Á Phiện, Bạch Phiến, Và Chiến Tranh Tôn Giáo DuyênSinh https://sachhiem.net/LICHSU/D/Duyensinh02_aphien.php Gồm các mục: ... - 4. Tranh Giành Bạch Phiến Giữa Nguyễn Văn Thiệu Và Nguyễn Cao Kỳ 4. Tranh Giành Bạch Phiến Giữa Nguyễn Văn Thiệu Và Nguyễn Cao Kỳ Chính trị đã xây dựng cho Thủ Tướng Kỳ một phe nhóm mạnh mẽ, và chính trị cũng đã làm suy yếu ông. Ngôi sao sáng chói của ông đã đưa người môi giới, tướng Loan, nắm quyền tình báo cảnh sát và sử dụng nguồn tài nguyên đang phát triển để tăng thu nhập của họ từ nguồn lợi hấp dẫn là thủ đô Sài Gòn, luôn luôn là nơi hưng thịnh về việc buôn bán ma túy. Tuy nhiên, năm 1967, thù hận đã sôi nổi xảy ra giữa Thủ Tướng Kỳ và Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Đứng đầu hội đồng quân sự Saigon, Thiệu đã mở đầu một cuộc chiến tranh chính trị với Kỳ. Sau hai năm tạo dựng quyền lực, Kỳ bị lôi cuốn vào độc quyền buôn bán á phiện và yếu dần. Mỗi lần đương đầu với Thiệu, Kỳ hầu như luôn bị hạ. Kình địch Thiệu-Kỳ là một cuộc đụng độ đầy tham vọng. Họ tranh nhau trên cả hai phương diện cá nhân và công cộng, Kỳ biểu thị tất cả sắc thái của một phi công chiến đấu, mặc bộ đồ bay màu đen nửa đêm, thích đấu lý về sự tham nhũng của đối thủ và kêu gọi cải cách. Trong khi sự bộp chộp của kỳ giành được cảm tình của sĩ quan Không Quân, nó thường làm ông bối rối về chính trị. Chẳng hạn như có lần ông tuyên bố ngưỡng mộ một cách sâu sắc Adolf Hitler. Ngược lại, Thiệu là một nhà điều hành chính trị lầm lì và tính toán. Mặc dù có vẻ lãnh đạm, nét ngu ngơ của Thiệu làm ông không được ủng hộ sâu rộng của quần chúng. Qua nhiều năm kiên nhẫn, Thiệu đã xây dựng được hậu thuẫn của Bộ Binh và Hải Quân VNCH. Mặc dù Thiệu và Kỳ trình bày một mặt trận thống nhất trong cuộc bầu cử năm 1967, mối thù cơ bản của họ đã nổ ra trong việc loại bỏ các mối đe dọa của chính phủ dân sự. Thiệu và Kỳ đã đồng ý tạm thời chôn vùi sự khác biệt và chạy đua trên cùng một tiêu đề sau khi 48 tướng lãnh VNCH thảo luận đằng sau cánh cửa đóng kín ba ngày trong tháng 6.1967. Vào ngày thứ hai trong cuộc tranh giành chính trị, Thiệu đã lọt vào vị trí thứ nhất sau một tố cáo gay gắt tham nhũng cảnh sát Sài Gòn, một cuộc tấn công gián tiếp vào Loan và Kỳ, làm giảm bớt khí thế đến nỗi Kỳ phải rơi nước mắt chấp nhận vị trí số hai trên tiêu đề. Tuy nhiên, hai nhà lãnh đạo vận động một cách riêng biệt, và một khi cuộc bầu cử đã qua, tình trạng thù địch nhanh chóng chấm dứt. Vì hiến pháp dành cho tổng thống rất nhiều và phó tổng thống rất ít quyền hạn, Kỳ không còn đủ tư cách đối đầu với Thiệu. Tuy nhiên Loan vẫn còn nắm giữ bộ máy cảnh sát và tình báo, vẫn còn đang mở rộng và trung thành với Kỳ, vẫn cho Kỳ một một số lợi thế. Trong một báo cáo với Đại Sứ Bunker tháng 5.1968, Tướng Edward Lansdale giải thích sự năng động cạnh tranh Thiệu-Kỳ: “Loan đã nhờ nguồn vốn đáng kể thông qua nguồn lợi thu vào theo hệ thống pháp lý và tình báo,” là phần lớn trong việc tạo thành sức mạnh chính trị cho Kỳ. Tuy nhiên, Lansdale nói thêm, “Thiệu hành động như nguồn tài chánh của ông bị hạn chế và đã không sử dụng quỹ bí mật của Kỳ.” Vì tiền là chìa khóa để chiến thắng, sự cạnh tranh Thiệu-Kỳ đã trở thành một cuộc chiến ngầm trong các vị trí hấp dẫn hành chính, cảnh sát, tình báo, và nhiều cơ sở quan trọng khác. Trong thời gian hai năm làm thủ tướng, Kỳ đã bổ nhiệm những người trung thành với mình nắm lấy các vị trí cao và hấp dẫn, do đó ông đã xây dựng được một bộ máy tài chính mạnh mẽ. Bây giờ tới phiên mình độc quyền, Thiệu dần dà tìm cách đưa người của mình vào thay thế người của Kỳ. Tấn công đầu tiên của Thiệu là dịch vụ hải quan, nơi nổi tiếng của Lộc với ý định làm bộ máy của Kỳ đặc biệt bị tổn thương. Chiến thuật đầu tiên, thường là trong trận chiến giữa các phe phái, là sử dụng người Mỹ để loại bỏ đối thủ. Chỉ ba tháng sau khi bầu cử, cố vấn hải quan George Roberts tường trình nhận được thông tin hoạt động bên trong của Lộc: “Đây là thời căng thẳng nội bộ và cạnh tranh chính trị, Lộc bị xâm nhập và nhiều sĩ quan của Lộc nghĩ đã đúng thời điểm để tiết lộ bí mật.” Mặc dù tiết lộ không có bằng chứng, Lộc bắt buộc phải phản công. Ông yêu cầu các cố vấn Hải Quan Mỹ đưa ra các bằng chứng, mời họ tố cáo các lãnh đạo cao cấp của ông tại Tân Sơn Nhất, nơi buôn lậu á phiện và vàng lần đầu tiên, làm dấy lên những tranh cãi, đưa tới một loạt điều tra tham nhũng Hải Quan. Khi Bộ Trưởng Tài Chính mới của Tổng Thống Thiệu nhậm chức, ông đã báo trước là Lộc đang trên con đường đi ra khỏi cửa. Tuy nhiên, khi gặp Bộ Trưởng Tài