Mối Ác Cảm Của Nhân Dân Thế Giới

Đối Với Giáo Hội La Mã

Nguyễn Mạnh Quang

http://sachhiem.net/NMQ/MOIACCAM/NMQ_09.php

bản rời | toàn tập | 02 tháng 4, 2010

CHƯƠNG 11

CHÍNH SÁCH TUYÊN TRUYỀN SIÊU VIỆT CỦA VATICAN

Bản chất của những kẻ cực xấu KHÔNG CÓ khả năng nghĩ ra được lời hay, ý đẹp, tư tưởng cao cả, tuyệt vời và những lời dạy vô tư vô vị lợi. Thế nhưng, chúng lại ưa thích sử dụng những thứ này để tô vẽ cho bản thân,  dương danh với thiên hạ và cũng là để dễ dàng lừa bịp người đời một cách hữu hiệu hơn. Chính vì thế mà chúng thường hay sử dụng những thủ đọan “đạo” hay “thuổng” (ăn cắp) những thứ đó về làm của riêng, làm như là chính chúng là tác giả của những thứ cao đẹp này. Giáo Hội La Mã là một thí dụ điển hình cho tình trạng như vậy.

Sở dĩ Giáo Hội La Mã có thói quen làm như vậy là vì Giáo Hội là tập thể của những kẻ có tâm địa cực xấu và cực ác. Như đã nói ở trên, những kẻ cực xấu và cực ác (vì bản chất) không thể hay khó có thể tự mình nghĩ ra những lời nói vô tư, vô vị lợi, thánh thiện, tốt đẹp, cao cả và tuyệt vời. Nhưng vì nhu cầu phải lòe đời và lừa bịp thiên hạ, bọn người này cố gắng tìm cách nói những lời cực kỳ tốt đẹp để làm bức bình phong che đậy những việc làm đại gian đại ác của chúng. Cũng vì thế mà chúng phải dùng những thủ đọan “đạo” hay “thuổng” (ăn cắp) những lời nói thánh thiện, tốt đẹp, cao cả, tuyệt vời của những người cực thiện và cực tốt để dương danh, tạo cơ hội thuận lợi cho chúng thi hành thủ đoạn lòe đời và lừa bịp thiên hạ được hữu hiệu hơn. Đây là nguyên nhân tại sao Giáo Hội La Mã đã phải sử dụng thuật ngữ với tất cả những hoa ngôn, mỹ ngữ và danh xưng tốt đẹp hàm chứa  những cái gì trân trọng nhất và kính mến nhất dành riêng cho Giáo Hội La Mã để làm những bức màn nhung phủ kín những khu rừng tội ác trong quá khứ và làm lạc hướng khiến cho người ta không để ý đến những mưu đồ bất chính của giáo triều Vatican và tập đoàn tu sĩ áo đen đã làm và đang tiến. Điển hình và rõ ràng nhất là Giáo Hội  đã bịa đặt ra những chuyện (tín lý)  láo khoét như chuyện Chúa Ba Ngôi, ông Jesus chết ba ngày rồi bay lên trời, Nơi Luyện Nguc (Purgatory), bán giấy xá tội (selling indulgences) Chúa  chuyện Đức Mẹ Đồng Trinh, chuyện giáo hoàng không lẫm lẫn, Đức Mẹ Maria hiện ra, ệvân, vân, rồi dùng những danh xưng như “Hội Thánh duy nhất thánh thiên, công giáo và tông truyền”, gọi tắt là “hội thánh” để nói về giáo hội. Đồng thời, tất cả các tu sĩ đều được gọi là cha, đức cha, đức ông, đức tổng giám mục, đức hồng y, đức thánh cha, và tất cả cái gì thuộc về hay là của Vatican đều có chữ thánh hay chữ Chúa  kèm theo, rồi lại viết hoa nữa (không kèm theo tên người). Tất cả đều có một mục đích duy nhất là để lời bịp và lừa gạt người đời. Chẳng hạn như, thánh địa, thánh kinh, thánh ngôn, thánh tử đạo, bánh thánh, rượu thánh, nước thánh, thánh lễ, thánh tẩy,  đất thánh (nghĩa địa của giáo dân), dân Chúa, quỹ nhà Chúa. Tất  cả những từ “thánh” đi kèm theo trên đây chỉ là nước sơn hào nhoáng để đánh lừa người đời mà thôi. Dù rằng nó không những không có giá trị đối với những người biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật và những người biết rõ bộ mặt thật đạo đức giả, đại gian đại ác của Giáo Hội La Mã, nhưng nó cũng là một thứ lợi khí rất hữu hiệu của Tòa Thánh Vatican để lừa gạt bọn cừu non và những người ngu dốt và ít học.

Đặc biệt hơn nữa là trong khi đó thì giáo hội lại  cho rằng, tất cả những gì của hay thuộc về các tôn giáo và nền văn hóa không phải là Kitô giáo đều là tầm thường, là xấu xa,  là tội ác và cần phải sửa đổi theo tiêu chuẩn đạo đức Ki-tô của Giáo Hội, nếu không thì phải bị hủy diệt. Lưu manh hơn nữa, giáo hội còn cố ý  sử dụng những từ ngữ mang nặng tính cách khinh rẻ và miệt thị nhất để nói về tất cả những gì không thuộc về hay không phải là của Vatican. Kinh sách của Nhà Thờ Vatican đều gọi các tôn giáo khác là "tà giáo". Sách Kinh Nhựt Khoá, trang 707, gọi dân Việt Nam là "chim muông cầm thú". Sách Lịch Sử Giáo Hội Công Giáo (Phần Nhất) của Linh-mục Bùi Đức Sinh (Saigòn: Chân Lý, 1972), sử dụng không biết bao nhiêu lần các từ "man di", "mọi rợ" và "dã man" để nói thẳng hay ám chỉ những người hay nhóm dân thuộc các tôn giáo và văn hóa khác. Trong mục có tựa đề là “Thái Độ Của Gíao Hội Đối Với Man Dân” từ trang 200 đến trang 208, ông linh mục tác giả của cuốn sách này đã sử dụng từ "man di" và “dã man” tới  26 lần. Sự kiện Giáo Hội La Mã và tất cả mọi thành phần của tôn giáo này từ giáo hoàng cho đến những tín đồ thuộc loại bạch đinh đều sử dụng những từ “vô thần”, "tà giáo", "tà đạo", "ngoại đạo", "vô đạo", "man di", "dã man" và "mọi rợ" để nói về các tôn giáo hay văn hóa khác và những dân tộc không thờ ông Jesus là những bằng chứng rõ ràng nhất cho cái đặc tính trịch thượng, khinh rẻ và miệt thị tất cả những cái gì không phải là đạo Ca-tô Rôma. Năm 1848,  hai ông Karl Marx (1818-1883) và Friederich Engels (1820-1895) công bố bản Tuyên Ngôn Cộng Sản. Kể từ đó,  Vatican lại có thêm từ “cộng sản” chụp mũ lên đầu bất cứ cá nhân hay thế lực hoặc tổ chức nào mà giáo hội không ưa hay thù ghét.

Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản được công bố vào năm 1848, thì 11 năm sau, năm 1859, nhà bác học Charles Robert Darwin (1809-1882) cho công bố thuyết tiến hóa. Theo thuyết lý khoa học này, loài người là kết quả của quá trình diễn biến lâu dài hàng nhiều triệu năm từ một loài khỉ không có đuôi (ape) mà thành. Như vậy là thuyết lý khoa học tự nó đã phủ nhận thuyết lý  láo khóet của đạo Ki-tô cho rằng con người là con cháu của Adam và Eva vốn là mấy cục đất sét do ông thần tưởng tượng Jehovah của người Do Thái lấy đất sét nặn ra rồi hà hơi vào để biến nó thành con người có đủ cả thất tình lục dục. Vì lẽ này mà Giáo Hội La Mã chống lại tuyết lý tiến hóa một cách vô cùng quyết liệt. Giáo hội không những chỉ chống đối quyết liệt lý thuyết khoa học này mà có sử dụng quyền lực ra lệnh cho tín đồ và nhân dân dưới quyền không được cho vào troing chương trình học ở học đường và cũng không được đọc và chứa chấp công trình nghiên cứu này. Đê tiện và bỉ ổi hơn nữa, giáo hội còn tìm đủ một cách để nhạo báng chế nhiễn tác giả và những người tin theo lý thuyến khoa học này là con cháu cú lòai khỉ với một giọng khinh bỉ để diễu cợt.

Đây là một bức hình do bộ máy tuyên truyền của Vatican sáct tác ra để hạ nhục nhà bác học Charles Darwin:

As Darwinism became widely accepted in the 1870s, caricatures of Charles Darwin with an ape or monkey body symbolised evolution.[246] In the 19th century, particularly after the publication of On the Origin of Species in 1859, the idea that life had evolved was an active.[60]

-o0o-

Kể từ đó, lý thuyết tiên hóa và những người tin theo lý thuyết này trở thành đề tài cho giáo hội chống đối và chế diễu bằng cách gọi các nạn nhân là dòng giống khỉ.

Cái thủ đoạn sử dụng những từ ngữ tốt đẹp để tô vẽ cho giáo hội và những gì thuộc về giáo hội hoặc là dùng những lời lẽ cực kỳ xấu xa để gán cho các tôn giáo hay nền văn hóa khác cũng như các thế lực hay cá nhân có những họat động hay tác phẩm bất lợi cho giáo hội được gọi là chính sách tuyên truyền của Giáo Hội La Mã. Chính sách này được điều khiển bởi một cơ quan gọi là Thánh Bộ Đức Tin nằm ở ngay trong giáo triều Vatican. Cơ quan này có nhiệm vụ hoạch định đường lối rồi ban hành những chỉ thị hướng dẫn  phương cách tuyên truyền cho các giáo phận và họ đạo tại các địa phương phải theo đó mà triệt để thi hành. Một trong những nhiệm vụ của các giáo phận và họ đạo là phải thi hành chính sách ngu dân theo phương cách giáo dục nhồi sọ và đào tạo các văn nô làm cán bộ tuyên truyền cho giáo hội tại  địa phương. Với kinh nghiệm đã sử dụng xảo thuật nói láo từ thế kỷ 4, chính sách tuyên truyền của giáo hội đã đạt đến mức độ siêu việt, siêu việt đến độ có thể biến trái núi thành con chuột, những quân cướp ác độc, đầy những tội ác hiếp dâm trẻ em vị thành niên  thành các nhà tu hành với một bộ mặt hiền lành nhân hậu. Nói về mức độ siêu việt trong kỹ thuật tuyên truyền hay nói láo của  Giáo Hội La Mã,  học giả Phan Đình Diệm viết:

 “Hàng ngàn năm, để bưng bít và che giấu bảy chương tội đối ngoại và một chương tội đối nội là tám, nghệ thuật tuyên truyền của Giáo Hội Rôma phải đạt đến chỗ cực kỳ ảo diệu, thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là Thánh, Giáo Hội là Mầu Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tích, Giáo Hội là Hiền Thê Đức Giê-su, Giáo Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội là Vương Quốc của Thiên Chúa… Giáo Hội tự nhận cho mình hết tất cả những khái niệm cao cả thánh thiện, vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngoài nghệ thuật tuyên truyền, Giáo Hội vẫn phải xây “vạn lý trường thành đức tin” và buông bức “màn sắt thần học” lên đầu đoàn chiên. Mỗi tòa giảng là cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù phép, ảo thuật biến “núi tội thành con chuột”, “kẻ cướp mặc áo thày tu”, và “quỷ Satan có diện mạo ông thánh.” [61]

