CÔNG GIÁO HẮC SỬ

[The Dark History of Catholicism]

Trần Chung Ngọc

http://sachhiem.net/TCN/TCNtg/CGHS/NCGHS0.php

đăng ngày 10 tháng 6, 2007

Toàn tập: 1 2 3 4 5 6 7 8

▪ Phần V: Núi Tội Ác Thứ Năm:
Gây Hận Thù Và Bách Hại Người Do Thái

Khi nói đến vấn đề bách hại người Do Thái, thường chúng ta nghĩ ngay đến lò “thiêu người tập thể” (Holocaust) của Đức Quốc Xã (Nazis). Tuy nhiên, những lò “thiêu người tập thể” này chỉ là sự tiếp nối và là giai đoạn cuối của chính sách kỳ thị và bách hại người Do Thái của Ki Tô Giáo, mới đầu là Ca Tô Giáo Rô-ma (Công giáo) trong mấy thế kỷ đầu, rồi sau đó, từ thế kỷ 16, song hành với Tin Lành. Chính sách kỳ thị và bách hại người Do Thái được thi hành qua ba chủ trương: cưỡng bức cải đạo; cưỡng bức cải đạo không được thì trục xuất; trục xuất không được thì giết. Vậy 6 triệu sinh mạng Do Thái bị hủy diệt bởi Đức Quốc Xã ở Âu Châu trong Thế Chiến thứ hai, xảy ra trong các nước Ki Tô Giáo ở Âu Châu như Đức, Pháp, Ý, Ba Lan, Tiệp Khắc v..v.., và vô số sinh mạng Do Thái bị hủy diệt bởi Ki Tô Giáo trong các cuộc Thập Ác Chinh, trong các Tòa Án Xử Dị Giáo v..v.., tất cả đều nằm trong giai đoạn cuối của chính sách chống Do Thái của Ki Tô Giáo.

Thật vậy, học giả nổi tiếng Raul Hillberg, chuyên gia nghiên cứu về Holocaust, đã viết trong cuốn “Sự Tiêu Diệt Những Người Do Thái Âu Châu” (The Destruction of the European Jews, Holmes & Meier, New York, 1985), pp 7f, như sau:

Từ thế kỷ thứ 4 đã có ba chính sách chống Do Thái: cưỡng bức cải đạo, trục xuất khỏi xứ, và hủy diệt. Chính sách thứ hai là chính sách thay thế cho chính sách thứ nhất khi chính sách này không thành công, và chính sách thứ ba cũng là để thay thế cho chính sách thứ hai… Những nhà truyền giáo Ki Tô Giáo đã chẳng từng nói: Các ngươi không có quyền sống giữa chúng tôi như là người Do Thái [nghĩa là phải cải đạo thành tín đồ Ki Tô và mất đi căn cước Do Thái]. Các nhà cai trị thế tục [thường là ở dưới thần quyền hay cai trị song song với thần quyền] tuyên bố: Các người không có quyền sống cùng với chúng tôi [nghĩa là phải bị trục xuất ra khỏi xứ, thí dụ, theo đề nghị của Marin Luther v..v..]. Sau cùng, Đức Quốc Xã ra nghị định: Các người không được quyền sống [do đó thực hiện “Giải pháp cuối cùng” (Final solution), nghĩa là tận diệt người Do Thái]

Quá trình này bắt đầu bằng toan tính lùa người Do Thái vào Ki Tô Giáo. Một sự phát triển chính sách được tiếp nối để cưỡng bách trục xuất những nạn nhân. Và cuối cùng là lùa người Do Thái vào chỗ chết. Như vậy, Đức quốc xã (Nazis) không dẹp bỏ quá khứ [chống Do Thái của Ki Tô Giáo] mà được xây dựng trên đó, không bắt đầu sự phát triển chính sách chống Do Thái mà là hoàn tất chính sách đã có.

[Since the fourth century after Christ there have been three anti-Jewish policies: forced conversion, expulsion, annihilation. The second appeared as an alternative to the first, and the third emerged as an alternative to the second… The missionaries of Christianity had said in effect: You have no right to live among us as Jews. The secular rulers who followed proclaimed: You have no right to live among us. The Nazis at last decreed: You have no right to live.

The process began with the attempt to drive the Jews into Christianity. The development was continued in order to force the victims into exile. It was finished when the Jews were driven to the death. The German Nazis, then, did not discard the past; they built upon it. They did not begin a development; they completed it.]

John Cornwell, một học giả Ca-Tô, viết trong cuốn “Giáo Hoàng Của Hitler” (Hitler’s Pope):

“Vào khoảng giữa năm 1997, tôi ở trong tình trạng bị một cú “sốc” về đạo lý. Những tài liệu tôi thu thập được không thể dùng được để miễn trách nhiệm [cho Giáo hoàng Pius XII] mà là một bản cáo trạng còn gây tai tiếng hơn là bản cáo trạng của Hoshhuth [Rolf Hoshhuth là người đã chỉ trích Pius XII.] Bằng chứng thật là mạnh mẽ. Lần đầu tiên nó chứng tỏ Pacelli [tên tục của Pius XII]], qua chính những lời của ông ấy, là một người chống Do Thái có môn bài. Nó chứng tỏ rằng ông ta đã giúp cho Hitler lên cầm quyền và cùng lúc phá ngầm khả năng kháng chiến của Ca Tô Giáo ở Đức. Nó chứng tỏ rằng ông ta ngụ ý phủ nhận và tầm thường hóa những lò sát sinh của Đức Quốc Xã dù rằng ông ta đã biết rõ nội vụ. Và tệ hơn cả, ông ta là một người đạo đức giả, vì sau khi đệ nhị thế chiến chấm dứt ông ta lại mang danh không xứng đáng là người đã công khai chống sự bạo hành của Nazi.” [qua guồng máy tuyên truyền của Ca Tô Giáo Rô ma].

(By the middle of 1997, I was in a state of moral shock. The material I had gathered amounted not to an exoneration but to an indictment more scandalous than Hochhuth's. The evidence was explosive. It showed for the first time that Pacelli was patently, and by the proof of his own words, anti-Jewish. It revealed that he had helped Hitler to power and at the same time undermined potential Catholic resistance in Germany. It showed that he had implicitly denied and trivialized the Holocaust, despite having reliable knowledge of its true extent. And, worse, that he was a hypocrite, for after the war he had retrospectively taken undue credit for speaking out boldly against the Nazis’ persecution.)

Và Sam Harris, trong cuốn sách mới xuất bản, Thư Cho Một Quốc Gia Ki Tô (Letter To A Christian Nation, Alfred A. Knopf, New York, 2006), đã viết, trang 41-42:

Hãy xét đến những lò thiêu sống tập thể của Đức Quốc Xã: chủ nghĩa chống Do Thái dựng lên những trại tử thần của Nazi là thừa hưởng trực tiếp chính sách của Ki Tô Giáo thời Trung Cổ. Trong nhiều thế kỷ, những người Âu Châu Ki Tô đã coi những người Do Thái như là những giống người lạc đạo tệ mạt nhất và gán cho sự hiện diện của người Do Thái trong đám tín đồ Ki Tô là nguyên nhân của mọi điều xấu xa trong xã hội… Chính Vatican đã thường xuyên quy tội cho người Do Thái giết Chúa trong báo chí của Vatican cho tới năm 1914. Và cả hai giáo hội, Ca-Tô cũng như Tin Lành, đều có một thành tích ô nhục đồng lõa trong chính sách diệt chủng dân Do Thái.

(Consider the Holocaust: the anti-semitism that built the Nazi death camps was a direct inheritance from medieval Christianity. For centuries, Christian Europeans had viewed the Jews as the worst species of heretics and attributed every societal ill to their continued presence among the faithful… The Vatican itself perpetuated the blood libel in its newspapers as late as 1914. And both Catholic and Protestant churches have a shameful record of complicity with the Nazi genocide.)

Từ vài tài liệu trên trong vô số tài liệu về sự liên hệ giữa chính sách chống Do Thái của Ki Tô Giáo và lò sát sinh của Đức Quốc Xã, ngày nay không ai còn có thể phủ nhận sự liên hệ ô nhục giữa một tôn giáo, Ki Tô Giáo, và một chính quyền thế tục, Đức Quốc Xã, đưa đến kết quả là 6 triệu người Do Thái đủ mọi lứa tuổi bị giết một cách bừa bãi, man rợ không kém những vụ giết người bừa bãi bởi những tòa án xử dị giáo hay những cuộc săn lùng phù thủy của Ca Tô Giáo Rô-ma.

