Á Phiện, Bạch Phiến, Và Chiến Tranh Tôn Giáo
Dưới Thời Diệm Và Thiệu Kỳ

DuyênSinh

https://sachhiem.net/LICHSU/D/Duyensinh02_aphien.php

13-Aug-2013

1 2 3 (<= xem)

13. Tướng Khánh Lật Đổ Tướng Minh, Liên Hệ Với Bắc Việt Và Đưa Thiệu-Kỳ Lên Ngôi

Viết về Nguyễn Khánh phải cần một bài rất dài. Câu chuyện Khánh muốn bắt tay với Bắc Việt qua trung gian toà đại sứ Pháp, lập lại đúng con đường của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu vừa mới làm, là một đề tài quan trọng. Click vào link dưới để đọc giãi mật của CIA.

CLICK VÀO ĐÂY ĐỂ XEM BÁO CÁO CỦA CIA VỀ NGUYỄN KHÁNH

Sau khi nắm được chính quyền, Thiệu-Kỳ dựng trở lại đảng Cần Lao; âm mưu chia cắt Phật Giáo Thống Nhất để làm Phật Giáo Thống Nhất bị yếu đi; lập ra Phật giáo “thân chính quyền” từ nhóm Phật Giáo Thống Nhất bị tách rời; bắt đầu thẳng tay đàn áp nhóm Phật Giáo Thống Nhất từ chối làm công cụ cho chính quyền. Sự dựng trở lại đảng Cần Lao của Nguyễn Văn Thiệu gây ra hàng loạt bắt cóc, ám sát, và thủ tiêu Phật tử, xảy ra khắp mợi nơi. Hàng ngàn người biểu tình chống chế độ Diệm trước đây gồm sinh viên, thanh niên phụng sự xã hội, tu sĩ Phật giáo, bị ám sát, bị thủ tiêu, và bị bỏ tù Côn Đảo. Sau đây là một đoạn trích lại từ tài liệu lưu trữ điển hình của tu viện Quảng Đức:

Ngày 31.8.1964 và 1.9.1964, hai Phật tử bị thảm sát tại Sài Gòn là Nguyễn Văn Phát và Phạm Văn Hòa mở đầu cho một loạt thảm sát mới. Năm 1965 ngày tháng không rõ, Cư sĩ Phan Duy Trinh, huynh Trưởng gia đình Phật tử Thừa Thiên Huế, bị thảm sát. Nhiều cuộc tự thiêu bảo vệ hiến chương Phật Giáo, đòi Quốc Hội Lập Hiến, và đòi chủ quyền Quốc Gia vì chính quyền mới đối với dân thì bắt cóc và thủ tiêu nhưng đối với Mỹ thì không còn chủ quyền và lúc nào cũng riu ríu vâng lệnh giống như thời thực dân Pháp. Ngày 25.8.1970, Hòa Thượng Thích Thiện Hoa, Viện Trưởng Viện Hóa Đạo Phật Giáo Ấn Quang phát biểu: “Người Việt Nam không làm tay sai cho ngoại quốc, chúng ta chỉ chăm lo công việc của chúng ta thôi.” Ngày 8.3.1965, Mỹ bắt đầu đưa 3.500 Thủy Quân Lục Chiến vào Việt Nam, chỉ 9 tháng sau lên đến gần 200.000 quân. Nhiều cuộc tự thiêu bắt đầu.

Năm 1966, có ít nhất 5 vụ Phật Tử mất tích được ghi nhận, không rõ ngày tháng có các cư sĩ: Lê Đình Linh, đặc ủy Gia Đình Phật Tử Điện Bàn tỉnh Quảng Nam bị bắt và mất tích tại Quảng Nam, Bùi Xuân Hiền bị bắt và mất tích tại Quảng Nam. Trịnh Văn Lộc và Trương Dzu bị bị bắt và mất tích tại Quảng Tín. Ngày 1.3.1966, Nguyễn Văn Đức bị thảm sát tại Tuyên Đức. Ngày 27 tháng 3 âm Lịch, Nguyễn Đại Thức bị thảm sát tại Huế. Ngày 21.4.1966, có 4 Phật Tử là Nguyễn Văn Triệt, Nguyễn Châu Kỳ, Nguyễn Đoan Chánh, và Hoàng Văn Dậu bị thảm sát tại Tuyên Đức. Ngày 11.6.1966, đặc ủy Gia Đình Phật Tử Quận Duy Xuyên, Quảng Nam bị thảm sát. Ngày 16.6.1966, Phật Tử Đoàn Thanh Niên Thiện Chí Huỳnh Văn Thiện, bị bắn trước cửa chùa Việt Nam Quốc Tự. Có 8 Phật Tử Quân Nhân và 2 Phật Tử bị thảm sát tại Quảng Ngãi vì đã tranh đấu đòi Quốc Hội Lập Hiến trong năm 1966 do Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất chủ trương, gồm: trung úy Đào Quang Thống, thượng sĩ Chế Quang Khương, trung sĩ Bùi Mùi, trung sĩ Nguyễn Cao Thiên, binh nhất Võ Liên, binh nhất Nguyễn Đăng Quang, binh nhất Nguyễn Xin, binh nhì Nguyễn Thành, Nguyễn Bá Lập, và Bùi Văn Kiểm. Ngày 12.7.1966, cư sĩ Nguyễn Dần, chánh đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất quận Duy Xuyên, “bị chôn sống” tại Quảng Nam. Ngày 1.3.1967, cư sĩ Nguyễn Cúc, chánh đại diện Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất quận Duy Xuyên bị thủ tiêu tại Quảng Nam. Ngày 3.5.1970, Thích Thiện Ân bị bắn tại Việt Nam Quốc Tự và viên tịch tại bệnh viện Triều Châu ngày 23.6.1970.

Ngày 24.4.1967, một trái lựu đạn ném vào trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội ở Gia Định, giết chết giáo sư Trương Thị Phượng Liên và Phật Tử sinh viên Trần Thị Vui. Ngày 14.6.1967, một cuộc bố ráp tại quận Thủ Đức bắt và dẫn đi biệt tích 8 thanh niên trường Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội gồm: tăng sinh Thích Tâm Thể, tăng sinh Thích Huyền Đắc, tăng sinh Thích Minh Hoài, tăng sinh Thích Tâm Minh, Phật Tử sinh viên Đinh Viết Dương, Phật Tử sinh viên Nguyễn Trọng Ngành, Phật Tử sinh viên Nguyễn Khắc Quỳnh, và Phật Tử sinh viên Trần Văn Bình. Ngày 5.7.1967, nhiều Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội xã Hiệp Hòa, quận Thủ Đức bị bắt đem ra bắn ở bờ sông. Có một người bị thương nhưng không chết! Sau khi kẻ sát nhân rút đi, người bị thương được cứu sống. Người nầy kể lại, trước khi bị bắn, họ bị bắt cả toán quỳ xuống ở bờ sông và hỏi “các anh có phải là Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội không?” Có tiếng trả lời “Phải.” Họ nói: “Rất tiếc, các anh là Thanh Niên Phụng Sự Xã Hội, chúng tôi phải bắn các anh!” Bốn người bị bắn chết là tăng sinh Thích Thanh Quang; Phật Tử sinh viên Nguyễn Viết Tự Hy; Phật Tử sinh viên Lê Thế Linh; và Phật Tử sinh viên Võ Văn Thơ.

