thiết đất nước, dưới dự lãnh đạo của Chính phủ Cách mạng lâm thời. Cộng
tác với những người mình đã coi là kẻ thù (xấu hơn cả ma quỉ) đó là cái gì rất
mới trong Giáo hội Việt Nam. Có người còn nghĩ rằng, đây chỉ là trò xu thời
thuần túy của hàng Giáo phẩm thôi. Một số khác lại không muốn làm theo hàng Giáo
phẩm. Đức tổng giám mục Sài Gòn đã phải nói rõ suy nghĩ của mình, trong thư
chung đề ngày 31-8, nhân dịp lễ mừng ngày Độc Lập. Đây không còn là vấn đề cộng
tác với những người cách mạng, mà phải làm cách mạng. Trong thư chung của Ngài
nói về thống nhất đất nước, lời lẽ còn tỏ ra thuyết phục hơn: «Sự thống nhất Đất
Nước có thể là cơ hội cho Đức Kitô đến giữa chúng ta».
Trong dịp vui mừng phấn khởi đó của toàn dân, thống
nhất đất nước để tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đức cha Nguyễn Kim Điền, Tổng giáo
mục Huế, nhấn mạnh rằng: chủ nghĩa xã hội phù hợp với Tin mừng.
Để mừng ngày kỷ niệm đáng nhớ này, tại nhiều địa
phận, các Giám mục đã chỉ thị rằng ngày 23-11 phải là «ngày tạ ơn».
Từ hôm đó, Hàng Giáo phẩm đã không bỏ qua một dịp
nào mà không lặp lại sự tin tưởng vào chính sách cởi mở của chính phủ và kêu gọi
giáo dân, hãy cùng nhau nắm tay mà tiến trên con đường xã hội chủ nghĩa, thực
thi công bằng và chia sẽ. Nhiều Giám mục cũng lợi dụng ngày lễ Giáng Sinh, để
nhắc lại cho giáo dân Tin mừng của Đức Kitô, là giải phóng những người bị áp
bức, là xây dựng một xã hội trong đó không còn cảnh người bóc lột người nữa, là
dấn thân phục vụ đồng bào để xây dựng Nước Chúa và một xã hội trần thế ngày càng
tốt đẹp.
«Tin mừng của Chúa là một động lực tuyệt hảo thúc
đẩy giáo dân sống theo tinh thần xã hội chủ nghĩa», đó là ý lực của Sứ điệp Năm
mới của Đức Tổng Giám mục Sài Gòn.
Sống đời Kitô giáo, cùng cộng tác với anh em Cộng
sản, thực tiễn ngày càng hiện rõ và càng phong phú hơn đối với Giáo hội. Trong
thư mục vụ ngày 16-7-1976, Hội đồng Giám mục các giáo phận Sài Gòn và Huế (trước
kia là Miền Nam) còn lặp lại rằng, đức tin chẳng phải là bức tường ngăn cách tín
hữu với người không tín ngưỡng, cũng chẳng phải là thứ thuốc phiện đưa người
tín hữu lánh xa thực tại trần gian và tìm cách đáp ứng mục tiêu của những con
người bảo thủ.
Trong dịp được Thủ tướng Phạm Văn Đồng tiếp kiến,
Đức cha Điền, Tổng giám mục Sài Gòn, cùng với Đức cha Nguyễn Ngọc Quang, Giám
mục Cần Thơ (22-9-976) đã lần lượt xác định lại lòng tin tưởng của mình đối với
chính phủ và hứa làm cho giáo dân cộng tác với toàn dân trong công cuộc xây dựng
đất nước.
DẤN THÂN
Đọc qua các tài liệu của Giám mục, người ta nhận
thấy cách mạng tôn trọng sự tự do của tín hữu. Nhưng đời sống cách mạng có nhiều
đòi hỏi. Khi tiếp xúc với anh em cách mạng có nếp sống khắc khổ, cuộc đời họ hy
sinh cho lợi ích của nhân dân. Giáo hội thấy bắt buộc phải đi vào một cuộc «cập
nhật hóa» có chiều sâu, điều mà Công đồng Vatican II hình như chưa thực hiện
nổi. Việc chia sẻ không thể thực hiện, nếu không hy sinh một phần tài sản mình
và có khi đến cả chính thân mình.
