LỊCH SỬ HOA KỲ (3 tác giả) Nguyễn Mạnh Quang dịch https://sachhiem.net/NMQ/LSHK/LSHK22.php
(tiếp theo Chương hai mươi mốt) pypypy CHƯƠNG XXII HOA KỲ THÀNH ĐẠI CƯỜNG KỸ NGHỆ Có bao giờ bạn nghĩ rằng lối sống ở Hoa Kỳ đã thay đổi quá nhiều trong một trăm năm vừa qua không? Năm 1865, khi cuộc nội chiến sắp chấm dứt, dân chúng lúc bấy giờ sinh sống như những thế hệ của cha mẹ và ông bà họ. Dĩ nhiên là họ có một ít tiện nghi ở trong nhà, và có thể di chuyển nhanh hơn, và cảm thấy dễ chịu hơn một chút. Nhưng vào thời đó, đa số người Hoa Kỳ còn sinh sống bằng nghề nông. Lúc bấy giờ có ít thành phố hơn, và thành phố cũng nhỏ hơn các thành phố ngày nay rất nhiều. Không có một chút gì là tiện nghi như đèn điện, tủ lạnh, máy hút bụi, máy điều hòa không khí, máy vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình, điện thoại và máy giặt, những thứ mà ngày nay chúng ta cho là một điều kiện tự nhiên phải có. Lúc bấy giờ cũng không có xe hơi, không có tàu hỏa hay máy bay phản lực lướt nhanh như gió để chuyên chở hành khách từ nơi này đến nơi khác. Và lúc bấy giờ, nếu có ai nói rằng chỉ trong vòng một năm nữa, con người có thể dùng phi thuyền lao vào không gian bay vòng quanh trái đất, thì người ta sẽ bảo rằng người đó quả là điên khùng. Sự phát triển kỹ nghệ một cách quá mau chóng ở Hoa Kỳ này đã đưa đến những thay đổi lớn lao trong gia đình từ miếng ăn, cái mặc cho đến các công việc làm cũng như việc giải trí hằng ngày. Trong những năm sau thời nội chiến, người ta lại khám phá ra các nguồn năng lực mới. Các nàh phát minh đã hoàn thành được những máy móc tân kỳ. Các nhà doanh thương đã mạnh dạng ủng hộ các công cuộc này torng giai đoạn thử thách. Từ năm 1900 khao học và kỹ nghệ đã tiến mạng hơn bao giờ hết. Với mức độ tiến bộ này, ai mà biết được những già kỳ lạ mà người ta không bao giờ mơ ước tới, thế mà trong một vài năm sau lại có thể trở thành một vai trò chiếm một phần trong đời sống hàng ngày. Chương này sẽ nói về Hoa Kỳ làm thế nào đã trở thành một cường quốc kỹ nghệ lớn nhất thế giới. Đồng thời cũng nói về những phát minh mới đã đẩy mạnh công cuộc mở mang kỹ nghệ, và cũng bàn về những điều kiện và hoàn cảnh đã trợ giúp cho công cuộc mở mang này, cũng như sẽ nói về những người đã góp phần tạo nên công trình tiến bộ của đất nước Hoa Kỳ. Chương này được chia làm các phần dưới đây : 1) Những điều kiện căn bản nào đã tạo cho Hoa Kỳ thành một quốc gia đứng vào hàng đầu về kỹ nghệ ? 2) Việc sản xuất hàng loạt và các việc phát triển các công ty kinh doanh đã trợ giúp kỹ nghệ như thế nào ? 3) Hệ thống giao thông và chuyển vận được cải thiện đã ảnh hưởng đến đời sống Hoa Kỳ ra làm sao ? 4) Những phương pháp kinh doanh đã thay đổi theo sự phát triển kỹ nghệ như thế nào ? PHẦN I NHỮNG ĐIỀU KIỆN CĂN BẢN NÀO ĐÃ TẠO CHO HOA KỲ THÀNH MỘT QUỐC GIA ĐỨNG HÀNG ĐẦU VỀ KỸ NGHỆ. Việc phát triển kỹ nghệ ở Hoa Kỳ khởi đầu vào khi cuộc cách mạng kỹ nghệ bùng nổ ở Anh Quốc, và lan tràn tới Hoa Kỳ vào cuối thể kỷ thứ XVIII, (chương 14). Hẳn các bạn còn nhớ rằng lúc bấy giờ người ta đã phát minh ra những máy móc chạy bằng thủy lục mà thời thuộc địa người ta còn làm bằng tay. Nhiều nhà máy kỹ nghệ được thiết lập, đặc biệt nhất là ở miền Đông Bắc, và các nông dân từ các nông trại ở các vùng kế cận cũng như những người từ Châu Âu mới di cư tới đổ xô đến làm việc ở các thành phố Kỹ nghệ. Vào khoảng giữa thế kỷ thứ XIX, người ta đã bắt đầu xử dụng hơi nước thay cho sức nước để chạy các máy móc. Những phát minh mới, việc lập thêm các cơ sở xí nghiệp và việc mở rộng hệ thống hỏa xa, tất cả đã làm cho kỷ nghệ tiếp tục bành trướng. Hơn nữa, như chúng ta đã đọc ở chương XX , nhu cầu đòi hỏi đủ mọi thứ vật liệu chiến tranh trong thời nội chiến lại càng đẩy mạnh mức độ sản xuất. - Cuộc cách mạng kỹ nghệ hướng vào việc sản xuất nhanh. Khi cuộc nội chiến chấm dứt thì nền kỹ nghệ Hoa Kỳ còn bị Anh quốc bỏ xa rất nhiều. Tuy nhiên, chỉ 35 năm sau, Hoa Kỳ không những đuổi kịp Anh quốc, mà hàng hóa Hoa Kỳ còn vượt hẳn hàng hóa Anh nữa. Tới khoảng thập niên 1920 thì Hoa Kỳ đã trở thành một quốc gia kỹ nghệ vào bậc nhất trên thế giới. Kỹ nghệ Hoa Kỳ không còn bị giới hạn trong miền Đông Bắc nữa. Nhiều nhà máy kỹ nghệ được thiết lập ở miền Nam và miền Tây; nơi nào đã có đường xe lửa là ở đó kỹ nghệ được mở mang một cách mau chóng. Vì rằng sau năm 1900, việc sử dụng máy móc đã gia tăng hết sức mạnh mẽ cho nên người ta thường gọi thời kỳ này là thời đại máy móc. Chỉ cần nhìn chung quanh, bạn sẽ thấy biết bao nhiêu vật dụng do các nhà máy ở Hoa Kỳ sản xuất. Máy móc đã làm cho đời sống trong gia đình được thoải mái , làm cho việc di chuyển được mau chóng dễ dàng, và tránh cho chúng ta khỏi phải làm những công việc nặng nề cực nhọc. Làm thế nào mà Hoa Kỳ đã trở thành một đại cường kỹ nghệ như vậy ? Có nhiều câu trả lời cho câu hỏi này. Chúng ta hãy tìm hiểu dưới đây : - Hoa Kỳ có rất nhiều tài nguyên thiên nhiên. Khi mới đặt chân lên Bắc Mỹ này, các vị tiền bối của chúng ta thấy rằng lục địa mênh mông rộng lớn này là một lục địa chưa được mở mang. Giá trị lớn lao của cái lục địa vĩ đại này là những vùng đất bao la màu mỡ rất thích hợp cho việc canh tác trồng trọt. Tuy nhiên, khi mà kỹ nghệ trở nên quan trọng thì Hoa Kỳ lại là một kho tàng nguyên liệc cần thiết cho kỹ nghệ. Thí dụ như về các loại khoáng sản thì Hoa Kỳ là một quốc gia có nhiều may mắn hơn nhiều quốc gia khác. Trong lòng đất xứ sở này là một kho tàng than đá. Người ta ước lượng rằng diện tích các mỏ than Hoa Kỳ rộng tới 500 ngàn dặm vuông, gần bằng nửa tổng số than đá trên thế giới. Hầu hết những mỏ than này nằm trong vùng núi Appalaches thuộc tiểu bang Pennsylvania, và các tiểu bang trong vùng thung lũng sông Mississippi. Than đá vốn là nhiên liệu vô cùng quan trọng torng kỹ nghệ luyện thép và luyện sắt và để chạy máy trong các nhà máy kỹ nghệ khác, cũng như torng việc sản xuất điện lực. Triền miên torng bao nhiêu thế kỷ than đá đã từng được để sưởi ấm ở trong các gia đình cũng như ở trong các tòa nàh công và tư sở. Đồng thời, Hoa Kỳ cũng có nhiều quặng sắt, nhờ đó mà chế tạo ra thép. Rải rác nhiều nơi trong đất nước đều có quặng sắt, nhưng phần lớn loại quặng sắt này nằm ở phái Tây Thượng Hồ (Lake Superior). Hoa Kỳ cũng có rất nhiều mỏ đồng, chì và mỏ bâu xít (người ta lấy nhôm từ bâu xít ra). Thực ra, Hoa Kỳ chỉ thiếu một vài khoáng sản cần thiết như Manganese (dùng để làm sắt cho cứng hơn), thiếu thiếc, nickel và plantium. Khi dầu hỏa trở nên quan trọng trong kỹ nghệ thì Hoa Kỳ cũng lại là một quốc gia có nhiều mỏ dầu nhất trên thế giới. Tuy nhiên, vì những tài nguyên này đã được khai thác qúa nhiều cho nên ngày nay Hoa Kỳ phải mua của các quốc gia khác một khối lượng vô cùng lớn các lại nguyên liệu này để thỏa mãn cho nhu cầu đất nước. Không phải tất cả tài nguyên thiên nhiên của Hoa Kỳ đều nằm trong lòng đất. Những khu rừng cây rộng lớn là những nguồn cung cấp gỗ cho kỹ nghệ. Điều không may là việc đốn cây bừa bãi đã thiêu hủy mất đi phần lớn tài nguyên gỗ rừng. Tuy nhiên, rừng gỗ vẫn còn rất nhiều, và ngày này các công ty khai thác lâm sảnh đã bắt đầu trồng những cây mới để thay thế cho những cây đã bị đốn. Chúng ta biết rằng đất đai màu mỡ đã giúp cho việc sản xuất nông phẩm cần thiết để nuôi sống dân chúng. Ngày nay, ngoài những tài nguyên thiên nhiên và các sản phẩm được chế tạo trực tiếp từ các tài nguyên thiên nhiên này ra, lại có những sản phẩm hóa học tổng hợp và những sản phẩm bằng plastic được chế tạo ở torng các nhà thí nghiệm háo học và các nhà máy kỹ nghệ. Sợi hóa học tổng hợp như nylon, orlon và dacron được sử dụng rất nhiều vì những loại hàng này có rất nhiều tiện lợi . Thuốc nhuộm, đá quý, chất cao su xốp và da hóa học đều làn hững sản phẩm tổng hợp. Chất plastic nguyên gốc lấy từ than đá, đá vôi, dầu hỏa, nước và không khí. Nhưng trước hết những vật