Chánh, Lộc đưa ra tất cả các công việc chống tham nhũng tuyệt vời của mình, và khẳng định tiếp tục ở lại. Nhưng sau đó, như Roberts đã báo cáo về Washington, phe Thiệu đưa ra đòn cuối cùng. Để hoàn toàn tiêu huỷ Lộc, Thiệu quay qua báo chí địa phương, trao cho báo chí địa phương những tin tức như đã đưa ra từ trước. Báo chí, làm việc tự do sử dụng ngôn ngữ bóng gió và ngụ ý, đưa lên trang nhất một loạt các bài viết với chủ đề tham nhũng trong Hải Quan. Họ buộc tội Giám Đốc Lộc một cách mạnh mẽ. Vài tuần sau Lộc bị sa thải, và Thiệu mở được con đường kiểm soát giao thông tại sân bay Tân Sơn Nhất. Các phe Thiệu và Kỳ đào sâu cuộc chiến, và dường như bê bối tiếp tục trong nhiều tháng, hoặc thậm chí nhiều năm. Tuy nhiên, vào ngày 31.1.1968, QĐNDVN và MTGPMN đã phát động tổng tấn công Tết Mậu Thân vào 102 thị trấn và thành phố trên khắp VNCH kể cả Sài Gòn. Chiến tranh mãnh liệt bên trong thành phố kéo dài cho tới vài tháng. Chính Phủ VNCH phải gác bỏ mọi thứ để đẩy Cộng Sản trở lại thôn quê. Trận Tết Mậu Thân không những chỉ biến nhiều nơi tại Sài Gòn-Chợ Lớn thành đống gạch vụn, mà nó còn tàn sát hàng ngũ của Phó Tổng Thống Kỳ, làm tê liệt guồng máy chính trị và buôn lậu của Kỳ. Có ít nhất là chín thành viên gây quỹ tài chánh của Kỳ chết hoặc bị thương. Tướng Loan bị thương trầm trọng ngày 5.5.1968 khi chạy xuống một hẽm có nhiều Việt Cộng bao quanh. Một viên đạn AK-47 cắt đứt động mạch chính chân phải của Loan, và Loan bị Thiệu buộc phải từ chức sau nhiều tháng nằm bệnh viện. Người thứ hai là Đại Tá Lưu Kim Cương, Tư Lệnh Không Vận máy bay có cánh, một nhân vật quan trọng của Kỳ, đã bị bắn chết khi hành quân vùng ngoại ô Saigon. Trong khi hai việc xảy ra đủ làm suy yếu bộ máy của Kỳ, một cú bí ẩn khác xảy ra một tháng sau đó làm bộ máy của Kỳ gần như tê liệt. Chiều ngày 2.6.1968, một phe đảng nổi bật của Kỳ mở phiên họp, với lý do không bao giờ được giải thích thõa đáng, trong một địa điểm tại Chợ Lớn, vào khoảng 6 giờ chiều. Một chiếc trực thăng Mỹ, bay trên bầu trời tìm kiếm một đơn vị Việt Cộng, đã tấn công lầm vào tòa binh đinh đang họp. Trong số những người chết có Trung Tá Phó Quốc Chụ, là người anh em vợ của Kỳ, giám đốc cảng Sài Gòn; Trung Tá Đào Bá Phước, chỉ huy Tiểu Đoàn 5 Biệt Động Quân, vừa được bổ nhiệm giữ an ninh thủ đô; Trung Tá Nguyễn Văn Luận, giám đốc Cảnh Sát Thủ Đô Sài Gòn; Thiếu Tá Lê Ngọc Trụ. Ủy Viên Cảnh Sát Quận 5, cánh tay phải của Tướng Loan; và Thiếu Tá Nguyễn Bảo Thúy, Phụ Tá Đặc Biệt thị trưởng thành phố Sài Gòn; Trung Tá Vân Văn Của, anh em vợ của Loan, thị trưởng thành phố Sài Gòn, bị nát một cánh tay phải và phải trải qua bốn tháng nằm bệnh viện. Những người này đại diện cho nền tảng tài chính bộ máy chính trị của Kỳ. Khi bộ máy bị sụp đổ, Phó Tổng Thống Kỳ không còn thẩm quyền chỉ định bất cứ ai điều hành văn phòng, và tất cả chín vị trí bị bỏ trống đã được thay thế bằng người của Thiệu, ngoại trừ một vị trí ngoại lệ của Đại Tá Lưu Kim Cương, Tư Lệnh Không Vận máy bay có cánh. Ngày 6.6.1968, Đại Tá Trần Văn Hai, được bổ nhiệm làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, và ngay lập tức, một cuộc thanh lọc khắt khe bắt đầu thay thế người của Loan. Báo chí Sài Gòn đăng tải 150 cảnh sát chìm bị sa thải và một số đã bị bắt giữ. Ngày 15.6.1968, Đại Tá Hai đưa ra một đòn quyết định kiểm soát Kỳ bằng cách sa thải tám trong mười một ủy viên cảnh sát tại các khu vực Sài Gòn. Khi bộ máy trở thành xuống dốc, vận may chính trị của Kỳ cũng từ đó mà xuống dốc theo. Mất cảnh sát, Kỳ mất nguồn tài chánh to lớn. Khi nguồn tài chánh to lớn của Kỳ khô cạn, Thiệu bắt đầu sa thải tất cả mọi phần tử cao cấp trước đây ủng hộ Kỳ. Trong khi bộ máy của Kỳ âm thầm chuyển đổi thành bộ máy của Thiệu, người quan sát bên ngoài khó mà thấy được. Không bao lâu, sau cuộc bầu cử quốc hội tháng 10.1967, quốc hội tổ chức phiên họp đầu tiên từ ngày chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Thiệu và Kỳ bắt đầu cạnh tranh ủng hộ của hạ viện. Sử dụng một số tiền được cung cấp bởi Tướng Loan, Kỳ đã mua được một khối lớn gồm 42 đại biểu, có tên là “Khối Dân Chủ” (Democratic Bloc), bao gồm Phật Tử, giới trí thức VNCH, và một số người Thượng. Vì Thiệu kém Kỳ về “Quỹ Bí Mật,” ông đã liên minh với một khối 21 người, có tên là “Khối Độc Lập” (Independence Bloc) bao gồm người Cơ Đốc Giáo cực hữu, chủ yếu là dân Miền Bắc di cư, và dân Miền Trung. Cả hai, Thiệu và Kỳ, trả mỗi đại biểu lương bổ sung “bất hợp pháp” từ 4.500 đến 6.000 đô la một năm, thêm vào một số hối lộ khác lên đến 1.800 đô