Bản văn trên đây nói lên cái đặc tính đại lưu manh và đạo đức giả của Vatican chuyên nghề lừa bịp người đời bằng thuật ngữ với những mỹ từ và danh xưng tốt đẹp. Với  những thủ đoạn lưu manh này, Giáo Hội La Mã đã thành công trong việc làm cho những kẻ ít học, nhẹ dạ, dễ tin, không biết sử dụng lý trí dễ dàng lầm tường và tin rằng tất cả những gì của hay thuộc về Giáo Hội đều tốt đẹp nhất, cao cả nhất, tuyệt với nhất, và tất cả những gì thuộc về hay của những tôn giáo và nền văn hóa khác đều xấu xa, đều tội ác, đều phải bị nguyền rủa và đều phải bị khử diệt. Riêng đối với những gì có liên hệ với cá nhân hay thế lực  mà bị giáo hội cho là kẻ thù, tất nhiên là bị bộ máy truyền truyền của Vatican chiếu cố rất kỹ. Đây là trường hợp Đảng Cộng Sản Việt Nam, Mặt Trận Việt Minh và các nhà lãnh đạo của hai chính đảng cách mạng này. Đây cũng là lý do TẠI SAO trong năm 2009,  ông  tu sĩ áo đen Nguyễn Hữu Lễ cùng với ông văn nô cừu non Trần Quốc Bảo và đồng bọn của họ cho ra đời cuốn băng Sự Thật Về Hồ Chí Minh.

Trở lại vấn đề mối ác cảm của nhân dân thế giới đối với Giáo Hội La Mã,  đọc qua bản văn trên đây của tác giả Phan Đình Diệm, những người bình thường chỉ mới học xong lớp 3 bậc tiểu học cũng nhìn thấy rõ cái nguyên nhân khiến cho nhân dân ở nhiều nơi  trên thế giới có mối ác cảm đối với Giáo Hội La Mã.  Ấy thế mà giới tu sĩ áo đen và nhóm thiểu số cừu non người Việt lại không nhìn ra sự thật lịch sử này. Lý do: Chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của đạo Kitô với những thủ đoạn tuyên truyền để vừa bưng bít hay che giấu, vừa  bóp méo hay xuyên tạc những sự thật lịch sử, vừa tô vẽ và đánh bóng cho giáo hội, tất cả đã làm cho  mọi thành phần trong giáo hội hoàn toàn bị điều kiện hóa, chỉ còn biết phát thanh và hành động theo lệnh truyền của Vatican mà thôi. Họ hoàn toàn không biết gì về quốc sử, không biết gì về lịch sử thế giới và cũng không biết gì về lịch sử Giáo Hội La Mã. Đặc biệt hơn nữa là chính sách ngu dân này đã làm tê liệt tất cả những tế bào lý trí ở trong não bộ của họ. Vì thế mà họ không còn khả năng sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật. Tình trạng bày đã khiến cho họ không thể phân biết được sự khác nhau giữa phải và  trái, giữa đúng và sai,  giữa thuận lý và nghịch lý, giữa lòng yêu nước và phản quốc, v.v….Vì không được học quốc sử, cho nên họ không có lòng yêu nước mà chỉ có lòng kính yêu Vatican và Giáo Hội La Mã mà thôi. Các khẩu hiệu “thà  mất nước, chứ không thà mất Chúa”, “Giữ đạo, chứ không giữ nước” và “Nhất Chúa, nhì cha, thứ ba Ngô Tổng Thống” của họ là những bằng chứng nói lên sự thật bi đát này ở trong tâm tư của giới tu sĩ áo đen và nhóm cừu non người Việt. Ngay có cả những người dù không phải là giáo dân, những đã theo học các trường Tây và trường đạo cũng trở thành hạng người vong phản phản dân tộc giống y hệt như giới tu sĩ áo đen và con chiên ngoan đạo.

Điều đáng buồn hơn nữa là họ (giáo dân và những người tiếp nhận sở học qua các trường đạo) không những trở thành vong bản phản quốc mà còn trở thành một hạng người hết sức mất dạy. Tính cách mật dạy này đã được thể hiện ra qua cung cách hành xử (1) của linh-mục Nguyễn Văn Lý trong phiên tòa xử ông ta vào ngày 30/3/207, ông ta có những thái độ và ngôn ngữ vô giáo dục ở ngay trước mặt  quan tòa, (2) của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt khi ông ta nói chuyện với ông chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành Phố Hà Nội  Nguyễn Thể Thảo vào ngày 22/9/2008 bằng một thái độ và ngôn từ hỗn xược ngược ngạo  bằng một câu nói để đời “Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam. Đi đâu cũng bị soi xét chúng tôi buồn lắm chứ…” [62]

Đối với họ, khi giao dịch bằng thư từ với những cá nhân hay thế lực đã bị Vatican và công đồng Ca-tô coi là kẻ thù thì phải sử dụng những lọai ngôn từ mất dạy vô văn hóa để xưng hô, chứ không được sử dụng những ngôn từ lịch lãm trong xã hội của các dân tộc có văn hiến như các nước theo nền văn minh tam giáo cổ truyền ở Đông Phương hay các dân tộc sống theo nếp sống dân chủ tự do như các nước tiên tiến ở Bắc Mỹ, Âu Châu,  Ấn Độ, v.v…. Cũng vì thế người viết mới bị một ông bạn (vốn đã tiếp nhận sở học qua trường đạo) cự nự và miệt thị bằng những ngôn từ thiếu văn minh chỉ vì trong bức Tâm Thư  đề ngày 16/2/2009, chúng tôi đã sử dụng cụm từ  “thưa các Ngài” đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam hiện nay trong khi đó thi anh ta “im lặng” không nói gì trước đây hơn 10 năm người viết cũng sử dụng chữ “thưa Ngài” khi viết lá thư đề ngày 19/9/1999 gửi Giáo Hoàng John Paul II.

Vấn đề đặt ra là tại sao anh ta lại có thái độ thiên lệch như vậy?

Để giải thích thỏa đáng cho vấn đề này, chúng ta chỉ có thể nói là đối với những người tiếp nhận sở học qua chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của Giáo hội La Mã, trong đó kể cả những người theo học các trường đạo dù cho họ không phải là tín đồ Ca-tô, hầu như đều bị điều kiện giống như con chó trong phòng thí nghiệm của nhà bác học Pavlov thì họ có cái nhìn sự vật và sự việc thiên lệch như vây. Nói cho rõ hơn, đối với họ, bất cứ cái gì của hay thuộc về Giáo Hội Lã Mã đều là tôn quý và đều phải trân trọng, lịch lãm, v.v…, và tất cả những gì không phải của hay không thuộc về Giáo Hội, đặc biệt là những cá nhân và thế lực bị Vatican coi là kẻ thù, thì đều là vô giá trị, đều đáng khinh rẻ và phải miệt thị bằng tất cả những thuật ngữ cực kỳ vô giáo dục đúng theo truyền thống nền văn hóa Ca-tô đã có từ ngàn xưa.