liệu trên đây được các nhà máy chế tạo thành "nguyên liệu trung gian" rồi sau đó người ta mới chế tạo ra nhiều thứ hàng háo khác để sử dụng trong đời sống hàng ngày. Đó là những phim ảnh, keo để gắn các loại gỗ, chất cách điện, áo mưa, ổng dẫn nước, đĩa hát, và các loại chai, hộp cùng các vật liệu để nhồi nệm giường, nệm ghế. - Hoa Kỳ có rất nhiều công nhân. Hoa Kỳ cũng là một quốc gia may mắn có nhiều nhân công chuyên môn cung ứng cho các nhà máy kỹ nghệ. Từ năm 1860, dân số Hoa Kỳ đã tăng từ 31 triệu đến hơn 200 triệu. Phần lớn sự gia tăng dân số này là do số lớn người di cư từ Châu Âu tới. Hầu hết những người Hoa Kỳ tương lai này không được giàu có. Họ tới đất nước này để khởi lập cuộc đời mới. Đa số họ đi tìm những khu đất phì nhiêu để trồng trọt, nhưng cũng có nhiều người đến các thành phố ở miền Đông và miền Trung Tây định cư lập nghiệp. Họ chấp nhận làm cả những công việc nặng nhọc. Nguồn nhân lực này đã đáp ứng được nhu cầu công nhân ở trong các công trường khai thác quặng mỏ cũng như ở trong các nhà máy kỹ nghệ để biến chế các nguyên liệu thành những hàng hóa kỹ nghệ. - Vốn của người ngoại quốc đã giúp cho Hoa Kỳ phát triển kỹ nghệ. Tuy nhiên những nguyên liệu và những nhân công này cũng không đủ để mở mang nền kỹ nghệ khổng lồ của Hoa Kỳ. Việc thiết lập các nhà máy kỹ nghệ rất tốn kém. Năm 1865 có rất ít người Hoa Kỳ có đủ tiền để đầu tư vào các cơ sở kỹ nghệ. Nhưng may mắn là lúc đó lại có nhiều người Âu Châu giàu có sẵn sàng đầu tư vào kỹ nghệ Hoa Kỳ với hy vọng là sẽ thu về được nhiều lời. Vào khỏang năm 1910, có tới hơn 6 tỷ Mỹ kim vốn ngoại vốn ngoại quốc mà đa số là của người Anh đã được đầu tư vào các cơ sở kỹ nghệ cũng như các công trường khai thác quặng mỏ và xí nghiệp kinh doanh khác của Hoa Kỳ. Những khoảng tiền đầu tư lớn lao này đã đóng góp rất nhiều vào công cuộc phát triển kỹ nghệ Hoa Kỳ. Từ đầu thế kỷ thứ 20, vốn ngoại quốc càng ngày càng trở nên ít quan trọng trong nền kỹ nghệ Hoa Kỳ. - Tinh thần sáng tạo cũng góp phần vào việc phát triển kỹ nghệ Hoa Kỳ. Người Hoa Kỳ đã luôn luôn tỏ ra có tài phát minh. Trong một chương trước chúng ta đã thấy rằng việc phát minh ra máy cán bông của ông Eli Whitney đã tạo nên việc phát triển mạnh mẽ trong ngành bông vải. Tương tự như vậy, việc phát minh ra máy khâu của ông Elias Howe đã đã mở đường cho việc phát triển kỹ nghệ may mặc. Sau năm 1865, những phát minh của người Hoa Kỳ còn giữ vai trò quan trọng hơn trong việc tạo nên Hoa Kỳ trở thành một quốc gia kỹ nghệ vào bậc nhất. Do những phát minh này mà các nhà máy kỹ nghệ sẵn có được mở rộng, và người ta còn thiết lập thêm nhiều cơ sở kỹ nghệ mới nữa. - Nhà phát minh Thomas A. Edison. Không ai có thể tưởng tượng được tinh thần sáng tạo nào của người Hoa Kỳ hơn được tinh thần sáng tạo của ông Thomas Alva Edison. Ông Edison chào đời vào năm 1847 trong một gia đình trung lưu ở Ohio. Ngay từ khi còn trẻ ông đã có một tâm hồn sắc bén, hiếu động và chú tâm vào khoa học. Thuở nhỏ ông đi bán báo trên xe lửa và đã thành công một cách mau chóng cho nên chẳng bao lâu ông lại điều khiển một số trẻ em khác làm việc cho ông. Phần lớn những thời giờ nah2n rỗi ông đọc báo ở torng thư viện và cặm cụi trong phòng thí nghiệm riêng ở ngay tại nhà. Khi còn là một thanh niên trẻ, ông Edison đã làm rất nhiều công việc nhưng vẫn luôn luôn chú ý đến khoa học, đặc biệt nhất là khoa học về điện. Năm 1868, ông nhận lãnh được bằng sáng chế đầu tiên của ông. Từ đó cho đến khi ông từ giã cõi đời vào năm 1931, tinh thần hoạt động và nghị lực ghê gớm của ông đã tìm ra không biết bao nhiêu là phát minh. Thiên tài của ông là sở trường về việc chuyển biến các lý thuyết khao học sang phạm vi ứng dụng hơn là khám phá ra những nguyên lý mới về khoa học. Ông đã đoạt được 1200 bằng phát minh, và phòng thí nghiệm của ông tại Menli Park, thuộc tiểu bang New Jersey quả thực là một kho tàng ảo thuật. Có lẽ món quà vĩ đại nhất của i6ng Edison để lại cho loài người là việc phát minh ra đèn điện. Bóng đèn điện đầu tiên mà ông phát minh ra vào năm 1879 chỉ có một tia sáng yếu ớt, nhưng qua nhiều lần được cải thiện nên kết quả đã trở thành ánh đèn kì diệu như chúng ta dùng ngày nay. Dù là phát minh hay cải tiến đi nữa thì tên tuổi của ông Edison cũng đã gắn liền với máy hát, máy điện tín tự động, may điện báo, máy phát điện, trạm phát điện, xe điện, cinema và microphone. Với những tài nguyên thiên nhiên phong phú, với hệ thống tư hữu cùng với kỹ năng và sự cần cù làm việc cũng như tinh thần sáng tạo của người Hoa Kỳ, tất cả đã giúp cho Hoa Kỳ trở thành một quốc gia kỹ nghệ vĩ đại. Tuy nhiên, những phương pháp sản xuất mới và những tổ chức doanh thương mới cũng là những yếu tốt không kém phần quan trọng. PHẦN II VIỆC SẢN XUẤT HÀNG LOẠT VÀ VIỆC PHÁT TRIỂN CÁC TỔ HỢP ĐÃ TRỢ GIÚP CHO NỀN KỸ NGHỆ HOA KỲ NHƯ THẾ NÀO ? - Phương pháp sản xuất mới đưa đến việc sản xuất hàng loạt hàng hóa. Nếu không khám phá ra phương cách sản xuất hàng loạt hàng hóa để bán với giá hạ, giá rẻ thì có lẽ Hoa Kỳ đã chẵng bao giờ trở thành quốc gia kỹ nghệ vĩ đại như ngày nay. Sở dĩ được như vậy vì Hoa Kỳ đã phát minh ra một hệ thống mới gọi là sản xuất hàng loạt. Muốn sản xuất hàng loạt thì phải làm như thế nào ? 1) Phân công : Trước thời cách mạng kỹ nghệ thì thường thường tất cả mọi công việc biến chế từ nguyên liệu cho đến khi món đồ được hoàn thành đều do một mình người thợ chuyên nghiệp làm. Thí dụ như người thợ đóng giày chẳng hạn, chính anh ta phải làm tất cả mọi công việc cần thiết cho đến khi hoàn thành đôi giày. Nhưng khi người ta sử dụng máy móc thì có sự thay đổi. Công việc sản xuất một món hàng được phân chia cho nhiều người làm. Mỗi công nhân sẽ chỉ giới hạn làm một hay hai công việc. Thí dụ như người bấm lỗ giày thì chỉ làm lại việc bấm lỗ hàng mấy trăm lần trong một ngày. Người thợ hàn thì chỉ có việc hàn hai đầu mối của hai miếng kim loại vào với nhau , chứ không phải làm việc gì khác hơn. Việc phân công này đã làm cho việc sản xuất được mau chóng và cũng là làm cho giá bán được rẻ hơn, vì rằng mỗi một người công nhân rất dễ dàng và mau chóng trở thành khéo léo trong việc chuyên môn của anh ta. 2) Định chuẩn hóa các bộ phận : Việc sử dụng hàng định chuẩn đồng thời cũng giúp cho việc đẩy mạnh sản xuất. Ông Eli Whitney đã góp rất nhiều công vào việc này. Sau khi phát minh ra máy cán bông, ông bắt đầu chú ý đến việc chế tạo súng ống. Ông quyết định sử dụng những kiểu mẫu hay những phần có thể that đổi được ở trong những khẩu súng do ông chế tạo. Nói cách khác, tất cả các cò súng, nòng súng và các bộ phận khác của một khẩu súng được chế tạo cho một kiểu súng nào thì sẽ được đúc theo đúng một kích thước và cùng một hình dạng. Ông Whitney cho rằng nếu tất cả các bộ phận chế tạo theo kiểu này thỉ súng có thể được ráp mau hơn và hữu hiệu hơn. Và nếu có một bộ phận nào đó bị hư hại thì lấy ngay bộ phận đó giống như vậy để thay thế vào. Như thế thì việc sửa chữa các khẩu súng hư sẽ trở nên rất dễ dàng. Đến đầu thế kỷ thứ XX, ông Henry Ford phát triển tư tưởng định chuẩn hóa các bộ phận trong kỹ nghệ xe hơi. 3) Sắp hàng làm việc : Quan trọng nhất trong công cuộc phát triển việc sản xuất hàng loạt là việc áp dụng xếp hàng làm việc vào đầu thế kỷ XX. Ông Henry Ford là người đầu tiên áp dụng cái phương cách quan trọng này vào công việc chế tạo xe hơi. Việc xếp hàng làm việc là tổng hợp trên toàn diện việc sử dụng các bộ phận được định chuẩn và giới hạn mỗi công nhân chỉ phụ trách nỗi một việc thôi. Chẳng hạn như trong một xưởng chế tạo xe hơi, một dãy dài chuyển động từ từ bên cạnh đó có những công nhân đứng rải rác ở các vị trí đã được ấn định. Động cơ được ráp từng bộ phận một, khung xe được ráp thêm vào, rồi những bộ phận khác được ráp theo sau đó. Khi chiếc xe đang ráp này được nằm ở trên dây chuyển động chạy tới cuối hàng thì tất cả động