Chưa bao giờ tinh thần Tin mừng, tinh thần Công đồng
Vatican II lại thổi mạnh vào Giáo hội Việt Nam như hiện nay. Dĩ nhiên, không thể
chờ mong có phép lạ ở đây, hay là một cuộc đảo ngược triệt để và bao trùm toàn
thể Giáo hội trong thời gian chỉ một năm rưỡi. Nhưng chặng đường đã đi tới là đã
khá xa.
Bước dấn thân đầu tiên của Giáo hội xảy ra tháng 10,
khi có quyết định hiến tất cả các trường tư thục Công giáo để lo việc giáo dục
miễn phí cho tất cả con em đất nước. Nước Việt Nam bị tàn phá và bần cùng hóa
bởi chiến tranh, không thể xây dựng một nền kinh tế độc lập, nếu mọi người không
bắt tay vào. Giáo hội muốn đem Tin mừng cho người nghèo, bắt đầu hiểu rằng mình
phải sống cuộc sống của nhân dân, nghĩa là sống khó nghèo, dùng mồ hôi đổi lấy
cơm mà ăn, chứ không phải cứ trông nhờ viện trợ và bố thí. Nhiều hợp tác xã sản
xuất đã được thành hình tại nhiều tu viện và chủng viện, thực hành phương châm
của thánh Biển Đức là «Tâm nguyện, Lực hành».
Sau ngày giải phóng Sài Gòn, chính phủ cách mạng
phải đương đầu với một số vấn đề gay cấn: dân số quá đông tại các thành thị,
nhất là Sài Gòn có tới 70% người chưa có việc làm ổn định. Muốn giải quyết vấn
đề này, cũng như muốn khai khẩn các vùng đất đã bị hoang hóa vì chiến tranh,
chính phủ phải lập ra các vùng kinh tế mới. Nhưng chính phủ lại không muốn cưỡng
bức phân tán những thành phần dân thất nghiệp đô thị hay là các vùng nông thôn.
Trung thành với sứ mạng lãnh đạo tinh thần, Đức Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình,
chủ tịch Hội đồng Giám mục, miền Nam đã lên tiếng hô hào hưởng ứng chương trình
các vùng kinh tế mới.
Nói thì dễ, nhưng còn phải hành động. Để nêu gương
cho giáo dân, Đức cha Bình và 195 Linh mục, 136 nữ tu, đã lấy ba tháng, từ tháng
5 đến tháng 7, 1976 để cùng nhau đi «lao động xã hội chủ nghĩa», đào mương, đắp
đê làm thủy lợi và dựng nhà cho dân chúng.
Việc dấn thân tham gia hành động cách mạng là một
luồng gió mới Thánh Linh thổi. Cuối cùng rồi người Kitô hữu khám phá ra các giá
trị «cách mạng» của Tin mừng.
NHỮNG TÍN HỮU CƠ SỞ
Chính các anh chị tín hữu cơ sở đã từ lâu chuẩn bị
cho Giáo Hội, kinh qua máu và nước mắt của họ, đi tới sự cởi mở này, đã có thể
làm những người quan sát viên hời hợt phải bỡ ngỡ. Quả vậy, từ các tờ tạp chí
xuất bản gần như «trái phép» tại Sài Gòn tứ 1965 (Sống Đạo, Đối Diện, Chọn), nhờ
việc gây ý thức qua những thực tế xã hội tàn bạo, các nhóm Thanh Lao Công, Thanh
Sinh Công, các chiền sĩ Kitô hữu đấu tranh cho hòa bình và của Ủy ban đòi thả tù
chính trị, đã tích cực tham gia đấu tranh chống sự can thiệp của nước ngoài và
chống cuộc thánh chiến chống Cộng. Người ta gọi họ là «cấp tiến» và nhiều người
trong họ đã «nếm mùi» nhà tù và tra tấn.
Khi tiếng kẻng cáo chung chế độ vang lên, trước cả
khi lực lượng giải phóng tiến vào, các nhóm trẻ này đã giải phóng các phường
Khánh Hội, Bàn Cờ và chiếm trụ sở của tồ chức Nghiệp đoàn Trần Quốc Bửu, một
cánh tay phải của CIA tại miền Nam.
Sau giải phóng, người ta gặp các nhóm phường xã,
trong hầu hết các ngành sinh hoạt mới của môi trường xã hội cách mạng thuộc địa
bàn dân cư. Có những hình thức suy nghĩ theo nhóm, những buổi học tập chính trị
trong nhóm, phường hoặc xã, đã hướng dẫn tinh thần chiến sĩ Kitô giáo của họ đi
vào việc dấn thân có tổ chức hơn.