Tình trạng này đã khiến cho tín đồ Kitô trở thành những quân mất gốc và sẵn sàng hành động chống lại tổ quốc và dân tộc để phục vụ cho quyền lợi của Vatican được ngụy trang là “bảo vệ đức tin” của họ. Sư kiện này được Linh-mục Trần Tam Tỉnh nói rõ như sau: 

“Ngoại trừ các cụm nhà thành thị dân chúng sống lẫn lộn, người công giáo thường được tập trung lại thành làng xóm riêng, tách rời khỏi người lương, sống chen chúc quanh tháp nhà thờ xây theo kiểu Tây, chọc lên trời, cao vượt lên khỏi lũy tre. Bị đóng khung và được đoàn ngũ hóa bởi hàng giáo sĩ, họ trở thành một lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ khi cha xứ (linh mục quản nhiệm họ đạo) kêu gọi họ đứng lên bảo vệ đức tin, bảo vệ nhà thờ.” [63]

Các linh mục đã thề biến giáo dân hiền lành vô tội thành những tên sát nhân cuồng nhiệt.” [64]

Giáo dân  nào đã trở thành “tên sát nhân cuồng nhiệt” với tinh thần quyết tâm  chống lại tổ quốc để bảo vệ đức tin và bảo vệ nhà thờ  thì được Giáo Hội gọi là “ngoan đạo”, “sống theo đức tin Kitô” và “sống theo lương tâm công giáo”.  Cái “đức tin Kitô” và “lương tâm công giáo” của họ khốn nạn như thế đó!

Chinh vì Giáo Hội La Mã luôn luôn sử dụng những thuật ngữ với những hoa ngôn, mỹ ngữ và những danh xưng tốt đẹp để nói về tất cả những cái gì  thuộc về hay giáo hội và những thuật ngữ hàm chứa những ý nghĩa xấu xa, đê tiện và tội ác để nói về những gì thuộc về  hay của các tôn giáo và nền văn hóa, cho nên các nhà giả viết sử mới cho rằng Giáo Hội La Mã là tập đoàn của những quân đạo đức giả: Từ giáo hoàng cho đến  các linh mục, sư huynh đều là những thứ “Nhạc Bất Quần”, những tên đại lưu manh, những “vua bịp” đúng như học giả Phan Đình Diệm đã nói ở trên, bọn người này chỉ là những “kẻ cướp mặc áo thày tu”. Tất cả đều là hạng người bất khả tín, chuyên môn nói một đằng làm một nẻo.

Nói một đằng làm một nẻo là ngón nghề được Giáo Hội La Mã sử dụng nhỉều hơn cả vì nó là công cụ hữu hiệu nhất để cho bọn Nhạc Bất Quần này lừa bịp bọn cừu non và người đời. Rõ ràng nhất là giới tu sĩ đen và bọn văn nô cừu non người Việt luôn luôn lớn tiếng rêu rao là chúng tranh đấu cho tự do tôn giáo và tôn trọng quyền tự do tôn giáo của người khác, thế nhưng, trong thực tế, không bao giờ chúng nghĩ và làm như vậy. Vấn đề này đã được trình bày khá rõ ràng trong Chương 5 ở trên có tựa “Về bài viết hiện tượng chia rẽ tôn giáo trên dỉên đàn điện tử của Chu Tất Tiến.

Thực ra, trong bất cứ xã hội nào, cũng có người tốt và kẻ xấu, và con số người xấu luôn luôn nhiều hơn con số người tốt. Đây là quy luật xã hội. Xã hội con chiên hay cừu non người Việt cũng không đi ra ngoài quy luật này. Hai loại người này trong xã hội con chiên người Việt được học giả Charlie Nguyễn ghi nhận như sau:

“Nhân dịp này, tôi xin kính gửi đến 10 vị nhân sĩ ký tên chung trong bức thư gủi Giáo Hoàng Jean Paul II đã được đăng trên báo Vận Hội Mới Xuân Kỷ Mão (1999) cũng như kính gửi đến toàn thể quí vị rằng quan tâm đến nền văn hóa và tiền đồ dân tộc một số kinh nghiệm bản thân tôi về vấn đề Công Giáo và Dân Tộc như sau: Chúng ta phân biệt hai loại người đối tượng: Loại người thứ nhất là các tu sĩ Công Giáo và tập thể chính trị gia, trí thức Công Giáo lưu manh là bọn xưa nay chỉ vì tư lợi mà gây nên rất nhiều tội ác chống lại nhân loại và dân tộc. Đối với loại người này, chúng ta phải xác định họ là kẻ thù nguy hiểm và chúng ta cần phải đấu tranh diệt trừ không thể khoan nhượng. Đứng đầu bọn này phải kể đến Hội Đồng Giám Mục, những dòng tu đang biến đức tin Công Giáo thành một món hàng béo bở để tận dụng khai thác làm giầu như dòng tu Đồng Công ở Missouri chẳng hạn. Kế đến là bọn chính trị lưu manh đang ẩn nấp trong các đoàn thể ở nhà thờ như Hiệp Sĩ Đoàn. Vào một lúc nào đó thuận tiện, chúng sẽ mau chóng biến (các đoàn thể này – NMQ) thành những đoàn quân võ trang hoặc những đoàn quân mật vụ hiếu sát như những đoàn thể của Linh-muc Hoàng Quỳnh, Lê Hữu Từ, Le Roy, Trần Kim Tuyến. Loại người thứ hai là tuyệt đại đa số giáo dân, những người mải lo làm ăn chất phác, chỉ vì thiếu hiểu biết, (cho nên) họ đã bị các tu sĩ và trí thức lưu manh lừa gạt kích động vào những hoạt động phá hoại đất nước mà họ vô tình không biết.”[65]