cơ, khung xe, bánh xe và những gì khác cũng đã được làm xong. Mọi người thợ chỉ phải làm có một việc nào đó khi chiếc xe hơi di chuyển qua người thợ này. Áp dụng phương pháp này, thời gian cần thiết để chế tạo một chiếc xe hơi được rút giảm đi rất nhiều. - Phương pháp sản xuất hàng loạt được mở rộng. Sự phân công, việc tiêu chuẩn hóa các bộ phận và việc xếp hàng làm việc, tất cả đã đóng góp phần lớn vào việc sản xuất hàng loạt. Qua phương pháp sản xuất hàng loạt, công nhân hãng Ford có thể sản xuất mỗi ngày hàng mấy ngàn chiếc xe hơi, và nhờ đó giá xe hơi được giảm hạ đi rất nhiều. Những phương pháp này của ông Ford không những được áp dụng trong ngành sản xuất xe hơi, mà còn được áp dụng sang nhiều ngành khác nữa. Trong những năm gần đây lại có thêm một sự tiến bộ nữa trong phương pháp làm việc ở các nàh máy kỹ nghệ. Những phương pháp này gọi là máy tự động đã làm cho việc tiến bộ lại càng thêm tiến xa hơn nữa. Trong phương pháp tự động này, các máy móc sản xuất đã được điều hành và kiểm soát bằng một loại máy móc khác chứ không cần do công nhân phụ trách nữa. Đồng thời việc sử dụng máy tự động còn có thể dùng một hệ thống mang sẵn món đồ từ một máy này đến một máy khác cho đến khi món đồ này được hoàn toàn chế tạo xong. Những loại máy móc tự động khác với tốc độ cao hơn gọi là Computer (máy tính) đang làm đảo lộn các phương thức kinh doanh và sưu tầm. Những máy móc này có thể làm công việc giữ hồ sơ, tính sổ lương nhanh hơn cả một nhóm người làm việc rất nhiều. Máy móc cũng có thể dịch một tờ báo từ Nga ngữ sang Anh ngữ. Dù rằng máy móc tự động có khuynh hướng cắt giảm một số công việc của những công nhân bán chuyên môn, nhưng nó cũng tạo ra một nhu cầu khác là các công nhân phải được huấn luyện công phu để có thể bảo trì và sửa chữa các loại máy móc này. * KỸ NGHỆ HOA KỲ TẠO NÊN VIỆC MỞ RỘNG THỊ TRƯỜNG CHO HÀNG HÓA. Chúng ta thấy rằng những phương pháp sản xuất mới đã làm cho năng suất sản xuất của các nhà máy kỹ nghệ Hoa Kỳ gia tăng ghê gớm. Đồng thời các nhà kinh doanh cũng bắt đầu đi tìm thị trường mới để tiêu thụ hàng hóa cũng như những phương pháp mới để bán hàng hóa. - Tìm được những thị trường mới. Khi mà dân số Hoa Kỳ gia tăng nhảy vọt thì lại càng có nhiều người sốt sắng mua hàng hóa. Và vì những phương pháp sản xuất hàng loạt đã giúp cho người ta sản xuất được rất nhiều hàng hóa với giá hạ hơn, cho nên dân chúng có thể mua được nhiều hơn. Đồng thời, hình thức chuyển vận mới hơn cũng mở đường đến những thị trường mới. Việc mở mang các đường hỏa xa ở trong nước đã giúp cho các hà kinh doanh dễ dàng bán được hàng hóa ở khắp mọi nơi trong đất nước, chứ không còn giới hạn trong các khu vực ở gần các cơ sở kỹ nghệ. Tàu thuyền chạy bằng hơi nước có thể đem các hàng hóa do Hoa Kỳ chế tạo đến các nơi, các phần đất nước khác ở trên thế giới, đặc biệt nhất là ở Âu Châu. - Phát triển phương pháp bán hàng hóa. Trước khi mở mang các đại xí nghiệp, khắp trong nước đã có những cửa hàng nhỏ mà dân chúng có thể đến đó mua vài thứ đồ dùng cần thiết. Nhưng tới thời kỳ sau cuộc nội chiến, các thương gia đã tìm ra được phương pháp mới hữu hiệu hơn để bán hàng hóa. Họ cũng bắt đầu nhận ra rằng sức mạnh của quảng cáo làm cho khách hàng muốn mua thêm hàng hóa của họ. Đồng thời họ cũng mở mang nhiều loại cửa hàng mới để bán hàng hóa. 1) Cửa hàng đặc biệt : Cửa hàng ngày xưa bán đủ mọi thứ quần áo, thực phẩm cũng như các vật dụng khác. Bây giờ người ta bắt đầu thiết lập các cửa hàng chỉ chuyên bán một loại là quần áo hoặc là thực phẩm. Các cửa hàng này có thể bán một số lượng rất lớn nhưng chỉ có một thứ loại hàng hóa mà thôi. 2) Ở trong các thành phố lớn có sự phát triển nhưng gian hàng lớn bán đủ mọi thứ hàng. Trong gian hàng này, có nhiều khu bán, mỗi khu bán từng loại hàng và khách hàng có thể mua được hầu hết những loại hàng họ cần. Nhờ sự điều hành cẩn thận và việc mua một số lớn hàng hóa nên các gian hàng lớn có thể giảm giá hàng và như vậy có thể lôi cuốn được rất nhiều khách hàng. Ông John Wanamaker là một trong những người tiên phong thiết lập được gian hàng như vậy ở Philadelphia vào năm 1875, và ông Marshall Field cũng là người đã tạo dựng được gian hàng nổi tiếng của ông ở Chicago vào năm 1881. 3) Công ty tổ hợp nhiều gian hàng lớn cũng bắt đầu phát triển vào cuối thế kỷ thứ XIX. Những gian hàng lớn này ở rải rác trong nhiều thị trấn và nhiều thành phố cùng thuộc quyền điều khiển của một ban quản trị. Những gian hàng này giống hệt như những gian hàng lớn có thể bán hàng với giá hạ vì rằng các công ty này có thể mua rất nhiều hàng hóa, và họ có một ban quản trị rất giỏi. Đi tiền phong trong tổ chức bán hàng theo kiểu này là đại công ty trà Thái Bình Dương và Đại Tây Dương (The Great Atlantic and Pacific Tea Company) (1859) và công ty F.W. Woolworth (1879). 4) Còn một hình thức bán hàng hàng loạt có thể bán giá hạ cho dân chúng ở các làng quê hay ở các nông trại. Đây là loại nhà hàng bán theo đơn gửi mua. Những công ty như công ty Montgomery Ward (1872) và công ty Sears Roebuck (1884) gửi đi những cuốn sách trong đó có liệt kê những món hàng kèm theo hình và những lời chỉ dẫn cho khách hàng biết cách mua bằng cách viết thư. Ở các nông trại trong khắp đất nước, khi người chạy thư tới mang theo những cuốn sách liệt kê các món hàng đến là những biến cố vô cùng thích thú vào lúc bấy giờ. Ngày nay vẫn còn hàng ngàn gia đình Hoa Kỳ đặt mua hàng theo sách liệt kê các món hàng. * MỘT HÌNH THỨC KINH DOANH MỚI TRỢ GIÚP VIỆC PHÁT TRIỂN Lúc đầu công việc kinh doanh ở Hoa Kỳ thật là dễ dàng điều khiển. Không cần phải có nhiều tiền hay các đồ trang bị để khởi lập một cơ sở kinh doanh, người ta chỉ cần mướn một số ít nhân công giúp việc thôi. Chỉ cần một người hay một nhóm người hùn hạp làm chủ và điều khiển một cơ sở kinh doanh như vậy. Khi mà càng ngày càng có nhiều hàng hóa kỹ nghệ đem ra thị trường bán thì những hình thức tư hữu cơ sở kinh doanh như vậy càng trở nên không được thỏa mãn. Muốn khởi lập một hệ thống thiết lộ hay một cơ sở xí nghiệp với những máy móc đắt tiền thì cần phải có thật nhiều tiền. Một người không thể nào có đủ khả năng để khởi lập một cơ sở kinh doanh như vậy, và cũng không thể nào đảm trách được công việc điều hành. Dần dần xuất hiện một loại tổ chức mới gọi là công ty hay tổ hợp. Một công ty có nhiều người cùng làm chủ. Những người cùng làm chủ này đóng góp tiền bạc để khởi lấp xí nghiệp và cũng đảm trách việc điều hành. Khi có một công ty được thành lập thì người ta chia số vốn ra thành nhiều phần để bán, mỗi phần gọi là một cổ phần hay cổ đông. Những người mua cổ phần này gọi là cổ đông viên. Các cổ đông viên thật sự là chủ nhân của công ty. Những ông chủ này thường tuyển chọn một ban quản trị để điều hành các công việc của công ty. Các cổ đông viên cũng có quyền bỏ phiếu để giải quyết những vấn đề quan trọng. Nếu công ty thất bại thì các cổ đông viên chỉ mất một số tiền mà họ đầu tư vào đó thôi. Nếu công ty thành công thì các cổ đông viên sẽ nhận được một phần tiền lời gọi là tiền lời cổ phần. Tổ chức một cơ sở kinh doanh lớn như một công ty thì có nhiều điểm lợi. Nhờ bán được nhiều cổ phần nên người ta có thể thâu nhập được số tiền rất lớn để có thể thiết lập được các nhà máy kỹ nghệ vĩ đại. Đồng thời các cổ đông viên cũng được tự do tùy ý bất cứ lúc nào cũng có thể đem bán lại phần vốn hùn của mình cho người khác. Như vậy, công việc làm ăn của công ty có thể tiếp tục kéo dài từ năm này qua năm khác khác, trong khi đó nếu chỉ có một người làm chủ thì xí nghiệp rất có thể bị ngưng trệ hay bị xáo trộn nếu chẳng may người làm chủ đó từ trần. Sau năm 1865, tại Hoa Kỳ con số công ty gia tăng rất nhanh. Vì có thể mua được số lượng nguyên liệu khổng lồ với giá rẻ, và điều hành một cách hữu hiệu nên các công ty này có thể phát triển rất mau chóng. Sự phát triển này được