Một trong những cuộc họp đáng nhắc lại, là cuộc hội
thảo ngày 5-7-1975, đã có tới hơn 500 người tham dự. Ai cũng thấy một niềm khát
khao đào sâu thần học. Và chính đám trẻ đã tạo ra khí thế trao đổi cho các sinh
hoạt theo tổ.
«Chúng tôi yêu cầu các Linh mục vá tu sĩ cho chúng
tôi được học hỏi thần học giải phóng, để có thể hiểu và sống Tin mừng (tổ 7A).
Thần học này trước đây đã bị Hàng Giáo phẩm cấm đoán, cho là nguy hại».
«Mục tiêu của cách mạng là xây dựng một xã hội công
bằng, đem lại phúc lợi xã hội cho mọi người và tình thương nhau, với mục tiêu
của Tin mừng, không có gì là mâu thuẫn cả. Xã hội Việt Nam đang tiến hành làm
cách mạng: Giáo hội cũng phải đi vào đó bởi vì sống làm cách mạng cũng là một
cách sống Tin mừng, sống mãnh liệt Lời Chúa» (báo cáo tổ 1).
Các buổi trao đổi về các khía cạnh trong đời sống
Giáo hội cũng rất cương quyết. «Từ trước tới nay, trong sinh hoạt xã hội, Giáo
hội chưa bao giờ đi tới tận gốc rễ của sự dữ. Trong thế hệ mới, các sinh hoạt
của Giáo hội đem lại hiệu quả, nếu biết trở thành sinh hoạt của toàn dân, trong
đó người giáo dân tham gia với mọi người khác để lo hạnh phúc của đồng bào» (tổ
3).
«Các trường học phải thuộc về nhân dân, chứ không
nên tiếp tục là của riêng hội dòng này nọ» (tổ 4).
«Từ trước tới nay, các phong trào tông đồ giáo dân
đã dẫm chân lên các sinh hoạt xã hội và văn hóa. Ngày nay, các hoạt động đó đều
do các tổ chức cách mạng đảm trách. Phía chúng ta, chúng ta cấn đào sâu khía
cạnh tâm linh, để giúp dân sống rộng rãi hơn tinh thần Tin mừng» (tổ 2).
Tổ 5, bàn về thế giới công nhân, sôi nổi hơn. Có
những chủ đề đối chọi nhau được đưa ra tranh luận. Cuối cùng họ đi tới khẳng
định cơ bản: «Đấu tranh chống bạo lực, và yêu chuộng hòa bình. Một khi hiễu rõ
nguyên tắc này rồi, thì sẽ thấy rằng đấu tranh giai cấp là phù hợp với Tin mừng
bình an Đức Kitô đã loan báo».
Sau hết, tổ 9 đòi phải có «nam nữ bình đẳng trong
đời sống Giáo hội, cũng như đã có trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa».
Những điều nghị quyết đó được toàn thể thông qua,
tạo ra một thứ hậu quả cơ sở cho cuộc dấn thân Kitô hữu. Nó không được nằm
nguyên trên giấy, bởi một cuộc cách mạng xã hội không thể tiến hành bằng giấy tờ
suông. Nhưng nó đánh dấu một đoạn tuyệt với khái niệm ốc đảo Công giáo đắc thế
và mở ra những giá trị mới, đoạn tuyệt với một thứ thần học cũ cứng ngắc, để đưa
vào một nền thần học sinh động căn cứ trên những thực tế mới. Nó đã ảnh hưởng
tới Đức Tổng Giám mục Bình trong nhiều lần tỏ rõ lập trường sau đó.
Những người bảo thủ bực tức vì thấy trường Công giáo
không còn, bệnh viện, cô nhi viện, ngân hàng Công giáo không còn, nhưng trong
tất cả các phường, nhân dân Công giáo nghèo lại được hưởng sự phục vụ của các
nhà trẻ bình dân, những lớp học miễn phí, những bệnh viện nhân dân, những phòng
khám khu vực. Sự phân biệt cứ trên tiền bạc cũng biến đi, nhường chỗ cho tình
đoàn kết không phân biệt lương giáo.
