CÔNG GIÁO HẮC SỬ - IV

[The Dark History of Catholicism]

Trần Chung Ngọc

https://sachhiem.net/TCN/TCNtg/CGHS/NCGHS0.php

đăng ngày 10 tháng 6, 2007

Toàn tập: 1 2 3 4 5 6 7 8

▪ Phần IV: Núi Tội Ác Thứ Bốn: 300 Năm Săn Lùng Phù Thủy (Đa Số Là Phụ Nữ)

René Descartes (1596-1650), triết gia Pháp: Những người đã trở thành quá quen đi trong bóng tối đã làm yếu đi cặp mắt của mình đến độ không thể chịu được ánh sáng ban ngày. [Tiến sĩ Barnado nhận định những tín đồ Công Giáo đang sống trong “cái bóng tối dày đặc của Giáo hội La Mã” (In the thick darkness of Romanism)]

(René Descartes (1596-1650), French philosopher: Those who so become accustomed to walk in darkness weaken their eyesight so much that afterwards they cannot bear the light of day.)

Stopford A. Brooke (1831-1916), Mục sư Anh-Ái Nhĩ Lan: Nếu một ngàn niềm tin cổ xưa bị sụp đổ trong cuộc hành trình của chúng ta đi tới chân lý thì chúng ta vẫn phải tiếp tục cuộc hành trình. [Tây phương đang tiếp tục cuộc hành trình này, bởi vậy Giáo Hoàng Benedict 16 mới phải than: “Ở Âu Châu, Úc và Mỹ , không còn bằng chứng là con người còn cần đế Thượng đế, đừng nói đến Chúa Ki-Tô” (Pope Benedict said to Italian priests: “in Europe, Australia and the USA: "There's no longer evidence for a need of God, even less of Christ," )]

(Stopford A. Brooke (1831-1916), Anglo-Irish Minister: If a thousand old beliefs were ruined in our march to truth we must still march on.)

Maurice Maeterlinck ( 1862-1949), tác giả người Bỉ: Một sự thật làm chúng ta đau lòng vì nó là sự thật thì có giá trị hơn là những sự giả dối gây thích thú cho chúng ta rất nhiều [Samuel Butler viết: Người Ki-Tô không sợ tội lỗi, chỉ sợ sự thật.]

(Maurice Maeterlinck ( 1862-1949), Belgian author: A truth that disheartens because it is true is of far more value than the most stimulating falsehoods.)

Học giả và nhà thần học người Đức Joachim Kahl: Người nào chưa bao giờ thấy mình căm phẫn Ki-tô Giáo thì chưa bao giờ thực sự biết về Ki-tô Giáo.

(Joachim Kahl, German scholar and theologian: Anyone who has never become indignant about Christianity has never really known it.)

 

Trong Phần Dẫn Nhập, chúng ta đã biết, Hồng Y John O’Connor, tổng giám mục giáo phận New York, đã nhận định như sau, sau khi Giáo Hoàng John Paul II xưng thú 7 núi tội ác của giáo hội Công Giáo trước thế giới:

"Hầu hết các tín đồ Công Giáo không biết đến cái lịch sử mà Giáo hoàng nói đến, và nếu tín đồ Công Giáo phải "được sự thật giải phóng", thì họ phải biết sự thật đó như thế nào."

(Most Catholics are unaware of the history to which the pope alluded, an if, Catholics are to be "liberated by the truth", then they must know what that truth is.)

Vì đã quen đi trong bóng tối, cho nên chúng ta thấy rõ các tín đồ Công Giáo, nhất là những tín đồ Công Giáo Việt Nam, không chịu được ánh sáng của những sự thật về tôn giáo của họ.

Bài viết này có mục đích nghiên cứu một trong những trang sử đen tối nhất của Công Giáo La Mã và Tin Lành: chủ trương “Săn Lùng Phù Thủy”, kéo dài từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 18 ở khắp Âu Châu, với cao điểm cực kỳ dã man tàn bạo trong 300 năm, từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, như sẽ được trình bày qua một số tài liệu trong một phần sau. Chủ trương “Săn Lùng Phù Thủy” cũng được Tin Lành áp dụng ở Mỹ, Salem và Boston, Massachusetts, năm 1692: 19 người bị treo cổ vì bị kết tội là phù thủy, 150 người bị giam tù..