tiến triển mạnh mẽ là nhờ công ty có thể mua được số lượng khổng lồ nguyên liệu rẻ hơn và có thể điều hành một cách hữu hiệu hơn. PHẦN III VIỆC CẢI THIỆN NGÀNH GIAO THÔNG VÀ CHUYỂN VẬN ĐÃ ẢNH HƯỞNG ĐẾN ĐỜI SỐNG HOA KỲ NHƯ THẾ NÀO ? Những người Hoa Kỳ ở vào thời kỳ trước đây chừng 100 năm, nếu có thể nào thấy được những phương tiện giao thông di chuyển của ngày nay thì có lẽ họ đã phải ngạc nhiên đến giật mình. Họ hẳn phải sững sờ ngơ ngẩn ngắm nhìn những xa lộ với vô số đường chạy đầy những xe hơi xùng những xe chở hàng, và những phản lực cơ sáng loáng vút bay băng qua các đại dương tiến vào các lục đại Phi Châu, Châu Âu và Châu Á. Thực ra sự kiện phi thường kỳ lạ mà ngày nay chúng ta cho là thường tình tự nhiên thì đó cũng chỉ được phát triển torng vòng 50 năm mà thôi. Chẳng hạn như phim ảnh và phim màu mới có trong thập niên 1920, và vô tuyến truyền hình mới được thông dụng từ năm 1945. Hầu hết dân chúng đã được những tiến bộ này cũng là nhờ ở sự phát triển kỹ nghệ một cách quá mau chóng. * NGÀNH TRUYỀN TIN GIÚP CHO VIỆC NỐI LIỀN CHÂU MỸ VỚI CÁC NƠI TRÊN THẾ GIỚI - Các ngành điện tín làm cho thế giới trở nên nhỏ hẹp hơn. Như chúng ta đã biết ở chương XIV là điện tín đã được sử dụng từ thập niên 1840. Từ đó các đường điện tín gia tăng rất mau chóng, và nhờ có những phát minh mới mà người ta có thể gửi được nhiều điện tín cùng một lúc trên cùng một đường dây. Sau đó người ta lại cho rằng có thể sử dụng các đường điện tín để nối liền Hoa Kỳ với các nước khác trên thế giới. Một người Hoa Kỳ tên là Cyrus Field nghiên cứu một kế hoạch đặt mộ đường dây băng qua lòng đại dương. Đường dây này gọi là cable, là một cuộn dây do hai chiếc tàu, mỗi chiếc tàu đều khởi sự giăng một đầu dây từ giữa Đại Tây Dương, một tiến vào quần đảo Anh quốc, và một tiến về Hoa Kỳ. Lúc đầu, ông Field bị thất vọng nhiều lần vì đường dây nặng nề này cứ bị đứt hoài. Có một lần ông đã hoàn thành được việc đặt đường dây xuyên qua Đại Tây Dương, nhưng sau một tháng sử dụng, đường dây này cũng bị đứt. Cuối cùng, vào năm 1866, sau bao nhiêu lần cố gắng, người ta hoàn thành được đường dây nối liền Châu Mỹ với Châu Âu. Người ta không còn phải sử dụng tàu thuyền để gửi những thư từ quan trọng nữa, mà trái lại những bức thư quan trọng có thể gởi đi trong vòng vài phút là có thể đến tay người nhận ở cách xa hàng nhiều ngàn dặm đường biển. Cũng vào thời kỳ đó, người ta lại đặt thêm nhiều đường dây khác băng qua Đại Tây Dương nối liền Hoa Kỳ với các phần đất khác ở trên địa cầu. Các nhà báo, các nhà kinh doanh và các viên chức của nhà nước thường hay dùng các đường dây điện tín để gửi các thư từ điện tín của họ. - Người ta có thể truyền tiếng nói của loài người qua các đường dây. Ngay sau khi cuộc nội chiến vừa chấm dứt, có một thanh niên người Tô Cách Lan tên là Alexander Graham Bell tới Hoa Kỳ dạy những người câm và điếc. Ông Bell chú tâm nghiên cứu việc truyền tiếng nói của loài người qua các đường dây điện. Ông cặm cụi nghiên cứu công trình này trong nhiều năm. Một hôm, người phụ tá của ông Bell nghe được tiếng nói của ông qua một đường dây từ một văn phòng ở trên gác : "Tôi yêu cầu ông lại đây". Đây là lần đầu tiên tiếng nói của loài người được truyền qua một đường dây. Trong một cuộc triển lãm ở Philadelphia vào năm 1876, ông Bell trình bày chiếc điện thoại của ông với hình chóp trông thật kỳ lạ. Hầu hết những người đến xem cuộc triển lãm này đều coi công trình phát minh của ông là một đồ chơi thích thú. Tuy nhiên, ông Bell đã quyết định biến chế nó thành một chiếc máy hữu dụng. Ngay sau đó, ông Bell và người phụ tá của ông có thế nói chuyện với nhau qua một đường dây dài chừng hai dặm từ Boston đến Cambridge thuộc tiểu bang Massachusetts. Hai năm sau, tức vào năm 1878, lần đầu tiên người ta thật sự sử dụng điện thoại ở Hoa Kỳ, đó là ở New Haven, Connecticut. Giấc mơ của ông Bell đã được biến thành sự thật. Ông đã thực hiện được một chiếc máy thực dụng để truyền tiếng nói của loài người. Những chiếc máy điện thoại lúc ban đầu chỉ là những chiếc máy tầm thường nếu đem so sánh với những chiếc máy điện thoại của ngày nay. Đó cũng chính là những điểm mà một văn sĩ viết về những khó khăn trong việc nói chuyện bằng điện thoại torng cái thuở ban đầu : "Trước hết, bạn phải ghé mồm vào một vật hình ống khói để nói, rồi để ống đó sát vào tai để nghe. Muốn cho người đối thoại có thể nghe được, bạn phải la lớn giống như vị thuyền trưởng của chiếc tàu Gloucester gặp khi trời bão lớn. Không phải có tiếng nói của người sử dụng điện thoại truyền qua đường dây, mà hình như có hàng triệu âm thanh ghê gớm khác nữa cũng truyền qua đường dây. Nào là những tiếng than van rên rỉ những tiếng gào, thét, tiếng thì thầm, và đủ loại tiếng động ồn ào che lấp cả tiếng nói. Muốn gọi người đối thoại, không phải là bạn chỉ cần nhấc ống nghe lên như ngày nay, mà bạn phải dùng bút chì hay một vật gì khác gõ nhẹ vào cái màn chắn của ống nói. Cũng không có điện thoại riêng biệt. Việc nói chuyện trước hết là phải qua đường dây điện. Cảnh tượng ở tổng đài lúc đầu nhắc nhở chúng ta nhớ đến những người ở trong nhà thương điên, cái thời không còn có những cô gái nói lễ phép, nói nhỏ nhẹ ở nơi đây. Mà thật ra có những thanh niên đổ xô vào đây rối rít cặm cụi cắm các đầu dây vào các lỗ đường dây gọi tới để nối các đường dây cho người ta nói chuyện với nhau. - Điện thoại trở nên quan trọng torng đời sống hàng ngày của Hoa Kỳ. Máy điện thoại lúc đầu thật kỳ lạ, và sau đó luôn luôn được cải thiện, và sử dụng điện thoại càng ngày càng được mở rộng nhiều hơn. Mỗ năm, người ta lại đặt thêm nhiều đường dây điện thoại, và tại các gia đình cũng như ở các công tư sở càng ngày càng sử dụng điện thoại nhiều hơn. Đầu thế kỷ thứ XX, điện thoại trở nên rất quan trọng trong đời sống Hoa Kỳ. Đối với đa số dân chúng, điện thoại không còn là một thứ xa xỉ nữa, mà trái lại nó trở thành những thứ nhu cầu cần thiết. Người ta có thể gọi nói chuyện với những người ở thật xa. Ngay từ năm 1915, đã có đường điện thoại nối liền New York với San Francisco. Khi phát minh ra được điện thoại tự động, người ta có thể nói chuyện với người đối thoại mà không cần sự giúp đỡ của người làm ở tổng đài nữa. Vào đầu thập niên 1960, những người ở các vùng khác nhau có thể quay tự động nói chuyện với nhau cũng như nói chuyện với những người ở trong các thành phố xa xăm. Ngày nay, chúng ta có thể quay điện thoại nói chuyện với bất kì nơi nào ở trên thế giới một cách rõ ràng hơn là vào thời kỳ cách đây một thế kỷ, thuở đó người ta phải la thật lớn để nói chuyện với một người chỉ cách xa chừng một trăm thước thôi. - Hoa Kỳ và thế giới sử dụng máy vô tuyến điện. Ngày nay chúng ta rất khó mà tưởng tượng được rằng một nơi nào lại không có máy vô tuyến điện. Thật ra mãi tới năm 1920 đài phát thanh đầu tiên của Hoa Kỳ là KDKA mới được thiết lập ở Pittsburgh, và mãi tới nhiều năm sau đó thì các máy thâu thanh mới trở thành thông dụng. Tuy nhiên, lịch sử về vô tuyến điện đã bắt đầu từ thập niên 1890. Ông Marconi, một người Ý, khám phá ra một cách chuyển thư từ qua những làn sóng điện truyền đi trong bầu khí quyển. Chẳng bao lâu, ông có thể nói chuyện qua hệ thống vô tuyến điện giữa Anh quốc và Newfoundland. Trong một thời gian, thư từ chuyển qua đường vô tuyến điện bằng một hệ thống ký hiệu giống như những bức điện tín. Công trình phát minh nay được sử dụng nhiều nhất là các tàu đi biển, đặc biệt nhất là khi các tàu này gặp tai nạn. Rồi không bao lâu, các nhà khoa học cố gắng tìm cách truyền tiếng nói của loài người và âm nhạc qua không gian. Kết quả thành công tốt đẹp như chúng ta thấy như là vô tuyến điện ngày nay. Vô tuyến điện không những chỉ là điều thích thú mà còn có nhiều mục đích hữu ích nữa. Vô tuyến điện có thể chuyển âm nhạc, tin tức, kịch nghệ, tin thể thao và những tin tức khác đến với hàng triệu gia