la trên mỗi cuộc đầu phiếu. Ở mức tối thiểu, Kỳ phải trả từ 15.000 đến 20.000 đô la mỗi tháng, chưa nói tới 100.000 đô la cho những lần bỏ phiếu chính yếu một hoặc hai lần mỗi năm. Tháng 5.1968, Tướng Lansdale báo cáo với Đại Sứ Bunker: “Thiệu nỗ lực... để tạo hỗ trợ trong cả hai viện, đã bị khó khăn do ảnh hưởng của Kỳ đối với một số Thượng Nghị Sĩ quan trọng... và Kỳ đã ảnh hưởng đến khối dân chủ trong Hạ Viện.” Tuy nhiên, suốt mùa Hè năm 1968, Kỳ gặp khó khăn tài chánh, buộc phải cắt giảm lương bổ sung, và các đại biểu trôi dạt ra khỏi khối của Kỳ. Vì tình trạng tài chính của Thiệu tăng cường trong suốt mùa hè, người phụ tá của Thiệu liên hệ với Quốc Hội tiếp xúc một số lớn đại biểu và cho họ biết là lương bổ sung của họ sẽ từ 1.260 đến 2.540 đô la nếu họ tham gia ủng hộ Thiệu, thuộc một nhóm mới có tên là “Khối Tiến Bộ” (People’s Progress Bloc). Một đại biểu giải thích: “Trong vài tháng qua, các hoạt động của hạ viện trở nên càng lúc càng thấp bởi vì một số lớn đại biểu lập thành khối cho lợi ích cá nhân, thay vì gây uy tín chính trị.” Trong tháng 9.1968, tờ Washington Post báo cáo: “Khối Dân Chủ, trung thành với Phó Tổng Thống Kỳ, bây giờ còn lại 25 thành viên của 42 thành viên được Thiệu và Kỳ trả lương bổ sung từ năm 1966. Thiệu chỉ hơn tiềm năng đối thủ của Kỳ chỉ trong những tháng gần đây. Đòn nghiêm trọng đối với nhóm của Kỳ tại Hạ viện đã không được đề cập rộng rãi trên báo chí địa phương, ngoại trừ trong tờ Xây Dựng của một nhóm Ca-tô Rô-ma giáo ủng hộ Kỳ.” Sự cân bằng quyền lực chính trị có ảnh hưởng đến lưu lượng á phiện. Mặc dù chính trị xuống dốc, Kỳ vẫn giữ quyền kiểm soát Không Quân, đặc biệt là vận tải có cánh. Đầu thập niên 1970, vận tải có cánh được xác định là một trong những hoạt động mạnh nhất tại VNCH về buôn lậu bạch phiến. Tướng Trần Thiện Khiêm, bộ trưởng Bộ Nội Vụ của Thiệu, từ tháng 9.1969, là một người ủng hộ Thiệu trên danh nghĩa, thừa hưởng quyền kiểm soát bộ máy cảnh sát Sài Gòn, Tân Sơn Nhứt, Hải Quan, và Thương Cảng Sài Gòn. Tuy nhiên, những điều chỉnh nội bộ đáng chú ý đã sớm khựng lại trong hai vở kịch đáng kể về ma tuý, là sự gia tăng cung cấp cho thị trường người Mỹ, và bệnh dịch bạch phiến đang lan tràn trong giới lính Mỹ phục vụ tại VNCH. 5. Bệnh Dịch Bạch Phiến Bắt Đầu Lan Tràn Trong Giới Lính Mỹ Sự bất thần tràn lan chứng nghiện bạch phiến trong cộng đồng lính Mỹ năm 1970 là do sự phát triển quy mô ma túy ở Đông Nam Á, vì vùng này mới có thể cung cấp đủ lưu lượng, từ khi đạt được tự túc sản xuất á phiện cuối thập niên 1950. Những năm 1968-1969, khu Tam Giác Vàng thu hoạch gần 1.000 tấn á phiện thô mỗi năm, là cơ sở xuất khẩu morphin sang châu Âu, vận chuyển một số lượng đáng kể chất ma túy đến Hồng Kông, tiêu thụ cho cả hai nơi, là địa phương và xuất cảng sang Hoa Kỳ. Mặc dù một lượng lớn ma túy cấp thấp số 3 được sản xuất tại Bangkok và Tam Giác Vàng cho thị trường địa phương, không có phòng thí nghiệm nào ở bất cứ đâu tại Đông Nam Á, có thể sản xuất hạt mịn, từ 80% đến 99% tinh chất ma túy số 4. Tuy nhiên, vào cuối năm 1969 và đầu năm 1970, phòng thí nghiệm Golden Triangle thêm vào biến chế cuối cùng, chất ether nguy hiểm, để sản xuất bạch phiến số 4. Nhiều người trong số các nhà hóa học giám sát biến chế, được Trung Quốc đem tới, đặc biệt từ Hồng Kông, tháng 6.1971, báo cáo CIA nói biến chế ma túy từ số 3 đến số 4 trong khu Tam Giác Vàng: “Có vẻ là do sự gia tăng đột ngột nhu cầu của một thị trường lớn và tương đối giàu có ở VNCH.” Đến giữa tháng 4.1971, nhu cầu về ma túy số 4 ở Mỹ và VNCH tăng quá nhanh, làm giá bán mỗi kg nhảy lên từ 1.240 đến 1.780 đô la.” Có lần một lượng lớn bạch phiến có sẵn cho lính Mỹ tại VNCH, nghiện bạch phiến lan tràn như dịch hạch. Trước đây không, bây giờ đột nhiên có, loại số 4 ở khắp nơi: đứa con gái 14 tuổi cũng đứng bên đường bán bạch phiến tại quán vỉa hè trên xa lộ Sài Gòn đến các căn cứ quân đội Mỹ tại Long Bình. Người đạp xích lô đường phố Sài Gòn cũng bán rong lọ nhựa nhồi 95% bạch phiến nguyên chất, dí vào túi của lính Mỹ khi họ tản bộ qua thành phố. Các “mama-sans,” hoặc “Vietnamese barracks’ maids” mang theo một lọ tới chỗ làm, bán cho lính Mỹ. Với một chiến dịch bán bạch phiến tích cực như vậy, kết quả có thể đoán được. Tháng 9.1970, cán bộ y tế quân đội đặt câu hỏi 3.103 binh lính Sư Đoàn Americal Division phát hiện 11,9% đã thử bạch phiến; 6,6% sử dụng thường xuyên; tháng 11.1970, 11 tiểu đoàn kỹ thuật Mỹ đồng bằng sông Cửu Long báo cáo 14% dùng bạch phiến; giữa năm 1971 cán bộ y tế quân đội Mỹ ước tính