R. H. Robbins đã gọi mấy trăm năm săn lùng và giết hại phù thủy này là: “Cơn ác mộng làm mọi người sửng sốt, tội ác nhơ nhuốc nhất và sự ô nhục sâu thẳm nhất của nền văn minh Tây phương” (The shocking nightmare, the foulest crime and deepest shame of Western civilization) (mà Ki Tô Giáo thường coi là nền văn minh Ki Tô Giáo). Và Helen Ellerbe cũng viết: “Số lớn người bị bạo hành và giết bỏ, cũng như tác động của quan niệm thông thường về Thiên Chúa, làm cho những cuộc săn lùng phù thủy là một trong những chương sử đen tối nhất của nhân loại.” (The vast numbers of people brutalized and killed, as well as the impact upon the common perception of God, make the witch hunts one of the darkest chapters of human history) [HE, 138].

Bài viết này không ngoài mục đích là theo lời Hồng Y John O'Connor, giúp cho các tín đồ Công Giáo và Tin Lành Việt Nam, biết một phần sự thật về những tội ác của Ki Tô Giáo, hi vọng họ có thể “được sự thật giải phóng”, nếu họ có đủ can đảm bỏ được cái tâm cảnh sợ sự thật...

Đã vài lần tôi đặt trước giới trí thức Công Giáo, giới Linh Mục câu hỏi:

Tại sao Giáo Hội Công Giáo, một giáo hội do chính Chúa thành lập, thường tự xưng là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v... lại có thể phạm những tội ác vô tiền khoáng hậu trong suốt 2000 năm nay đối với nhân loại như vậy? trong khi các đạo khác, thí dụ như đạo Phật, thường bị Ki Tô Giáo, và ngay chính Giáo hoàng John Paul II trong cuốn “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng”, chụp cho cái mũ vô thần lên đầu, lại không hề làm đổ một giọt máu hoặc gây nên bất cứ một phương hại nào cho con người trong quá trình truyền bá trải dài hơn 2500 năm, từ trước Ki Tô Giáo hơn 500 năm? Tại sao và tại sao ???

Cho tới nay, tôi chưa thấy một lời giải đáp nào về phía Công Giáo, từ Giáo hoàng trở xuống cho tới các con chiên. Họ không muốn và không thể trả lời câu hỏi này. Và họ cũng không dám chấp nhận sự thật là: Giáo hội Công Giáo không do Chúa thành lập [trái với lời Chúa phán trong Tân Ước là ngày tận thế sẽ tới ngay khi một số tông đồ của ông còn sống, vậy lập ra giáo hội để làm gì?], Giáo hội Công Giáo cũng không phải là "thánh thiện", là "ánh sáng của nhân loại", là quán quân về "công bằng và bác ái", được "thánh linh hướng dẫn" v...v... [xét đến lịch sử ô nhục, đẫm máu của giáo hội, đã được trình bày sơ lược trong 3 phần trước]. Tất cả chỉ là những điều dối trá lừa bịp đám tín đồ thấp kém, vậy thì làm sao họ có thể trả lời câu hỏi trên? Cho nên họ phải giữ im lặng, hi vọng đó là giải pháp tốt đẹp nhất để giữ tín đồ trong ngục tù tăm tối của tâm linh. Tuy họ không trả lời nhưng tôi sẽ tiếp tục nhắc đi nhắc lại câu hỏi trên, và tôi hi vọng những người ngoại đạo, mỗi khi đối thoại với người Công Giáo, trước hết hãy mang câu hỏi này đặt với họ xem họ trả lời ra sao. Có một câu trả lời có tính cách mạ lỵ đầu óc con người mà giáo hội thường dùng để “giải thích” cho đám tín đồ thấp kém những điều không thể giải thích được: “Đó là ý Chúa, mà ý Chúa thì con người không thể nào hiểu nổi”. Nhưng rồi, mặt khác, Giáo hội lại diễn giải Kinh Thánh, đặt ra những tín lý, đều nói là theo “ý Chúa” cả, tuy rằng theo định nghĩa về Chúa của họ, con người không ai có thể hiểu được “ý Chúa”. Ngoài ra, như chúng ta đã biết, phát động các cuộc Thập Ác Chinh (crusades), kích động tín đồ đi giết người ngoại đạo cũng được giáo hoàng nói đó là “ý Chúa”. Và con người, vì một cái bánh vẽ trên trời, vẫn tiếp tục lao đầu vào vòng mê tín để cho Giáo hội khai thác, tự tạo quyền lực và vơ vét của cải thế gian. Tâm cảnh nô lệ Vatican của các giáo hội Công giáo địa phương, trong đó có Việt Nam, và tài sản của Vatican đã lên tới cả ngàn tỷ đô la, trong khi giáo hội và các linh mục thuộc hạ của giáo hội ở Việt Nam vẫn quảng cáo Công Giáo là tôn giáo của người nghèo, là những bằng chứng chứng minh rõ ràng hơn gì hết sự khai thác tâm linh tín đồ và vơ vét của cải thế gian của Vatican.