đình, Những báo cáo về thời tiết , thị trường, tin tức về an ninh, y tế, những lời lẽ kêu gọi lòng bác ái, diễn văn vận động chính trị cũng như các quảng cáo đều được truyền đi bằng vô tuyến điện cả. Một vài cơ sở kỹ nghệ có những hệ thống nói chuyện với dân chúng cũng dùng vô tuyến điện để truyền thanh. Những chiếc điện thoại hai hiều ở trong các xe taxi, xe hơi, tàu thuyền, máy bay hay điện thoại xách tay mà quân đội thường sử dụng đều làn hững hình thức quan trọng khác của vô tuyến điện trong ngành truyền tin cả. Những sử dụng đặc biệt khác là tín hiệu vô tuyến điện như radar ( mắt thân ) hay sonar (máy dò tiếng động) được các máy bay, tàu thuyền và tàu ngầm sử dụng để khám phá ra bất kỳ vật gì tới gần trước khi có thể nhìn thấy được. Việc di chuyển bằng đường hàng không được an toàn hơn vì rằng tín hiệu vô tuyến điện có thể giúp cho các phi cơ đi đúng đường, và đáp xuống các phi trường được an toàn vào những khi sương mù phủ kín cả phi trường. Những làn sóng vô tuyến điện có thể chuyển những hình ảnh cho báo chí cũng như phim ảnh mà ngày nay chúng ta gọi là vô tuyến truyền hình. - Vô tuyến truyền hình được phát triển mau chóng. Người ta đã phát minh ra vô tuyến truyền hình từ trước khi Đệ Nhị Thế Chiến bùng nổ. Nhưng mãi tới sau năm 1945 vô tuyến truyền hình mới trở nên thông dụng trong các gia đình. Vào đầu thập niên 1970, Hoa Kỳ đã có tới hơn 100 triệu máy vô tuyến truyền hình. Vô tuyến truyền hình chuyển các báo cáo, tin tức và các chương trình giải trí đến với mọi gia đình. Đồng thời, vô tuyến truyền hình cũng trở nên quan trọng ở trong các lớp học. Vô tuyến truyền hình cũng đã giúp cho việc tiến bộ kỹ nghệ ở Hoa Kỳ rất nhiều, vì rằng các công việc chế tạo, bán hàng, sửa chữa cũng như việc chuẩn bị các chương trình, tất cả đã tạo nên những cơ sở kỹ nghệ mới vĩ đại sử dụng biết bao nhiêu là nhân công. * CÁC ĐƯỜNG XE LỬA NỐI LIỀN CÁC VÙNG CỦA ĐẤT NƯỚC LẠI VỚI NHAU. - Gia tăng việc thiết lập đường hỏa xa. Trong khi việc truyền tin được phát triển mạnh thì việc di chuyển cũng được dễ dàng hơn. Các bạn đã học về các đường hỏa xa lúc đầu trong chương XIV. Sau khi cuộc nội chiến chấm dứt, hòa bình được tái lập thì có việc đẩy mạnh công cuộc thiết lập các đường hỏa xa. Các đường xe lửa ở miền Nam bị phá hoại trong thời chiến được sửa sang lại và mở rộng thêm. Miền Bắc và miền Trung cũng thiết lập thêm những đường xe lửa mới. Vì rằng Hoa Kỳ, là quốc gia đang bành trướng mau lẹ nên nhu cầu cần có đường hỏa xa lại càng lớn lao hơn bao giờ hết. Những làng mạc và đô thị mới suốt ngày inh ỏi với những hoạt động hỏa xa. Các nông trại càng ngày càng sản xuất nhiều nông phẩm, vá các nhà máy càng ngày càng chế tạo nhiều hàng hóa. Nhưng khởi lập một đường hỏa xa thì rất tốn kém. Phải làm lớp đường móng trước rồi mới đặt các đường rây, phải xây các nhà ga, rồi lại phải mua đầu máy xe lửa và các toa xe. Dầu sao thì cũng có một số người thấy rằng điều hành xe lửa là một cơ hội để làm giàu. Nhiều công ty được thành lập, và người ta khuyên dân chúng nên đầu tư vào việc mở mang đường hỏa xa. Phần lớn những người thiết lập các đường hỏa xa và những người bõ tiền ra đầu tư vào ngành đều được trả những số tiền lời khác lớn. - Các đường xe lửa ở miền Đông nối liền thành một hệ thống hỏa xa lớn. Những đường hỏa xa lúc đầu thì rất ngắn, chỉ là những đường nối liền hai hay ba thành phố lớn với nhau thôi. Và cũng có rất ít đường như vậy. Như vậy có nghĩa là việc chuyển vận hàng hóa và hành khách đi rất xa là trì trệ và bất tiện. Nếu phải đi những đường khác nhau thì người ta phải bốc dỡ dàng hóa chuyển từ những toa xe này sang những toa xe khác. Nếu phải chuyển vận hàng hóa đi xa thì người ta phải mất nhiều lần bốc dỡ hàng hóa sang các toa xe khác. Chẳng hạn như khi mới có đường xe lửa, nếu phải chuyển vận hàng hóa từ New York đến Chicago người ta phải mất 19 lần bốc dỡ hàng hóa chuyển qua các toa xe khác. Người đầu tiên nối liền nhiều đường hỏa xa ngắn lại thành một đường chính là là ông Cornelius Vanderbilt, một vị cựu thuyền trưởng. Bằng cách mua và thống nhất nhiều đường xe lửa ngắn ở trong tiểu bang New York, ông Varderbilt đã phát triển thành một hệ thống lớn các đường hỏa xa gọi là hệ thống New York Trung ương. Gần tương tự như vậy, các đường hỏa xa ở Pennsylvania cũng được hợp nhất lại thành một hệ thống thiết lộ Pennsulvania. Đường hào xa Baltimore và Ohio cũng là một hệ thống thiết lộ quan trọng vào lúc đầu. - Đường hỏa xa phải đương đầu với sự cạnh tranh của các ngành chuyển vận mới. Thời kỳ cuối thế kỷ thứ XIX và đầu thế kỷ thứ XX hỏa xa là phương tiện giao thông quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Và cũng từ đó hỏa xa luôn luôn được cải tiến. Những đầu máy to lớn chạy bằng hơi nước phùn phụt phun khói được thay thế bằng những đầu máy chạy bằng dầu hay bằng điện. Xe hỏa chuyển vận không biết bao nhiêu là hàng hóa từ nơi này đến nơi khác. Trong vòng 50 năm vừa qua khả năng chuyên chở của xe lửa đã gia tăng ghê gớm. Xe lửa đã góp phần rất nhiều cho đất nước vào việc phục vụ trong cả hai cuộc thế chiến. Nhưng sau này xe hơi với những xa lộ tối tâm và sự chuyên vận bằng đường hàng không càng ngày càng được mở rộng đã làm giảm bớt rất nhiều khách hàng của ngành hỏa xa. * XE HƠI XUẤT HIỆN Ở HOA KỲ - Loại xe không có ngựa kéo thay thế các loại xe ngựa. Không thế nào torng một ngày lại có thể phát minh ra xe hơi được. Một số người ở Hoa Kỳ cũng như ở Châu Âu đã từng nghiền ngẫm nghiên cứu một loại xe không có ngựa kéo, một kiểu xe chạy được là do sức đẩy của động cơ. Một vài chiếc xe đã chạy được bằng cách dùng hơi nước đẩy. Có những chiếc xe khác chứng tỏ thành công hơn nhờ áp dụng những phát minh mới, đó là việc sử dụng đầu máy chạy bằng ét săng. Trong thập niên 1890, Hoa Kỳ có những nhà thí nghiệm khoa học như các ông George Selden, Charles Duryea, Elwood Haynes, Alexander Winton, và Henry Ford. Ngay sau năm 1900, người ta đã thấy xe hơi bắt đầu xuất hiện ở trên các đường xá. Lúc đầu xe hơi được coi như một sự kỳ lạ và nó cũng gây ra nhiều rắc rối phiền toái. Mỗi lần xe trục trặc là có nhiều người đến xem và la ó "Thôi hãy kiếm một con ngựa cho rồi". Người lái chiếc xe kỳ lạ này là một tay phù thủy có biệt tài về máy móc, vì rằng lúc đó không có trạm xăng ở dọc đường để cung cấp xăng nhớt, và sửa vá bánh xe hay các bộ phận hư. Đường xá thì rất tệ, gặp khi thời tiết khô ráo thì đầy những cát bụi khiến cho người đi xe phải mặc áo choàng và đeo kính để che bớt bụi bặm khỏi bám vào người và vào mắt. Tuy nhiên, nhờ hàng loạt các phát minh mới nên người ta đã có thể chế tạo được những chiếc xe hơi tốt đẹp và bán với giá rẻ hơn. Xe hơi không còn là một thứ đồ chơi nữa, mà là một thứ nhu cầu thiết dụng hàng ngày trong đời sống Hoa Kỳ. - Những thí nghiệm của ông Goodyear về cao su đã làm cho việc chế tạo bánh xe hơi được thành công. Nếu không có biết bao nhiêu là công trình phát minh và phát triển thì không thể nào có được những chiếc xe hơi như ngày nay. Loại thép đặc biệt, crom và những loại kim loại khác đã được chế biến để chế tạo các bộ phận xe hơi. Hệ thống điện cũng được cải thiện để thắp sáng và sưởi ấm cũng như hâm nóng xe để cho động cơ chạy cho êm. Người ta lại còn biến chế ét săng để chạy với loại động cơ mạnh. Một trong những nhu cầu lớn nhất là phải có bánh xe co dãn được thì xe mới có thể chạy nhanh và êm được. Chúng ta phải nhớ tới một người ở vùng Tân Anh tên là Charles Goodyear, vì nhờ có công trình khám phá của ông mà ngày nay xe hơi của chúng ta mới có những chiếc bánh xe dễ dàng chạy được như vậy. Dù rằng ông Goodyear đã chết vào năm 1860, nhưng trước khi người ta khám phá xe hơi thỉ chính ông đã tìm ra được phương pháp làm cho cao su rắn chắc. Từ thời Columbus, người Da trắng đã biết cao su nguyên chất. Nhưng lúc bấy giờ người ta không sử dụng cao su vì thời tiết và