Nhưng ngày nay, Giáo hoàng Benedict XVI hầu như quên hết lịch sử Ca Tô Giáo Rô Ma. Trên trang nhà “Tiếng Nói Giáo Dân” có đăng Tâm Thư của ông ta gửi, không biết gửi cho ai, nhưng ngay dưới câu “Giáo hoàng Benedicto 16 mến gửi” thì có hình của 15 vị mặc áo đỏ hay áo chùng thâm, ngực đeo “thánh giá”, và mặt mũi không trộn lẫn đi đâu được là người Việt Nam.

Tâm thư của Giáo hoàng có những câu như sau, với vài lời bình luận của TCN:

Ngày nay người ta nói nhiều về vai trò ngôn sứ của giáo hội. Từ ngữ đó đôi khi bị lạm dụng. Đúng là giáo hội không bao giờ được phép chạy theo thời. Giáo hội phải nói lên cái xấu và cái nguy của thời đại, phải nhắc nhở lương tâm những kẻ có quyền, cả những người trí thức, và cả những kẻ thờ ơ hẹp hòi trước những nỗi thống khổ của thời đại. [Vai trò ngôn sứ của giáo hội đã đưa nhân loại vào 1000 năm thường được biết là “Thời đại hắc ám” (The dark ages), hay thời đại “man rợ trí thức” với những cuộc thập tự chinh, tòa hình án xử dị giáo, thiêu sống phù thủy v…v… Nhưng giáo hoàng không coi đó là cái xấu của thời đại mà là sự vinh quang của giáo hội, vì thời đại đó là thời hoàng kim của giáo hội. Do đó, trong thời đại hắc ám đó, chúng ta không thấy giáo hội nói lên cái xấu và cái nguy của thời đại. Ở Croatia, trong kỳ đệ nhị Thế Chiến, khi chính quyền Ca-Tô Palevich cưỡng bách người Chính Thống Giáo cải đạo, giết khoảng 700000 (7 trăm ngàn) người Chính Thống Giáo và Gypsies chúng ta cũng không thấy giáo hội nói lên cái xấu và cái nguy của thời đại.. (Xin đọc The Vatican’s Holocaust của Avro Manhattan). Tại sao? Vì chính giáo hội là cái xấu và cái nguy của thời đại. Ai không đồng ý xin mời lên tiếng.]

Là Giám mục tôi thấy có nhiệm vụ phải làm chuyện đó. Lại nữa tình trạng suy đồi quá hiển nhiên: đức tin mệt mỏi, ơn gọi tu trì sút giảm, luân lý đạo đức xuống cấp ngay cả trong giới giáo sĩ, tình trạng bạo lực càng gia tăng… [Đây là một sự kiện mà ai cũng biết. Đức tin mệt mỏi vì những con người có đầu óc không còn có thể tin vào những điều hoang đường, mê tín, phi lý đã quá lỗi thời. Ơn gọi tu trì sút giảm vì con người nhận thức được rằng chẳng có cái gì gọi là ơn kêu gọi cả, và những người ngày nay đáp ứng “ơn gọi tu trì” chẳng qua là chỉ muốn có đời sống như một tộc trưởng của một bộ lạc như chính Giáo hoàng đã than phiền. Luân lý đạo đức xuống cấp [không phải chỉ bây giờ mới xuống mà đã tệ mạt nhất trong quá khứ: Xin đọc bài “Đây! Những “Đức Thánh Cha”” trên giaodiemonline.com tháng 6/2007] từ vị chủ chăn là chính Giáo hoàng Benedict XVI, gần đây nói ngược nói suôi ở Brazil, và đã từng xuyên tạc các tôn giáo khác như Hồi Giáo và Phật Giáo, cho đến những linh mục cưỡng hiếp nữ tu trên 23 quốc gia, và cho tới nay, gần 5000 (năm ngàn) linh mục đã bị truy tố về tội loạn dâm, cưỡng bức tình dục trẻ em. Nhưng có vẻ như Giáo hoàng cũng quên rằng chính mình, khi còn là Hồng Y Ratzinger, đã ra văn thư bao che các linh mục loạn dâm hay sao, cho rằng những vụ loạn dâm của các linh mục phải được xử lý kín trong nội bộ giáo hội, nghĩa là một hình thức xử lý nội bộ để bao che các linh mục phạm tội, để bảo vệ “danh dự”, nếu có, của giáo hội. Tài liệu của Jamie Doward trên Internet ngày 24 tháng 4, 2005 viết trên tờ Observer:

Giáo hoàng cản trở cuộc điều tra về các linh mục loạn dâm. Bức thư mật phanh phui ra chuyện Ratzinger (nay là Giáo hoàng Benedict XVI) ra lệnh cho các giám mục phải giữ kín những vụ tố cáo linh mục loạn dâm. Tối qua, Giáo hoàng Benedict XVI phải đối diện với lời lên án là ông ta đã “cản trở công lý” sau khi người ta biết là ông ta đã ra lệnh phải giữ kín những vụ điều tra các linh mục bị tố cáo là cưỡng bức tình dục trẻ con. Lệnh này viết trong môt bức thư mật gửi tất cả các giám mục vào tháng 5, 2001 mà tờ The Observer lấy được. Bức thư khẳng định giáo hội có quyền điều tra kín và bảo mật các bằng chứng cho đến 10 năm sau các nạn nhân của các linh mục loạn dâm đến tuổi trưởng thành. Bức thư ký bởi Hồng Y Joseph Ratzinger, được tuyển chọn tuần qua để kế vị John Paul II.

(Pope 'obstructed' sex abuse inquiry . Confidential letter reveals Ratzinger ordered bishops to keep allegations secret. Pope Benedict XVI faced claims last night he had 'obstructed justice' after it emerged he issued an order ensuring the church's investigations into child sex abuse claims be carried out in secret. The order was made in a confidential letter, obtained by The Observer, which was sent to every Catholic bishop in May 2001. It asserted the church's right to hold its inquiries behind closed doors and keep the evidence confidential for up to 10 years after the victims reached adulthood. The letter was signed by Cardinal Joseph Ratzinger, who was elected as John Paul II's successor last week.)

Lời Chúa trong Thánh Kinh và những lời của các giáo phụ vang lên trong đầu tôi, kết án những mục tử nào làm chó câm để tránh bị phiền toái và vì thế để cho nọc độc lan tràn. [Nếu vậy thì Giáo hoàng Pius XII và vô số những Hồng Y, Tổng Giám mục, giám mục, linh mục có phải là chó câm trong thời Hitler không? Không những chỉ là chó câm mà còn là những tên đao phủ đích thân nhúng tay vào những vụ tàn sát người ngoại giáo như Chính Thống và Gypsies ở Croatia: Xin đọc “The Vatican’s Holocaust” của Avro Manhattan].

Im lặng không phải là bổn phận của người công dân, và riêng tôi, tôi kinh sợ một giám mục chỉ biết an phận, chỉ lo làm sao để tránh phiền phức, và lấp liếm xung đột. [Đây chính là sách lược của giáo hội khi ở thế yếu ở một nơi nào đó qua suốt dòng lịch sử, đặc biệt là trong thời đại của Hitler]

Chúng ta thấy rõ, khi không còn ở vị thế quyền lực, nắm quyền sinh sát trong tay, và trước tình trạng suy thoái khó có thể cứu vãn thì giáo hội đóng vai trò đạo đức. Nhưng cái mửng này không lừa bịp được ai. Cuộc công du Brazil của Benedict XVI cho thấy rõ ông ta là một con người thiếu đạo đức của một vị chủ chăn: nói ngược rồi khi bị chống đối, nói suôi cho xong chuyện. Tôi chẳng nên mất thì giờ thêm với một con người đạo đức giả và vô đạo đức tôn giáo như Benedict XVI. Các tín đồ Ca Tô Giáo Rô-ma muốn ca tụng “đức thánh cha” của họ thế nào cũng được, tôi không ngăn cản, nhưng họ phải biết được một điều: thời buổi này không ai có thể lừa bịp được con người mãi mãi, đầu óc, trí tuệ của con người đã tiến bộ, không còn ở trạng thái đầu óc của những con cừu trong thời Trung Cổ như trước.

Sau đây, chúng ta sẽ đi sâu thêm vào Núi Tội Ác Thứ Năm của Ca-Tô Giáo Rô-Ma: Bách hại người Do Thái.

Nghiên cứu lịch sử, chúng ta sẽ thấy rằng, những chính sách chống Do Thái là những sản phẩm đặc thù của Ca Tô Giáo cũng như Tin Lành, được chế tạo ra từ những đầu óc thuộc loại cuồng tín cùng cực hẹp hòi thuộc thời bán khai của một số Giáo hoàng như Innocent III; của một số “Thánh” Ca Tô như Paul (Phao Lồ), John (Giăng) trong Tân ước; của một số “Thánh thượng phụ” Ca Tô Giáo như Chrysostom, Bernard, Augustine; và của những nhà lập giáo Tin Lành như Martin Luther, John Calvin v..v.. Cuồng tín hẹp hòi vì chỉ dựa vào một vài câu viết bậy trong Tân ước mà vu cho người Do Thái cái tội “giết Chúa”, nếu Chúa toàn năng, toàn trí của họ có thể bị giết bởi người thường.