Nguyên Nhân Của Chủ Trương Săn Lùng Phù Thủy.

Nguyên nhân từ đâu mà Ki Tô Giáo, Công Giáo cũng như Tin Lành, lại chủ trương săn lùng để tiêu diệt phù thủy, tuyệt đại đa số là phụ nữ. Chính là vì đầu óc quá hẹp hòi, mê tín, u mê cuồng tín của những người lãnh đạo giáo hội: tuyệt đối tin vào những điều không thể tin được trong Kinh Thánh, cộng với lòng tham lam vơ vét tích tụ của cải thế gian, và cộng với tâm cảnh giáo phụ: coi thường, nhục mạ phái nữ. Do đó, những bậc lãnh đạo Ki Tô Giáo đã cùng nhau dẫn giắt đám tín đồ thấp kém đi vào ma đạo, vì chỉ có ma đạo mới có thể có một lịch sử với nhiều tội ác như vậy. Ai không đồng ý xin lên tiếng !

Charlie Nguyễn, một trí thức Công Giáo tỉnh ngộ, trong bài viết về Quan niệm về phụ nữ của đạo Do Thái và đạo Ki Tô, có viết về đề tài Tội Ác Dã Man đối với Phụ Nữ của Công Giáo La Mã và Thệ Phản Giáo dưới chiêu bài Diệt Nạn Phù Thủy một cách hết sức tóm tắt như sau:

Tác phẩm “Búa Phù Thủy”, do bác sĩ Trần Quý Nhu dịch, Giao Điểm xuất bản Hè 2003. Nguyên tác bằng tiếng La-tinh “Malleus Maleficarum” của hai linh mục “quan án đạo” là Heinrich Kramer và Jacob Sprenger [2 linh mục dòng Đa Minh]. Tác phẩm được xuất bản lần đầu vào năm 1486 để làm tài liệu chính thức cho các quan tòa án đạo xử dụng.

Mấy trang đầu sách có in sắc lệnh 1482 của giáo hoàng Innocent VIII. Sắc lệnh của giáo hoàng là văn kiện luật pháp tối cao chỉ đạo công cuộc diệt phù thủy. Đây là chứng tích không thể chối cãi về một thời kỳ kinh hoàng cho phụ nữ kéo dài 300 năm (1450-1750). Bất cứ một phụ nữ nào cũng có thể dễ dàng bị ghép vào tội phù thủy. Người phụ nữ có thể bị người hàng xóm thù ghét vu cáo cho tội đã dùng bùa phép làm chết con bò hay con ngựa của hắn ta. Thế là người phụ nữ đó có thể bị truy tố ra Tòa Án Đạo, kết tội là phù thủy, tra tấn cực hình đến khi phải thú nhận. Một phụ nữ bỗng nhiên bị nổi ở trên mặt một vài cái nốt ruồi hay mụn cơm có hình thù đặc biệt khiến cho kẻ mê tín tin đó là dấu hiệu của ma quỉ. Người phụ nữ đó có thể bị kết án về tội phù thủy.