Ngay cả trước khi có lời kêu gọi của Đức Tổng Giám
mục Nguyễn Văn Bình, có các anh chị tín hữu thuộc mọi lứa tuổi, linh mục, tu sĩ,
đã đi lao động tại các vùng kinh tế mới, không mang một nhãn hiệu Công giáo, mà
lại hãnh diện vì thấy khi mình lao động như thế là sống Tin mừng Đức Kitô cách
chân thực.
Nhờ loại men mới đó, khối Công giáo từ lâu đã bị
nhồi sọ bởi một thứ giáo lý vô bổ chỉ gây hận thù, thì nay được từng bước cảnh
tỉnh: quả thế, hai chục năm hơn về trước, người ta đồng hóa đức tin với chủ
nghĩa chống Cộng, người ta đã khắc vào trí óc bà con rằng: Công giáo không thể
sống chung với Cộng sản, rằng cộng tác với họ là rời bỏ công đoàn Giáo hội. Bây
giờ, người ta thấy Công giáo có mặt khắp nơi: tại Quốc hội, tại Ủy ban Trung
ương Mặt trận Tổ quốc, trong các Ủy ban Tỉnh, quận huyện phường xã.
Có thể đếm được hàng ngàn ca «hoán cải» cách kỳ
diệu. Như linh mục Nguyễn Văn Bình, bị bộ đội cách mạng bắt năm 1972 trong trận
đánh chiếm Quảng Trị, ngày nay đang ở Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc. Như
chị Nguyễn thị Lan từng đối nghịch gay gắt với những người «cấp tiến» nay lại đi
công tác tại nông trường xã hội chủ nghĩa Củ Chi. Có người Công giáo nọ kia là
«tư sản», bây giờ lại đang làm công tác trong các ủy ban phường xã...
Chủ nghĩa xã hội không còn là con vật dị hợm đối với
Công giáo nữa. Dĩ nhiên, lúc này, chưa phải chống cự. Những anh chị tín hữu dấn
thân đã học được cách mạng bài học quí giá: phải kiên trì.
«Từ ngày giải phóng, người Kitô hữu sống một đời
sống có tính Tin mừng hơn», đó là ý chính trong bản báo cáo đức cha Bùi Tuần đọc
trước một cuộc họp Linh mục địa phận mình tại Long Xuyên, nhân dịp kỷ niệm năm
thứ nhất ngày Giải phóng. Có thể nói rằng các địa phận khác cũng suy nghĩ tương
tự. Đó là kết quả đầu tiên tích cực, mà cả những người thủ cựu cũng phải công
nhận. Từ những hoa trái đầu mùa đó, Giáo hội khám phá ra cuộc sống mới của mình.
KẾT LUẬN
Như tất cả các Giáo hội Đức Kitô khắp các nước, Giáo
hội Việt Nam không co sự đồng dạng. Có những xu hướng khác nhau đụng nhau,
mà không sứt mẻ gì. Việc cập nhật hóa do Vatican II đề xướng, lâu nay cứ ầm
ỉ, ngày nay gặp được trong Cách mạng một địa bàn phong phú. Có những sức níu
kéo tiền Công đồng, khi thì thụ động, lúc lại hung hăng, chống lại lời kêu
gọi lặp lại của hàng Giáo phẩm. Nhờ họ, Giáo hội nhất quyết sống chan hòa
với nhân dân trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Còn quá sớm để rút ra kết quả. Nhưng Giáo hội miền
Nam nhất định không làm một Giáo hội thầm lặng nhưng là một Giáo hội được
sai đi, Giáo hội đi loan báo Tin mừng trong hoàn cảnh lịch sử hiện nay của
đất nước chúng ta. Cách mạng không ngược lại với sứ mạng đó, miễn là Giáo
hội biết dấn thân phục vụ con người, theo gương Chúa Kitô.
HƯỚNG NHÌN VỀ TƯƠNG LAI
Ngày 31 tháng Giêng 1974.
Một năm sau chiến tranh, dầu đã có hiệp định, hôm đó
tại sân bay Sài Gòn, người ta nghênh đón tượng Đức Mẹ Fatima, với cả một
biển người. Quần chúng hoan hô vang dậy. Lễ rước kiệu trọng thể vào «Thủ
đô», đô trưởng đem dâng chìa khóa vàng của Thành phố cho Mẹ. Rồi là cuộc du
hành khắp cả miền, «Trong vòng ba đêm ngày, vị Sứ Giả Hòa Bình rảo đi khắp
xứ, sử dụng mọi thứ phương tiện di chuyển: máy bay, trực thăng, xe thiết
giáp phủ hoa, xe du lịch, xe zip nhà binh và hai lần, dùng cả xe Hồng thập
tự - để có thể chen qua đám đông và đến một trạm khác cho đúng giờ hẹn...