Trước khi trích dẫn những “lời nói kỳ thị, nguyền rủa” của các vị trên về người Do Thái, chúng ta hãy điểm qua một số ý kiến của các học giả về sự liên hệ giữa chính sách chống Do Thái của Ki Tô Giáo và những lò “thiêu người tập thể” của Đức Quốc Xã.

Trước hết chúng ta hãy đọc vài đoạn trong cuốn “Một Mặt Đen Tối Của Lịch Sử: Chính Sách Chống Do Thái Qua Các Thời Đại” (A Dark Side of History: Antisemitism Through The Ages, Anti-Defamation League, 2000) của Jerome A. Chanes, đã viết như sau:

Tác giả Ca Tô Giáo Rô-ma (Roman Catholicism) có tên tuổi, Malcolm Hay, đã viết cho Jules Isaac cách đây 40 năm như sau: “Auschwitz (Nơi thiêu người tập thể kinh khủng nhất của Đức Quốc Xã) không thể nào thực hiện được nếu không có những lời nói láo độc địa mà các Giáo hội Ki Tô đã làm nhiễm độc các dân tộc Ki Tô trong ít nhất là 1600 năm” [Trg. 11]

Không quá 40 năm trước đây, nghiên cứu những chủ đề và những tài liệu về chống Do Thái của Ki Tô Giáo thường bị coi là điều cấm kỵ. Trong những năm gần đây, những nghiên cứu về Holocaust, do tinh thần thảo luận cởi mở trong các giáo hội Ki Tô, đã phanh phui ra vai trò cốt yếu của Giáo hội trong chính sách bạo hành những người Do Thái sống trong những xứ Ki Tô. [Trg. 29]

(The distinguished Roman Catholic author Malcolm Hay wrote to Jules Isaac 40 years ago that “Auschwitz would have been impossible had it not been for the poisonous lies with which the churches have infected Christian populations for at least 1600 years.”)

No more than 40 years ago, the subjects of Christian antisemitism and the Christian sources of antisemitism were generally considered taboo.

In recent years, research on the Holocaust, together with a growing tolerance for discussion within the churches, has revealed the crucial role played by the Church in the persecution of Jews in Christendom.)

Thái độ của Luther chẳng bao lâu trở thành chống Do Thái một cách hiển nhiên. Năm 1542, Luther phát tán một tờ truyền đơn, “Về người Do Thái và nhưng lời nói láo của họ”, tiếp theo là một tiểu luận khác trong đó ông ta chỉ trích gắt gao bằng loại ngôn từ không kém độc địa như những lời đã đã từng đưa ra đối với người Do Thái từ trước hoặc sau đó. Luther, [ông tổ của giáo phái Tin Lành] với lời lẽ vừa châm biếm vừa tục tĩu, nhắc lại mọi luận điệu lên án Do Thái từ trước, với những điều chúng ta đã quen thuộc: Người Do Thái là những kẻ bỏ thuốc độc [vào giếng nước]; nhũng kẻ cho vay nặng lãi; những ký sinh trùng trong xã hội Ki-Tô; song hành với Satan; những kẻ bị đầy đọa xuống hỏa ngục. Trong những bản văn của Luther, một hình ảnh cũ được đưa ra: Do Thái là những kẻ ”chống-Chúa.” Luther không để cho những độc giả của ông ta tự tưởng tượng ra những điều ông ta quan niệm về một chương trình đối xử với người Do Thái. Ông ta vạch rõ: cần phải đốt sập những giáo đường Do Thái, tịch thu sách vở Do Thái, cưỡng bách người Do Thái phải lao động chân tay cực nhọc, tốt hơn nữa, cần phải trục xuất người Do Thái ra khỏi những đất đai của họ.

(p.105: Luther’s attitude toward the Jews became one that before too long was blatantly antisemitic. In 1542, Luther published a tract, Concerning the Jews and Their Lies, soon followed by another essay, which excoriated the Jews in Language that equaled in virulence anything uttered against them before or since. Luther, in language both sarcastic and scatological, renewed all the old charges of the past, perpetuating patterns with which we have become familiar during the course of these talks: Jews are poisoners; Jews are usurers; Jews are parasites on Christian society; Jews consort with Satan himself; Jews are doomed to Hell. In Luther’s writings a new locution of an old image of the Jew emerged: the Jew as “Anti-Christ”

Luther did not leave to his readers’ imagination what he conceived as the appropriate agenda to deal with the Jews. He was quite explicit: their synagogues should be burned, their books seized; they should be forced into back-breaking manual labor; better still, they should be expelled from their territories.)

Theo sử gia Lucy Dawidowics, “Người ta có thể dễ dàng kéo một đường chống Do Thái thẳng từ Martin Luther tới Adolf Hitler”. Cả Luther và Hitler đều bị ám ảnh bởi một vũ trụ quỷ sứ mà người Do Thái sống trong đó. Khi chúng ta duyệt lịch sử chống Do Thái trong thế kỷ 20 ở Tây Âu, chúng ta nhận ra rằng có một chuỗi xích quan niệm và triết lý nối sự Cải Cách của Ki Tô Giáo và sự nổi giậy của chủ nghĩa Hitler.

(p 151: According to historian Lucy Dawidowics, “A line of antisemitism descent from Martin Luther to Adolf Hitler is easy to draw” Both Luther and Hitler were obsessed by a demonologized universe inhabited by Jews. As we trace the history of antisemitism to 20th century Western Europe, we note that there is a direct conceptual and philosophical chain connecting the Christian Reformation and the rise of Hitlerism.)

Tiến sĩ Michael L. Brown, Khoa Trưởng Trường Cao Cấp về Thần học tại Gaithersburg, Maryland, USA, trong cuốn "Bàn tay của chúng ta dính nhơ đầy máu" (Our Hands are Stained With Blood, Messiah Biblical Institute, MD, 1992, p. 7) viết với nhiều chi tiết về chương trình đối xử với người Do Thái của Martin Luther như sau:

"Thứ nhất, phải đốt sạch những giáo đường Do Thái... Thứ nhì, nhà cửa của họ cũng phải thiêu hủy...Thứ ba, họ không được giữ những cuốn kinh cầu nguyện và Thánh kinh Do Thái. Thứ tư, phải cấm những giáo sĩ của họ giảng đạo nếu không sẽ bị xử tội chết... Thứ năm, những quyền lợi về giấy thông hành và du hành của những người Do Thái phải tuyệt đối cấm. Thứ sáu, họ phải ngưng lấy lãi khi cho vay tiền...Thứ bảy, hãy cấp cho thanh thiếu niên nam nữ Do Thái những cái đập lúa, búa dìu, cuốc, thuổng để chúng kiếm ăn bằng mồ hôi trên mũi chúng.. Chúng ta phải trục xuất bọn nhãi ranh lười biếng trên ra khỏi hệ thống của chúng ta. Như vậy là đuổi chúng cút đi chỗ khác.

Nói tóm lại, các ông hoàng và nhà quý phái thân yêu mà có người Do Thái trong các xứ của mình, nếu lời khuyên này của tôi không hợp với các người, thì các người hãy tìm một cách tốt hơn để quý vị và tôi không còn phải mang cái gánh nặng không thể chịu đựng được nữa của những kẻ gian ác – người Do Thái"

(First, their synagogues should be set on fire.. Secondly, their homes should likewise be broken down and destroyed...Thirdly, they should be deprived of their prayer-books and Talmuds...Fourthly, their rabbis must be forbidden under threat of death to teach any more...Fiftly, passport and traveling privileges should be absolutely forbidden to the Jews...Sixthly, they ought to be stopped from usury (charging interest on loans)...Seventhly, let the young and strong Jews and Jewesses be given the flail, the ax, the hoe, the spade...and let them earn their bread by the sweat of their noses...We ought to drive the rascally lazy bones out of our system.. Therefore away with them

To sum up, dear princes and nobles who have Jews in your domains, if this advice of mine đoes not suit you, then find a better one so that you and we may all be free of this insufferable devilish burden – the Jews)

Trong một đoạn khác, tiến sĩ Brown viết, trang 7:

"Ki Tô Giáo không tạo ra sự hủy diệt tập thể dân Do Thái [của Đức Quốc Xã], nhưng Ki Tô Giáo đã làm cho sự hủy diệt trên thành hình. Không có sự chống Do Thái của Ki Tô giáo, người ta không thể quan niệm nổi một chính sách hủy diệt như vậy. Hitler và những đảng viên quốc xã đã tìm thấy trong pháp chế chống Do Thái của Công giáo trong thời Trung Cổ một mẫu mực hành dộng cho chính họ, và họ in lại những văn kiện chống Do Thái độc địa của Martin Luther. Chúng ta nên biết chính sách hủy diệt tập thể này chỉ được gây ra bởi một nước lớn ở Âu châu trong đó số tín đồ Công giáo và Tin Lành xấp xỉ bằng nhau. Cả hai tôn giáo trên đều chứa đầy sự thù hận người Do Thái.