Bản văn trên đây cho chúng ta thấy rõ hai loại người trong xã hội cừu non người Việt: loại người thứ nhất là những người  cực xấu, cực ác, và lọai người thứ hai là những người chất phác (thật thà, chân chất và hiền lành) thiếu hiểu biết (ít học). Tuy nhiên, về loại người thứ hai,  tác giả Charlie Nguyễn lại không nói ra cái bản chất của họ là có máu tham lợi, háo danh, và thèm khát quyền lực. Một phần của cái bản chất xấu xa ghê tởm này đã có sẵn trong máu của họ (di truyền) do ông cha của họ vốn là những người “đi đạo lấy gạo mà ăn” (tham lợi) hay “theo đạo để tạo danh đời” (háo danh và thèm khát quyền lực), một phần là do việc giáo hội chủ trương thi hành chính sách khơi động và nuôi dưỡng lòng tham lam ích kỷ của tín đồ và người đời rồi dùng miếng mồi lợi lộc vật chất, chức vụ và danh vọng trong chính quyền, trong đạo và ở ngoài xã hội để câu nhử những phường có máu tham lợi háo danh chạy theo bắt mồi để rồi vướng mắc vào cái “trong Ca-tô” mà trở thành nô lệ hay làm tay sai cho Giáo Hội. Câu nói “họ đã bị các tu sĩ và trí thức lưu manh lừa gạt kích động vào những hoạt động phá hoại đất nước mà họ vô tình không biết.” là như vậy.

Cũng nên nói rõ là loại người thứ nhất phỉnh gạt  loại người thứ hai bằng cách sử dụng (1) những miếng mồi lợi lộc vật chất  (những chiến lợi phẩm cướp đoạt được của người dân bên làng lương hay trong những chiến dịch quân sự “làm sáng danh Chúa” hoặc là tài nguyên quốc gia khi chính quyền lọt vào trong tay chúng), (2) những chức vụ trong chính quyền cũng như ở ngòai xã hội (khi chính quyền lọt vào trong tay chúng) và (3) bằng những bánh vẽ ”sẽ được Chúa đền ơn”, “sẽ được bạn cho Hồng Ân Thiên Chúa”, sẽ được Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp ban phép lành”, “sẽ được cho lên thiên đường hưởng nhan Chúa đời đời”,  vân vân,  để biến họ thành “những tên sát nhân cuồng nhiệt” trong các lực lương xung kích thực thi “những hoạt động phá hoại đất nước” như ông Charlie Nguyễn đã nói ở trên.

Như vậy là trong xã hội con chiên hay cừu non người Việt, tất cả đều là những người chống lại tổ quốc và dân tộc để phục vụ cho quyền lợi của Vatican qua sự điều khiển của bọn quạ đen được hỗ trợ của bọn hoạt đầu chính trị cấu kết với bọn trí thức lưu manh trong loại người thứ nhất như đã nói ở trên.

NÓI THÊM VỀ HAI LỌAI NGƯỜI TRONG XÃ HỘI  CỪU NON NGƯỜI VIỆT

Trong bản văn trên, ông Charlie Nguyễn có nói rõ hai loại người trong xã hội cừu non người Việt, trong đó “loại người thứ nhất  là các tu sĩ Công Giáo và tập thể chính trị gia, trí thức Công Giáo lưu manh”, nhưng ông lại không nói rõ ràng về tình trạng kiến thức què quặt và ngu dốt  nhưng lại rất lưu manh của họ. Phần lớn loại người này nắm giữ vai trò văn nô rất đắc lực trong bộ máy truyền truyền của Tòa Thánh Vatican.

Họ đắc lực như thế nào?

Đắc lực về những hành động chạy tội cho Giáo Hội La Mã và về việc rèn luyện loại người thứ hai trở thành hạng người vong bản “thà mất nước, chứ không thà mất Chúa”, “giữ đạo, chứ không giữ nước” và  thành “những tên sát nhân cuồng nhiệt” rồi tổ chức họ thành những đạo quân thập tự địa phương làm lực lượng xung kích để tiến hành những chiến dịch “hiệp thông cầu nguyện”  và “làm sáng danh Chúa” đánh phá chính quyền trong trường hợp chính quyền không chịu khuất phục hay không thỏa mãn những yêu sách của Vatican đưa ra. Phần trình bày dưới đây sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn một vài nét đặc thù của loại người thứ nhất và loại người thứ hai trong xã hội cừu non Việt Nam này.

A.- Loại người thứ nhất trong xã hội cừu non mà ông Charlie Nguyễn nói tới trên đây chính là giới tu sĩ áo đen mà người Pháp gọi là “bọn quạ đen” (les corbeaux noirs)  cấu kết với bọn trí thức (nửa mùa) và bọn họat đầu chính trị đồng đạo, trong đó có bọn văn nô Ca-tô. Như đã nói nhiều lần ở trên, tất cả thành phần trong xã hội cừu non người Việt đều dốt đặc cán mai táu về quốc sử, về lich sử thế giới và lịch sử Giáo Hội La Mã. Điểm đặc biệt là họ lại không biết rằng họ dốt nát như vậy. Vì không biết như vậy, họ mới băng xăng năng nỏ giống như một thứ ong non ngứa nọc ưa thích nhẩy rào vào lãnh vực lịch sử, viết bừa, viết ẩu với mục đích duy nhất là để lấp liếm, bào chữa và chạy tội cho Giáo Hội La Mã và cho những người đồng đạo của họ về những việc làm tội ác chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua,  chống lại dân tộc và tổ quốc Việt Nam ta từ thế kỷ 16 cho đến ngày nay. Dưới đây là những trường hợp điển hình cho sự kiện này:.