Điểm cao là tại «Thủ đô» sáng chủ nhật ngày 3.2. Tất cả các đường phố dẫn về
lễ đài trung tâm dựng sau nhà thờ chính tòa, cũng như tất cả các vườn hoa,
quãng trường lân cận, đều đặc đen người ta, ít ra phải tới con số 300.000
người, thật chưa từng có! »
«Lần lượt Tổng thống Nguyễn văn Thiệu và phu nhân,
ông chủ tịch thượng viện Trần văn Lắm, đức Khâm sứ Hăngri Lơmetơrơ, các chức
sắc cao các tôn giáo, đến cầu nguyện và dâng lễ trước tượng Đức Mẹ. Chung
quanh tượng đài Đức Mẹ, có 4 lá cờ lớn của 4 tôn giáo bay phấp phới. Ở hàng
đầu, ngoài các nhân vật kể trên, người ta còn thấy các vị trong đoàn ngoại
giao, các bộ trưởng và dân biểu, các tướng tá và trí thức, các lãnh tụ đảng
và công chức cao cấp, tóm lại cả thành phố Sài Gòn của ngày Đại lễ.»
«Dinh Độc lập rực sáng và rực cờ. Một biễu ngữ to
lớn được treo trước mặt tiền, với khẩu hiệu tóm lại tất cả ý nghĩa: xin Đức
Mẹ ban Hòa bình cho dân tộc Việt Nam».
«Một đám người đông như thế, thật là phép lạ! »
Đoạn trên trích từ một bài phóng sự do một người
Công giáo Việt Nam thực hiện, chiếu ra một tia sáng sống sượng, đáng lo
ngại, về một Giáo hội Việt Nam đang đứng trước những tình hình hết sức bi
đát, hết sức căng thẳng của thế kỷ, một tia sáng càng sống sượng, nếu đem so
sánh những đoạn trên đây với một bức thư, của vị Tổng quản Hà Nội nói về
những diễn biến xảy ra tại ngoài đó năm 1955. «Cuộc rước kiệu Santi... đã
được tiến hành qua các đường phố Hà Nội, năm nay cũng như các năm trước; bởi
vì «xưa nay» cuộc rước kiệu Santi luôn luôn ra đường mỗi năm. Tuy nhiên năm
nay có cái khác là cuộc rước đã rút ngắn đi một nữa. Không thể giữ đúng lịch
trình ngày giờ, vì có những đòi hỏi không rõ ràng, vào phút chót và từ hôm
đó, do những biện pháp có tính quấy nhiễu, chúng tôi đã nhận thấy tốt hơn là
không rước kiệu ra đường nữa».
Những lời lẽ đó cho thấy, khuôn mặt thật trước 1975
của Giáo hội Công giáo Việt Nam - còn tạm thời bị chia cắt - một Giáo hội
kiểu trung cổ chìm lĩm vào giữa các ngoặt nghèo của thế kỷ 20, một Giáo hội
còn tin vào hiệu quả bùa chú của các cuộc rước nhằm giải quyết vấn đề của
đức tin, một giáo hội đã từng bị cấu xé bởi 30 năm chiến tranh mà cứ đi tìm
giải pháp hòa bình nơi những việc đạo đức và các cuộc biểu diễn hình thức
tôn giáo. Đúng là một kiểu chạy trốn trước những sự thật nhãn tiền như thế,
đó là một cách biến Dân Chúa thành một bộ xương khô, là cách từ chối các
điều phát hiện to tướng của Công đồng Vatican II về «Giáo hội trong thế giới
nay».