Trong gần 2000 năm, thế giới Ki Tô đã tàn nhẫn làm mất nhân tính của người Do Thái khiến cho chính sách hủy diệt tập thể, kết quả chung cùng của sự làm mất nhân tính này, có thể thành tựu.

Trong những năm dài, đen tối của thời Trung Cổ, người Do Thái thường được phép chọn: rửa tội hoặc bị trục xuất, rửa tội hoặc bị tra tấn, rửa tội hoặc là chết"

(Christianity did not create the Holocaust; indeed Nazism was anti-Christian, but it made it possible. Without Christian antisemitism, the Holocaust would have been inconceivable...Hitler and the Nazis found in medieval Catholic anti-Jewish legislation a model for their own, and they read and reprinted Martin Luther's virulently antisemitic writings. It is instructive that the Holocaust was unleashed by the only major country in Europe having approximately equal numbers of Catholics and Protestants. Both traditions were saturated with Jew-hatred.

For nearly 2000 years, the Christian world relentlessly dehumanized the Jew, enabling the Holocaust, the ultimate consequence of this dehumanization, to take place.

During the long, dark years of the Middle Ages, Jews were frequently given the option of baptism or expulsion, baptism or torture, baptism or death )

Một tài liệu khác trên Internet cho chúng ta biết thêm chi tiết về con người của Martin Luther đối với người Do Thái:

“Đây là một phần những gì Luther viết vào năm 1543. Nên để ý là có vẻ như Adolf Hitler đã dùng chúng như là sự chỉ đạo tổng quát để áp dụng giai đoạn đầu tiên trong “giải pháp cuối cùng” đối với người Do Thái:

“Hãy để tôi cho các người những lời khuyên chân thật của tôi;

Thứ nhất, hãy đốt sạch mọi giáo đường hay trường học của chúng và chôn vùi chúng dưới lòng đất những gì không thể đốt được, để cho không ai có thể thấy được một viên đá hay một mảnh than cháy dở. Phải thực hành điều này để vinh danh Chúa của chúng ta và cho tập thể người Ki Tô.

Thứ nhì, hãy phá hủy triệt hạ nhà của chúng.

Thứ ba, phải cướp đi mọi kinh cầu nguyện, và kinh Talmud mà những điều viết trong đó có những lời nói láo, nguyền rủa, phỉ báng và thờ thần tượng.

Thứ tư, phải cấm không cho những thầy tu Do Thái giảng đạo nếu không sẽ bị hành quyết và chặt chân tay.

Thứ năm, phải cấm tuyệt không cho chúng du hành tự do trên các trục giao thông. Vì chúng không có nhiệm vụ gì ở các vùng quê, vì chúng không phải là những lãnh chúa, viên chức chính quyền, thương gia v..v.. Hãy bắt chúng ở yên trong nhà [Nhà nào ?? Sau khi đã phá hủy và triệt hạ nhà của người Do Thái trong “lời khuyên” thứ hai]

Thứ sáu, phải cấm chúng hành nghề cho vay lãi, và phải tịch thu mọi tiền bạc, vàng bạc quý giá của chúng, giữ riêng nơi an toàn [ai giữ riêng ngoài giáo hội Ki Tô?? Đây chỉ là hành động cướp cạn của giáo hội]

Thứ bảy, hãy cấp cho thanh thiếu niên nam nữ Do Thái những cái đập lúa, búa dìu, cuốc, thuổng để chúng kiếm sống bằng mồ hôi trên lông mày chúng.”

( Here in part is what Luther wrote in C.E. 1543. Note that Adolf Hitler seemed to use it as a general guide for implementing the earlier phase of his "final solution" against the Jews:

Let me give you my honest advice:

First, to set fire to their synagogues or schools and to bury and cover with dirt whatever will not burn, so that no man will ever again see a stone or cinder of them. This is to be done in honor of our LORD and of Christendom.

Second, I advise that their houses also be razed and destroyed.

Third, I advise that all their prayer books and Talmudic writings, in which such idolatry, lies, cursing, and blasphemy are taught, be taken from them.

Fourth, I advise that their rabbis be forbidden to teach henceforth on pain of loss of life and limb.

Fifth, I advise that safe conduct on the highways be abolished completely for the Jews. For they have no business in the countryside, since they are not lords, officials, tradesmen, or the like. Let them stay at home.

Sixth, I advise that usury be prohibited to them, and that all cash and treasure of silver and gold be taken from them, and put aside for safe keeping.

Seventh, I recommend putting a flail, an ax, a hoe, a spade, a distaff, or a spindle into the hand of young, strong Jews and Jewesses and letting them earn their bread in the sweat of their brow.)

Linh mục David R. Mason, Giáo sư về tôn giáo, đại học John Carroll ở Cleveland, Ohio, viết , trang 27: (Anti-Semitism, Mark McKain, Editor, Green Haven Press, MI 2005)

Không còn nghi ngờ gì là lò thiêu sống tập thể người Do Thái trong những thập niên 1930 vá 1940 ít nhất cũng là một phần kết quả trực tiếp của 2000 năm người Ki-Tô chống Do Thái. Hơn nữa, sự lương thiện trí thức đòi hỏi rằng căn nguyên của những lời phỉ báng chống Do Thái của Ki Tô Giáo thì nằm trong chính cuốn Tân Ước, đặc biệt là những Phúc Âm..

(There can be little doubt that the Holocaust of the Jews in the 1930’s and 1940’s is, at least partially the direct result of 2000 years of Christian anti-Judaism. Moreover, honesty demands that the root of much Christian anti-Jewish slander be located in the New Testament itself, especially the Gospels…)

Và học giả Eliezer Berkovits, viết trong cuốn “Đạo Do Thái Trong Thời Kỳ Hậu Ki Tô” (Judaism in the Post-Christian Era), về “sự phá sản đạo đức của nền văn minh Ki Tô Giáo và sự phá sản Tâm Linh của Ki Tô Giáo” (The moral bankrupcy of Christian civilization and the spiritual bankrupcy of Christian religion) như sau, trang 287:

“Sau 19 thế kỷ của Ki Tô Giáo, sự hủy diệt 6 triệu người Do Thái, trong đó có một triệu rưỡi là trẻ con, được thi hành với máu lạnh ngay trong lòng của Ki Tô giáo ở Âu Châu , được khuyến khích bởi sự im lặng tội lỗi của hầu như toàn thể thế giới Ki Tô Giáo, gồm cả một “Đức Thánh Cha” không thể sai lầm ở La Mã, đó chính là kết quả tất nhiên của sự phá sản. Có một đường thẳng kéo dài từ hành động áp bức đầu tiên đối với người Do Thái và đạo Do Thái vào thế kỷ 4 cho đến các lò “giết người tập thể” trong thế kỷ 20.”

(After 19 centuries of Christianity, the extermination of 6 million Jews, among them one-and-a-half million children, carried out in cold blood in the very heart of Christian Europe, encouraged by the criminal silence of virtually all Christendom, including that of an infallible Holy Father in Rome, was the natural culmination of this bankrupcy. A straight line leads from the first act of oppression against Jews and Judaism in the fourth century to the holocaust in the twentieth.)

Chính sách diệt chủng Do Thái của Ki Tô Giáo là một sự kiện bất khả phủ bác. Chính Giáo Hoàng John Paul II cũng đã thú nhận núi tội ác này của Ca Tô giáo. Đúng vậy, năm 2000, Giáo Hoàng John Paul II đến thăm viếng Do Thái, bày tỏ lòng tôn kính đối với những nạn nhân Holocaust của Đức quốc Xã, và để lại giữa những tảng đá cổ của bức tường phía Tây Jerusalem lời cầu nguyện sau đây:

“Thiên Chúa của cha chúng tôi, Ngài đã chọn Abraham và những hậu duệ của ông ta để mang tên Ngài tới những quốc gia: chúng con vô cùng sầu thảm về những hành động của những người trong dòng lịch sử đã làm cho con cái của Ngài đau đớn, và xin Ngài tha thứ , chúng con ước mong sẽ dấn thân trong cuộc tạo tình anh em chân thật với dân tộc mà Ngài đã giao ước.”