nhiệt độ thay đổi thì cao su cũng bị ảnh hưởng theo. Trời lạnh thì nó trở nên giòn và rất dễ bể vỡ, và mùa hè thì nó lại hóa ra dẻo và nhớp nháp. Ông Charles Goodyear gần như tận tụy suốt đời để thí nghiệm cao su với hy vọng vượt qua những nhược điểm này. Vì phải tiêu pha nhiều tiền trong các cuộc thí nghiệm mà ông lâm vào cảnh nghèo túng. Ông phải vay tiền của các bạn bè để tiếp tục các cuộc thí nghiệm. Có một lần ông đã phải bán hết đồ đạc trong nhà để lấy tiền, rồi lại một lần khác, ông phải bán cả sách học của đàn con ông. Ông chế tạo giày cao su và dùng nó. Rồi ông lại chế tạo một chiếc áo choàng bằng cao su để mặc khiến cho ngoài phố người ta nhìn ông bằng đôi mắt chể giễu. Dù gặp phải nhiều khó khăn, ông vẫn tiếp tục tiến hành. Ông biết rằng nếu chế thêm sulfur vào cao su thì cao su không còn trở thành dính nhớp nháp vào những khi tăng nhiệt độ. Một hôm, ông nhỏ vài vài giọt cao su lên bếp nấu, ngẫu nhiên ông khám phá ra rằng sức nóng sẽ làm cho cao su trở nên rắn hơn và tốt đẹp hơn. Ông cố gắng thí nghiệm với những nhiệt độ khác nhau cho tới khi ông có được một loại cao su không còn bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhiệt độ nữa. Phương pháp này gọi là phương pháp lưu hóa, và đã trở nên rất có giá trị để chế tạo bánh xe, khi mà xe hơi ra đời. Công trình này đã đưa đến việc phát triển kỹ nghệ cao su ở Hoa Kỳ. Trong thời Đệ nhị Thế chiến, nguồn cung cấp cao su thiên nhiên của Hoa Kỳ bị quốc gia thù địch ngăn chặn, các nhà khoa học và kỹ nghệ Hoa Kỳ phái biến chế cao su tổng hợp. Sau chiến tranh, cao su thiên nhiên lại được nhập cảng, nhưng người ta lại chế tạo nhiều vật dụng bằng cao su tổng hợp. * PHI CƠ LÀM CHO VIỆC DI CHUYỂN ĐƯỢC MAU CHÓNG. - Loài người học bay. Xe lửa và xe hơi cũng vẫn không làm cho nhân loại dừng lại trên đường đi tìm phương tiện di chuyển mau chóng hơn. Đã từ mấy trăm năm loài người hằng mơ ước có thể bay lượn được ở trên không trung. Đầu thế kỷ thứ XIX, người ta đã biết sử dụng khinh khí cầu. Người Anh, người Đức và người Hoa Kỳ đã thí nghiệm để chế tạo phi cơ. Nhưng mãi tới khi phát minh ra đầu máy chạy bằng ét săng thì người ta mới chế tạo được phi cơ tân kỳ. Nhìn chim muông bay lượn trên không trung, ông Samuel Langley, một nhà khoa học Hoa Kỳ tự hỏi "Tại sao loài người lại không bay lượn như loài chim?" Ông cố gắng chế tạo nhiều loại máy bay nhưng không có cái nào bay được cả. Qua nhiều cố gắng thí nghiệm nhưng đều thất bại, ông Langley đành bỏ cuộc. Sau đó những nhà phát minh khác cũng thí nghiệm với những loại máy nặng hơn. Nhưng cái vinh dự của công trình chế tạo máy bay đầu tiên lại thuộc về hai anh em thợ máy trẻ tuổi Wilbur và Orville Wright ở Dayton, Ohio. Hai nhà chuyên viên cơ khí này đã chú ý nghiên cứu thí nghiệm máy bay từ thuở thiếu thời. Tháng Chạp năm 1903, hai anh em ông thành công trong việc thí nghiệm cho bay một chuyến bay ở Kittyhawk thuộc North Carolina. Trong lần thí nghiệm thứ tư, ông Wilbur Wright cho bay một chuyến bay lâu 59 giây và bay được một đoạn đường dài 852 bộ. Giấc mơ bay lượn của loài người đã trở thành sự thật. - Những người tiên phong trong ngành hàng không đã chứng tỏ rằng loài người có thể bay lượn được. Loài người phải mất nhiều năm cố gắng nghiên cứu để hoàn thành một chiếc máy bay. Cuối cùng, người ta cho rằng dù cho không lao vào không gian thì ở dưới đất loài người cũng có thể bị giết hại hay bị thương bằng nhiều cách. Nhưng việc phát minh ra xe lửa và xe hơi đã làm cho công việc di chuyển được mau chóng, thì còn cố gắng chế tạo máy bay để làm gì ? Tuy nhiên, Đệ nhất Thế chiến, phi cơ đã được sử dụng để do thám và chiến đấu. Trong thập niên 1920, người ta cho thiết lập nhiều pho trường và xếp đặt những chuyến bay chạy như thường lệ. Nhiều chuyến bay gây nên nhiều thích thú đã khiến cho người ta chú ý nhiều đến việc có thể di chuyển bằng đường hàng không. Tháng 5 năm 1927, một thanh niên phi công chạy thư tên là Charles Lindburgh một mình bay một chuyến bay không ngừng lâu hơn 30 giờ từ Long Island đi Paris. Bốn năm sau, các ông Wiley Post và Harold Gatty làm mọi người ngạc nhiên bằng một chuyến bay vòng quanh thế giới trong 8 ngày. Cô Amelia Earhart là người phụ nữ đầu tiên một mình bay vượt Đại Tây Dương, và 3 năm sau tức là vào năm 1935, cô lại một mình bay từ Honolulu tới California. Cuộc đời bay của cô chấm dứt một cách bi thảm vào năm 1937, chiếc máy bay của cô đã biến mất trong một chuyến bay vượt Thái Bình Dương. - Phi cơ đã làm thay đổi rất nhiều torng công việc chuyển vận. Trong thập niên 1930, việc di chuyển bằng đường hàng không đã trở nên rất thông dụng. Tuy nhiên, mãi đến thời Đệ nhị thế chiến người ta mới thực hiện được những tiến bộ ghê gớm ở trong ngành hàng không. Những cơ xưởng vĩ đại sản xuất hàng ngàn chiến đấu cơ và oanh tạc cơ. Càng ngày người ta lại càng chế tạo ra nhiều kiểu phi cơ mới. Và mỗi kiểu mới ra lại lớn hơn và bay nhanh hơn kiểu cũ. Người ta xử dụng Rocket (hỏa tiễn) để làm cho việc cất cánh được mau chóng hơn, và bây giờ thì người ta tiến đ61n việc sử dụng phi cơ phán lực. Sau năm 1945, người ta áp dụng những phương thức mới để bay trong thời bình. Các đường hàng không điều hành những chuyến bay thường lệ vận chuyển hành khách đi khắp nơi trong đất nước Hoa Kỳ cũng như ở khắp mọi nơi trên thế giới. Những con số hành khách dưới đây cho ta thấy việc di chuyển bằng đường hàng không trở nên rất là thông dụng. Tính đến năm 1950, mới khoảng chừng 20 năm hoạt động, các đường hàng không Hoa Kỳ đã chuyên chở tới người hành khách thứ 100 triệu. Bốn năm sau, con số hành khách lên tới 200 triệu, và ngày nay, hàng năm hàng không Hoa Kỳ chuyên chở tới 60 triệu hành khách. Nhờ việc sử dụng phi cơ phản lực với tốc độ 600 dặm một giờ mà thời gian bay trên các quãng đường dài đã được rút giảm đi nhiều.Trong thập niên 1970, nhiều quốc gia đã bắt đầu cho dùng loại máy bay siêu thanh để chuyển vận trong ngành hàng không. Dùng loại phi cơ này sẽ bay nhanh hơn các loại phi cơ đang dùng ngày nay gấp nhiều lần, và mỗi chiếc máy bay có thể chở được hơn 300 hành khách. * NHỮNG CẢI THIỆN TRONG NGÀNH GIAO THÔNG VÀ CHUYỂN VẬN ĐÃ GIÚP CHO VIỆC PHÁT TRIỂN KỸ NGHỆ HOA KỲ. Thật là dễ dàng cho ta nhận thấy rằng những hình thức mới về chuyển vận, giao thông và truyền tin đã ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người dân trung bình ở Hoa Kỳ. Nhưng tại sao những thay đổi torng ngành chuyển vận, giao thông và truyền tin lại rất quan trọng trong việc mở mang kỹ nghệ của Hoa Kỳ? Ta hãy lấy một nàh kinh doanh ở Detroit làm thí dụ. Ông ta là một viên chức của một công ty lớn sản xuất xe hơi ở đây. Muốn chế tạo xe hơi, ông ta phải đặt mua thép ở Pittburgh hay Chicago, cao su ở Akron, các đồ điện ở Toledo. "Các cơ sở ráp máy", nơi mà người ta ráp xe hơi, ở rải rác khắp mọi nơi trên địa cầu. Những nơi đó có thể là ở Los Angeles, New York. Nhà kinh doanh này cần phải được người ta giao cho các vật liệu một cách mau chóng. Xe lửa tốc hành và các xe vận tại hạng nặng đảm nhận việc này. Máy đánh chữ (xuất hiện vào thập niên 1870) có thể giúp cho các nhà kinh doanh lưu giữ hồ sơ và giao dịch với các nàh kinh doanh khác. Nhưng nếu ông ta phải làm nhanh chóng mau lệ, ông ta có thể dùng điện thoại nói chuyện với hành khách hay những nhà kinh doanh khác ở mãi nơi xa xăm. Thường thì ông ta phải đi thăm các nhà máy của ông ta hay các nhà máy của công ty cung cấp vật liệu cho ông ta. Những chuyến xe lửa tốc hành hay phi cơ có thể giúp cho ông ta di chuyển đến các thành phố khác một cách dễ dàng và nhanh chóng. Không có hệ thống giao thông truyền tin và chuyển vận vĩ đại như vậy thì nền kỹ nghệ của Hoa Kỳ chắc sẽ không thể nào điều hành được như vậy. Những cải tiến về chuyển vận truyền tin và giao thông đồng thời cũng tạo nên một số kĩ nghệ mới. Chúng ta hãy suy nghĩ về tất cả những nguyên