Nhiều học sinh, sinh viên, các thầy tu Phật Giáo, người tật nguyền, già cả biểu tình chống Diệm bị Thiệu bỏ tù chuồng cọp Côn Sơn. Ông Don Luce từng làm việc tại Việt Nam cho cơ quan Thiện Nguyện Quốc Tế và hội đồng các Nhà Thờ Thế Giới từ năm 1958 tới 1971. Năm 1970, ông phổ biến chuyện chuồng cọp Côn Sơn đến Quốc Hội Mỹ. Bài viết của ông có tên là “Điều Tra Kiểu Mỹ” (Torture, American Style). Một người bạn thân nhất của ông Don Luce là Nguyễn Ngọc Phương bị tra tấn cho tới chết năm 1970. Phương có một thân hình mảnh khảnh. Phương bị Cảnh Sát của Thiệu bắt giam tại nhà một người bạn tham gia biểu tình chống chính quyền Thiệu-Kỳ, trong đó có Phương. Sau 3 ngày liên tiếp tra tấn, Phương đã chết. Một trong các nạn nhân bị giam với Phương kể lại: “Phương bị Cảnh Sát Sài Gòn tra tấn trong khi các người Mỹ đứng bên cạnh chỉ bảo.” Ở Việt Nam, người Mỹ đã dạy và trả tiền cho quân đội và cảnh sát Sài Gòn làm công việc tra tấn. Tuy nhiên, có rất nhiều người Việt bị người Mỹ tra tấn rồi giao lại cho đồng minh Sài Gòn bỏ tù. Nhiều tường trình cho biết nhiều người bị bắt trói đem lên máy bay trực thăng, bay lên cao rồi xô xuống. Nông dân bị trói vào cọc phơi nắng, và nhiều người trẻ bị người Mỹ dẫn đi bắn bỏ xảy ra thường xuyên. Có một người lính của Thiệu-Kỳ nói về cách thức mổ lấy mật người rất dễ, chỉ cần trói ké nạn nhân, đâm bằng lưỡi lê vào hông nạn nhân khoảng một tấc sâu, đạp vô be xường nạn nhân một đạp mạnh thì mật người nầy sẽ lòi ra, rồi cắt lấy mật đem về bán cho tiệm thầy thuốc bắc.

Nhiều phụ nữ nói về thời gian trong tù của họ một cách choáng váng, đặc biệt là nói về những hình phạt khủng khiếp trong hệ thống nhà tù. Nhà tranh đấu hòa bình người Mỹ Alfred Hassler cho biết “chánh quyền VNCH bắt giữ 5.000 nam, nữ cùng với các sư Phật Giáo sau khi càn quét phong trào Phật Giáo nổi dậy tại Huế và Đà Nẵng năm 1966. Nhà sử học tôn giáo Sallie King cho biết trong năm 1968, 1.870 tù nhân khám Chí Hòa và 1.665 tù nhân tại Sài Gòn được liệt kê là tù Phật Giáo, trong tất cả tù nhân tại Chí Hòa và Sài Gòn, chỉ có 50 người liệt kê tù Cộng Sản.” Ký giả Stanley Karnow cho biết VNCH giam hàng trăm người hoạt động hòa bình đã nhiều năm không hề xét xử, trong khi nhà khoa học chính trị Á Châu George Kahin khẳng định rất nhiều người hoạt động Phật Giáo bị giam liên tiếp nhiều năm cho tới năm 1975. Cơ quan Ân Xá Quốc Tế tiên đoán hơn 200.000 tù nhân Đông Dương bị giam cho tới cuối năm 1972 hầu hết là người thường dân Miền Nam Việt Nam.

Năm 1970, Tổng Thống Nixon gởi một Đại Biểu Quốc Hội tới Việt Nam điều tra ngầm. Chương trình bắt buộc là phải thăm một nhà tù Miền Nam Việt Nam, như là một tiền đề trước khi thăm nhà tù Bắc Việt, nơi đang giam cầm tù binh Mỹ. Ông Tom Harkins, một cộng sự viên với toán Điều Tra Quốc Hội, được thêm vào. Ông Harkins quả quyết với các dân biểu về câu chuyện tra tấn trong chuồng cọp Côn Sơn (người Pháp đã xây nhà tù nầy vào năm 1939, để giam tù chính trị; giống như nhà tù của Pháp ở Guinea, đã trở thành nổi tiếng trong phim Con Bướm). Các dân biểu đã yêu cầu một máy bay đi Côn Sơn. Ông Harkins được làm thông dịch viên và cũng là một nhân viên đặc biệt.

Tại Côn Sơn, Harkins dùng một bản đồ do một cựu tù nhân chuồng cọp vẽ, tách rời lối đi định trước, đi riết tới giữa hai nhà tù. Nơi đó có một cái cửa nhỏ xíu dẫn tới một cái chuồng giữa hai bức tường nhà tù. Một cai ngục nghe tiếng động liền mở cửa. Harkins lập tức bước vào. Ông Harkins nói gương mặt của những người trong cái chuồng bên dưới vẫn còn in sâu trong ông: người thì bị cắt mất 3 ngón tay, người thì bị vỡ sọ (người vỡ sọ ở Quảng Trị, đã chết sau đó), và một nhà sư (chống đàn áp Phật Giáo). Ông Harkins nói tôi còn nhớ rất rõ nhà sư tanh hôi kinh khủng do bị thổ tả, và ông rất đau đớn do cái còng sắt siết chặt vô mắt cá chân. Cho tôi xin miếng nước! Nhà sư luôn xin nước. Sau đó thì họ đã gởi thêm nhân viên hướng dẫn giúp phái đoàn quan sát sức khỏe các tù nhân khác.

Các tấm ảnh mà Harkins, bây giờ là Thượng Nghị Sĩ Mỹ, chụp được, đã đăng trên tạp chí “Life” ngày 17.7.1970. Các cuộc Biểu Tình Thế Giới, đã giúp đưa 180 người đàn ông và 300 đàn bà ra khỏi chuồng cọp Côn Sơn tới một nhà tù khác, hoặc tới một bệnh viện tâm thần. Grace Paley diễn tả cuộc sống của 300 đàn bà trong chuồng cọp tại Côn Sơn: Trong tù, cô Tào Thị Thiều bị đánh vào đầu bằng dừi cui. Đầu cô bị khóa chặt giữa hai thanh sắt. Cô bị bơm nước vào cổ họng. Cô bị treo hỏng mặt đất. Ngày 20.11.1968, cô bị gởi lên Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Một Linh Mục Thiên Chúa là Cha Chân Tín, đã viết thư kêu gọi tới quốc tế: “Cô Thiều đã bị tra tấn nhiều hơn thế nữa và đã bị cho điện giật. Cô đã khùng và không thể ngủ 15 ngày liền.”

Thiều là một nữ sinh trung học 16 tuổi bị đi tù Côn Đảo và bị nhốt chuồng cọp. Ông cai ngục có lần đã nói cô là một đứa con gái cứng đầu. Người tù đàn bà già nhất bị đưa đi Côn Đảo và bị nhốt chuồng cọp là Bà Sáu. Bà Sáu bị mù cả hai mắt, bà bị tạc vào mặt một loại nước vôi ăn mòn da vì bà đã dám nói: “Tôi đây mới là Cộng Sản, mấy đứa kia chỉ là học trò biểu tình, là Phật Tử, là nhà báo…” Cuối năm 1969, Thiều bị đưa vào chuồng cọp Côn Đảo. Ở Côn Sơn được một năm thì được đưa vào nhà thương điên Biên Hòa. Qua nhiều ngày, cô đã bị treo cổ bằng một cái móc sắt. Xương cổ của cô bị chấn thương, cho tới giờ phút nầy, cô vẫn còn mang niềng cổ. Cô nói: “Ông là người đã cứu sống chúng tôi. Tôi vẫn còn nhớ giọng ngoại quốc khi ông đến. Trong chuồng cọp, chúng tôi phấn khởi không biết chuyện gì xui khiến ông đến. Nhưng có một giọng nói lơ lớ tiếng Việt Nam cho chúng tôi biết là Quốc Hội Mỹ Điều Tra. Chúng tôi đã đang khẩn thiết cầu nguyện để có cơ hội nói lên sự tra tấn nầy. Chúng tôi đang cầu xin thức ăn và nước uống, chúng tôi đang chết dần mòn trong chờ đợi.