Vào đầu thế kỷ 15, các tu sĩ dòng Đa Minh (Dominicans) được giáo hoàng cử làm các quan án xử tội phù thủy. Trong hai thế kỷ 15 và 16, riêng tại Đức có 100,000 người bị giết bằng cách thiêu sống trên dàn hỏa.

Năm 1572, tại Saxony, phe Thệ Phản giáo (Tin Lành) tỏ ra còn khắc khe với phù thủy hơn cả Công giáo La Mã. Cuối thế kỷ 16, phe Thệ Phản giáo thiêu sống 20,000 người riêng tại Saxony. Từ 1615-1635, hơn 5,000 người bị đưa lên dàn hỏa về tội phù thủy tại miền Strasburg.

Sắc lệnh 9-12-1482 của giáo hoàng Innocent VIII

Sắc lệnh của giáo hoàng đưa ra nhiều “kiến thức lạ lùng” về phù thủy, thầy pháp, bói toán... Giáo hoàng cũng đưa ra nhiều “niềm tin mê tín” của riêng ông ta để dạy dỗ các quan án :

- Các phù thủy có thể thông đồng với “quỉ đực, quỉ cái” để gây ra bão táp phá hoại mùa màng, giết hại súc vật.

- Bọn phù thủy đã lạc ra ngoài đức tin Công giáo, sa vào tay quỉ dữ và có khả năng xử dụng tà thuật , phù phép, bùa ngải để làm các việc ác.

- Phù thủy có khả năng vận dụng sự di chuyển các ngôi sao để gây ra bệnh hoạn. Họ kết ước với ma quỉ để có thể biết trước tương lai bằng cách đoán mộng.

Đó là tiêu biểu những “kiến thức” của giáo hoàng về phù thủy. Giáo hoàng đã tán bậy theo sự suy tưởng ngu xuẩn của hắn.

Giáo hoàng và bọn quan án đạo đã vận dụng cái ngu và cái ác của Thiên Chúa trong Kinh Thánh hợp với cái ngu và lòng mê tín ác nghiệt của chúng để tạo thành một căn bản luật pháp tôn giáo. Bọn chúng đã dám dựa vào cái lòng tin ngu xuẩn của chúng để ra lệnh tàn sát bao nhiêu ngàn sinh linh! Trong 300 năm, từ 1450 đến 1750, ít nhất cũng có 200,000 phụ nữ bị thiêu sống dưới cái tội danh “phù thủy” vu vơ, không có thật. Tội danh này thật sự đã được tạo ra do sự tưởng tượng của những kẻ nặng đầu óc mê tín mà thôi.

Phải chăng Charlie Nguyễn đã viết đoạn trên một cách vu vơ, vô căn cứ? Không hẳn vậy. Trong Kinh Thánh có những câu, Exodus 22: 18: NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ CHO MỘT PHÙ THỦY ĐƯỢC SỐNG SÓT [King James Version: “You shall not suffer a witch to live”; Revised English Version: “You must not allow a witch to live.”]; Leviticus 19:26 “Thiên Chúa sẽ đối mặt với các kẻ làm thầy pháp và giết hết bọn này trước mặt dân chúng”; Levi. 20:26-27 “Những kẻ làm phù thủy hoặc bói toán phải được đem ra giết hết”. Và Giáo hội Công Giáo La Mã cũng như Tin Lành sau này đã theo đúng những luật man rợ này của Thiên Chúa trong Kinh Thánh để tiêu diệt những phù thủy, sản phẩm tưởng tượng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh mà Công Giáo cũng như Tin Lành tin là có thật, hay vu là có thật, để theo đuổi những mục đích thế tục. Bác sĩ Trần Quý Nhu, tác giả bản dịch cuốn Malleus Maleficarum (Búa Phù Thủy) của hai linh mục dòng Đa Minh, Heinrich Kramer và James Spencer, cũng viết trong Chương Dẫn Nhập như sau, trang 6:

Giáo hội Công Giáo không những chỉ dồn lực lượng vào những cuộc chiến diệt các nhóm dị giáo, mà còn chú trọng đến việc tiễu trừ những cá nhân lẻ loi về tội tin vào thần khác thay vì tin vào Thiên Chúa và Giê-su. Giáo hội Công Giáo gọi những thần khác là quỉ sứ và nhiều cá nhân như thế bị kết tội là phù thủy.