liệu cần để chế tạo xe lửa, xe hơi, máy bay, điện thoại và vô tuyến điện. Chúng ta hãy nghĩ đế những nhà máy vĩ đại và những máy móc để biến chế những nguyên liệu thành các bộ phận. Chúng ta hãy nghĩ đến toàn công nhân được huấn luyện để ráp các bộ phận, để điều hành xe lửa, xe vận tải, máy bay, và để sửa xe hơi, điện thoại và vô tuyến điện. Khi các bạn tổng kết tất cả những người tham dự vào việc chế tạo và điều hành tất cả những phương tiện mới trong ngành giao thông, truyền tin và chuyển vận, thì các bạn có thể thấy rằng một số lớn nhân công Hoa Kỳ làm việc ở trong các ngành này. PHẦN IV NHỮNG PHƯƠNG PHÁP KINH DOANH ĐÃ THAY ĐỔI THEO SỰ PHÁT TRIỂN KỸ NGHỆ NHƯ THẾ NÀO? * CÁC NHÀ KINH DOANH THIẾT LẬP NHỮNG NHÀ MÁY KỸ NGHỆ VĨ ĐẠI Chúng ta thấy rằng sua năm 1865, ở Hoa Kỳ nhờ có nhiều tài nguyên thiên nhiên, nhờ việc hàng hóa được sản xuất hàng loạt, nhờ việc chuyển vận và giao thông được nhanh chóng, và nhờ có sự phát triển tổ hợp công ty, tất cả đã làm cho việc phát triển kỹ nghệ được thuận lợi. Trong những năm vào cuối thế kỷ thứ XIX, những hoạt động của một số nàh kinh doanh cũng đã giúp cho việc ở mang kỹ nghệ ở Hoa Kỳ rất nhiều. Thường thì chỉ cần có một trong các nàh kinh doanh này với sự khôn ngoan và can đảm cũng có thể đứng ra thành lập và điều khiển một công ty to lớn, và làm nên một sự nghiệp vĩ đại. Chúng ta hãy nhìn vào cuộc đời của ba nhà kỹ nghệ thành công nhất ngày nay. - Ông James J. Hill, một nhà kinh doanh thiết lập đường xe lửa. Mộ trong những người đáng kể nhất trong ngành kỹ nghệ xe lửa là ông James J. Hill. Ông James Hill ra đời vào năm 1838 trong một căn nhà gỗ tại một tiểu nông trại ở Gia Nã Đại. Trong một nông trại nhỏ như vậy, ông James phải tham dự làm nhiều công việc nặng nhọc. Sau khi thân phụ ông từ trần, ông James quyết định thử thời vận. Ông đến Hoa Kỳ bằng một chuyến tàu chở hàng hóa. Ông đã làm rất nhiều công việc và dần dần đi đến ST. Paul thuộc Minnesota. Ở đây ông làm cho công ty tàu chạy biển và hảo xa. Tới khi chừng 40 tuổi, ông cũng không làm gì khác hơn thường lệ. Ông có những tư tưởng rất vĩ đại, nhưng không ai chịu nghe theo ý kiến của ông cả. Mộ trong những tư tưởng của ông là mở mang vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Chính ông Hill đã dùng xe lửa và xe có chó kéo đặt chân lên hầu hết các nơi ở trong các vùng này. Sau cùng, ông thuyết phục một số người chiếm được đường hỏa xa, nơi mà ông đang làm việc và ông được bầu làm tổng quản lý đường xe lửa này. Lúc bấy giờ, tình trạng của con đường này rất tệ và chẳng có gì là hứa hẹn cả. Ấy thế mà từ cái khởi đầu khiêm tốn này, ông James Hill đã thiết lập được thành một đế quốc hỏa xa. Cái bí mật của sự thành công của ông là : ở nơi ông hiểu rõ rằng nếu con đường xe lửa của ông có thành công được thì rải rác ở khắp miền Đông Bắc phải có những nông trại trù phú. Cho nên ông thu xếp để cho những người muốn đi lập nghiệp đi thăm viếng các vùng đồng quê. Ông cho nhập cảng các nông súc và ngựa ở Âu Châu để khuyến khích việc chăn nu6oi nông súc và trợ giúp nông dân mua hạt giống và nông cơ với giá cả và điều kiện phải chăng. Ông thu xếp để gởi hàng trăm thiếu niên đi học về khoa canh nông. Vào khoảng năm 1893, dưới quyền điều khiển của ông, hệ thống Đại Bắc Hỏa Ca chạy từ ST. Paul Minnesota đến Seatle, Washington. Trong những năm sau này, ông James Hill năm quyền kiểm soát hầu hết các đường hỏa xa ở Tây Bắc. Tổng số đường xe lửa lên đến 20 ngàn dặm. - Ông Andrew Carnegie, nhà chế tạo thép. Hoa Kỳ trở thành quốc gia kỹ nghệ phần lớn là do khả năng sản xuất những khối lượng tháp khổng lồ. Đường rày xe lửa, xe hơi, đủ các loại máy móc và các tòa nhà cao rộng, tất cả đều làm bằng thép cả. Từ bao nhiêu thế kỷ, người ta đã biết rằng sắt không có tính chất cứng và bền như thép, nhưng thép thì mắc quá nên không được sử dụng rộng rãi. Người ta biết rằng có thể lọc một số chất bẩn ở sắt ra để biến thành thép, nhưng người ta lại chưa tìm được những phương pháp rẻ tiền để lọc những chất bẩn ở sắt ra. Trong thập niên 1850, một người Anh tên là William Kelly, mỗi người tìm ra được một phát minh, làm nhiều người phải ngạc nhiên. Cùng thí nghiệm trên cùng một chất liệ giống nhau nhưng ở những nơi cách biệt nhau, hai ông này đã khám phá ra rằng nếu thổi một luồng không khí vào một dung dịch sắt nấu chảy thì có thể loại bỏ được những chất bẩn trong sắt. Phương pháp chế tạo thép này rất dễ dàng và ít tốn kém, cho nên người ta có thể sản xuất được những khối lượng thép khổng lồ với giá rất rẻ. Tuy nhiên, biệc phát triển mau chóng trong ngành kỹ nghệ théo ở Hoa Kỳ phần lớn là do công ơn của một người buôn bán thép chứ không phải của những người chế tạo thép. Ông Andrew Carnegie là một thiếu niên nghèo người Tô Cách Lan. Năm 1848, lúc đó ông mới 13 tuổi, ông theo cha mẹ sang Hoa Kỳ. Khởi đầu, ông làm việc cho một nhà máy dệt ở Pennsylvania, với số lương một tuần chỉ có một Mỹ kim và 20 xu. Rồi ông vào làm việc tại một phòng điện tín của một công ty hỏa xa. Ông làm thư ký cho một viên chức hỏa xa. Nhờ chịu khó làm việc và thông minh, ông Carnegie đã thành công mau lẹ trong giới kinh doanh. Từ phạm vi thiết lập các đường xe lửa, ông tiến sang lãnh vực xây cầu. Vì thép giữ vai trò quan trọng trong cả hai ngành kỹ nghệ này nên ông quay ra chú ý tới kỹ nghệ thép. Carnegie là người can đảm và thông minh. Ông quyết định đem hết sự nghiệp và tương lai đầu tư vào kỹ nghệ sản xuất thép bằng phương pháp mới do các ông Kelly và Bessemer khám phá ra. Ông Carnegie đã thành công ghê gớm. Vào khoảng năm 1900, công ty thép Carnegie, tổng hành dinh ở Pittburgh, Pennsylvania, là một công ty sản xuất thép nhiều nhất ở Hoa Kỳ. Muốn giữ cho các lò nấu thép này chạy đều, ông Carnegie phải mua một khu mỏ sắt ở vùng Thượng Ngũ Hồ. Đồng thời ông cũng kiểm soát một đoàn tàu chuyên chở quặng sắt từ hồ Erie đến lò nấu sắt ở Pittburgh. Năm 1901, ông Andrew Carnegie về hưu. Ông đem bán hết các cơ sở kinh doanh thép đang phát triển mạnh của ông, đó là công ty thép Hoa Kỳ (The United State Steel Corporation) một công ty sảnh xuất thép lớn nhất. Ngày nay, người ta còn nhớ đến ông Carnegie không phải chỉ vì sự thành công vĩ đại của ông torng công việc kinh doanh mà còn vì những món quà to lớn lấy từ gia tài kếch xù của ông để hiến cho dân chúng. Nhiều đô thị, thành phố Hoa Kỳ dùng tiền của ông Carnegie để thiết lập thư viện công cộng. - Ông John D. Rockefeller, người sáng lập công ty Standard Oil. Trong khi việc chế tạo sắt đang được ông Carnegie cách mạng thì nền kỹ nghệ tân kỳ khác ở Hoa Kỳ cũng được khởi lập. Dầu hỏa có rất nhiều ở Pennsylvania. Ở một vài nơi dầu rỉ ra thấm qua các lớp đất hoặc là tạo thành một lớp bọt váng ở trên mặt các nhánh sông. Đôi khi nông dân ở trong vùng hớt những lớp bọt váng này để dùng làm mỡ bôi vào trục các toa xe; và một số người khôn ngoan còn đem đóng thành chai đem bán như bán thuốc. Tuy nhiên, mãi cho tới khi nhà khoa học Benjamin Silliman thí nghiệm thì không có ai hiểu được giá trị của dầu hỏa. Ông Silliman thấy rằng người ta có thể lọc được dầu hỏa và có thể dùng dầu hỏa để thắp sáng. Năm 1839, người ta đào được giếng dầu đầu tiên ở Titusville, Pennsylvania. Tin tức về sự thành công trong việc đào các giếng dầu cũng có rất nhiều ảnh hưởng như việc khám phá ra vàng ở California. Đây là một cơ hội giúp cho người ta làm giàu lớn. Dân chúng torng khắp nước sẽ dùng dầu hỏa để thắp sáng thay vì dùng đèn cày và dầu cá voi. Cho nên có cả hàng ngàn người đổ xô tới Pennsylvania để đi tàm dầu. Chưa đầy nửa tháng đã thấy có nhiều giếng dầu và các giàn giếng dầu rải rác khắp trong vùng. Vùng phía Tây Pennsylvania trở thành trung tâm của nền kỹ nghệ mới này. Các thị trấn và thánh phố mọc lên như ảo thuật, và các nhà máy lọc dầu bắt đầu xuất hiện. Cũng vào thời kỳ này, ông Joh D. Rockefeller, một thương gia ở