1.- Nhóm tu sĩ và trí thức cừu non gồm các ông Nguyễn Gia Đệ, Lê Hữu Mục, Bằng Phong,  Phạm Xuân Thu, Trần Trung Lương, Trần Ngọc Thụ, Trần Văn Khả, Trần Cao Tường, Lê Văn Lân,  Vũ Huy Bá, Võ Long Tê, vân vân,  viết cuốn ngụy sử Trần Lục (Montréal, Canada, 1996) Ông Nguyễn Ngọc Quỳ đã có những lời nhận xét thâm thúy về cuốn này. [4]  

2.- Lữ Giang (tức cựu thẩm phán Nguyễn Cần) viết Những Bí Ẩn Đàng Sau Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam (Garden Grove, CA, 1994) và cuốn Những Bí Ẩn Lịch Sử Đàng Sau Cuộc Chiến Việt Nam (Garden Grove, CA, 1999), nhiều bài báo đăng trên tờ tuần báo Saigòn Nhỏ của bà Đào Nương và phổ biến trên các diễn đàn điện tử ở hải ngoại. Chúng tôi đã dành trọn Phần V gồm các Chương 17, 18, 19 và 20 trong sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã để nói về tài nghệ lươn lẹo, xuyên tạc và bóp méo lịch sử của ông văn nô cừu non này.

3.- Cựu luật-sư Nguyễn Văn Chức viết cuốn Việt Nam Chính Sử (Fall Church, VA:TXB, 1992). Chúng tôi cũng đã dùng một phần của Chương 16 trong sách Thực Chất Của Giáo Hội La Mã để nói về  tình trạng dốt sử mà lại huênh hoang khoác lác làm ra vẻ thông kim bác cổ để lừa bịp độc giả của ông văn nô cừu non này.

4.- LM Vũ Đình Họat viết bộ Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan (Fall Church, VA:TXB, 1991). Điểm đặc biệt của ông văn nô qụa đen này là  đặc tính La Mã hơn La Mã của ông ta trào ra trong từng trang trong tòan bộ sách này. Vì thế mới có  một tác giả và cũng là một con chiên người Việt ký tên là Thuốc Sát Trùng viết một bài viết khá dài với tựa đề là “Vũ Đình Hoạt, ông đã làm một việc không thích đáng, vì thế hại cho Giáo Hội, hại cho đất nước” để lên án cuốn sách này. Bài viết này được đăng trong tờ bán nguyệt san Văn Nghệ Tiền Phong Số 397 (tháng 8/1992) nơi các trang 25-28 và 73-76, trong đó có một đoạn như sau:

Linh mục không nên cay cú: Thú thực với ông Hoạt, tôi mới đọc hết Chương I của ông thì muốn bỏ sách không muốn đọc nữa. Miệng ông cũng cay độc như kẻ phàm phu qua câu chuyện hạt đỗ gặm  trong đĩa xôi đậu hoặc câu chuyện Đỗ Thích giết vua Đinh Tiên Hoàng để châm biếm ông Đỗ Mậu . “Văn  là người”, bút pháp của ông như thế chỉ thích hợp với kẻ phàm tục thích ăn thua với đời hơn là từ tâm của một linh mục “peace maker!” “Tôi biết khi viết bài này tôi đã không bác ái với ông, tôi đã xổ toẹt cuốn sách viết bằng tim óc của ông, làm mất thanh danh của ông, làm buồn lòng ông…” [66]

Đọc qua đoạn văn trên, chúng ta thấy trên một phương diện nào đó, ông Thuốc Sát Trùng tương đối là có cái nhìn rộng hơn những người trí thức đồng đạo của ông. Tuy nhiên, vì là một con chiên ngoan đạo, cho nên tác giả bài viết này cũng ở trong tình trạng (A) không biết gì về sách lược của Vatican là (1) cấu kết với các cương quyền địa phương để duy trì và củng cố quyền lực, (2) cấu kết với các đế quốc xâm lược Âu Mỹ để bành trướng thế lực ra ngoài lục địa Âu Châu, (3) dựa vào quyền lực của nhà nước để cưỡng bách nhân dân dưới  quyền phải theo đạo Kitô, (4) tìm cách hãm hại những người bất khuất không chịu theo đạo, (B) không biết rằng người Pháp đã gọi giới linh mục là “lũ quạ đen”.

5.-  Nguyễn Gia Kiểng viết cuốn Tổ Quốc Ăn Năn (Paris TXB, 2001). Đã có nhiều người nói và viết về những sai lầm và cố ý  xuyên tạc lịch sử của tác giả này. 

6.- Các ông Dương Diên Nghị, Nguyễn Châu, Lương Văn Toàn, Lê Hữu Phú và Hoàng Đức Phương viết cuốn Việt Nam: Cuộc Chiến Tranh Quốc Gia - Cộng Sản, Tập I (San Jose, CA: TXB,  2002). Cuốn sách này đã được người viết nêu lên khá nhiều sai lầm nơi Chương 10, sách Chân Dung Người Việt Quốc Gia.  Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.

7.- Cao Thế Dung viết cuốn Việt Nam Huyết Lệ Sử (New Orleans, Louisiana: Đồng Hương, 1996).và nhiều sách khác. Trong sách Việt Sử Khảo Luận (cuốn 4), ông Hoàng CơThụy nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng tác giả Cao Thế Dung viết “khá mơ hồ lại còn rất lộn xộn” (trang 2150),  viết “sai” (trang 2189), “Cao Thế Dung viết sai và  còn nhiều sai lầm khác, không kể siết” (trang 2283), “Thiết nghĩ khảo cứu và phê bình như thế là sai (vô tình hay cố ý) làm cho độc giả hiểu lầm” (trang 2343), v.v…

8.- Lê Xuân Khoa viết cuốn Việt Nam 1945-1995 (Tập I (Bethesda, MD, 2004). Cuốn sách này cũng đã được người viết nêu lên khá nhiều sai lầm nơi Chương 11, sách Chân Dung Người Việt Quốc Gia.  Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.

9.- Minh Võ viết cuốn Ngô Đình Diệm Lời Khen Tiếng Chê (CA: Thông Vũ, 1998) Người viết xin miễn nói về ông văn nô cừu non này vì rằng cuốn sách này còn tệ hơn những cuốn sách của các văn nô cừu non đã nói ở trên.