Chủ trương diệt phù thủy đã được dạy trong Thánh Kinh. Giê-su phán rằng: “Đừng tưởng ta đến để phá luật pháp hay lời các nhà tiên tri [trong Cựu Ước]. Ta đến không để phá mà để thực hiện toàn vẹn. Ta đoan chắc rằng, chừng nào mà trời đất còn tồn tại, thì một dấu chấm, một nét phảy trong luật pháp cũng không được bỏ qua cho đến khi tất cả các luật đều được thi hành trọn vẹn.

Một trong những luật man rợ này là Exodus 22: 18: NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC ĐỂ CHO MỘT PHÙ THỦY ĐƯỢC SỐNG SÓT [King James Version: “You shall not suffer a witch to live”; Revised English Version: “You must not allow a witch to live.”]. Chúng ta thấy, từ “Chúa” Giê-su cho đến tín đồ các cấp về sau, đều tin nhảm tin nhí vào những luật mà ngày nay không ai không cho rằng man rợ thuộc thời bán khai, sản phẩm của những đầu óc chưa mở mang, đặt những sản phẩm này vào đầu một Thần theo sự tưởng tượng và mê tín của họ: Thiên Chúa. Cũng vì vậy mà Giám mục John Shelby Spong đã phải than: “Cuốn Thánh Kinh mang đến cho tôi một Thiên Chúa mà tôi không thể kính trọng đừng nói đến thờ phụng”. [It (the Bible) offers me a God I cannot respect, much less worship] (JS, 24)

Một yếu tố khác góp phần trong cuộc săn lùng tiêu diệt phù thủy của Công Giáo La Mã chúng ta có thể thấy qua một trong 7 núi tội lỗi của Giáo Hội Công Giáo mà Giáo Hoàng John Paul II đã xưng thú cùng thế giới: “tội lỗi trong sự kỳ thị phái nữ, coi thường phẩm giá phụ nữ”. Vậy có lẽ chúng ta cũng nên biết qua Công Giáo đã kỳ thị, hạ thấp và nhục mạ phụ nữ như thế nào? Tôi không hiểu, một khi phái nữ trong giáo hội Công Giáo biết rõ sự kỳ thị, nhục mạ, coi thường phẩm giá phụ nữ, thì họ sẽ nghĩ như thế nào về cái giáo hội của họ. Phải chăng, đầu óc của họ đã bị nhồi sọ cho nên chỉ cần đến cái bánh vẽ “cứu rỗi” trên trời và không cần để ý đến chuyện giáo hội đã từng coi họ còn thấp hơn cả súc vật. Sau đây là một số quan điểm về phụ nữ của các bậc “thượng phụ” trong “hội thánh” Công Giáo và trong Kinh Thánh:

Thánh Clement ở Alexandria (150-215): “Mọi phụ nữ đều nên cảm thấy mình nhục nhã vì nghĩ đến điều mình đã sinh ra là đàn bà” (Every woman should be filled with shame by the thought that she is a woman. [HE, 114]

Thánh Jerome (342-420): “Về phần tôi, tôi nói rằng những người con gái đã trưởng thành không được tắm, vì họ sẽ cảm thấy xấu hổ nhìn thấy mình trần truồng.” (But for my part I say that mature girls must not bathe at all, because they ought to blush to see themselves naked.” [JD, 175]; “Đàn bà là cửa ngõ của quỷ, của đường ác, cái chích của con bọ cạp, nói tóm lại, là một vật nguy hiểm.” (Woman is the gate of the Devil, the way of evil, the sting of the scorpion, in a word, a dangerous thing.) [EB, 47]

Thánh John Chrysostom (347-407): "Trong những thú dữ, không có con nào gây hại như một người đàn bà" (Among savage beasts none is found so harmful as a woman). Trách cứ những người đàn ông đi chơi gái điếm, Thánh John Chrysostom còn phán: “Các người không chỉ để một gái điếm như là một gái điếm, mà các người còn làm cho nó thành một sát nhân Đàn bà, được tạo nên để sinh sản, vì các ngươi mà trở thành công cụ của sát nhân.” [vì gái điếm dùng các phương pháp ngừa thai]…(You not only let a harlot be a harlot, you made her into a murderess….Woman, made for reproduction, becomes, because of you, a tool of murderer.)