Một nữ sinh viên 19 tuổi viết:

…Tôi bị cầm tù Côn Sơn từ năm 1964 đến năm 1975. Tôi chỉ là một sinh viên tại Sài Gòn. Tôi đã tham gia các buổi họp và tham gia đấu tranh đòi tự do và dân chủ. Họ bắt khi tôi mới 19 tuổi, 30 tuổi mới thả…

Tôi bị tra khảo bằng đánh đập. Họ có đủ cách tra tấn đàn bà. Chúng tôi rất đói. Khi bị giam ở Côn Sơn, tôi chỉ được một lon nước và một chén cơm mỗi ngày. Côn Sơn có quá nhiều cát. Khi gió, cát vô đầy chén. Cát bay khắp nơi. Nhà tù bẩn thiểu và lạnh, nằm trên hòn đảo nhiều gió. Chúng tôi có một bộ đồ mỗi năm. Chưa bao giờ ra được bên ngoài, chưa bao giờ tắm. Chúng tôi xé quần áo rách để lót khi kinh nguyệt, vì vậy mà thân thể hầu như không còn gì để che. Đủ loại bệnh: kiết lỵ, thương hàn, dịch tả, sốt rét, trái rạ… Sáng nào thức dậy cũng thấy người chết. Không thuốc men. Họ nói chúng tôi chỉ có thuốc khi nào chúng tôi chào lá cờ VNCH (DS: Vì họ thấy lá cờ VNCH biểu tượng cho chế độ Thiệu-Kỳ). Tôi luôn từ chối. Nhiều người đã chết vì bệnh, vì đói, và vì bị tra tấn.

Tôi bị vô chuồng cọp một năm. Trên nắp chuồng cọp có đá vôi và thùng nước. Nếu nghe nói chuyện, họ đổ nước và đá vôi xuống. Nếu chúng tôi khóc thì họ đánh bằng dùi cui cho bị thương rồi chế nước đá vôi vào vết thương. Đây anh nhìn đi, trán tôi bị thẹo. Họ đâm một cái kim vào trán tôi khi tôi bị khảo. Tôi chỉ mang thẹo, nhưng đối với nhiều người đàn bà khác, không lành được. Người tra khảo luôn là lính Miền Nam. Người Mỹ luôn là người cố vấn. Thỉnh thoảng cố vấn tới nhìn. Chúng tôi muốn nói rằng người Mỹ muốn thay đổi. “Người Mỹ muốn người Việt giết người Việt…”

 Ngày nay, cạnh bên những cái Chuồng Cọp 2m x 3.5m là nghĩa địa của 20.000 người đã chết trong tù tại Côn Đảo. Nhiều mộ không có bia. Ngay cả danh số cũng không có. Khi người tù còn sống sót trở lại thăm Côn Đảo, họ đem theo nhang đèn, những lời cầu nguyện thì thầm thương xót cho quảng đời trong Chuồng Cọp mấy mươi năm về trước.

https://www.peaceworkmagazine.org/pwork/0511/051116.htm

Đây là những hình ảnh rất rõ nét việc đàn áp Phật Giáo trở lại, do người Mỹ diễn tả, sau khi Nguyễn Văn Thiệu dựng lại chế độ Cần Lao của Ngô Đình Diệm. Sự đàn áp dã man và tinh vi này được che đậy rất khéo léo, và có lẽ sẽ không bị phát hiện nếu chế độ Nguyễn Văn Thiệu không sụp đổ năm 1975. Đứng về phương diện tôn giáo, sự đàn áp này còn biểu lộ một chính sách thâm độc của Ca-tô Rô-ma giáo là tiêu diệt Phật Giáo, vì Phật Giáo không biết bao nhiêu lần đã làm con kỳ đà cản mũi trong công cuộc bành trướng tôn giáo của Vatican, ở rất nhiều nơi trên lục địa châu Á.

14. Nguyễn Cao Kỳ Loại Trừ Tướng Phật Giáo Nguyễn Chánh Thi

Việc Phật Tử Đà Nẵng mang bàn thờ Phật xuống đường không phải đơn giản. Mang bàn thờ Phật xuống đường chỉ là một biện pháp cấp bách có thể ngăn chận được một âm mưu tiêu diệt toàn bộ Phật Giáo Miền Trung. Nguyễn Cao Kỳ đã từng vu khống Phật Tử Miền Trung nổi loạn. Nếu vu khống này được nhiều người tin theo, đảng Cần Lao có thể sẽ dàn dựng được một cuộc thanh trừng ngấm ngầm, tạo ra một biến cố, giống như biến cố Tết Mậu Thân, tàn sát tập thể người Phật tử Miền Trung bằng quân đội, rồi chôn chung những nạn nhân của họ trong những hố chôn tập thể để phi tang. Giả thuyết nầy có thể thấy được nếu người ta theo dõi thật kỹ những việc làm của Thiệu-Kỳ. Việc trước tiên là việc loại trừ tướng Nguyễn Chánh Thi để tỉa lông tỉa cánh từng bước một Phật Giáo.

Nguyễn Chánh Thi, một tướng Phật Giáo, cầm đầu cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm năm 1960, bị thất bại, ông phải xin tị nạn tại Nam Vang. Năm 1963, cách mạng thành công, Thi được về nước và được Tướng Dương Văn Minh cho làm tư lệnh Vùng I Chiến Thuật. Tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tại Vùng I Chiến Thuật có tướng Lewis Walts. Quân đội Việt Nam tại Miền Trung dưới quyền tổng chỉ huy của tướng Thi, được gọi là “Phật tử quân nhân,” vì hầu hết họ là người đạo Phật. Khi Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch Hội Đồng Lảnh Đạo Quốc Gia, và Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương, cả hai đều có ý định trừ khử tướng Thi, dù Thi là tổng chỉ huy tối cao quân đội Miền Trung, nhưng Kỳ có quyền trên khắp 4 vùng.

Theo Historynet.com, Kỳ nói lãnh đạo Phật Giáo phản loạn và hăm giết hết Phật Giáo, vì Phật Giáo muốn lật đổ chính phủ Thiệu Kỳ. Trong hồi ký, Kỳ cũng hăm “giết hết lãnh đạo Phật Giáo khi mãn nhiệm.” Theo Kỳ, thì tướng Thi thiên tả, cấu kết với Phật Tử, gây nổi loạn. Kỳ phát biểu như vậy vào ngày 10.3.1966 làm nổ tung khủng hoảng chính trị trong giới Phật tử Miền Trung. Thi là một tướng tài Vùng I Chiến Thuật. Thi được Phật Tử nghe lời và hổ trợ. Dưới sự chỉ huy của Thi, Vùng I rất bình yên, không bị Việt Cộng phá phách như những nơi khác. Nhưng bình yên của Thi là lo lắng của Thiệu-Kỳ. Thậm chí Thiệu‐Kỳ còn nói là nguy hiểm. Đại Sứ Henry Cabot Lodge, Westmoreland và Robert McNamara đã cố gắng làm theo ý muốn của Thiệu-Kỳ. Thiệu-Kỳ đề nghị Mỹ xắp xếp cho Thi đi tị nạn bên Mỹ, một nơi bình yên, không có chiến tranh. Tuy nhiên Thi còn một người bạn là Tướng Lewis Walts, vừa là chỉ huy trưởng Thủy Quân Lục Chiến Mỹ vừa là cố vấn QLVNCH vùng I Chiến Thuật.

Theo diễn tả của tướng Walts, Thi là một tướng rất đặc biệt. Quân của Thi trung thành tuyệt đối với ông tới tận gốc (deep‐rooted loyalty of his soldiers). Dân và Phật tử quân nhân hợp tác và tuyệt đối giúp đở lẫn nhau. Khi mọi người tin nhau và giúp nhau thì bình yên tới, không cần phải đánh dẹp. Theo “Lịch Sử Hành Quân Thủy Quân Lục Chiến Mỹ tại Việt Năm 1966,” sự thuyên chuyển Tướng Thi ra khỏi Vùng I Chiến Thuật tạo thành một luồng sóng thần bao phủ vùng I. Hàng ngàn người biểu tình nghẹt cả Thành Phố Đà Nẵng và nhiều đô thị Miền Trung. Họ thành lập một tổ chức có tên là “Hội Đồng Quân Dân Đấu Tranh” (Military‐Civilian Struggle Committee) ủng hộ Thi chống chính quyền Thiệu-Kỳ. Tổ chức bành trướng nhanh chóng. Họ chiếm đài phát thanh Đà Nẵng phát thanh chống lại chính quyền. Sinh Viên Huế xuống đường ủng hộ. Miền Trung tuyên bố làm chủ tới Quảng Nam, gồm Đà Nẵng và nhiều căn cứ quân sự quan trọng. Phật Tử chiếm đài phát thanh Huế. Cuối tháng 3.1966, tình hình càng căng thẳng. Thi tới Đà Nẵng và Huế để trấn an đám đông.