(Pope John Paul II visits Israel. He pays tribute to the victims of the Holocaust, and he leaves the following prayer between the ancient stones of the Western Wall in Jerusalem:

“God of our fathers, you chose Abraham and his descendants to bring your Name to the Nations: we are deeply saddened by the behavior of those who in the course of history have caused these children of yours to suffer, and asking your forgiveness, we wish to commit ourselves to genuine brotherhood with the people of the Covenant.”)

Những người trong dòng lịch sử mà giáo hoàng nói đến là những người nào? Giáo hoàng không nói rõ nhưng ai cũng biết đó chính là những người Ki Tô Giáo, Ca-Tô Giáo cũng như Tin Lành. Chúng ta hẳn còn nhớ, ngày 12 tháng 3 năm 2000, Giáo Hoàng John Paul II cùng một số Hồng Y và Tổng Giám Mục đã xưng thú 7 núi tội ác của Ca-Tô Giáo Rô-ma đối với nhân loại tại Vatican, và một trong 7 núi tội ác này là vu khống cho người Do Thái cái tội giết Chúa và bách hại người Do Thái trong nhiều thế kỷ.

Lời cầu nguyện trên chứng tỏ là Ca Tô Giáo thờ cùng một Thiên Chúa với người Do Thái. Suốt 2 ngàn năm lịch sử, Ca Tô Giáo đã gây ra hết tội ác này đến tội ác khác đối với nhân loại. Bất cứ khi nào cần, hoặc khi không còn có thể che dấu tội ác của Giáo hội trước những tác phẩm nghiên cứu của các học giả ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, thì Giáo hội lại diễn xuất màn kịch ăn năn hối cải, và xin được Thiên Chúa tha thứ chứ không phải là xin được các nạn nhân của Giáo hội tha thứ, và lương tâm giáo hội lại yên ổn để tiếp tục làm tội ác, bất kể là thực ra có Thiên Chúa hay không và nếu có thì Thiên chúa có chịu tha tội cho giáo hội hay không.

Nhưng ngày nay, đối với giới trí thức và hiểu biết, thì vấn đề xin Thiên Chúa tha thứ cho Giáo hội đã trở thành vô nghĩa mà thực chất chỉ là hành động che dấu tội ác (cover-ups). Bởi vậy, Lloyd Graham đã viết trong cuốn “Những Dối Trá Và Huyền Thoại Của Thánh Kinh” (Deceptions and Myths of the Bible), trang 425, như sau: “Con người! Hãy tha thứ cho Thiên chúa, vì hắn ta không biết là mình đã làm gì [dựa theo một câu của Giê-su trước khi chết trên cây thập giá]. Tất cả sự sống đã chứng tỏ sự kiện thê thảm này, do đó, vấn đề không phải là Thiên Chúa có tha thứ tội lỗi của con người không? mà là con người có thể tha thứ cho sự độc ác của Thiên chúa không? (Man! forgive God, for he knows not what he does. All life attests this tragic fact, and so the question is not, will God forgive man for his sins? but can man forgive God for his cruelty?) Và ngày nay, vấn đề đặt ra không phải là Thiên chúa có tha thứ cho Giáo hội hay không, mà là những nạn nhân của Giáo hội trong suốt 2000 năm nay có chịu tha thứ cho Thiên Chúa của Giáo hội hay không, vì tất cả những gì Giáo hội làm đều nhân danh Thiên Chúa và áp dụng những điều Thiên Chúa đã dạy trong Thánh Kinh, đặc biệt là coi người Do Thái như là tập đoàn kẻ thù đã “giết Chúa”.

Phân tích vấn đề, chúng ta thấy, Giê-su, cùng với bà mẹ Mary, 12 tông đồ, và 3 trong 4 tác giả của 4 phúc âm, đều là người Do Thái. Vậy tại sao Ki Tô Giáo lại reo rắc hận thù và bách hại người Do Thái trong gần 2000 năm nay. Vấn đề chính là dân Do Thái không tin Giê-su là Chúa Cứu Thế, chỉ coi Giê-su như là một nhà tiên tri Do Thái như mọi nhà tiên tri khác. Điều này trái với tín ngưỡng của Ca Tô Giáo, chủ trương đưa con người vào trong vòng mê tín, thờ phụng thần linh mà họ gọi là Chúa. Chúng ta đã biết, Ca Tô Giáo tự nhận là “Tông truyền” cho nên bất cứ niềm tin nào khác với Ca Tô Giáo đều phải diệt bỏ. Trong thời Trung Cổ, Giáo hội Công Giáo đã phát động những cuộc Thập Ác Chinh, không những để diệt những người Hồi Giáo, Do Thái Giáo, mà con tiêu diệt cả những tín đồ Ki Tô Giáo nào không phải là Ca Tô Giáo chính thống, thí dụ như dân Cathars ở Languedoc, Pháp, chẳng hạn..

Để khuyến khích và nuôi dưỡng sự thù hận của tín đồ Ki Tô đối với dân Do Thái, Giáo hội Ca Tô, bắt đầu từ Thánh Phaolồ (Paul), vu khống cho dân Do Thái cái tội “giết Chúa”. Nhưng Giáo hội cố tình quên rằng, Giê su là người Do Thái, bố mẹ Giê su là người Do Thái, tổ tiên Giê su là người Do Thái, 12 tông đồ đầu tiên của Giê su cũng là người Do Thái, và Giê su chịu ảnh hưởng rất nhiều của Do Thái Giáo, qua cuốn Cựu Ước. Tuy có thể người đóng đinh Giê-su lên thập giá là người Do Thái, nhưng người kết tội tử hình Giê su là Pilate, toàn quyền La Mã, vậy những người đóng đinh Chúa trên thập giá chỉ là những người thi hành một bản án, cũng như các đao phủ khi xưa chém đầu tội nhân bị kết án tử hình.

Ngoài ra, Giáo hội luôn luôn dạy rằng: "Chúa là con một của Thượng đế, giáng trần để làm nhiệm vụ chuộc tội cho nhân loại trước sự đầy ải thù hằn của Thượng đế, tình nguyện chết trên thập giá, dùng máu mình để "rửa sạch tội lỗi của con người"”, vậy những người đóng đinh Giê-su trên thập giá, dù họ thực sự là người Do Thái, thì đó chẳng qua họ chỉ làm theo sở nguyện của chính Chúa Giê su, đáng lẽ phải được tuyên dương công trạng vì đã giúp Chúa hoàn thành nhiệm vụ chuộc tội, chứ sao lại bị kết tội là giết Chúa. Kết tội người Do Thái giết Chúa là thừa nhận Giê su không phải là Chúa con, quyền phép vô biên, và phủ nhận luôn việc ý nghĩa của việc Chúa giáng trần, ý nghĩa của việc tình nguyện chịu đóng đinh trên thập giá v...v... Nhưng theo những chuyện không thể tin được trong Tân ước thì Giê-su đâu có chết, vì chưa đầy 3 ngày sau ông ta đã sống giậy và 40 ngày sau đó bay lên trời. Vậy thì thực ra Giê-su chết hay không chết? Nếu không chết thì ai là người “giết Chúa”? Và cái màn bị đóng đinh trên cây thập giá chỉ là một màn bịp bợm về cái gọi là “chịu khổ nạn để chuộc tội cho thế gian”. Những sự mâu thuẫn cùng cực trong sách lược chống Do Thái của Giáo hội Ca Tô như trên và những mâu thuẫn hiển nhiên trong nền thần học của Ki Tô Giáo không hề làm bận tâm các tìn đồ, và họ thản nhiên hành hạ, tàn sát người Do Thái theo sách lược của Giáo hội, và tiếp tục thù ghét người Do Thái cho tới ngày nay, khi họ không còn quyền lực để cưỡng bức người Do Thái phải cải đạo, trục xuất lưu đầy, hoặc thiêu sống người Do Thái như họ đã làm trong quá khứ.

Đọc về những cung cách đối xử với dân Do Thái của Giáo hội Ca Tô Rô-ma nói riêng, của Ki Tô Giáo nói chung, tôi thấy thật là tội nghiệp cho dân Do Thái và tội nghiệp luôn cho đám tín đồ Ki Tô, đầu óc mù mịt, nhắm mắt theo sách lược chống Do Thái của Ki Tô Giáo, để cho những bàn tay của mình dính đầy máu của những người Do Thái vô tội mà không hề biết đến những mâu thuẫn cùng cực trong sách lược này.

Sau đây tôi sẽ đi vào một số chi tiết của những biện pháp mà một số Giáo hoàng, những vị đại diện của Chúa trên trần, và một số chức sắc cao cấp trong hàng Giáo phẩm Ca Tô và Tin Lành đã dùng để đối phó với dân Do Thái.