Thánh Augustine (354-430): “Tôi không thấy người đàn bà đã được tạo ra để giúp cho đàn ông như thế nào, ngoài mục đích sinh sản. Nếu người đàn bà không giúp đàn ông để sinh con, thì họ có thể giúp được gì?“ (I don’t see what sort of help woman was created to provide man with, if one excludes the purpose of procreation. If woman is not given to man for help in bearing children, for what help could she be? [JH, 80]

Thánh Anthony (1195-1231): "Khi các ngươi thấy một người đàn bà, hãy coi như là các ngươi đối diện với, không phải là một con người mà chính là một con quỷ. Tiếng nói của người đàn bà là tiếng phun phì phì của con rắn." (When you see a woman, consider that you face not a human being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.)

Thánh Thomas Aquinas (1225-1274): “Thiên Chúa đã phạm phải một sai lầm khi sáng tạo ra người đàn bà: không nên tạo ra cái gì thiếu sót hoặc hư hỏng [như đàn bà] khi sáng tạo ra những vật đầu tiên; do đó đàn bà không nên được tạo ra khi đó.” (God had made a mistake in creating woman: nothing (deficient) or defective should have been produced in the first establishment of things; so woman ought not to have been produced then. [HE, 115])

Odo of Cluny, 10th century: “Ôm người đàn bà là ôm một túi phân” (To embrace a woman is to embrace a sack of manure.. [HE, 115])

Thượng phụ Tertullian: “Đàn bà xứng đáng ở vị thế thấp kém và bị khinh khi. “Ngươi là cửa ngõ của quỷ”. (Women deserve their status as despised and inferior human beings. “You are the devil’s gateway”)

Boethius, một triết gia Công Giáo trong thế kỷ 6: “Đàn bà là một đền thờ xây trên những ống cống” (Women is a temple built upon sewer. [HE, 115])

Thánh Paul, 1 Corinthians 7:1 : “Thật tốt cho đàn ông là đừng có dính dáng gì tới một người đàn bà.” (It is a good thing for a man to have nothing to do with a woman.)

Thánh Paul, 1 Corinthians 11:3: “Nhưng tôi muốn các người hiểu rằng đấng Ki Tô là chủ nhân của mọi đàn ông, chủ nhân của mọi đàn bà là chồng họ, và chủ nhân của đấng Ki Tô là Thượng đế.” (But I want you to understand that the head of every man is Christ, the head of every woman is her husband, and the head of Christ is God.)

Leviticus 12: 1-5: “Một người đàn bà thì không được sạch sẽ 40 ngày sau khi sinh con trai, 80 ngày sau khi sanh con gái.” (A woman is unclean 40 days after the birth of a son, 80 days after the birth of a daughter.)

Thánh Paul, 1 Tim. 2:11-12: “Hãy để cho người đàn bà học sự phục tùng trong im lặng. Tôi không cho phép người đàn bà nào được giảng dạy hay được quyền hơn người đàn ông; họ phải giữ im lặng” (Let a woman learn in silence with all submissiveness. I permit no woman to teach or to have authority over men; she is to keep silent.) [Phải chăng vì vậy mà cho đến ngày nay Giáo hội vẫn không cho phụ nữ làm linh mục?? Và ngay trong thời buổi này, ngày 9/8/2006, Mục sư Timothy Labouf của First Baptist Church, Watertown, N.Y., đã giải nhiệm bà Mary Lambert, một thầy giáo dạy các lớp học ngày chủ nhật trong 54 năm, giải thích là theo đúng lời Thánh Paul dạy như trên trong Kinh Thánh. Ông mục sư này đần đến độ không hiểu rằng phụ nữ ngày nay giữ nhiều chức vụ cao cấp trong ngành giáo dục.]