Vùng I Chiến Thuật như không còn lệ thuộc vào chính quyền trung ương nữa. Hoa Thịnh Đốn báo động. Ngày 3.4.1966, Kỳ triệu tập một buổi họp tuyên bố Đà Nẵng đã lọt vào tay Cộng Sản. Kỳ đòi hành quân chiếm lại. Tối hôm sau, Kỳ gởi ra Đà Nẵng 3 tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến bằng không vận. Thủy Quân Lục Chiến đợi tại phi trường Đà Nẵng. Tướng Walts kẹt vào vị thế khó xử giữa hai lực lượng Việt Nam. Ngày 9.4.1966, Đại Tá Đàm Quang Yêu, ủng hộ Phật tử quân nhân, cho đoàn thiết giáp và đoàn vận tải Bộ Binh, Pháo Binh, từ Hội An, tiến về Đà Nẵng. Chỉ huy Sư Đòan 3 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, tướng Wood Kyle, ra lệnh trung đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến chận Quốc Lộ 1 không cho tiến thêm. Một trung đội của đại đội Foxtrot tiểu đoàn 2 sư đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến, có hai xe chống chiến xa, đem chận bít cầu giữ phía Bắc. Một máy bay Khu Trục (A‐1 Skyraider) của Thiệu-Kỳ làm om sòm trên bầu trời. Máy bay nầy cố ngăn Yêu bắn trái phá 155mm vào phi đạo Đà Nẵng. Tướng Walts gởi Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến John R. Chaisson qua giữ cầu. Chaisson cảnh cáo Yêu không được tiến thêm. Để giữ điểm nầy, một chiếc phản lực F-8E Thủy Quân Lục Chiến, mang đầy bom đạn, bay lòng vòng trên đầu. Walts cũng ra lệnh chỉa súng vào quân của Yêu.

Yêu nói với Chaisson, ông là bạn của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ (U.S. Marines in Vietnam: An Expanding War, 1966, by Jack Shulimson), ông phải tới bảo vệ những người của ông bị chính quyền Thiệu‐Kỳ đe dọa. Nếu cần, ông sẳn sàng chết để bảo vệ đồng bào ông. Phật tử quân nhân lấp đạn vào súng lớn. Chaison cảnh cáo nếu Yêu bắn vào Thủy Quân Lục Chiến Mỹ, Yêu sẽ bị tiêu diệt. Nói xong, Chaisson trở lại trực thăng rồi đi. Căng thẳng từ từ dứt. Vài ngày sau, đài phát thanh Đà Nẵng và Huế được trả lại. Thủy Quân Lục Chiến Thiệu-Kỳ trở về Sài Gòn, và lực lượng Vùng I Chiến Thuật trở lại hoạt động bình thường. Tướng Thi tự tách rời cuộc nổi dậy.

Đó chỉ làm tạm dịu cơn giông. Kỳ sợ Phật Tử chiếm Miền Trung tuyên bố tự trị. Ông ra lệnh tướng Cao Văn Viên, dẫn Thủy Quân Lục Chiến quay trở lại Đà Nẵng, mà không tham khảo với Mỹ, ngay cả ông Thiệu, Kỳ cũng không cho biết. Ngày 15.5.1966, lực lượng trung thành Thủy Quân Lục Chiến và Nhãy Dù đáp xuống Đà Nẵng lúc hoàng hôn, lập tức xâm nhập đô thị, tấn chiếm trụ sở chỉ huy Vùng I Địa Phương Đà Nẵng. Hoa Thịnh Đốn gọi Tướng Walts hỏi chuyện gì xảy ra. Theo Kỳ, Walts giận dữ đột kích không cần tìm hiểu. Kỳ ra lệnh máy bay của ông thả một truyền đơn nơi đóng quân của Phật tử quân nhân, hăm dọa sẽ tiêu diệt họ nếu họ bắn vào lực lượng của Kỳ. Tướng Walts, trong hồi ký của ông, không nói giận dữ, nhưng nói “muốn điên.” Ông rất mừng là Việt Cộng yên lặng, và quân đội Mỹ chưa nhập cuộc. Một lần nữa, tướng Walts lại bị kẹt giữa 2 lằn đạn. Tướng chỉ huy mới Vùng I Chiến Thuật, là Tôn Thất Đính, người ủng hộ Phật tử quân nhân, giống như Walts, Đính bị kẹt giữa hai lằn đạn khi lực lượng Thiệu-Kỳ tới nơi. Đính trốn trong bộ chỉ huy Thủy Quân Lục Chiến Mỹ.

Sáng hôm sau, hai chiếc máy bay của Thiệu-Kỳ oanh tạc một đơn vị Phật Tử gần địa điểm Thủy Quân Lục Chiến Mỹ phía Bắc Đà Nẵng. Sợ đổ máu, Tướng Walts yêu cầu Kỳ rút quân. Kỳ bác bỏ và thay thế Tướng Đính bằng tướng Huỳnh Văn Cao, một tướng Ca-tô Rô-ma giáo. Ngày 17.5.1966, tướng Cao bay ra Huế thị sát Bộ Chỉ Huy sư đoàn. Khi trực thăng của Cao cất cánh, một trung úy Phật tử quân nhân bắn hai phát súng lục vào máy bay của Cao. Lính Mỹ giữ cửa trực thăng bắn xuống giết chết viên trung úy, và làm hai quân nhân khác bị thương. Biểu tình chống Mỹ bùng phát.

Ông Kỳ không rút quân, mà còn “khoái” vì Mỹ “đụng” biểu tình. Theo hồi ký của Kỳ, Kỳ biểu các chỉ huy tại Đà Nẵng chỉa súng lớn vào Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Nếu người Mỹ làm gì đe dọa tới máy bay Việt Nam, thì “chơi!” Rồi Kỳ diễn tả chi tiết chuyến bay đi Đà Nẵng và việc cự nự tướng Walts đã xen vào nội bộ của Kỳ mà không có gì dính líu tới Walts. Ngày 18.5.1966, Thủy Quân Lục Chiến Thiệu-Kỳ băng qua cầu ngang sông Đà Nẵng, nối liền thành phố với đảo Sơn Trà, bị Phật tử quân nhân phía bên kia sông bắn. Họ còn cho tướng Cao biết họ đã gài thuốc nổ dưới cầu. Nếu còn vượt qua cầu, cầu sẽ bị giật sập. Tướng Walts ra lệnh cho đại tá Chaisson giảng hòa. Vì cầu nầy do Thủy Quân Lục Chiến Mỹ dùng. Chaisson đề nghị lính Thiệu‐Kỳ nhường cho Mỹ đóng hướng Tây. Yêu cầu Phật tử quân nhân để Mỹ đóng hướng Đông. Phật tử quân nhân không chịu, Mỹ buộc lòng phải đóng ở giữa, và Mỹ cũng bị kẹt giữa hai lằn đạn lần một lần nữa. Walts tới thị sát. Ông và đại tá Chaisson cùng đi lên cầu. Một chuẩn úy Phật tử quân nhân ngăn ông lại, nói sẽ giật sập cầu. Phật tử quân nhân không những đặt chất nổ dưới cầu, mà còn đặt dưới hầm đạn phế thải 6.000 tấn.

Phật tử quân nhân có hai ổ súng máy chỉa vào Thủy Quân Lục Chiến Mỹ. Họ đã bắn vào một người Mỹ làm người nầy lặn xuống nước. Tình hình quá căng thẳng. Theo Chaisson, trong khi Walts nói chuyện với viên chuẩn úy và trả lời “nửa nạt nửa mở” với viên chuẩn úy nầy, người Mỹ đã bí mật cắt dây dẫn điện. Ông chuẩn úy không phải chỉ hăm dọa, ông nói với Walts: “Trung Tướng, chúng ta cùng chết” và đưa tay thẳng lên trời, hạ xuống một cái. Một người khác châm ngòi! Không nổ? Tướng Walts nói ông không bao giờ quên được cái mặt ông chuẩn úy lúc đó “…sượng ngắt.” Từ đó, Thủy Quân Lục Chiến Mỹ giữ an ninh cho cái cầu. Chất nổ cả hai đầu cầu được người Việt tháo gở. Ngay cả chất nổ tại hầm đạn phế thải. Chuyện chiếc cầu tuy xong, căng thẳng vẫn tiếp tục.