từ 10% đến 15%, hoặc từ 25.000 đến 37.000, lính Mỹ tại VNCH dùng bạch phiến… Từ căn cứ này tới căn cứ khác tràn ngập những đội quân bạch phiến với lọ nhựa giống hệt nhau. Lính Mỹ và các cán bộ cũng tự hỏi tại sao việc này đã xảy ra. Ai đứng đằng sau bệnh dịch bạch phiến? người ta thường xuyên đổ lỗi cho Bắc Việt, và tin đồn hoang mang bắt đầu tung ra là nhà máy sản xuất bạch phiến tại Hà Nội, đoàn xe vận tải ầm ầm xuống đường mòn Hồ Chí Minh với các lọ nhựa, và quân đội điên vì bạch phiến của Bắc Việt làm cho tự tử lên cao tại Khe Sanh với kim bơm bạch phiến còn dính trong tay. Tuy nhiên, kết quả điều tra của Mỹ đã làm đồn đại bị im bặt năm 1971: “Các khu vực trồng á phiện Miền Bắc Việt Nam được tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc, giáp giới Trung Quốc. Nơi đây được kiểm soát chặt chẽ của chính phủ và không có việc chuyển vận bất hợp pháp vào các thị trường quốc tế. Mục đích của họ là chế biến thành morphine sử dụng cho các mục đích y tế.” Thay vì, viên toàn quyền VNCH, người cao nhất bốn vùng chiến thuật là người có tội tổ chức buôn lậu bạch phiến quy mô: “Vùng I Chiến Thuật là đỉnh của kim tự tháp, bao gồm những người bảo trợ tài chính, hoặc bảo trợ đường dây ma túy bất hợp pháp với mọi hình thức. Họ còn bao gồm những chỉ huy cao cấp, nhân vật chính trị, các nhà lãnh đạo chính phủ, hoặc các thương gia giàu có Hoa Kiều của đoàn tội phạm phát triển mạnh trong khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn. Các nhóm người có quyền thế đứng sau hậu trường, thao tác, bồi dưỡng, bảo vệ, và thúc đẩy lưu lượng ma túy đủ loại.” Nhưng tại sao họ là những quan chức đứng đầu quyền thế VNCH? Những người này sẽ mất mát không thể tưởng nếu bệnh dịch bạch phiến buộc quân đội Mỹ rút khỏi VNCH? Câu trả lời là 88 triệu đô la. Nếu tính kỹ, mỗi 20.000 lính Mỹ nghiện bạch phiến tại Việt Nam xài trung bình 12 đô la để mua bốn lọ bạch phiến. Họ sẽ bỏ ra 88 triệu đô la một năm. Đây là một số tiền đáng kể đối với một quốc gia nghèo khổ và rách nát. Khảo sát nguyên nhân, thông tin đại chúng thường tìm thấy lỗi do quân đội Hoa Kỳ. Các nhân viên NCOs cao cấp và cán bộ cơ sở quá khó khăn với mùi cần sa (marijuana) nên đã đẩy lính Mỹ vào bạch phiến không mùi, nhỏ, gọn, và khó khăn bị phát hiện. “Lính Mỹ vì bị bắt buộc chiến đấu chống lại một cuộc chiến tranh họ đã không tin nên đã chuyển sang bạch phiến để xa lánh sự khổ tâm.” Và cuối cùng không thể ngờ vực, nhưng đã nhấn mạnh không đúng chỗ. Các án bộ NCOs theo dõi cần sa nhiều năm không dính líu đến lính Mỹ cũng trở thành nghiện bạch phiến. Năm 1968, những nỗi khổ tâm của lính Mỹ tại Việt Nam được nghiên cứu tinh tế hơn. Cuộc nổi loạn tại trại giam lính Mỹ Long Bình và cuộc tàn sát thường dân vô tội Mỹ Lai là một trong những vấn đề dĩ nhiên của bệnh dịch bạch phiến. Nhưng bạch phiến chưa thành quan trọng cho tới mùa Xuân năm 1970, khi một số lượng lớn được bán ra ở khắp mọi nơi trên nội địa VNCH. Thực tế đơn giản là sẽ không có một bệnh dịch nào mà không có thuốc chữa bằng những trị liệu đúng mức và toàn diện. “Các gốc rễ của của bệnh dịch bạch phiến không những chỉ được chữa trị đối với những người lính Mỹ, mà còn phải được chữa trị đối với những nhà lãnh đạo cao cấp VNCH, những người trồng trọt cây ma túy, và những hệ thống đường dây ma túy của họ.” Kinh nghiệm của Tướng John Cushman tại vùng IV chiến thuật, đồng bằng Sông Cửu Long, chứng minh mức độ tham gia chính thức kinh khủng trên các ngành quân đội VNCH, và sự hoàn toàn vô ích “làm sạch” quân đội Mỹ và các phương pháp “trừng phạt” đối với vấn đề bạch phiến. Khi Cushman nắm quyền chỉ huy các lực lượng Mỹ vùng châu thổ Sông Cửu Long vào giữa năm 1971, ông đã bị sốc bởi mức độ nghiêm trọng của bạch phiến. Bác sĩ quân y Mỹ ước tính từ 15% đến 20% các chỉ huy quân đội là những người sử dụng bạch phiến thường xuyên. Cushman đã thực hiện một nỗ lực tuyệt vọng ngăn chận tốc độ gia tăng của người nghiện. Chuẩn bị với độ chính xác và bí mật ưu tiên hàng đầu, một cuộc khám xét lớn về sử dụng ma túy bắt đầu ngày 22.6.1971, lúc 5 giờ 30 phút. Tất cả được lệnh giới nghiêm 24 giờ một ngày, mọi người vào cơ sở đều bị lục xét và cấp cứu y tế luôn luôn được mở cửa. Giá của một lọ bạch phiến 3 đô la tăng vọt lên đến 40 đô la trong căn cứ, và 300 người nghiện bạch phiến tự nguyện chữa trị. Tuy nhiên, trong sáu ngày nhiệt tâm của quân cảnh, sử dụng bạch phiến bắt đầu trở lại khi họ mua được. Ngày 4.7.1971, nỗ lực được chấm dứt và giao lại cho thành phố. Chỉ trong vòng một tuần, giá mỗi lọ bạch phiến tụt