Từ 30 năm qua, Việt Nam là một đấu trường - chẳng
phải giữa hai hệ tư tưởng tư bản chủ nghĩa và Mác xit, như người ta thường
nói qua giản đơn và hàm hồ - nhưng là giữa một dân tộc chậm tiến, bị trị
đứng lên giành lại chủ quyền và độc lập của mình với giá máu đổ ra và các
lực lượng đế quốc, trước là Pháp sau là Mỹ, đã muốn áp đặt ý muốn của mình
bằng vũ lực. Trong cuộc chiến đấu này do các lãnh tụ Mác xít lãnh đạo. Về
phía kia, đế quốc Mỹ đã sử dụng tiền bạc mua chuộc số người cơ hội xu thời,
hỗ trợ cho ý đồ của chúng. Trong cuộc chiến đấu này, người ta trách Giáo hội
đã không đứng đúng vị trí của mình. Quả vậy, trong cuộc chiến đấu giải phóng
dân tộc người ta đã không những nhận thấy sự vắng mặt của Giáo hội ở phía
kháng chiến, nhưng lại thấy sự có mặt tích cực của Giáo hội bên cạnh kẻ thù
của dân tộc. Trước lời trách đó, có người trả lời rằng Giáo hội đã không coi
cuộc chiến tranh này như cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, nhưng
như một cuộc chiến tranh ý thức hệ, giữa hai khối «tư bản và cộng sản».
Dầu có chấp nhận giả thuyết đó - như yếu tố để tranh
luận - người ta không hiểu Giáo hội dựa trên cơ sở thần học và tin mừng nào,
để tự gieo mình vào cánh tay của chủ nghĩa tư bản thay vì làm con đường cứu
độ, theo chức năng của mình sử dụng những phương tiện để hòa giải, chẳng
phải hai hệ tư tưởng, mà là giữa những người anh em cùng một dân tộc. Chúng
tôi hoàn toàn không muốn xét đoán, bởi vì lịch sử, nếu không phải là Chúa,
mà là quan tòa, không chỉ nhìn thấu các ý định, mà còn xem xét chính các
việc làm. Thái độ của Giáo hội chính thức miền Bắc cũng như miền Nam Việt
Nam đã xuất phát từ chủ nghĩa chống Cộng được đưa lên hàng tín điều, như thể
Bài giảng trên núi đã bắt đầu với những tiếng: «Chủ nghĩa Cộng sản là kẻ thù
số một của các môn đệ Đức Kitô». Nguyên lý «Không ai bàn cãi và không thể
tranh luận” đó xúi giục Giáo hội chấp nhận công tác với bất kỳ chính quyền
chống cộng nào, hỗ trợ tiếp tay cho nó cách mạnh mẽ và hữu hiệu và hô hào
cuộc thánh chiến. Điều đó chống lại nhân dân mình! Chống lại ước nguyện
chính đáng của người dân Việt Nam chỉ mong cho được tự do về chính trị, kinh
tế văn hóa.
Do đâu mà Giáo hội «với sứ mạng và bản tính không bị
trói buộc vào một chế độ chính trị, kinh tế hay xã hội nào» lại để mình sa
vào cuộc thánh chiến chống Cộng đầy máu như thế? Tại sao Giáo hội có một
Đấng sáng lập và thủ lãnh nhạy cảm đến thế trước những cảnh khốn khổ của
những người bị áp bức, bị bóc lột, lại đang tâm đứng về phía những người áp
bức, bóc lột trong thực tế lịch sử của Việt Nam? - Kẻ thì nói là do thiếu
suy nghĩ về thần học, kẻ khác lại nghĩ rằng đó là do thiếu bồi dưỡng cho
những người phụ trách lãnh đạo. Người thì cho rằng tại Giáo hội ham của và
hiếu thắng, người khác lại nghĩ rằng là di sản nặng nề của lịch sử.