Cuối tháng 5.1966, nhiều Phật tử quân nhân vẫn còn chiếm giữ một số địa điểm quan trọng tại Đà Nẵng. Phật tử quân nhân trang bị súng máy và súng tự động thỉnh thoảng chống lại chính quyền. Ngày 21.5.1966, Tướng Walts được tin Thiệu-Kỳ quyết định dùng không lực phá huỷ các lực lượng Phật tử quân nhân. Walts báo động sợ máy bay bỏ bom và bắn phá Đà Nẵng làm chết dân, luôn cả Mỹ. Có khoảng 1.000 dân Mỹ tại Đà Nẵng lúc đó. Walts cho tư lệnh vùng Việt Nam biết, đây là tư lệnh thứ tư từ khi có cuộc khủng hoãng. Walts nói ông không làm được gì để giúp. Ông tư lệnh liền tới “xin ở đậu” với Walts. Ông tư lệnh sợ bị lính của ông giết. Ông nói ông không chỉ huy Không Quân. Walts gọi chỉ huy Không Quân Thiệu-Kỳ tại Đà Nẵng nhưng không kết quả. Kế đến là Walts được tin máy bay đã cất cánh tại Đà Nẵng chở đầy bom và rockets. Vì không kết quả, Walts ra lệnh 4 chiếc phản lực Hải Quân thuộc Không Đoàn I Mỹ, trang bị hỏa tiển không-đối-Không, sẳn sàng.

Súng máy căn cứ Phật tử quân nhân gần căn cứ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bắn vào căn cứ lính Thiệu-Kỳ, Máy bay Không Quân Thiệu‐Kỳ bắn xuống căn cứ Thủy Quân Lục Chiến Mỹ làm 8 người bị thương. Hai máy bay Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bay lên lượn vòng máy bay Không Quân Thiệu-Kỳ chờ lệnh của Walts. Walts gọi Không Quân Thiệu‐Kỳ tại Đà Nẵng cho hay chỉ cần 1 viên đạn hoặc một trái bom trút xuống thành phố Đà Nẵng, máy bay Thiệu-Kỳ sẽ rớt. Kế đến, Walts được điên thoại Hoa Thịnh Đốn, chuyển lời phàn nàn Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đã xen vào nội bộ Việt Nam. Walts kể lại đầu đuôi câu chuyện. Hoa Thịnh Đốn nói Walts có toàn quyền quyết định, miễn sao hợp lý!

Phía Không Quân Thiệu‐Kỳ gởi lên thêm 4 chiếc máy bay nữa, bám đuôi 2 chiếc phản lực của Walts. Giới chức Không Quân Thiệu-Kỳ gọi Walts cho hay hai chiếc phản lực của Walts sẽ bị bắn rớt nếu máy bay Không Quân Việt Nam bị 2 chiếc phản lực của Walts bắn. Walts liền gởi lên thêm 2 chiếc phản lực bám đuôi 4 chiếc máy bay của Không Quân Thiệu‐Kỳ. Tất cả hợp thành một đoàn bay “bánh da lợn” (sandwiched) lòng vòng trên phố Đà Nẵng. Hai tiếng đồng hồ sau, máy bay Không Quân Thiệu-Kỳ mới hạ cánh vì thiếu xăng.

Phong trào Phật tử quân nhân nổi dậy không gì kềm chế được cho tới khi cuộc kình chống trên không chấm dứt. Có tất cả 150 quân nhân chết và 700 bị thương cả hai phía chính quyền Thiệu‐Kỳ và Phật tử quân nhân. Phía Mỹ có 23 bị thương, trong đó có đến 18 Thủy Quân Lục Chiến. Tướng Thi gặp Tướng Westmoreland ngày 24.3.1966. Ngày 27.5.1966, Thi gặp Kỳ tại Chu Lai, họ đồng ý với nhau là để giúp Miền Trung bình định trở lại, tướng Thi phải rời khỏi Vùng I Chiến Thuật. Trước khi đi, Thi thuyết phục Tướng Huỳnh Văn Cao trở lại Vùng I. Tướng Cao, một tướng Ca-tô Rô-ma giáo, sợ nguy hiểm tới gia đình vì hầu như tất cả thuộc cấp tại Miền Trung đều là Phật tử, cũng đã ngõ lời xin “tị nạn” tại Mỹ với Westmoreland. Cao nói ông vẫn muốn tiếp tục hiện diện trong Thủy Quân Lục Chiến hoặc Lục Quân Mỹ để tiếp tục chống… Cộng. Cuối năm 1966, Tướng Thi bị “đày” sang định cư tại Mỹ. Thiệu-Kỳ chọn tướng Hoàng Xuân Lãm thay thế.

Cuộc nổi dậy chìm dần ở Đà Nẵng, nhưng tiếp tục tại Huế. Ngày 26.5.1966, một đám đông dự đám tang viên sĩ quan bị lính Mỹ giữ cửa trực thăng bắn chết. Sau đám tang, đoàn người quay trở lại đốt rụi Thư Viện Thông Tin Mỹ (U.S. Information Services Library). Vài ngày sau, ba nhà sư tự thiêu. Thượng tọa Thích Trí Quang biểu tình tuyệt thực phản đối Mỹ ủng hộ chế độ Thiệu‐Kỳ đàn áp Phật Giáo. Sư đoàn I Bộ Binh cử người tới bảo vệ tòa lãnh sự Mỹ tại Huế. Lính gác Toà Lãnh Sự chạy trốn khi đám đông đốt Tòa Lãnh Sự bằng nhiều phuy xăng. Đáp lại, Kỳ gởi Lính Dù và Thủy Quân Lục Chiến tới Phú Bài (một phi trường tại Huế). Ngày 19.6.1966, Thiệu-Kỳ kiểm soát Huế trở lại. Theo sử gia kiếm khoa học chính trị George Kahin tại đại học Cornell University: “Ông Thiệu và ông Kỳ không cách nào giữ được Miền Nam nếu không có Mỹ nhúng tay vào” (phỏng dịch từ https://www.historynet.com/the-1966-buddhist-crisis-in-south-vietnam.htm#comments)

Cuộc tàn sát Phật tử và nhân dân, chưa kể tới cuộc thảm sát Mỹ Lai, giết 504 thường dân.

https://en.wikipedia.org/wiki/My_Lai_Massacre

Chưa kể tới cuộc bỏ thuốc khai hoang giết và gây thương tổn hàng triệu dân.

https://en.wikipedia.org/wiki/Agent_Orange

Và nhất là chưa kể tới cuộc hành quân hỗn hợp Việt Mỹ giết giết hơn 5.000 thường dân.Cuộc hành quân Việt Mỹ Operation Speedy Express tại vùng Kiến Hoà, Vĩnh Bình bị một số người kém kiến thức xuyên tạc khiđã được một nhà sư Phật Giáo đem đưa chuyện này ra ánh sáng. Nhưng một số người kém hiểu biết đã xuyên tạc rằng nhà sư “vọng ngữ”.

https://en.wikipedia.org/wiki/Operation_Speedy_Express

15. Ai Là Người Đã Làm Sụp Đổ Chế Độ Tàn Ác Dã Man Á Phiện Và Bạch Phiến?

Một hành động tàn ác của Nguyễn Văn Thiệu là hướng bạch phiến vào binh lính VNCH. Khi quân đội Mỹ rút khỏi Miền Nam năm 1972, chế độ đó không còn có thể làm ra lợi nhuận từ sự hiện diện quân đội Mỹ nữa, nó phải quay lại xã hội nguyên thủy của nó, một xã hội vốn đã tận cùng rách nát, để vơ vét những gì nó còn có thể vơ vét…

Nhà Sử Học George Moss viết:

Chứng bệnh ung thư tham nhũng của VNCH đã truyền nhiễm cho đến khi nó tràn lan khắp cơ thể của chế độ quan liêu Sài Gòn. Để chỉ về sự vận hành của tham nhũng, mạng lưới bạch phiến, dưới sự điều hành của chế độ Thiệu, hướng về các thành phần gồm: thứ nhất là lính tráng, kế đó là du đãng, gái mãi dâm, các đại lý trên đường phố, vô số thanh niên thất nghiệp… để bù đắp vào sự vắng mặt của quân đội Mỹ.