Chính sách chống Do Thái của Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca Tô Giáo Rô-ma, suốt 2000 năm nay được Mục Sư Ernie Bringas tóm tắt trong 7 trang sách trong cuốn Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Pub. Co., VA, 1996, sau đây là vài đoạn trích dẫn:

"Điều rõ ràng là nhiều sự bạo tàn đối với người Do Thái trong 2000 năm qua có thể tìm thấy trong những hạt giống nghi ngờ và bất tín gieo trong Tân Ước. Ngay từ thời đầu của Ki Tô Giáo, các tín đồ đã coi người Do Thái như là những đứa con ương ngạnh của Thượng đế và là kẻ thù của Giê-su. Những cảm nghĩ chống Do Thái này ta có thể thấy rõ ràng trong quyển "Công Vụ các Sứ Đồ" trong đó người Do Thái bị gọi bằng những danh từ "cứng cổ," "phản bội," và "dân giết người". Cái luận điệu này đã được nhấn mạnh trong bức thư tông đồ đầu tiên của Phao-lồ gửi cho dân Thessalonians trong đó ông đổ cho người Do Thái cái tội giết Chúa.

Phúc âm Matthew mô tả người Do Thái đã thốt ra một lời nguyền rủa trên chính dân tộc của họ: "Hãy đòi máu Chúa trên chúng tôi và con cái chúng tôi". Tuy rằng ngày nay hầu hết các học giả đều cho câu trên là do sự ngụy tạo của tác giả phúc âm Matthew, qua nhiều thế kỷ, câu trên đã được dùng làm cái cớ và biện minh cho sự giết chóc người Do Thái.

Có lẽ luận điệu chống Do Thái mạnh nhất là ở trong phúc âm của John. Thật khôi hài là trong phúc âm này, mà nhiều tín đồ Ki Tô gọi là "phúc âm của tình thương yêu", lại có những câu phỉ báng và nguyền rủa người Do Thái... Chỉ là vấn đề thời gian cho đến khi những lời trên và những lời khác làm giảm giá trị của Thánh kinh được làm nhiên liệu cho những ngọn lửa của đức tin mù quáng. Người Do Thái đã trở thành mục tiêu của nền thần học méo mó dựa trên sự ngu tối, thiên kiến, và uy quyền tràn ngập kết hợp với những điều viết trong Thánh kinh.

...Ngay từ buổi sơ khai, các tín đồ Ki Tô coi người Do Thái như là "những kẻ giết Chúa" và là kẻ thù của Ki Tô Giáo. Những thái độ độc địa này lan nhanh từ cộng đồng Ki Tô sang mọi khu vực của xã hội, và đưa đến sự bách hại người Do Thái, đặc biệt là sau khi Ki Tô Giáo trở thành tôn giáo của Rô-ma [Công giáo Rô-ma] dưới thời Constantine ở thế kỷ thứ tư.

Hàng giáo phẩm Ca Tô giáo khuyến khích các hoàng đế La Mã đối đãi khắc nghiệt với người Do Thái. Dân thường không được theo đạo Do Thái và đời sống của người Do Thái bị nhiều hạn chế. Những người Do Thái và Ca Tô giáo lấy nhau bị xử tội chết. Hoàng đế La Mã Theodosius II cấm người Do Thái không được giữ những chức vụ trong chính quyền hoặc xây những giáo đường. Hoàng đế Justinian còn đi xa hơn: kết án người Do Thái là dị giáo và ra lệnh tịch thu các giáo đường Do Thái để làm nhà thờ Ca Tô. Justinian cũng còn hợp pháp hóa những hành động của những giám mục và linh mục Ca-Tô cướp phá và thiêu hủy các giáo đường Do Thái.

Những đạo luật chống Do Thái ở Tây Ba Nha còn khắc nghiệt hơn. Năm 694, công đồng thứ bảy ở Toledo tuyên cáo mọi người Do Thái là nô lệ, và ra lệnh tịch thu tài sản của họ. Công đồng cũng ra sắc lệnh là khi các em nhỏ Do Thái lên bảy tuổi thì phải tách chúng ra khỏi gia đình để cho hàng giáo phẩm Ca Tô giáo dạy dỗ chúng và khi lớn lên chúng phải kết hôn với người Ca Tô.

Sử gia nổi tiếng Solomon Grayzel ước tính có 10000 Do Thái bị giết ở Trung Âu trong cuộc đệ nhất thánh chiến. Sự tàn sát tập thể kéo dài và ghê rợn, những nạn nhân người Hồi giáo và Do Thái giáo - nam, nữ và trẻ con - đã gia tăng khi Jerusalem thất thủ. Nhiều người Do Thái bị thiêu sống ngay trong giáo đường của họ.

Năm 1215, dưới triều đại của Giáo hoàng Innocent III, sắc lệnh được ban bố quy định mọi người Do Thái, nam trên 13 tuổi, nữ trên 11 tuổi, đều phải mang một mảnh băng màu vàng ở đằng trước và đàng sau áo của họ. Cái "huy hiệu" này được coi như một dấu hiệu của sự ô nhục, tượng trưng cho sự chia rẽ thù nghịch giữa người Ca Tô giáo và những kẻ được gọi là giết Chúa.

... Sự bách hại dân Do Thái này đã được tiếp tục suốt trong thời Trung Cổ. Ngày 4 tháng 6, 1391, phó chủ giáo ở Ecija xúi giục một cuộc nổi giậy ở Seville, Tây Ba Nha, với kết quả là có 4000 người Do Thái bị giết. Cùng mùa hè năm đó, từ thị trấn này qua thị trấn khác ở khắp châu Âu, người Do Thái bị thiêu sống trong nhà hoặc giáo đường của họ. Số người chết lên tới 50000.

Ngay từ lúc đầu, đạo Tin Lành cũng chống Do Thái như là đạo Ca Tô. Martin Luther, sáng lập viên và lãnh tụ của cuộc cải cách Tin Lành (1517) cũng mãnh liệt bách hại người Do Thái. Điều này đã đưa chúng ta tới một kỷ nguyên chống Do Thái kinh khủng nhất mà thế giới đã thấy. Sự tàn sát tập thể nhiều triệu người Do Thái bởi những lực lượng Đức quốc xã trong kỳ đệ nhị Thế Chiến là kết quả của nhiều yếu tố xã hội, chính trị, văn hóa, tâm lý, và tôn giáo. Tuy nhiên, Ki Tô giáo phải gánh một phần trách nhiệm.

Adolf Hitler là một tín đồ Ca Tô. Hắn chưa bao giờ bỏ Giáo hội, và cũng chưa bao giờ bị tuyệt thông. Trong cuộc thảo luận với Giám mục Berning ở Osnabruk vào tháng 4 , 1933, Hitler ghi nhận: "Đối với dân Do Thái, tôi chỉ thi hành cùng một chính sách mà Giáo hội Ca Tô đã theo trong 1500 năm." Hitler cho rằng mình đã theo sự chỉ đạo của Giáo hội, đặt kế hoạch thực hiện những gì mà những tín đồ Ca Tô đã làm trong suốt dòng lịch sử, giết người Do Thái.

Không còn nghi ngờ gì nữa là sự chống Do Thái của Đức quốc xã là dẫn xuất từ, ít ra là một phần, chính sách chống Do Thái của Ki Tô giáo, nền tảng của chính sách này do Giáo hội Ca Tô đặt ra và những điều mà Luther chủ trương sau này. Cùng nhau, lòng tin mù quáng của Ki Tô Giáo và ý niệm quốc gia của Đức đã gây nên sự điên rồ giết hại 6 triệu người Do Thái."

(It is no secret that many atrocities committed against the Jews over the past 2000 years can be traced to the seeds of suspicion and distrust sown in the NT. Since the very beginning of Christianity, believers have regarded the Jew as the wayward children of God and the enemies of Jesus. These anti-Jewish sentiments are clearly reflected in the Book of Acts. Jews are variously called "stiff-necked," "betrayers," and "murderous people" (Acts 7: 51-53). This theme is reinforced in Paul's first letter to the Thessalonians (2:15-16) in which he blames the Jews for the death of Jesus...The Book of Mathew (27:25) describes the Jew as pronouncing a curse upon themselves: "His blood be on us and our children!" Although this statement is now considered by most scholars to have been fabricated by the author of Mathew, throughout the centuries it served to excuse and justify the killing of Jews.

Perhaps the strongest anti-Jewish emotion is registered in the Gospel of John. It is ironic that here, in what many Christians call the "love book," are statements vilifying and damning the Jews...It was only a matter of time until these and other derogatory biblical sentiments fueled the fires of bigotry. The Jews became the targets of distorted theology based on ignorance, bias, and the overwhelming authority associated with biblical writing.