10.- Nhà giáo kiêm nhà văn Ca-tô Nguyễn Ngọc Ngạn tuyên bố khơi khơi trong cuốn Paris By Night 81 rằng “Bắc Hàn không xâm lăng Nam Hàn” và trong cuốn Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), trong đó, thỉnh thoảng ông cho xen vào một vào đoạn văn với dã tâm bóp méo  sự thật lịch sử để chạy tội cho Giáo Hội La Mã trong việc cấu kết với Đế Quốc Pháp trong việc đánh chiếm Việt Nam làm thuộc địa. Chúng tôi đã viết tập sách Khi Nhà Văn Lạm Bàn Lịch Sử để giúp cho tác giả Nguyễn Ngọc Ngạn có cái nhìn khá hơn về lịch sử với  hy vọng sẽ không còn cố ý hay vô tình tuyên bố ẩu về lịch sử như vậy nữa. Tập sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.

11.- Ông Vũ Hải Hồ bịa đặt ra chuyện Cựu Đại Sứ Pháp Jean Marie Mérillion viết cuốn Sàigon Et  Moi cũng không ngoài mục đích giống như các tác giả của 10 trường hợp ở trên. Xin xem Phụ Bản các thư từ trao đổi giữa Tiến-sĩ Hoàng Ngọc Thành và thư trả lời của Cựu Đại Sứ Pháp Jean Marie Mérillion  in nơi các trang 622-623 trong cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của Tổng Thống Ngô Đình Diệm (San Jose, CA: Quang Vinh & Kim Loan & Quang Hiếu, 1994).  

Tệ hại hơn nữa bọn văn nô cừu non người Việt này lại không biết chính họ ở trong tình trạng vừa ngu (không biết sử dụng lý trí để tìm hiểu sự vật), vừa dốt đặc cán mai về cả  quốc sử lẫn lich sử thế giới và lịch sử đạo Kitô, cho nên họ mới băng xăng năng nỏ nhẩy rào vào lãnh vực viết sử với mục đích duy nhất là chạy tội cho Giáo Hội La Mã và cho bọn cừu non người Việt về những hành động chống lại nhân loại trong gần hai ngàn nặm qua và chống  lại tổ quốc và  dân tộc Việt Nam từ mấy thế kỷ nay. Chẳng bao giờ họ tự hỏi hay đặt ra vấn đề là bản thân họ: (1) Đã từng theo học ngành sử không? (2) Có thấu hiểu những bước tiến của loài người từ thuở hồng hoang cho đến thời đại văn minh tin học như ngày nay không? (3) Có nắm vững những diến biến lich hay những động lực khiến cho các cường quốc can thiệp vào Việt Nam không? (4) Có biết rẳng Giáo Hội La Mã vốn có chủ trương thần quyền chỉ đạo thế quyền với quyết tâm thi hành chính sách bất khoan dung đối với các tôn giáo khác và lao vào hố sâu vực thẳm tội ác mà chúng tôi đã trình bày rõ ràng các chương sách nằm trong Phần I ở trên không? :

Suốt trong thời gian từ 1885 cho đến 1954 trên toàn lãnh thổ Việt Nam và trong thời gian 1954-1975 ở miền Nam vĩ tuyến 17, bọn Việt gian cừu non làm tay sai cho  Vatican ngồi ở hậu trường sân khống chính trị đã kiểm sóat gắt gao môn lịch sử. Tình trạng này đã làm cho những người tiếp nhận chính sách giáo dục ngu dân và nhồi sọ của Nhà Thờ Vatican cũng đều (1) chỉ biết rất lơ mơ về quốc sử, (2)  hầu như không biết gì về sử thế giới, và (3) cũng không biết một chút gì về những rặng núi của đủ mọi thứ tội ác của Giáo Hội La Mã chống nhân loại trong gần hai ngàn năm qua.

Cũng vì thế mà các ông văn nô  cừu non mới tự tung tự tác “múa gậy giữa vườn hoang” (vũ trượng hoang viên), tha hồ tuyên bố ẩu tả về lịch sử hay múa bút viết bừa bãi với chủ tâm lừa bịp người đời bằng cách bóp méo sự thật và xuyên tạc lịch sử  để chạy tội cho cả Giáo Hội La Mã và tập đoàn con chiên làm Việt gian bán nước cho Vatican, cho Pháp, cho Nhật và cho Mỹ trong suốt chiều dài lịch sử từ giữa thế kỷ 16 cho đến ngày nay. 

Với thực trạng như vậy, cho dù họ đã  tốt nghiệp đại học với văn bằng cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ đi nữa, thì họ cũng chí có khả năng về kiến thức chuyên môn của họ. Còn về kiến thức tổng quát, họ vẫn ở trong tình trạng què quặt, bất quân bình. Đặc biệt về  môn lịch sử  họ lại  càng không biết gì cả hay chỉ biết lơ mơ và hiểu theo sự diễn dịch sai lạc của bọn văn nô con chiên trong các tác phẩm  đã được Giáo Hội La Mã  chọn làm sách giáo khoa ở bậc tiểu và trung học. Chúng ta gọi những lọai người này là “các ông trí thức nửa mùa”.

Cũng nên biết là “kiến thức tổng quát” (thâu nhận ở bậc trung học) của tất cả các ông trí thức nửa mùa trên đây đều ở trong tình trạng “què quặt” hay “bất quân bình” (chỉ biết lơ mơ về quốc sử, không biết gì về lịch sử thế giới và cũng không biết gì về lịch sử Giáo Hội La Mã). Mục đích duy nhất trong việc viết sử của các ông này là vừa để bào chửa chạy tội cho những việc làm tội ác của Giáo Hội La Mã chống lại nhân loại (trong đó có Việt Nam) trong gần hai ngàn năm qua, vừa để chạy tội cho tập đoàn con chiên làm Việt gian bán nước cho Vatican, cho Pháp, cho Mỹ, vừa để  sỉ nhục và chưởi bới những tác giả có các tác phẩm nói lên những sự thật về tội ác của Nhà Thờ Vatican đã cấu kết với Đế Quốc Xâm Lược Pháp trong việc đánh chiếm và thống trị nước từ năm 1858 cho đến tháng 7 năm 1954 và cũng là để vô hiệu hóa những tác phẩm lịch sử của các nhà viết sử chân chính..