xuống còn 4 đô la và hơn phân nửa người tình nguyện cai bạch phiến cũng bắt đầu hút trở lại một cách đều đặng trông như không có gì xảy ra. Cuối tháng 7.1971, Cushman nhận ra không bao giờ có thể giải quyết vấn đề cho đến khi cảnh sát và quân đội VNCH ngừng bảo vệ bạch phiến. Mặc dù vị chỉ huy Vùng IV Chiến Thuật là Tướng Ngô Quang Trưởng hăm dọa không tham gia chiến tranh Việt Nam nữa nếu các giới chức chính phủ không chịu ngừng đường dây bạch phiến. Tướng Trưởng thấy ông đánh giặc kiểu này thật là vô ích. Vấn đề là không phải Tướng Trưởng, Cushman giải thích: “Trưởng không có một tì vết, tôi đã không nghe ai phàn nàn bất cứ điều gì khác hơn, Trưởng là một người toàn vẹn cao cả nhất. Cá nhân tôi ngưỡng mộ Trưởng. Mặc dầu không tham gia vào đường dây buôn lậu bạch phiến, Trưởng không có quyền trực tiếp chỉ huy các tư lệnh cấp ba (third-level) ngăn cấm họ tham gia đường dây buôn lậu bạch phiến.” Một nguồn tin chắc chắn là Tướng Đặng Văn Quang, Trưởng Cố Vấn Quân Đội (Chief Military Adviser) của Thiệu. Quang có một số đại tá trung thành tham gia vào đường dây buôn lậu bạch phiến!.. Cuộc xâm lược Campuchia có thể là một yếu tố quan trọng đẩy mạnh dịch ma túy lan tràn đến lính Mỹ. Trong khi giả thuyết này có thể không bao giờ được chứng minh bởi vì tính chất bí mật phân mảnh tự nhiên lưu lượng bạch phiến, là một sự trùng hợp thú vị của cuộc xâm nhập xảy ra tháng 5.1970, và báo chí và các báo cáo chính thức mùa Xuân năm 1970, là ngày khởi đầu lan rộng dịch bạch phiến. Cuối năm 1969, lính Mỹ bắt đầu sử dụng một số lượng nhỏ bạch phiến. Sự khó khăn đường sá phía Nam Lào và Tây Nguyên Miền Trung đã đưa đến vận tải bằng đường hàng không là cần thiết. Nhưng địa hình núi non lởm chởm và các chuyến bay tương đối thường xuyên cũng phải cần những dự trù phức tạp. Giữa thập niên 1950, người Campuchia trung lập cầm quyền là Cựu Hoàng Sihanouk vẫn thù địch với VNCH thân Mỹ. Chuyển vận quân sự, tàu Hải Quân, hoặc các đoàn xe quân sự VNCH không bao giờ vào Campuchia, và hầu hết vàng và buôn lậu ma túy từ Lào tránh vương quốc trung lập này. Tuy nhiên, chưa đầy ba tháng sau, khi Sihanouk bị lật đổ tháng 3.1970, quân đội VNCH đụng độ thường xuyên tại biên giới. Sư Đoàn 5 Bộ Binh đánh hàng ngày trước thủ đô Nam Vang. Vì Campuchia mở cửa, một số lượng không hạn chế các chất ma tuý có thể bay từ Nam Lào đến Nam Vang, bất kỳ một trong hàng trăm chuyến bay thương mại, quân sự, hoặc bí mật, đã thu hút do đường dây hấp dẫn này. Từ đó, chất ma tuý có thể dễ dàng được chuyển đến Sài Gòn bằng thuyền, xe tải, hoặc máy bay. Khi sự nghiện ngập của lính Mỹ bị tràn lan, buôn lậu được cải thiện. Tuy nhiên, đây chỉ là một giả thuyết rất có thể là đúng mà thôi. 6. Chỉ Huy Cao Cấp VNCH Khai Thác Thị Trường Bạch Phiến Lính Mỹ Bước nhảy vọt về lợi nhuận ma tuý VNCH, từ cả hai thị trường lính Mỹ và tiêu thụ quốc tế, kết quả đưa đến một số phe gia nhập vào lưu lượng bạch phiến. Một cách tổng quát, năm 1970, buôn lậu và ma túy được chia ra thành ba phe chính. Lợi nhuận khổng lồ đã tạo ra một tình trạng tranh giành và thù địch dữ dội giữa ba phe phái. ● Phe của Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, nắm lấy Không Quân QLVNCH, đặc biệt là vận tải. ● Phe của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nắm lấy Bộ Binh, Hải Quân, và Hạ Viện VNCH. ● Phe của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, đứng đầu quan liêu dân sự gồm An Ninh, Hải Quan, và Thương Cảng. Tham gia vào ma tuý cấp độ quốc gia có một số hình thức khác nhau. Thông thường là các nhà lãnh đạo VNCH, có ảnh hưởng chính trị và quân sự, làm việc dưới hình thức: “Giám sát và bảo vệ người Hoa Kiều.” Người Hoa Kiều quản lý về phân phối, đóng gói, chế biến, và một số buôn lậu khác. Bảo vệ rất là quan trọng, không nên bị đánh giá thấp. Nếu không có bảo vệ, lưu lượng bạch phiến không thể tiếp tục. Người có quyền thế quân đội và dân sự mạnh mẽ phải là những người trực tiếp. QLVNCH đã dùng máy bay, xe tải, và tàu chiến… mà người Hoa Kiều không có, và hầu hết trong mọi trường hợp, họ rất dễ dàng mang ma tuý qua hải quan và các trạm kiểm soát biên giới, mà người dân sự như Hoa Kiều, không thể làm được. 7. Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ Giành Lấy Đường Dây Bạch Phiến Mặc dù mất nhiều quyền thế sau trận tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, phe của Kỳ tiếp tục điều hành buôn lậu ma túy giữa Lào và VNCH, thông qua Không Quân và các quan hệ tại Lào. Với hơn 10 năm kinh nghiệm, Kỳ có một đường dây ma túy chặt chẽ mà hai phe khác không có. Thay vì mua ma túy qua trung gian, Kỳ mua trực tiếp từ Vientiane. Theo một cố vấn cảnh sát Mỹ tại Vientiane, cơ sở này là một trong nhiều cơ sở đang hoạt động mạnh, và được quản lý bởi một doanh nhân Trung Quốc tên Hữu Tim-Heng. Heng là người liên kết với một thương gia á phiện chính của Lào, là Tướng Ouane Rattikone (Cựu Tư Lệnh Lục Quân Lào), một nhà doanh thương quan trọng hảng Pepsi-Cola tại ngoại ô Vientiane, trách nhiệm chuyển vận bạch phiến tới VNCH. Hảng Pepsi-Cola này do Panya, con trai của Thủ Tướng Souvanna Phuma đứng tên làm chủ, và do Hữu Tim-Heng và hai người Trung Quốc khác chi tiền xây cất năm 1965-1966. Mặc dù con trai của thủ tướng đứng đầu công ty tạo điều kiện hỗ trợ tài chính hào phóng từ “Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế Mỹ” (U.S. Agency for International Development, USAID), hảng vẫn không sản xuất được một chai Pepsi-Cola sau 5 năm hoàn tất xây cất. Việc xây cất hảng như bị bỏ rơi. Trong khi nhà đầu tư Pepsi-Cola tỏ ra bí ẩn và có thái độ ẻo lả. “Phòng Kiểm Soát Ma Túy Mỹ” (U.S. Bureau of Narcotics) cũng có câu trả lời bí ẩn. Họ báo cáo: “Heng buôn bán Pepsi-Cola để che đậy việc mua hóa chất quan trọng chế biến bạch phiến. Ví dụ như các hóa chất ether và axetic anhydride, và các dịch vụ chuyển ngân to lớn khác.” Khi bạch phiến được chế biến và đóng gói trong các phong bì bằng nhựa lớn, các người kinh nghiệm khác trong bộ máy Kỳ trách nhiệm, chuyển vận đến VNCH. Bà Nguyễn Thị Lý, người chị của Kỳ, đã nhiều lần làm như vậy từ khách sạn Palace Sedone tại Pakse, khi em của bà còn làm Thủ Tướng, nhưng năm 1967, bà đã từ bỏ vị trí này và trở lại Sài Gòn. Tuy nhiên, các nguồn tin trong cộng đồng Việt Nam tại Vientiane nói bà và chồng của bà đi đi lại lại giữa các nơi Sài Gòn, Pakse, và Vientiane, ít nhất mỗi tháng một lần, sau khi bà trở về Việt Nam. Bà Lý đã mua bạch phiến sản xuất trong phòng thí nghiệm bí mật của Heng và vận chuyển đến Pakse hay Nam Vang. Nơi đó bạch phiến được chuyển đi bằng máy bay Không Quân VNCH. Ngoài ra, Phòng Kiểm Soát Ma Túy Mỹ cũng tin rằng Mai Đen, một trợ tá cho Tướng Loan, cũng tham gia vào buôn lậu ma túy. Sau khi Loan bị thương tháng 5.1968, Mai Đen bị đẩy ra khỏi Cơ Quan Tình Báo Trung Ương, và bị lưu vong tại Bangkok. Trong thời gian hai năm làm giám đốc cho cơ quan này, Mai Đen đã khéo léo dệt thành một mạng lưới tình báo, và đã có thể biến mạng lưới tình báo thành mạng lưới buôn bán bạch phiến lậu, liên hệ với mạng lưới Khu Tam Giác Vàng. Phòng Kiểm Soát Ma Túy Mỹ có lý do để tin tưởng rằng Mai Đen đã sử dụng mạng lưới thậm chí lâu hơn. Thông thường, sĩ quan Không Quân VNCH chịu trách nhiệm điều hành đường dây ma túy VNCH, mua ma túy rồi chuyển giao lại, thường là chuyển giao cho Không Quân Lào, đặc biệt tại Pakse, hoặc qua biên giới Lào ở Pleiku, hoặc tại Nam Vang. Hầu hết các nhà quan sát thấy Nam Vang là điểm có thể thay thế vị trí quan trọng Pleiku, là điểm chuyển giao sau khi Không Quân VNCH bắt đầu các phi vụ hàng ngày đến Nam Vang trong thời gian xâm lược Campuchia 1970. Trong Tháng 8.1971, tờ The New York Times loan báo giám đốc Hải Quan VNCH nói: “Tôi tin rằng máy bay Không Quân VNCH đã chở một lượng lớn bạch phiến vào VNCH mà các người điều hành do Kỳ bổ nhiệm và điều động.” Các cố vấn Hải Quan Mỹ, quan sát một cách khách quan, nói: “Không Quân VNCH thường xuyên bốc một số lượng lớn ma túy buôn lậu tại căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt. Nơi đây, Kỳ trị vì trong cung điện có máy điều hòa không khí, bao quanh bởi nhân viên trung thành.” Một cố vấn Không Quân Mỹ nói: “Để chăm sóc được một công việc trong khoảng cách bằng tầm đạn, từ dinh Phó Tổng Thống, viên chức Không Quân VNCH phải là người trung thành với Kỳ.” Năm 1973, chỉ huy căn cứ Tân Sơn Nhất và các Phi Đoàn Vận Tải VNCH có cánh, thuộc Sư Đoàn 5 Không Quân, là Đại Tá Phan Phụng Tiên. Tiên là anh em rể, của một trong các cố vấn của Kỳ. Cố vấn đó đã chết trong trận Tết Mậu Thân 1968. Tiên từng là phi đoàn trưởng trong đoàn máy bay vận tải đầu tiên 1956-1960. Tiên vẫn là một người trung thành nhất của Kỳ. Một cố vấn Không Quân Mỹ đã mô tả Kỳ vào thời điểm đảo chánh: “Kỳ là người phác họa kế hoạch đảo chánh bên trong lực lượng Không Quân.” Sau cuộc xâm lược Campuchia tháng 5.1970, Sư Đoàn 5 Không Quân gồm C-47, C-119, và C-123 vận tải, bắt đầu tới lui giữa Nam Vang và Tân Sơn Nhứt chở thiết bị và tiếp liệu cho quân đội Campuchia, cùng lúc hai chiếc gunship AC-47 bay hàng đêm đến Nam Vang phòng thủ ngoại vi thủ đô Nam Vang. Tất