Năm 1974, Sài Gòn có tới 150.000 người nghiện bạch phiến, một thế hệ mới sử dụng bạch phiến, khác biệt với những người hút á phiện già cả còn sống sót từ chế độ Diệm. Chế độ Thiệu đã tạo một quân đội yếu đuối, bệnh hoạn, thiếu khả năng, thiếu lành mạnh, thiếu dũng cảm, để đối đầu với khủng hoảng kinh tế. Năm 1973-1974, Mỹ rút quân, kinh tế mỏng manh VNCH, bấy lâu lệ thuộc vào Mỹ, bị tàn phá trầm trọng. Chi tiêu của binh sĩ Mỹ giảm từ hơn 500 triệu đô la năm 1970 xuống dưới 100 triệu đô la năm 1974, khoảng 300.000 công việc biến mất. Tình trạng tệ hơn khi Quốc Hội Mỹ giảm một nửa viện trợ quân sự năm 1973.

Khi VNCH lăn bánh vào cuộc khủng hoảng tham nhũng và sự sụp đổ kinh tế vào năm 1974, một linh mục bảo thủ, Trần Hữu Thanh, phát động phong trào nhân dân chống tham nhũng. Trong một loạt các tuyên ngôn công cộng, Cha Thanh buộc tội Thiệu: “Phá hoại Chủ Nghĩa Quốc Gia cho lợi ích tài chính riêng tư.” Và tố cáo: “chế độ bảo vệ Đường Dây Bạch Phiến, hướng Đường Dây Bạch Phiến vào các khu nhà ổ chuột của thành phố sắc màu rực rỡ.” Được dẫn dắt bởi nhiều nhân vật nổi bật Sài Gòn, phong trào của Cha Thanh đại diện cho một cuộc nổi loạn chính trị từ bên trong chế độ.

CIA Sài Gòn thực hiện một loạt phỏng vấn các nhà lãnh đạo VNCH. Tổng kết cho thấy có bằng chứng tham nhũng làm tê liệt bộ máy của Thiệu. Lời một người tin cậy của CIA: “Người lính không thể nuôi sống gia đình, và không còn ý chí chiến đấu. Nếu Thiệu vẫn tiếp tục hỗ trợ tham nhũng và những người thiếu khả năng… VNCH sẽ mất vào tay Cộng Sản.” Thay vì nhấn mạnh cho Thiệu ý thức để cải cách, lãnh đạo CIA, Thomas Polgar, với sự hỗ trợ của Đại Sứ Mỹ, ém nhẹm và phủ nhận kết quả phỏng vấn. Khi Cha Thanh đăng một loạt bài chống tham nhũng, là người Ca-tô Rô-ma giáo, Thiệu không sách nhiễu Cha Thanh, nhưng đóng cửa 5 tờ báo đối lập và bắt giữ 18 nhà báo.

Khi Bắc Việt phát động cuộc tổng tấn công mùa Xuân năm 1975, QLVNCH, bị xé nát bởi tham nhũng với tinh thần bị ăn mòn từ cả năm qua. Bị phá vỡ ngay trong trận đầu với các đơn vị thiết giáp Hà Nội rút về phía Nam. Khi tin tức thất bại đến Sài Gòn, viện binh im tiếng. Nguyễn Cao Kỳ tập hợp được khoảng 5.000 Ca-tô Rô-ma giáo bảo thủ vùng ngoại ô thành phố. Nhận thấy Thiệu đã mất hỗ trợ, Polgar đề nghị một cuộc đảo chính, nhưng chỉ huy CIA, William Colby từ chối. Trước khi người Mỹ có thể hành động, Thiệu từ chức ngày 25.04.1975. Do CIA bảo vệ, Thiệu rời khỏi sân bay Tân Sơn Nhứt. Chiếc xe Limousines đưa Thiệu rời khỏi cung điện mang theo một lượng vali khổng lồ. Năm ngày sau, Bắc Việt phá vỡ phòng thủ QLVNCH cuối cùng chiếm được thành phố 4 triệu người, trong đó có 300.000 người thất nghiệp, 150.000 người nghiện bạch phiến, và 130.000 cô gái mãi dâm. Trong vòng vài tháng, chế độ mới đã lập trại “cai bạch phiến” có sức chứa 1.200 người nghiện. Những người nghiện ma túy, lần lượt bị bắt buộc phải cai bạch phiến bằng những phương pháp như châm cứu, võ thuật, và tẩy não.

Sách “55 Days the Fall of Vietnam,” trang 21, viết:

Ít người Mỹ và người Miền Nam Việt Nam phát hiện vào tháng 3.1975 là tinh thần quân đội Sài Gòn đang tan rã một cách trầm trọng. Quân đội này được trang bị vũ khí tối tân hơn bất kỳ nước châu Á nào khác. Họ có nhiều máy bay chiến đấu hơn bất kỳ chính quyền nào khác trên thế giới; họ có nhiều đạn dược, xăng dầu, quân cụ, xe cộ và lương thực nhiều hơn hầu hết các quân đội nào trên thế giới. Họ chỉ thiếu có mỗi một điều mà thôi. Một người Mỹ đã nói với một người lính Sài Gòn: Chúng tôi đã cho anh mọi thứ anh cần, trừ ý chí chiến đấu. Chỉ tại các anh không có ý chí chiến đấu. Việc người lính biết họ chiến đấu chống lại cái gì rất là quan trọng. Người lính Miền Nam đều nói là họ ‘Chống Cộng’ nhưng điều ấy lại không phải là niềm tin thật sự của họ. Từ trong tiềm thức, họ đã tự hỏi mình chiến đấu cho cái gì đây? Câu trả lời là cho sự tiếp tục tồn tại của chế độ hiện tại - một chế độ càng lúc càng tham nhũng, càng lúc càng có sự cách biệt giữa kẻ giàu và người nghèo, và càng lúc nạn lạm phát càng trở nên trầm trọng. Một số ít muốn chiến đấu để có một cuộc sống khá hơn, nhưng những kẻ sống khá giả hơn thì lại hướng về cuộc sống không chiến đấu. Con trai, con gái, và con rể của ông Thiệu đều ra nước ngoài du học. Người dân Miền Nam chưa bao giờ biết đến một ông tướng nào có con đi lính trong quân đội.

Sách “55 Days the Fall of South Vietnam,” trang 245, viết:

“Một thí dụ về đường dây tham nhũng của Nguyễn Văn Thiệu: Năm 1973, Thiệu thăng cấp trung tướng cho Nguyễn Vĩnh Nghi và chỉ định Nghi làm chỉ huy trưởng Vùng IV Chiến Thuật. Nghi được tự do làm hết sức mình để mang lại phong phú cho Vùng IV. Giữa năm 1974, tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn công bố đến các nhà báo rằng  8.000 máy radio, 25.000 súng trường và nhiều loại súng nhỏ khác đột nhiên biến mất từ kho Vùng IV. Biết không thể tiếp tục giấu được, Thiệu cách chức tư lệnh Vùng IV của Nghi, nhưng không xét xử gì thêm. Sau đó Nghi xuất hiện làm chỉ huy ở Phan Rang. Dưới thời của Thiệu, một tướng lãnh có quyền bán một chức việc không phải đánh giặc cho một người nào đó muốn mua trong một đường dây từ cao xuống thấp, mà cao nhất là Thiệu. Hai tướng khác tại Vùng III Chiến Thuật bị giới chức Sài Gòn và tòa đại sứ Mỹ tố cáo là Trần Quốc Lịch thuộc Sư Đoàn 25 Bộ Binh và Lê Văn Tư thuộc Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Hai người nầy bán ra nhiều thứ gồm thực phẩm, dụng cụ quân đội, giấy phép vắng mặt, v.v… Trong thời gian chỉ huy của Lịch và Tư. Sư Đoàn 25 và Sư Đoàn 5 hoàn toàn bất lực không thể chiến đấu được nữa… Giá cao nhất của Thiệu là Cảnh Sát Trưởng Chợ Lớn. Khi ông Kỳ trong thời gian làm thủ tướng năm 1966, nói Thiệu bán chức Cảnh Sát Trưởng Chợ Lớn là 15 triệu đồng Việt Nam (khoảng 130.000 đô la vào lúc đó). Đầu thập niên 1970, ông Thiệu bán chức thiếu tá hoặc trung tá 1 trăm ngàn đô la, nhưng người ta vẫn mua vì nhiều chỗ có thể hối lộ lấy vốn lại chỉ trong vòng 2 tháng… Chức tỉnh trưởng Châu Đốc chỉ có 80 ngàn đô la. Nhiều người trong bộ tham mưu của Thiệu cũng làm giàu như Phạm Kim Ngọc, bộ trưởng kinh tế bỏ vào trương mục của ông tại Đài Loan một số tiền là 8 triệu đô la. Hai triệu phú khác là Nguyễn Thị Mai Anh, là vợ của Thiệu, và Lý Long Thân, một người hợp tác yên lặng với Thiệu và là  thân nhân của Mai Anh. Thân đã chuyển một số tiền lớn từ trương mục của ông tại Thụy Sĩ và Singapore qua trương mục của Thiệu.”

Sách “The Hidden History of the Vietnam War,” trang 215, viết:

Trưởng cơ quan CORDS ước tính khoảng 5.000 tù nhân, hoặc cao hơn, bị giết bởi Chiến Dịch Phượng Hoàng, là vô tội. Chính phủ Miền Nam đưa ra con số là 40.000 tù nhân  bị giết. Theo ước tính của một cai ngục Miền Nam thì nhà tù có sức chứa hơi cao hơn 50.000 tù nhân (Hồng Thập Tự Quốc Tế tiết lộ sau chiến tranh là trên 70.000 tù nhân). Một số nhà phê bình Chiến Tranh Việt Nam thì cho các nhà giam đã chứa hơn 200,000 tù nhân… Những kết quả này không đến cùng lúc. Chiến Dịch Phượng Hoàng lên cao điểm năm 1969, là 19.534 bị bắt, bao gồm 6.187 người bị giết. Chiến dịch được cố vấn từ 600 cho đến 800 người Mỹ, trong số những người Mỹ đó, đặc biệt có khoảng từ 25 đến 40, có lúc lên đến 100 người, là nhân viên tình báo CIA.

…Vấn đề đã trở thành cấp bách vì khả năng tình báo VNCH có giới hạn vì Chiến Dịch Phượng Hoàng đòi hỏi phải cung cấp một số lượng nhất định xác chết, nóng hoặc lạnh, nhưng phải là xác chết. Nghi vấn về hệ thống chỉ tiêu Chiến Dịch Phượng Hoàng được giải mật năm 1992 do đại sứ  Ellworth Bunker tường trình Bạch Cung về hệ thống chỉ tiêu thật sự. Komer biện hộ chỉ tiêu là dụng cụ điều hành. Ông chỉ muốn một chỉ tiêu thật sự và đòi hỏi con số thật sự đó, nhưng ông không thể ngăn cản Nguyễn Văn Thiệu đưa ra một chỉ tiêu quá cao. Chỉ tiêu Chiến Dịch Phượng Hoàng cộng với hệ thống tình báo nghèo nàn của Nguyễn Văn Thiệu, đã phải giết những người vô tội, lấy xác cộng vào với một ít xác chết đặc công Việt Cộng để đạt chỉ tiêu quy định. Đối với các giới chức Mỹ, đây là vi phạm luân lý đạo đức. It nhất là một cố vấn Mỹ đã trở thành điên dại và bị thuyên chuyển ra khỏi Việt Nam. Ở một cực đoan khác, Colby, năm 1969, cố vấn về đâm chém và ám sát, được chỉ định làm việc cho CORDS, đã phải kết luận Chiến Dịch Phượng Hoàng là bất nhân và yêu cầu cho ông được di chuyển đi chỗ khác. Cũng trong năm 1969, trước khi đến Việt Nam, hai trung úy bộ binh, Fran­cis T. Reitemeyer and Michael J. Cohn, trải qua một khóa huấn luyện tại Fort Holabird, đã quyết định từ chối khi được bảo phải ký vào giấy chỉ tiêu cam kết phải giết ít nhất là 50 Cộng Sản mỗi tháng. Hai người này được giải ngũ khỏi quân đội. Ngay cả tại Dĩ An, một trong những khu vực Chiến Dịch Phượng Hoàng thành công, Trung úy Cook đã từ chối đạt chỉ tiêu khi ông ông biết được điều lệ này.

…Đạt chỉ tiêu trong việc đếm xác chết và giết lầm người dân vô tội đã biến Chiến Dịch Phượng Hoàng thành một đề tài tranh luận tại Mỹ. Chính phủ Miền Nam tiếp tục theo đuổi Chiến Dịch Phượng Hoàng sau ngày ký Hiệp Định Ba Lê 1973, với một cái tên mới là F-6, chương trình phát triển và phân phối thay thế CORDS trong khi nhiệm vụ của Mỹ là quay sang Chiến Dịch Bình Định. Chiến dịch chống lại mạng lưới Cộng Sản (anti-VCI) là một vấn đề to lớn đối với Miền Nam. Năm 1973, kết quả về vai trò trong Chiến Dịch Phượng Hoàng đã làm cho Colby gặp khó khăn trong vai trò lãnh đạo CIA.

…Chẳng may, kết quả cuộc phỏng vấn của Karnow không phải là điểm cuối cùng. Có rất nhiều vấn đề để chúng ta tiếp tục đặt câu hỏi về sự ảnh hưởng của Chiến Dịch Phượng Hoàng, đặc biệt về lý do quân sự và chống chiến tranh du kích. Những người biểu tình phản chiến đã đúng khi nói Chiến Dịch Phượng Hoàng tạo ra hàng loạt vi phạm nhân quyền trên một quốc gia, nhưng đó chỉ là một vấn đề. Vấn đề kế tiếp cần thiết để bàn cãi, nhất là vấn đề thực hành và quân đội. Thứ nhất, đúng với nghĩa của nó, Chiến Dịch Phượng Hoàng là chiến dịch phá huỷ mạng lưới Cộng Sản đã trở thành Chiến Dịch Ám Sát. Thứ hai, là một điều hiển nhiên. Miền Nam Việt Nam sau cùng bị sụp đổ do ảnh hưởng rất nhỏ về độ xâm nhập của Cộng Sản vào quân đội và chính quyền Miền Nam. Thứ ba, sự thật là Chiến Dịch Phượng Hoàng đã biến thành vấn đề tranh luận làm cản trở mục tiêu của Mỹ trong lúc những xung khắc luân lý làm người đang chiến đấu tiếp tục đưa ra nhiều câu hỏi về sự chiến đấu của mình. Thứ tư, đối với chính phủ Sài Gòn, chiến tranh chống mạng lưới Cộng Sản thay vì làm lành mạnh hóa một chánh quyền tham những mục nát. Thứ năm là Chiến Dịch Phượng Hoàng của Miền Nam đã phá tan mạng lưới Cộng Sản trong khi Cộng Sản tiến từ du kích sang chiến tranh quy ước. Họ đã chiếm Miền Nam sau mấy mươi ngày thay vì phải cần tới mười năm.