Vì thế mà cho đến ngày nay, ở Miền Nam cũng như ở hải ngoại, không có một giáo viên nào trong số các giáo viên tốt nghiệp Ban Sử Địa của các Đại Học Sư Phạm Sàigòn, Đại Học Sư Phạm Huế và Ban Sử tại Phân Khoa Văn Khoa Sàigon có thể biên sọan được một tác phẩm nói về bàn tay của Giáo Hội La Mã trong dòng Lịch Sử Thế Giới hay trong dòng Lịch Sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại.

Điều đáng trách là có một số người vốn là những người tốt nghiệp từ trường Đại Học Sư Phạm Sàigòn hay từ Trường Đại Học Sư Phạm Huế về môn Sử Địa và đã từng phụ trách dạy môn Sử ở miền Nam Việt Nam trong nhiều năm trước ngày 30/4/1975, không những đã không lên tiếng nói về bàn tay của Giáo Hội La Mã trong dòng lịch sử Việt Nam trong thời cận và hiện đại, mà lại còn viết sách hay những bài viết  có nội dung với chủ tâm lên tiếng bênh vực  Nhà Thờ Vatican bằng cách lên án những tác giả có những tác phẩm nói về những khu rừng tội ác của Nhà Thờ Vatican và  của chế độ đạo phiệt Ca-tô Ngô Đình Diệm là quá khích và chống Thiên Chúa Giáo. Ông Trần Gia Phụng là một trường hợp điển hình cho tình trạng này. Bằng cớ là ngày 25/11/2009, ông viết bài “Viết Cho Đúng Sự Thật” (phổ biến rộng rãi trên các diễn đàn điện tử) trong đó có một đoạn như sau:

Có một điều cần nhấn mạnh là cá nhân người nào làm thì người đó chịu trách nhiệm, đừng vì cá nhân đó theo tôn giáo này hay tôn giáo khác mà đưa vấn đề thành sự đối đầu tôn giáo rất nguy hiểm. Ví dụ tôi viết về chế độ Ngô Đình Diệm, thì chế độ Diệm có điểm tốt mà cũng có điểm không tốt. Rủi một điều là cái điểm không tốt nguy hại nhất cho chế độ Diệm chính là vụ cấm treo cờ Phật Giáo mà ai đã từng ở miền Trung, nhất là ở Huế và Đà Nẵng đều thấy và biết. Chuyện này cũng được các tác giả Ky-tô giáo viết lại, ví dụ cụ thể nhất là linh mục Cao Văn Luận. Từ cái điểm không tốt mới nẩy sinh ra đủ thứ chuyện, làm sụp đổ chế độ Diệm. Cái điểm không tốt này thuộc về trách nhiệm cá nhân hai ông Ngô Đình Thục và Ngô Đình Diệm chứ không liên hệ gì đến Ky-tô giáo cả. Phải tách bạch rõ ràng như thế để tránh những hiểu lầm đáng tiếc, những chụp mũ vu vơ.”[67]

Viết đoạn văn trên đây, ông Trần Gia Phụng đã tự phơi bày cho mọi người biết rằng ông không biết gì để lịch sử Giáo Hội La Mã và cũng không biết TẠI SAO nhân dân ở nhiều nơi trên thế giới lại có ác cảm  mãnh liết đối với đạo Ki-tô khiến cho Giáo Hoàng Benedict XVI đã nhìn nhận và phỉ bang mối ác cảm này. Điều đáng buồn là ông (Phụng) “tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Huế, khoa Sử Địa vào năm 1965 và đã dạy môn sử tại nhiều trường trung học ở miền Nam Việt Nam cả mười năm trời mà lại không biết sử thật lịch sử này!

Sự kiện này chứng tỏ rằng kiến thức về sử học của các ông Phụng  còn thua rất xa kiến thức sử của những người không phải là giáo viên dạy sử nhưng họ đã bỏ công ra  nghiên cứu để tìm hiểu những sự thật về lịch sử của nước ta trong thời cận và hiện đại.

B.- Loại người thứ hai mà học giả Charlie Nguyễn nói trong bản văn trên đây đã bị loại người thứ nhất (tức là bọn quạ đen cấu kết với bọn trí thức và bọn họat đầu chính trị đồng đạo của họ)  biến họ thành “những tên sát nhân cuồng nhiệt” và được đoàn ngũ hóa thành “những lực lượng quần chúng, một lực lượng đáng ghê sợ” tức là “đạo quân thập tự địa phương” để làm lực lương xung kích cho các chiến dịch “hiệp thông cầu nguyện” và “làm sáng  danh Chúa” trong các sách lược gây bạo loạn đánh phá các chính quyền và nhân dân không chịu khuất phục  hay không thỏa mãn những yêu sách ngang ngược của Giáo Hội La Mã. Đó là các trương hợp (1) triều đình nhà Nguyễn trong thế kỷ 19 từ năm 1858 cho đên 1885, (2) thời kháng chiến 1945-1954,  và (3) chính quyền Việt Nam hiện nay từ năm 2001 cho đến bây giờ.

 


[60] Nguồn ảnh: http://www.wikipedia.org/wiki/Evolution+%22Theory+of+Evolution%22&cd=1&hl=en&ct=clnk&gl=us

[61] Phan Đình Diệm. “Mea Culpa” Bài 3: Giáo Hội Công Giáo Roma La-tinh Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm.” www.kitohoc.com/Bai/Net066.htm Ngày 4/5/2000 .

[62] Xin xem Thư Gửi Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt của người viết đề ngày 25/9/2008 trên sachhiem.net.

[63] Trần Tam Tình, Sđd., tr. 54.

[64] Trần Tam Tỉnh, Sđd., tr 104.

[65] Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr.29-30.

[66] Thuốc Sát Trùng. “Vũ Đình Hoạt, ông đã làm một việc không thích đáng, vì thế hại cho Giáo Hội, hại cho đất nước.”, Văn Nghệ Tiền Phong Số 397 – Tháng 8/1992, tr. 25-28 và 73-76.

[67] Trần Gia Phụng. “Viết Cho Đúng Sự Thật.” Nguồn: http://www.tivituansan.com.au/Details.asp?nID=2538&scID=SCA060818152713G

s