Những người phê phán, dầu là Kitô hữu hay người
ngoài, đều đã nhắc lại cho Giáo hội Việt Nam rằng, mặc dầu xét về dân số thì
không bao nhiêu - chỉ 10% là cùng - nhưng Giáo hội lại chiếm giữ các đặc
quyền đặc lợi tương đương với, nếu không phải là, quốc giáo. Rằng theo những
kinh nghiệm sống của lịch sử, những gì là đặc lợi trần thế ban cho Giáo hội
không phải lúc nào cũng hữu ích cho việc loan Tin mừng đúng đắn, và khi mất
đi các đặc ân đó thì cũng không nhất thiết là ngăn cản việc triền nở đức
tin. Rằng cuộc Cách mạng Pháp, khi tước đoạt của Giáo hội địa phương nhiều
tài sản và đặc ân, đã giúp cho Giáo hội nhiều, trong việc canh tân đời sống
Kitô giáo đích thực và trong nỗ lực xóa bỏ những tệ lạm. Rằng trong những
cuộc chiến đấu của các nước thế giới thứ ba giành lại độc lập từ tay các đế
quốc thực dân cũ và mới, thì những hy sinh tự nguyện hoặc bắt buộc của cá
nhân và tập thể, những sự giới hạn tự do vì lời ích chung, thường hữu ích
hơn là những ân huệ ban bố cách giả nhân giả nghĩa bởi các thế lực đô hộ đó
dưới lớp vỏ «giúp đỡ» Giáo hội hay là giúp đỡ những «người anh em túng
thiếu». Rằng khuôn mặt của Giáo hội Việt Nam bị bôi đen bởi quá khứ thuộc
địa, không thể nào trở lại tình trạng trong sáng tinh truyền như chính Đức
Kitô đã muốn, nếu không chịu phấn đấu «cập nhật hóa» theo tinh thần Vatican
II.
Theo ý kiến của tất cả anh chị em Công giáo miền Bắc
cũng như miền Nam, thì nỗ lực phấn đấu số một, phải là việc «Việt Nam hóa»
Giáo hội. Chẵng hạn Linh mục Nguyễn huy Lịch, một giáo sĩ trí thức miền Nam,
đã viết rằng: «Do chính các tình huống khác nhau và liên hệ lịch sử, có thể
một thứ hoạt động thừa sai nào đó đã làm cho chúng ta bị bật gốc văn hóa,
nghĩa là có những người mà nền văn hóa truyền thống bản xứ đã bị bắt hủy
hoại đi, do các yếu tố văn hóa ngoại lai đem vào (ở đây là nền văn hóa Tây
Âu), khiến cho một số người trong chúng ta đã trở thành «Rôma hơn cả người
Rôma», Công giáo hơn cả Giáo hoàng, thù nghịch với mọi nỗ lực bình thường
hóa Kitô giáo và cả mọi cố gắng hội nhập đức tin vào văn hóa dân tộc. Chúng
ta giữ lại bằng mọi giá một số tập tục lấy từ thói quen của người Tây Âu và
chúng tôi từ chối cả việc Việt Nam hóa trong những phạm vi có phép và được
hàng giáo phẩm khuyến khích. Thế rồi phải kết luận rằng chúng ta không thể
thay đổi sao? Không, nếu chúng ta ý thức tình trạng này và nếu chấp nhận và
biết tôn trọng những gì kẻ khác đang thí nghiệm đề vượt qua nhược điểm kia».
Việc Việt Nam hóa cho phép Giáo hội liên đới được
với nhân dân, với văn hóa và lịch sử dân tộc. Công việc này dĩ nhiên là khó
khăn, nếu quan niệm rằng Giáo hội là một dị vật do người nước ngoài nhập vào
và chỉ sống được dưới bóng người nước ngoài. Trái lại, việc làm sẽ vô cùng
dễ dàng hơn, nếu người ta chịu theo cách Công đồng Vaticăng định nghĩa Giáo
hội là «Dân Thiên Chúa trên đường đi về Nhà Cha». Như vậy, các chi thể của
công đoàn Giáo hội sẽ đồng thời là chi thể của hội đồng dân tộc. Công đoàn
Giáo hội Việt Nam phải là thành phần của nhân dân, thay vì làm một lực lượng
ở ngoài hay ở trên nhân dân. Trong sự hiệp thông với Giáo hội toàn cầu và
với người kế vị thánh Kitô, Giáo hội Việt Nam phải chia sẻ, không phải bằng
lời nói suông và những bài tuyên bố nguyên tắc, nhưng bằng việc dấn thân
thật sự, chia sẽ những khổ đau và những ước nguyện của nhân dân Việt Nam, từ
bao đời đã chiến đấu để được sống tự do và xứng đáng trên mảnh đất mình làm
chủ. Hình thành từ những con người có xương có thịt, Giáo hội đã và luôn vẫn
có thể sai phạm trong nhiều lĩnh vực khác nhau, Vatican, hiện thân tân thời
của các nước Tòa thánh xưa, cũng không thoát khỏi tình cảnh này.
Đã hẳn, Giáo hội Việt Nam, trung thành theo các huấn
giáo của Đức Kitô đã chọn Thiên Chúa, ít ra trên nguyên tắc. Tuy nhiên,
người ra có quyền đặt câu hỏi: liệu giáo hội có thực sự chọn Thiên Chúa hay
chăng.