Trung úy Vincent Okamoto, là một sĩ quan liên lạc trong thời hạn 2 tháng của chiến dịch Phượng Hoàng năm 1968, nói:

Vấn đề là làm sao để tìm ra người trong sổ bìa đen! Không như bạn có địa chỉ và số điện thoại của người đó. Phương pháp thường dùng là chộp ngực bất cứ một người nào đó rồi hỏi Nhà ông Nguyễn (thí dụ muốn tìm ông Nguyễn) ở đâu? Khoảng 50% người đó sẽ trả lời bất cứ cái gì bạn hỏi. Rồi an ninh Phượng Hoàng ghi địa chỉ. Tròng một cái bao cát lên đầu người nầy, bao cát được khoét 2 lổ để người nầy nhìn thấy bên ngoài. Cột vô cổ người nầy một sợi dây giống dây cột chó, và dặn ‘khi đi ngang nhà ông Nguyễn thì ra hiệu bằng cách gãi đầu.’ Rồi dẫn ông nầy vào làng để ông ấy chỉ nhà. Xong, chờ tới tối, công an Phượng Hoàng đến ngay nhà gõ cửa. Nếu có người nào ra mở cửa thì nói ‘Đ. mẹ thằng ngu!’ Bất cứ người nào mở cửa là Việt Cộng. Thỉnh thoảng họ không bị bắt, nhưng bị giết và bị cắt một cái tai về căn cứ để chứng minh.

Chiến dịch Phượng Hoàng giết hơn 26 ngàn người, cũng có thể đọc trên WIKIPEDIA:

https://en.wikipedia.org/wiki/Phoenix_Program

Sách “Vietnam a History,” trang 647 viết:

“John Kerry, thượng nghị sĩ Massachusetts, trước đó là một sĩ quan Hải Quân, kể lại lời của một người bạn: ‘hãy ra khỏi lính và đập tan những vết tích cuối cùng của cuộc chiến mọi rợ (barbaric war) này!’ còn các tư lệnh quân đội mỹ thì biết chắc chắn câu trả lời là phải chấm dứt chiến tranh (Việt Nam) và đem lính mỹ về để cải tạo (cai bạch phiến).”

Xuyên qua các tài liệu tham khảo để viết lên bài này, tôi thấy rất tội nghiệp cho một số người vẫn còn đang cố gắng bám chặt vào những cái phao Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, mặc dầu họ đang thấy những cái phao này đang rơi xuống hố sâu vực thẳm. Là người đạo Phật, tôi hiểu kẻ thù của tôi không phải là con người, và tôi đang thả cái phao này xuống cho quý vị, cái phao có mang phúc âm của Chúa Jesus Christ “Các người hãy sống với sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ngươi” mà tôi nhặt được từ một bài pháp thoại của Mục Sư Martin Luther King.

Theo Avro Manhatten trong quyển “Vietnam: why did we go?” Vatican có một kế hoạch hẳn hoi để Ca-tô Rô-ma giáo hoá toàn thể nước Việt Nam. Tuy nhiên sự đầu hàng vô điều kiện của Pháp trong trận Điện Biên Phủ đã gây một tiếng vang khắp thế giới làm cho Vatican hoảng hốt, biến kế hoạch Ca-tô Rô-ma giáo hoá hoàn toàn nước Việt Nam thành ra ít nhất là Ca-tô Rô-ma giáo hoá Miền Nam Việt Nam. Để thực hiện, Vatican thi hành kế hoạch di cư một triệu dân đạo Ca-tô Rô-ma vào Miền Nam bằng tuyên truyền của CIA là đức Mẹ Đồng Trinh đã vào Nam, Miền Bắc sẽ bị dội bom nguyên tử, v.v… Sau khi di cư vào Nam, người Ca-tô Rô-ma sẽ lập thành một bức tường bao quanh vị tổng thống Ca-tô Rô-ma giáo, giống như họ đã từng lập thành một bức tường bao quanh một ông vua Ca-tô Rô-ma giáo trước đây. Khi bức tường Ca-tô Rô-ma giáo vững chắc, thì công việc kế tiếp là tiêu diệt Phật Giáo, vì người Ca-tô Rô-ma giáo quan niệm chỉ có đạo Ca-tô Rô-ma là một “chánh đạo” duy nhất, tất cả các đạo khác đều là “tà đạo.” Khi Phật Giáo bị tiêu diệt hoàn toàn, thì việc Ca-tô Rô-ma giáo hoá sẽ dễ dàng. Khi tất cả mọi người Miền Nam đều là người Ca-tô Rô-ma giáo, thì Miền Nam lúc đó mới nói tới chuyện tổng tuyển cử thống nhất với Miền Bắc.

Thường thường người Ca-tô Rô-ma chống Cộng Sản một cách om sòm, nhưng sau lưng thì bắt tay với Cộng Sản. Chẳng những người đạo Ca-tô Rô-ma, mà giáo hội Ca-tô Rô-ma cũng vậy. Chẳng những giáo hội Ca-tô Rô-ma, mà toà thánh Vatican cũng vậy. Khi tổng thống Ngô Đình Diệm còn sống, Diệm, Nhu, và Vatican cũng chống Cộng om sòm, nhưng lại bắt tay với Cộng Sản, khiến Mỹ phải ra lệnh giết Diệm và Nhu (đọc The American Pope by John Cooney). Cũng giống như vậy, việc Thiệu chống Cộng một cách om sòm, sẽ không bảo đảm được Thiệu sẽ không bắt tay với Cộng Sản. Vì là người đã dựng lại đảng Cần Lao, chắc chắn Thiệu sẽ tiếp nối kế hoạch bị bỏ dỡ của Vatican là tiêu diệt Phật Giáo. Làm thế nào Thiệu có thể tiêu diệt Phật Giáo? Thiệu chỉ cần chống Cộng theo cách Thiệu đang chống. Cách của Thiệu đang chống, là: Càng chống Cộng nhiều chừng nào, Phật tử càng chết nhiều chừng ấy, chết bằng bắt cóc, bằng thủ tiêu, bằng bỏ tù Côn Sơn, v.v… Khi nào người Phật Tử cuối cùng chết, thì lúc ấy là lúc Thiệu hoàn tất giai đoạn tiêu diệt Phật Giáo. Chuyện này thấy được rất dễ dàng qua hình ảnh hàng ngàn Phật Tử, nhà sư… bị bắt cóc, bị giết, và bị bỏ tù Côn Đảo mà nhà tranh đấu hòa bình người Mỹ Alfred Hassler đã cho biết. Và việc Hoà Thượng Thích Trí Quang mang bàn thờ Phật xuống đường là chuyện đương nhiên phải làm cho sự sinh tồn của Phật Giáo.

1 2 3 (<= xem)

DuyênSinh

DuyenSinh@Livecom

VIDEO:

HÌNH ẢNH NHÀ TÙ CÔN ĐẢO

PHIM TÀI LIỆU VỀ CÔN ĐẢO KHÁT VỌNG BẤT DIỆT I

PHIM TÀI LIỆU VỀ CÔN ĐẢO KHÁT VỌNG BẤT DIỆT II

PHIM TÀI LIỆU VỀ CÔN ĐẢO KHÁT VỌNG BẤT DIỆT III

PHIM TÀI LIỆU VỀ CÔN ĐẢO KHÁT VỌNG BẤT DIỆT IV

PHIM TÀI LIỆU VỀ CÔN ĐẢO KHÁT VỌNG BẤT DIỆT V

Buddhist Monks in War and Protest

Bồ tát Thích Quảng Đức Trái Tim Bất Tử

Opium Smoking in French Indochina 1901 Lumière

Old Hong Kong Sheung Wan, opium smoking, 1952

Opium wars or China England wars Telugu

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

The American Pope, John Cooney, Dell Publising Co., Inc. (1984)

Vietnam: why did we go? Avro Manhattan, Chick Publications (1984)

The Politics of Heroin (Revised Edition), Lawrence Hill Books, Chicago, (2003)

Vietnam a History, Stanley Karnow, Penguin Books (1997)

55 Day The Fall of South Vietnam, Alan Dawson, Printice-Hall, Inc., (1977)

The Hidden History of The Vietnam War, John Prados, Ivan R. Publisher, Chicago (1977)

 

Nguồn https://www.duyensinh.com/files/DDDT/A_PHIEN_BACH_PHIEN_VA_CHIEN_TRANH_TON_GIAO_DUOI_THOI_DIEM_VA_THIEU-KY.pdf


 

Bài đọc thêm:

- GHLM: Lịch Sử và Hồ Sơ Tộc Ác (Nguyễn Mạnh Quang)- Chương 91: Vân Nạn Buốn Bán Ma Túy: https://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php