...Early on, Christians looked upon the Jews as "Christ killers" and enemies of Christianity. The venomous attitudes spread quickly from the Christian community to every sector of society, and eventually led to the vicious persecution of Jews, especially after Christianity became the official religion of Rome under Constantine in the fourth century.

The Christian clergy encouraged Roman emperors to deal harshly with the Jews. Pagans were forbidden to convert to Judaism and many restrictions were placed on Jewish life. Marriages between Jews and Christians were punished by death. The Roman Emperor Theodosius II (A.D 408-450) forbade Jews to hold public office or to build synagogues. The Emperor Justinian (A.D 483-565) went further: He condemned the Jews as heretics and ordered their synagogues to be confiscated by the state and trasformed into churches.

Justinian also legalized the pillaging and burning of synagogues by Christian bishops and monks.

The anti-Jewish laws set down in Spain were even harsher. In 694 the seventh Council of Toledo declared all Jews to be slaves, and ordered their property and possession confiscated. The Council also decreed that Jewish children were to be taken from their parents at age seven to be raised by the clergy and later married to Christians.

...Noted historian Solomon Grayzel estimates that 10,000 Jews were slain in Central Europe during the First Crusade. The prolonged and hideous massacre of Moslems and Jews - men, women and children -when Jerusalem fell added to the number of victims. Many Jews were burned to death in their synagogues.

In 1215, during the reign of Pope Innocent III, it was decreed that all Jewish males older than thirteen and Jewish females older than eleven must wear a yellow patch on the front and back of their garnments. This "badge" was regarded as a mark of shame, symbolizing the continuing hostile division between Christians and the so-called murderers of Christ.

...This murderous persecution of Jews continued throughout the Middle Ages. On June 4, 1391, the Archdeacon of Ecija incited a riot in Seville, Sapin, which resulted in the killing of 4000 Jews. The same summer, in city after city across Europe, Jews were burned out of their homes and synanogues. The number of Jewish deaths is placed at 50.000.

From its beginning, Protestantism was as anti-Semitic as Catholicism. Martin Luther, founder and leader of the Protestant Reformation (1517) persecuted the Jews vehemently..

This brings us to what is perhaps the most appalling epoch of anti-Semitism the world has witnessed. The mass extermination of millions of Jews by the Nazi forces during World War II was the result of many social, political, cultural, psychological, and religious factors. Christianity, however, must bear partial liability.

Adolf Hitler was a Catholic. He never left the Church, nor was he excommunicated. In his discussion with Bishop Berning of Osnabruk in April 1933, Hitler remarked: "As for the Jews, I am carry on with the same policy which the Catholic Church has adopted for 1500 years." Hitler claimed to be following the Church's lead, planning to do what Christians had done throughout history - namely, murder Jews.

There was no doubt that Nazi anti-Semitism was derived, at least in part, from Christian anti-Semitism, which grew out of the foundation laid by the Catholic Church and the later teaching of Luther. The Nazi credo was equally a part of German nationalism. Together, Christian bigotry and German nationalism spawned the insanity that murdered 6.000.000 Jews.)

Ki Tô Giáo đã làm mất nhân tính của người Do Thái như thế nào? Chúng ta hãy đọc lời mô tả giáo đường Do Thái sau đây của chính "Thánh" John Chrysostom trong thế kỷ 4, người được coi là một trong những “Thượng phụ” lập giáo vĩ đại nhất của Ca Tô Giáo (Saint John Chrysostom, 4th century, one of the greatest of the "Church Fathers", Brown, Ibid., p. 10):

"Cái Giáo đường Do Thái còn tệ hơn là một ổ điếm...là sào huyệt của những tên vô lại và là nơi vãng lai của loài dã thú...là đền đài của quỷ dữ hiến thân cho sự sùng bái hình tượng...là nơi trú ẩn của quân cướp và kẻ trụy lạc. Đó là nơi hội họp của những kẻ phạm tội...nơi hội họp của những kẻ giết Chúa... một nơi tệ hơn là một tiệm rượu, là sào huyệt của những tên trộm cắp, là một nhà chứa, nơi trú ngụ của những kẻ phạm tội, nơi trú ẩn của quỷ."

(The synanogue is worse than a brothel...it is the den of scoundrels and the repair of wild beasts... the temple of demons devoted to idolatrous cults...the refuge of brigands and debauchees, and the cavern of devils. It is a criminal assembly of Jews...a place of meeting for the assassins of Christ..a house worse than a drinking shop.. a den of thieves; a house of ill fame, a dwelling of iniquity, the refuge of devils...)

Đó là ngôn từ của một vị “thánh” Ca Tô, một nhà lập giáo vĩ đại của Ca Tô giáo. Không biết có phải do truyền thống Ca Tô giáo hay không mà trước đây Giáo hoàng John Paul II đã dùng những ngôn từ thiếu văn hóa để phê bình những nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ, và Hồng Y Ratzinger, nay là giáo hoàng Benedict XVI, cũng dùng những ngôn từ khá hạ cấp và thiếu giáo dục để phê bình Phật Giáo như chúng ta đã biết.

Nhưng không phải chỉ có “thánh” John Chrysostom là có loại ngôn từ đặc biệt như trên. Chúng ta hãy đọc vài lời “thánh phán” khác của Ca Tô Giáo Rô-ma.

“Thánh” Bernard coi toàn thể dân tộc Do Thái là “súc vật ngu đần và còn tệ hơn cả súc vật nữa”, “một loại thông minh thô thiển, ngu đần” vì chúng không chịu theo Chúa. [Với kiến thức của nhân loại ngày nay về vũ trụ học, sinh học, xã hội học, tôn giáo học v..v.. thì lời mô tả này để dành cho những người theo Chúa thì có lẽ đúng hơn]

(Brown, Ibid., p. 12: St. Bernard charged the whole Jewish people with “a stupidity bestial and more than bestial,” an “intelligence coarse, dense, and as it were bovine” because they did not follow the Lord..

“Thánh” Augustine, nhà thần học vĩ đại nhất của Ca Tô Giáo, nói trong một bài giảng đạo:

Người Do Thái bắt giữ ông ta (Giê-su), nhục mạ ông ta, trói ông ta, đội mũ gai cho ông ta, phỉ nhổ làm nhục ông ta, quất roi lên người ông ta, treo ông ta trên cây, đâm ông ta bằng một cây giáo… Người Do Thái đã giết ông ta.”

Trong một bài giảng khác, Augustine gán cho người Do Thái tội “cố ý mù quáng không biết đến Thánh Kinh”, “thiếu hiểu biết” và “những kẻ ghét chân lý”

(Brown, Ibid.: Augustine, the great theologian, says in a sermon: "The Jews hold him, the Jews insult him, the Jews bind him, crown him with thorns, dishonor him with spitting, scourge him, hang him upon the tree, pierce him with a spear...The Jews killed him."

In another sermon he characterized the Jews as "willfully blind to Holy Scripture," "lacking in understanding" and "haters of truth." )

Những lời “thánh phán” như trên chứng tỏ những “thánh Ca-Tô” đó bản chất chỉ là những kẻ cuồng tín ngu đần của thời bán khai. Đó là những người mà Ca Tô Giáo ca tụng là “Thượng phụ lập giáo” của Ca Tô Giáo (Church fathers). Ngày nay chúng ta biết rằng, “vô thần”, “không tin vào Thiên Chúa”, “không tin vào Thánh Kinh”, “không chịu theo Chúa” chính là một biểu hiện của danh dự, của sự thông minh (a badge of honor, of intelligence). Sự suy thoái của Ki Tô Giáo trên khắp thế giới, song song với sự tiến bộ trí thức của nhân loại, hơn gì hết đã chứng tỏ điều này.

Về những lời “thánh phán” như trên và về vấn đề Ca Tô giáo bách hại dân Do Thái, Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, một người theo Ca Tô giáo khoảng 30 năm lúc thiếu thời, trong một bài viết vô cùng giá trị đối với các tín đồ Ca Tô giáo để họ hiểu rõ đạo của mình với nhan đề "Ít Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa Giáo" đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tuyển Tập I, trg. 41-42, đã viết một cách châm biếm như sau:

"Cái thắc mắc khác của tôi, là một giáo hội đầy ơn Chúa, đầy chân lý và tình thương như vậy, khi thực sự đã cai trị Âu châu, lại làm cho Âu châu run sợ vì tàn ác.

Linh mục Edward A. Synam, tác giả quyển The Popes and The Jews in the Middle Ages cũng đã phải thành khẩn công nhận rằng: khi Âu châu được đặt dưới quyền thống trị của các giáo hoàng thời Trung Cổ đã không biết chuyện bình đẳng và công bằng, luật pháp thì dã man từ ý hướng đến hình phạt, và đã chĩa mũi dùi vào dân chúng Do Thái tội nghiệp.