Martin Luther (1483-1546): “Đàn ông thì vai rộng, hông hẹp, do đó họ thông minh. Đàn bà vai hẹp, hông lớn. Đàn bà phải ở trong nhà: cách sáng tạo ra cơ thể họ chứng tỏ vậy, vì họ có hông lớn, bàn tọa rộng để ngồi, làm việc nhà, sinh con và nuôi con” (Men have broad shoulder and narrow hips, and accordingly they possess intelligence. Women have narrow shoulders and broad hips. Women ought to stay home: the way they were created indicates this, for they have broad hips and a wide fundament to sit upon, keep house and bear and raise children. [EB, 49])

Xét đến vai trò của phụ nữ trong xã hội Việt Nam từ xưa, từ những Nữ Tướng như Hai Bà Trưng, Bà triệu, Bùi Thị Xuân v..v.. cho đến các bậc văn tài như Bà Huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương v..v.., và vai trò của phụ nữ trong những xã hội văn minh tiến bộ ngày nay trên thế giới, chúng ta thấy rằng quan niệm về phụ nữ trong đầu óc của những bậc Thánh trong Công Giáo, cũng như của những lãnh tụ Tin Lành như Martin Luther, John Calvin v..v…, đều thuộc loại bán khai, ngu si vô trí.

Cũng vì vậy mà sự tin nhảm tin nhí vào phù thuỷ có thực trên thế gian không chỉ ở trong Công Giáo mà còn trong Tin Lành. Thật vậy, Martin Luther, ông tổ của Phản Thệ Giáo, alias Tin Lành [thực sự chỉ là Tin Dữ], tin chắc cuốn Kinh Thánh là quyền uy tối cao, không ngần ngại thiêu sống phù thủy. Ông ta cho phép thiêu sống 4 phù thủy ở Wittenberg,. Ông ta phát biểu: “Tôi không hề có lòng thương các phù thủy..Tôi có thể thiêu sống tất cả bọn họ.” (Martin Luther, upholding the Bible as the supreme authority, had no reservations about burning witches. He sanctioned 4 executions at Wittenburg. “I should have no compassion on the witches…I would burn them all.” [EB, 53] và John Calvin (1545) đích thân chỉ huy một chiến dịch ở Geneva chống 31 người bị kết án là phù thủy. Calvin tuyên bố: “Kinh Thánh dạy chúng ta là có những phù thủy và họ phải bị giết.. luật này của Thiên Chúa là một luật phải được áp dụng khắp nơi” (John Calvin personally led a campaign in Geneva against 31 persons accused of witchcraft. Calvin declared: The Bible teaches us that there are witches and they must be slain… this law of God is a universal law.” [EB, 52-53]

Chắc quý độc giả cho rằng niềm tin về sự có thực của phù thủy và phải thiêu sống họ chỉ có trong quá khứ chứ ngày nay không còn ai nghĩ như vậy nữa. Không hẳn vậy. Sau vụ 9-11 ở New York, trước ngày lễ Halloween, 31 tháng 10 hàng năm, Mục sư Tin Dữ Deacon Fred, trong một bài giảng cho các tín đồ, cho rằng bổn phận của người Ki-tô là phải giết phù thủy ngay trong thời đại này:

Thiên Chúa rất rõ ràng ở đây, thưa quý vị, ông ta không muốn cho các phù thủy sống. Chúng ta phải giết các phù thủy! Nếu không, chúng ta đang bất tuân lệnh của Thiên Chúa. Jesus sẽ vui mừng đến chảy nước mắt nếu ông ta từ trên đám mây cúi xuống và hít hà lên mùi thịt nướng của một phù thủy trong ngày lễ Halloween này. [Trong ngày lễ Halloween vào 31 tháng 10 mỗi năm, rất nhiều người ăn mặc giả làm phù thủy kéo ra chật đường phố] Có phải là như vậy đã phá tan ngày sinh nhật nhỏ của Satan không? Hãy ca tụng Thiên Chúa. [Vui mừng khi được hít hà mùi thịt nướng của một con người] Thật là xấu hổ vì chính quyền Mỹ đã ngăn cấm người dân không được thực hành lệnh trong Kinh Thánh là phải thiêu sống phù thủy.