cả các chuyến bay này, khi trở về Tân Sơn Nhất, phải là một máy bay trống rỗng. Nhưng Tổng Giám Đốc Hải Quan VNCH tin rằng máy bay thường xuyên đầy ắp hàng hóa lậu cùng với vàng và ma tuý. Ông Tổng Giám Đốc đưa ra độc nhất Đại Tá Phan Phụng Tiên để chỉ trích và Tiên bị phỏng vấn của tờ The New York Times vào tháng 8.1971. Tờ New York Times dán cho Tiên nhãn hiệu: “Người ít hợp tác nhất trong nỗ lực thu hẹp các con kênh bạch phiến thông thương đến Việt Nam.” Hơn nữa, các giới chức cảnh sát Việt Nam báo cáo Tiên gần gũi với một số người Corsican thế giới du đãng ngầm, quản lý khách sạn và nhà hàng tại Sài Gòn. Bằng chứng này làm nhiều nhà quan sát Việt Nam kết luận Đại Tá Tiên là một nhân vật của trung tâm đường dây ma túy VNCH. 8. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu Giành Lấy Đường Dây Bạch Phiến Khi ngôi sao Nguyễn Cao Kỳ lu mờ dần, sĩ quan cao cấp của Thiệu bắt đầu trổi lên. Giống như Tổng Thống Diệm và Thủ Tướng Kỳ, Tổng Thống Thiệu tránh né tham gia trực tiếp vào đường dây tham nhũng và buôn lậu bạch phiến, nhưng đứng đầu chia lợi và che chở cho đàn em trực tiếp tham gia. Người môi giới của Tổng Thống Thiệu là Tướng Đặng Văn Quang, một nhân vật nổi tiếng tham nhũng và buôn lậu bạch phiến. Làm việc thông qua các chỉ huy cao cấp Bộ Binh và Hải Quân, trung thành với Quang hoặc Thiệu, Quang xây dựng được một quyền lực ghê gớm. Mặc dù mạng lưới quốc tế của Quang còn kém Kỳ, lợi thế kiểm soát Hải Quân của Quang cho Quang nhập khẩu một lượng ma túy khổng lồ bằng cách bảo vệ hàng hải Trung Quốc buôn lậu đường biển hoặc các tàu Hải Quân VNCH. Ảnh hưởng của Kỳ đối với một số sĩ quan cao cấp Bộ Binh xuống dốc làm các sĩ quan này dần dà chuyển sang Quang. Tới năm 1973, Bộ Binh và Hải Quân VNCH quản lý và phân phối hầu hết ma túy bán cho lính Mỹ. Ngoài ra, một số nghị viên Hạ Viện gần như công khai buôn lậu ma túy, nhưng họ có một ít độc lập, không bị ảnh hưởng của Quang như là Bộ Binh và Hải Quân VNCH. Ngày 15.7.1971, Phil Brady đài NBC Nightly News thông tin trên toàn quốc là Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ, cả hai vận động bầu cử bằng tiền lợi nhuận buôn lậu ma túy. Brady trích “Tài Liệu Cực Kỳ Tin Cậy” (Extremely Reliable Sources) nói Tướng Đặng Văn Quang, xếp cố vấn tình báo của Thiệu, là người môi giới lớn nhất VNCH. Mặc dù báo chí của Thiệu đăng một bài bác bỏ suông và buộc tội Brady: “Loan truyền tin thất thiệt vu khống chống các nhà lãnh đạo chính phủ VNCH, tiếp tay cho kẻ thù Cộng Sản,” Thiệu đã không bảo vệ Quang, một tướng lãnh khét tiếng kém thật thà vào bật nhất VNCH khi ông làm chỉ huy Vùng IV Chiến Thuật. Trong tháng 7.1969 thông tín viên tạp chí Time tại Saigon gửi đến văn phòng tại New York báo cáo việc làm của Quang tại vùng IV Chiến Thuật như sau: Trong khi tường trình Quang làm ra hàng triệu bạc bằng cách “bán chức” văn phòng và cướp lúa (rake off rice), có một sự kiện rất nổi tiếng diễn tả trong hồ sơ tham nhũng lưu trữ. Khi Đại tá Nguyễn Văn Minh, đầu tư vào Sư Đoàn 21 Bộ Binh, ông được Quang cho làm Tư Lệnh Phó Vùng IV. Tại một buổi lễ, vợ của Minh đứng dậy hô to là Minh đã trả Quang 2 triệu đồng Việt Nam (7.300 đô la) để mua chức này… Quang cuối cùng bị thuyên chuyển khỏi Vùng IV vì người Mỹ đã khăng khăng phản đối. Quang được thuyên chuyển đến Sài Gòn vào cuối năm 1966, và đã được bổ nhiệm làm “Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch và Phát Triển” (Minister of Planning and Development), một chỗ ngồi không để khỏi mất mặt. Ngay sau cuộc bầu cử tổng thống tháng 09.1967, ông được làm phụ tá đặc biệt quân đội về các vấn đề an ninh. Quang nhanh chóng thành môi giới quyền lực của Thiệu và cùng làm một công việc y như tướng Loan, là gây quỹ bất hợp pháp nâng cao bộ máy chính trị của Thiệu. Tuy nhiên Thiệu không tin tưởng Quang như Kỳ đã tin tưởng Loan. Loan được Kỳ tin tưởng tuyệt đối và được giao phó quyền lực gần như không giới hạn. Ngược lại, Thiệu đã xây dựng trung tâm quyền lực bên trong bộ máy chính trị của mình, giữ không cho Quang gây ảnh hưởng quá nhiều. Kết quả, Quang không bao giờ có sự kiểm soát các phe ủng hộ Thiệu, như Loan đã có trong bộ máy của Kỳ. Khi bộ máy của Kỳ bị suy yếu dần trên sân khấu sau năm 1968, nhiều phe phái thi đua ủng hộ Thiệu. Quang đã giành được quyền kiểm soát Lực Lượng Đặc Biệt, Hải Quân và Bộ Binh, nhưng một trong những nhóm ủng hộ Thiệu, đứng đầu là Tướng Trần Thiện Khiêm, đã đạt đủ năng lượng, dần dần tách ra thành một phe độc lập. Tuy nhiên, ngay từ đầu về sức mạnh và ảnh hưởng do sự sụp