Thiên Chúa lẽ nào đứng chung với đế quốc đang chà
đạp quyền sống của những dân tộc nhỏ bé, kể cả những lúc đế quốc vung vít
đưa tên Chúa ra? Thiên Chúa lẽ nào đứng về phía tiểu số những người giầu có
đang bóc lọc thậm tệ đại đa số nhân loại nghèo đói, rồi thỉnh thoảng cứ
quẳng xuống khỏi bàn tiệc của mình những mẩu vụn cho các nước chậm phát
triển»?
Thiên Chúa lẽ nào đứng chung với các công ty liên
quốc đang áp đặt luật lệ của mình cho đại dương bao la nhân loại đói nghèo,
khốn cùng? Thiên Chúa lẽ nào đứng về phe những chế độ cảnh sát trị thối nát,
chỉ bênh vực bọn quyền thế và tra tấn dân nghèo, thấp cổ bé họng?
Thiên Chúa lẽ nào lại vui thích ở giữa bao cảnh bất
công xã hội, những hình thức người bóc lột người, chạy theo lợi nhuận, tiền
bạc?
Thiên Chúa của người Kitô hữu đã sinh ra làm người
để cứu độ dân nghèo, giải thoát những kẻ bị áp bức, tạo dựng một cộng đồng
thế giới chia sẻ giai cấp, không còn đặc quyền đặc lợi, không còn cảnh người
thống trị con người, dân tộc này thống trị dân tộc khác, Thiên Chúa đó có
thể chấp nhận rằng Giáo hội mình là giáo hội tích trữ biết bao tài sản lớn
lao mà lại từ chối việc chia sẽ, chỉ ăn tiệc tại nhà người giàu có mạnh thế
của trần gian chăng?
Tại Việt Nam, Giáo hội không thể tìm gặp Chúa ngoài
dân tộc Việt Nam từng chiến đấu những ba chục năm trời, chống lại sự thống
trị ngoại bang, mặc dầu những người ngoại bang đó là Kitô hữu, chống lại sự
khống chế của ngoại bang về kinh tế và văn hóa của dân tộc - cho dầu nền
văn hóa đó không mang nhãn hiệu Kitô giáo, nhưng nó chống lại những sự bất
công của một chế độ phong kiến lỗi thời và đầy áp bức.
Giờ lịch sử đã điểm, đất nước đã độc lập, Giáo hội
gặp được cơ hội để sống theo Tin mừng, nhờ việc thanh luyện khỏi những gì
của một qua khứ không mấy vinh dự.
Nhằm thực hiện một cuộc trở về với dân tộc, Giáo hội
phải tự mình từ bỏ tất cả những gì là đặc quyền đặc lợi, đã giành được nhờ
liên hệ với các thế lực thực dân: hoàn toàn trả lại cho nhân dân những tài
sản và của cải, biết mình không thể một lúc làm tối Thiên Chúa và Mammon;
trao lại cho nhân dân tất cả những cơ sở đại học, trung học, nhà thương, cô
nhi viện, mà mình đã từng thiết lập ngày xưa, phải đặt mình vào vị trí phục
vụ nhân dân trong tinh thần khiêm tốn, thành thật và vô điều kiện (vì Đức
Kitô đã đến phục vụ, chứ không phải để được hầu hạ); cộng tác với niềm vui
trong lòng trong trí với công cuộc xây dựng lớn lao và khó khăn này, thanh
toán cho hết những tệ nạn do thực dân để lại, băng bó các vết thương chiến
tranh, tái thiết đất nước và xây dựng một xã hội mới.
MUỐN THẬT SỰ LÀ VIỆT NAM:
Giáo hội cần cởi bỏ hết những biểu thức tôn giáo và
văn hóa phát xuất từ một não trạng ngoại lai và Tây phương, sáng tạo ra một
nền thần học riêng của mình căn cứ trên cuộc sống và văn hóa của Dân tộc và
đồng thời, canh tân theo tinh thần Vatican II, hầu có thể đưa chứng từ về
một ĐẤNG KITÔ GIẢI PHÓNG VÀ HÒA GIẢI.
ROMA 19-5-1975
TRẦN TAM TĨNH
(xem tiếp Phụ Lục)