Cleveland, lúc đó mới 25 tuổi, chú ý tới dần hỏa. Ông muốn kiểm soát toàn thể công việc lọc dầu. Khởi đầu với một nhà máy lọc dầu, ông Rockefeller và các cộng sự viên hoạt động cho đến thập niên 1880 đã kiểm soát được tới 90 phần trăm các cơ sở lọc dầu ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ông Rockefeller vẫn chưa chịu nhưng lại ở đây. Ông mua các nàh máy làm thùng. Ông kiểm soát hầu hết các ống dẫn dầu từ giếng dầu về, ông cho xây các nhà kho chứa dầu từ giếng dầu về, ông cho xây các nhà kho chứa dầu. Đồng thời, ông tổ chức một lực lượng lượng hùng mạnh để bán các sản phẩm dầu của công ở hầu hết mọi nơi trong nước. Vào khỏang thập niên 1900, ông Rockefeller và công ty Standard Oil thực tế đã kiểm soát tất cả các công việc kinh doanh dầu hỏa ở Hoa Kỳ. Ông Rockefeller có thể độc quyền về dầu hỏa nhờ khả năng tài chánh của công ty dầu của ông. Trong những năm đầu, thay vì đem chi tiêu hết các khoản tiền lời thì ông lại cố gắng giữ lại nhiều tiền. Ông khuyên các cộng sự viên của ông cũng nên làm như vậy. Ông nói "Hãy lấy ra những gì bạn kiếm được để các bạn sống và để lại những khoản tiền còn lại trong đó. Đừng mua quần áo mới, đừng tậu ngựa chạy nhanh, hãy để cho bà xã của bạn mang chiếc mũ năm rồi". Nhờ sự tằn tiện này mà ông Rockefeller đã có tiền mua hết được các cơ sở lọc dầu của các công ty khác. Thực ra đã có nhiều người cố gắng mở mang kỹ nghệ dầu, nhưng rốt cuộc cũng phải bán hết cho ông Rockefeller. Nếu họ từ chối không bán cho ông thì ông sẽ bán dầu với giá hạ khiến cho đối phương của ông phải phá sản. Những món tiền mà ông dành dụm được mang sẵn bên ông dù rằng ông chấp nhận phải bán dầu lỗ. Vào cái thời kỹ nghệ Hoa Kỳ đang phát triển mạnh này thì sự cạnh tranh cắt cổ như vậy rất là thông dụng. Dù rằng việc sử dụng đèn điện đã làm giảm mức tiêu thụ dầu hỏa, nhưng ở Hoa Kỳ, kỹ nghệ dầu hỏa vẫn mở mang đều đều. Việc phát minh ra động cơ chạy bằng ét săng đã làm cho nhu cầu dầu hỏa càng trở nên quan trọng. Trong những năm gần đây, người ta lại càng sử dụng dầu hỏa để sưởi ấm trong gia đình cũng như ở trong các tòa nhà ở trong các công tư sở. Vào khoảng đầu thập niên 1970, số dầu lửa do các công ty dầu hỏa của Hoa Kỳ sản xuất lên tới 12 tỷ Mỹ kim mỗi năm. Những gì mà các ông Hill, Carnegie và ông Rockefeller đã làm để mở mang và phát triển kỹ nghệ Hoa Kỳ chỉ là một phần trong câu chuyện về vấn đề kinh doanh và kỹ nghệ. Các nhà kinh doanh khác cũng đã khởi nghiệp từ một hoàn cảnh và địa vị rất khiêm tốn để mở mang kỹ nghệ và đạt được sự nghiệp và danh vọng không kém gì các nhà kinh doanh trên đây... Đôi khi họ sử dụng những phương pháp tàn ác và ích kỷ mà luật lể của chúng ta ngày nay không cho phép làm như vậy. Dầu sao thì chúng ta cũng phải nhìn nhận rằng nhờ vào khả năng nghị lực và lòng can đảm của các nhà kinh doanh trên đây mà chúng ta mới có được một nền kỹ nghệ như ngày nay. * THẾ KỶ CỦA CHÚNG TA (THẾ KỶ XX) LÀM THAY ĐỔI NHỮNG PHƯƠNG PHÁP KINH DOANH. Trong thế kỷ thứ XX này, nền kỹ nghệ Hoa Kỳ còn đang tiếp tục mở mang. Phần lớn, việc phát triển này là do sự thay đổi nhiều torng những phương pháp kinh doanh. Chúng ta hãy nói sơ lược một vài trường hợp dưới đây. - Con số tổ hợp (công ty) đã gia tăng. Không phải chỉ có kỹ nghệ sản xuất thép và dầu hỏa, mà hầu hết các tổ chức vĩ đại về các ngành kỹ nghệ khác cũng đã phát triển mạnh. Sư việc phải như vậy vì rằng những công ty vĩ đại với số vốn khổng lồ có thể sản xuất hàng loạt một cách hữu hiệu để bán với giá rẻ, và còn tìm cách sản xuất những sản phẩm mới. Đôi khi những tổ chức kinh doanh vĩ đại này mua hết các công ty nhỏ. Có khi thì lại có hai hay ba công ty nhỏ liên kết lại để thành lập một công ty lớn hơn. Ngày nay cũng vậy, càng ngày càng có nhiều tổ hợp khổng lồ, không phải chỉ có sản xuất một thứ hàng hóa mà còn sản xuất nhiều thứ hàng hóa khác nữa. Mặc dù có chiều hướng tiến đến những tổ chức kinh doanh lớn hơn, nhưng có điều đáng ghi nhận rằng vào cuối thập niên 1950, 90 phần trăm các công ty kỹ nghệ sản xuất trong các ngành kỹ nghệ lớn lại chỉ sử dụng không tới một trăm công nhân. - Công việc điều hành kinh doanh cũng đã thay đổi. Ngày nay, một người mà thiết lập và điều khiển một tổ chức kinh doanh lớn là một chuyện bất thường. Như các bạn đã biết rằng các công ty cần phải có người mua cổ phần. Vào khoảng năm 1973, có chừng 31 triệu người Hoa Kỳ mua cổ phần của các công ty. Thí dụ như công ty điện thoại và điện tín Hoa Kỳ có tới hơn 2 triệu cổ đông viên. Những người thực sự điều hành các tổ chức kinh doanh lớn là những người quản lý được huấn luyện rất kỹ và được trả lương. Họ đem hết tâm trí và khả năng nghề nghiệp ra để cải tiến xí nghiệp và làm tăng gia lợi tức cho xí nghiệp. - Các xí nghiệp tài trợ các công cuộc khảo cứu khoa học. Các nhà kinh doanh và kỹ nghệ nhận thức được tầm quan trọng của khoa học torng thời đại của chúng ta ngày nay. Nhiều công ty đã tài trợ cho các trường đại học và các tổ chức khoa học để nghiên cứu khoa học. Nhiều cơ sở kỹ nghệ lớn có các phòng thí nghiệm riêng để các nhà khoa học nghiên cứu phương cách cải thiện các sản phẩm hiện hữu để chế biến những sản phẩm mới. Thí dụ như các nhà khoa học chuyên môn về khảo cứu làm việc torng một công ty sản xuất nylon, một loại hàng tổng hợp dùng để may quần áo, dù, bàn chải, dây thừng, chỉ và các sản phẩm khác. Nhờ việc phát minh ra nylon, mà nhiều hàng vải tổng hợp hữu dụng khác cũng được biến chế tại các phòng thí nghiệm ở trong các cơ sở kỹ nghệ. Việc khảo cứu của một ngành của môn điện là điện tử cũng đã mở ra một nền kỹ nghệ mới. Vô tuyến truyền thanh và vô tuyến truyền hình chỉ là những phát minh quen thuộc torng ngành điện tử. Trong những phương thức về điện tử khác như mắt thần (radar), tia X và máy tính với bộ óc điện tử có thể giải quyết được những bài toán rắc rối, phức tạo trong vài giây đồng hồ. Những vũ khí mới và các vệ tinh nhân tạo phần lớn tùy thuộc vào các phương thức điện tử. Các nhà khoa học và kỹ sư luôn luôn nghiên cứu những phương cách mới để áp dụng kiến thức về điện tử, và phát minh ra những đồ dùng mới để sử dụng kiến thức này. Vì thế mà một số lớn tổ chức kinh doanh trong ngành điện tử được thiết lập. - Phát triển những phương pháp bán hàng mới. Trong những năm gần đây, nhiều cơ sở bán hàng mới đã hiến cho khách hàng những dịch vụ thuận tiện hơn. Các siêu thị được thiết lập ở các khu bán thực phẩm và các sản phẩm khác trên một dãy dài, nơi mà khách hàng đi qua và có thể dễ dàng nhìn thấy những món hàng dễ lựa. Trong những thập niên 1940, 1950 người ta thấy xuất hiện những trung tâm mua bán, nơi mà người ta tập trung nhiều loại tiệm bán hàng lại như siêu thị, tiệm thuốc và tạp hóa, tiệm quần áo... Những trung tâm mu bán này thường ở vùng ngoại ô thành phố để có thể có nhiều chỗ đậu xe. Như vậy các gia đình có thể lái xe đến đó và có thể mua đủ mọi thứ hàng cùng một lúc. Các tiệm bán hạ giá và nhiều nhà hàng khác bán một vài loại hàng hóa với giá thấp hơn giá liệt kê ở trên giấy tờ. Thường thường thì họ đòi phải trả bằng tiền mặt để tránh né phải phục vụ khách hàng những gì khác ngoài việc chỉ bán những sản phẩm đồ thôi, và cũng là để loại bõ việc trả lại hàng hóa. - Quảng cáo đã phát triển mạnh. Cùng với những phương pháp bán hàng mới, người ta lại thấy có sự gia tăng sử dụng quảng cáo. Muốn bán được thật nhiều hàng hóa, nhà kỹ nghệ phải quảng cáo sản phẩm kỹ nghệ của ông ta với khách hàng. Năm 1900, chỉ có một số ít công ty quảng cáo sản phẩm với toàn quốc. Lúc đó có lẽ không quá 12 hay 15 công ty điều hành các công việc quảng cáo, và hầu hết việc quảng cáo được giới hạn ở trong các nhật báo và tạp chí. Ngày nay, quảng cáo tự nó là một kỹ nghệ lớn. Quảng cáo ở trên nhật báo, tạp chí, cũng như ở vô tuyến truyền thanh và vô tuyến truyền hình đã đi sâu rộng vào trong quảng đại quần chúng.
Trang Lịch Sử |