Tôi lại càng thêm phục Giáo hoàng Innocent III vì đã coi dân tộc Do Thái ngang hàng với "BÒ", với "SÚC VẬT", và ngài còn cho thế là lịch sự tử tế, vì theo Ngài, tiên tri Isaiah đã coi dân Do Thái thua bò, thua giống vật nữa.

Nếu Nostradamus, Marx, Einstein (các vị này đều là gốc Do Thái) mà đọc được những lời của Giáo hoàng Innocent III, chắc phải khiếp vía, vì không biết Ngài thông minh đến mức nào, mà dám coi người Do Thái như bò, như súc vật.

Khi đã coi rẻ Do Thái đến như vậy, đã coi đạo Do Thái tầm thường đến như vậy, thì tịch thu các sách Talmud - thánh thư của Do Thái giáo - chất lên nhiều xe, đem ra đốt giữa thành phố Paris năm 1242, theo lệnh của vua thánh Louis và được sự chúc phúc tán đồng của Giáo hoàng Gregory IX là một chuyện rất tầm thường đối với Công Giáo, vì những "thánh thư Do Thái" đồi bại như vậy, giữ nó làm cái gì.

Có một điều khó hiểu là những thế kỷ từ 11 đến 15 huy hoàng như vậy, đối với người Do Thái lại là 4 thế kỷ kinh hoàng. Chẳng những thế ngay người Âu châu cũng đã vô ơn, đã đầy thiên kiến khi đánh giá những thế kỷ Trung Cổ (476-1453) đầy ánh sáng Thiên Chúa và Phúc Âm ấy là "Thời đại Hắc Ám" (The Dark Ages). Nhưng khi phong trào khảo cứu lại nền văn minh Hi Lạp nảy sinh ra, họ đã dám gọi đó là "Thời kỳ Phục Sinh" (Renaissance, thế kỷ 14-16); và khi phong trào đề cao lý trí con người được khởi xướng, họ lại dám gọi đó là "thời Kỳ Phát Quang" (Enlightenment, thế kỷ 18). Thực là ngạo mạn, nhảm nhí vô cùng."

Các Giáo hoàng, Thánh Ca Tô coi người Do Thái tệ mạt như vậy, nhưng sự thực thì sao? Ai cũng biết Do Thái là một dân tộc thông minh, có nhiều cá nhân xuất sắc trong mọi lãnh vực, và nhất là có tài làm ra tiền. Nền tư bản của Mỹ ít ra là một phần nằm trong tay người Do Thái. Vì là một dân tộc thông minh nên người Do Thái không thể chấp nhận Giê-su, con của một anh thợ mộc, đầu óc và kiến thức không có gì đặc biệt, tư cách kém cỏi, theo như nhận định của triết gia Bertrand Russell, làm Chúa cứu thế của dân tộc họ. Đây là lý do chính làm Ca Tô thù ghét người Do Thái, vu cho người Do Thái cái tội giết Chúa để có cớ kích động sự thù hận trong đám giáo dân ngu tối, cuồng tín, hồ hởi bách hại người Do Thái để "vinh danh Thiên Chúa trên Trời".

Sau đệ nhị thế chiến với chính sách diệt chủng Do Thái của Đức Quốc Xã với sự im lặng đồng lõa của Ki Tô Giáo, chính Giáo Hoàng John XXIII đã đưa ra lời cầu nguyện sau đây cho giáo hội công giáo hoàn vũ:

“Dấu ấn của Cain đã đóng lên trán của chúng ta. Qua nhiều thế kỷ, người anh em Abel của chúng ta đã nằm trên vũng máu mà chúng ta rút ra, và tràn nước mắt mà chúng ta đã gây ra vì đã quên đi tình yêu thương của Người. Xin Chúa hãy tha thứ cho chúng tôi về lời nguyền rủa mà chúng tôi đã gán cho những người Do Thái. Hãy tha thứ cho chúng tôi vì đã đóng đinh Ngài trên thập giá lần thứ hai trong thân thịt của họ. Vì chúng tôi không biết là chúng tôi đã làm gì.” (Thánh Kinh viết, vì sự bất công của Thượng đế nên Cain ghen tị và giết em ruột của mình là Abel. TCN)

(Peter de Rosa, Vicars of Christ: The Dark Side Of The Papacy, p. 6: The mark of Cain is stamped upon our foreheads. Across the centuries, our brother Abel has lain in blood which we drew, and shed tears we caused by forgetting Thy love. Forgive us, Lord, for the curse we falsely attributed to their name as Jews. Forgive us for crucifying Thee a second time in their flesh. For we knew not what we did.)

Nhiều người Ca Tô cho rằng “Đức Thánh Cha” của họ rất chân thành thú nhận tội ác của Ca Tô giáo trong vấn đề bách hại người Do Thái. Nhưng thực ra thì không phải là “Vì chúng tôi không biết là chúng tôi đã làm gì.” mà là “chúng tôi” đã biết rất rõ là “chúng tôi” đã làm gì. “Chúng tôi” đã theo sát lời dạy của Chúa Jésus Christ trong Tân Ước, Luke 19:27: “Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người không muốn Ta ngự trị trên chúng (nghĩa là những người không muốn trở thành tôi tớ hèn hạ của Chúa), và giết chúng ngay trước mặt ta.” Mặt khác, gây tội ác với người Do Thái thì phải thành tâm xưng tội và tạ tội với người Do Thái, chứ không thể xin Chúa tha tội. Chúa ở đâu mà tha tội. Mang một cái hình bóng tưởng tượng ra để chạy tội thế gian là một điều không ai có thể chấp nhận ngày nay. Mấy ông mục sư, linh mục đi hiếp dâm con nít vẫn phải vào tù ngồi để đền tội, bất kể là Chúa có tha tội cho họ hay không.

Sau đệ nhị Thế Chiến, cả hai giáo hội Ca Tô và Tin Lành, với mặc cảm tội lỗi, đã tỏ ra hòa hoãn hơn đối với dân Do Thái. Hai tôn giáo này cũng tỏ ra, ít nhất là ở ngoài mặt, bớt kỳ thị hơn đối với những tôn giáo phi Ki Tô. Chính sách bách hại người Do Thái của Ca Tô và Tin Lành, đưa đến sự tàn sát có tính cách diệt chủng 6 triệu người Do Thái trong những trại tập trung của Đức quốc xã, đã làm cho cả thế giới bất bình lên án. Trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại, Giáo hội Ca Tô không còn chọn lựa nào khác, vì quyền lực thế tục đã mất không còn khả năng bách hại những người ngoại đạo bằng những hành động bất nhân tàn ác, là phải đưa ra chiêu bài hòa hợp tôn giáo trên đầu môi chót lưỡi qua Công Đồng Vatican II. Nhưng trên thực tế, Ca-Tô Giáo Rô-ma vẫn cho rằng chỉ có một con đường duy nhất đưa đến sự “cứu rỗi” của Giê-su là đi qua ngả trung gian Vatican. Và cũng vì vậy, trong hơn 40 năm nay, chiêu bài hòa hợp tôn giáo của Vatican vẫn chỉ có trên mặt văn tự, vì không có hệ phái Ki Tô nào khác chịu hòa hợp với một định chế tôn giáo gian dối, chuyên nói ngược nói suôi. Những tôn giáo phi Ki Tô còn dè dặt hơn nữa, vì những kinh nghiệm lịch sử cho thấy rõ rằng, hòa hợp tôn giáo với Ca Tô Giáo Rô-ma là đánh đu với tinh.


Tài Liệu Tham Khảo:

  • Bringas, Ernie, Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Pub. Co., VA, 1996
  • Cornwell, John, Hitler’s Pope, Vanity Fair, 1999
  • Goldhagen, Daniel Jonah, A Moral Reckoning: The Role of the Catholic Church in the Holocaust and its Unfulfilled Duty of Repair, , Alfred A. Knopf, NY, 2002
  • McKain, Mark, Anti-Semitism, Greenhaven Press, MI, 2005.
  • Phayer, Michael, The Catholic Church and the Holocaust, 1930-1965, Indiana University Press, IN., 2000.
  • Rausch, David A., A Legacy of Hatred: Why Christians Must Not Forget The Holocaust, Moody Press, Chicago, 1984.
  • Rubenstein, Richard L. & Roth, John K., Approaches To Auschwitz: The Holocaust and its Legacy, John Knox Press, Georgia, 1987.
  • Waite, Robert G.L., Hitler and Nazi Germany, Holt, Rinehart & Winston, Inc., NY , 1969
  • Wills, Gary, Why I Am A Catholic, Houghton Mifflin Company, NY, 2002
  • Các tài liệu trên Internet.