(God is very clear here, folks, he doesn't want witches to live. We are supposed to be killing witches! If we don't, we are disobeying God. Jesus would weep tears of joy if He leaned down off His cloud and sniffed up the burning flesh of a witch this Halloween. Wouldn't that ruin Satan's little birthday party! Praise God! It's just a shame that the United States Government has placed restrictions on the Biblically-mandated practice of witch burning.) [I]

Sự tai hại của niềm tin vào những điều viết nhảm nhí trong Kinh Thánh thật đã rõ rệt. Ở nơi nào mà Khi Tô Giáo, đặc biệt là đám Tin Lành cuồng tín, đám người tin tất cả vào uy quyền tối thượng của Kinh Thánh, nắm quyền thế tục thì lịch sử đẫm máu của Ki Tô Giáo sẽ lại tái diễn. Tất cả bắt nguồn từ niềm tin vào cuốn sách gọi là Kinh Thánh và nhân danh Thiên Chúa của họ. Do đó, mọi người Việt Nam phải gia tâm bác bỏ đạo Tin Lành, một đạo hoàn toàn không thích hợp với người Việt Nam vì những niềm tin thuộc thời man rợ bán khai của họ..

Sau đây chúng ta hãy đi vào một số chi tiết về 300 năm săn lùng phù thủy của Ki Tô Giáo, Công Giáo cũng như Tin Lành, để thấy rằng chính giáo hoàng của Công Giáo La Mã, các linh mục Công Giáo, các Mục sư Tin Lành, và cả các trí thức Ki Tô Giáo, trong 300 năm tội ác ngập trời trên, thực sự mới là hiện thân của quỷ (human demons) chứ không phải là người. Họ săn lùng tiêu diệt phù thủy mà họ cho là ma quỷ theo sự tưởng tượng của họ chứ sự thực không làm gì có phù thủy hay ma quỉ, kết quả là họ hành động như những ác quỷ của thế gian. Thật vậy, chúng ta có thể đọc trên Internet đoạn sau đây trong bài The Witch Hunters of Europe, The Cruelest of Executioners [Những Đao Phủ Tàn Ác Nhất: Những Kẻ Săn Lùng Phù Thủy Ở Âu Châu]:

Cuộc săn lùng phù thủy một cách điên cuồng đã làm chấn động Âu Châu trong những thế kỷ 15, 16, 17 có thể đã không chứng minh được sự hiện hữu của những con quỷ siêu nhiên [phù thủy] nhưng đã sinh sản ra một đám kỳ cục những con quỷ người ~ những người săn lùng phù thủy ~ một tổ chức những người bệnh hoạn tự cho là mình đúng và hiến thân cho công cuộc săn lùng những đầy tớ gái của quỷ [phù thủy]

(The witch hunting mania that convulsed Western Europe during the 15th, 16th and 17th centuries may not have revealed the existence of supernatural demons but it did generate an extraordinary array of human monsters ~ the witch hunters ~ a pathological righteous brotherhood that devoted itself to ferreting out suspected handmaidens of the devil.)

Điều đặc biệt nhất trong Ki Tô Giáo, Công Giáo cũng như Tin Lành, là những con quỷ người này lại thường là các linh mục, mục sư, nhà thần học, luật sư, y sĩ v..v.. trong Ki Tô Giáo, những người tự cho là đã ở trong một “hội Thánh” thánh thiện, trong người tràn đầy Thánh Linh, nhưng thực ra chỉ là những con người thường như mọi người khác, cũng mê tín như Giáo hoàng của họ, và gồm cả các Mục sư Tin Lành nổi tiếng như Martin Luther và John Calvin.

[Xin đón đọc Phần II: Những Sự Thật Lịch Sử Về Những Biện Pháp Tiêu Diệt Phù Thủy]