đổ của Kỳ, Thiệu cảm thấy an toàn sử dụng Quang. Có bằng chứng một nhóm đầu tiên buôn lậu á phiện từ Lào là Lực Lượng Đặc Biệt. Tháng 08.1971, tờ The New York Times báo cáo: “Nhiều máy bay chở ma túy vào VNCH, kết hợp với Lực Lượng Đặc Biệt bí mật VNCH, hoạt động dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh.” Có căn cứ tại tỉnh Kontum, phía bắc Pleiku, các Lực Lượng Đặc Biệt có tên là “Lực Lượng Xung Kích” có một đội máy bay trực thăng nhỏ và máy bay nhẹ bay vào Nam Lào phá hoại thường xuyên và đột phá trinh sát tầm xa. Một số sĩ quan Lực Lượng Đặc Biệt tuyên bố các chỉ huy đơn vị này được chuyển qua một tiền đồn khác năm 1971, vì tham gia sâu rộng vào ma túy của họ có nguy cơ bị phát giác. Nhưng đột phá bí mật là một phương pháp tương đối không hiệu quả của buôn lậu, và sự xuất hiện của nó trong bộ máy của Quang không ảnh hưởng nặng nề đến việc buôn bán ma túy cho đến cuộc xâm lược Campuchia tháng 5.1970. Lần đầu tiên quân đội VNCH hành quân bên trong và bảo vệ các tuyến chìa khóa liên lạc Campuchia, tạo điều kiện cho các sĩ quan liên lạc Nam Vang và các giới chức tình báo có thể làm việc bên trong vương quốc này. Quan trọng hơn nữa, Hải Quân VNCH bắt đầu tuần tra thường xuyên dọc theo đường trải dài sông Cửu Long và đặt căn cứ tại Nam Vang. Hải Quân VNCH sử dụng cuộc xâm lược Campuchia để mở rộng vai trò lưu lượng ma túy, mở ra một đường ống mới trước đây không thể thực hiện. Ngày 9.5.1970, một hạm đội 110 người Việt và 30 tàu đi sông của Mỹ, đứng đầu chỉ huy hạm đội là Đại úy Nguyễn Thanh Châu, vượt biên giới vào Campuchia, tiến nhanh qua sông theo đội hình chữ V. Ngày hôm sau, người chỉ huy công tác ven sông Task Force 211, Đại úy Nguyễn Văn Thông, thả xuống vài trăm thủy thủ tại 20 dặm thượng nguồn Neak Luông, một phà quan trọng trên Lộ 1, nối Nam Vang với Sài Gòn. Để cố vấn Mỹ ở lại đây đây, các thủy thủ VNCH đến Nam Vang vào ngày 11.5.1970. Ngày hôm sau họ đến Kompong Chàm, 70 dặm phía Bắc Nam Vang, do đó làm sạch đường thủy để sử dụng. Được coi là một chiến thuật đảo chánh và một “quân đội nhân đạo” của Hải Quân, hạm đội cũng đã có, theo nguồn tin bên trong Hải Quân VNCH, sự khác biệt không rõ ràng về số lượng buôn lậu á phiện và bạch phiến lớn vào VNCH. Một đồng liêu của Quang, Cựu Tư Lệnh Hải Quân Thiếu Tướng Chung Tấn Cang, vượt lên trong cuộc xâm lược Campuchia. Cang là một người bạn tốt của Thiệu từ những ngày học sinh tại Sài Gòn Merchant Marine Academy. Khi Cang bị mất chức Tư Lệnh Hải Quân năm 1965, sau khi bị buộc tội bán các phẩm vật cứu trợ lũ lụt trên thị trường chợ đen thay vì cung cấp cho những người tị nạn, Thiệu đã can thiệp để Cang khỏi bị truy tố và bổ nhiệm Cang vào một chức ngồi không ăn lương, đối mặt với tiết kiệm. Nguồn tin bên trong Hải Quân VNCH cho biết một mạng lưới buôn lậu vận chuyển bạch phiến và á phiện từ Campuchia qua VNCH được thành lập trong số các sĩ quan Hải Quân cao cấp trong thời gian ngắn sau khi Hải Quân VNCH ghé cảng Nam Vang. Các lô hàng được thông qua để bảo vệ cho đến khi họ tới Sài Gòn: cuộc rước đuốc đầu tiên từ Nam Vang đến Neak Luông, tiếp theo, từ Neak Luông đến Tân Châu, bên trong VNCH, tiếp theo, từ Tân Châu đến Bình Thủy. Từ đó các chất ma tuý được vận chuyển đến Sài Gòn bằng một loạt tàu Hải Quân và dân sự. Khi các hoạt động quân sự Campuchia sắp kết thúc vào giữa năm 1970, tổ chức buôn lậu Hải Quân, vốn đã mang được môt số lượng hạn chế vàng, á phiện, và hàng hoá vào VNCH từ năm 1968, được mở rộng. Tướng Lâm Ngươn Tánh được bổ nhiệm làm Phó Đề Đốc các hoạt động Hải Quân trong tháng 8.1970. Là bạn cùng lớp với Thiệu tại Merchant Marine Academy, Tánh bất thình lình mất chức tham mưu trưởng năm 1966. Nguồn tin bên trong Hải Quân nói các quan chức Hải Quân cao cấp sử dụng ba trong bốn căn cứ Hải Quân đồng bằng sông Cửu Long, gồm Rạch Sỏi, Long Xuyên, và Tân Châu, là điểm tiếp nhận ma túy vào VNCH, trên tàu đánh cá Thái Lan hoặc ghe tam bản Campuchia. Từ ba nơi này, ma túy được mang vào Sài Gòn trên các tàu Hải Quân hoặc “tàu nhanh” (PCFs, hoặc Fast Patrol Craft). Như thường xảy ra, ma tuý được vận chuyển tới Sài Gòn trên ghe tam bản hoặc thuyền đánh cá, các chuyển vận của họ được Hải Quân VNCH bảo vệ. Một số hoạt động buôn lậu trong Hải Quân VNCH bị phơi bày trong mùa hè năm 1971. Ngay trước khi xảy ra, chính phủ Mỹ cuối cùng đã bắt đầu gây áp lực VNCH trấn áp buôn lậu ma túy. Theo các nguồn tin bên trong Hải Quân, áp lực của Mỹ là do Tướng Quang và Đô Đốc Cang. Quang nhờ Cang bổ nhiệm Chủ Tịch Ủy Ban Chống Ma Tuý, Đề Đốc Tánh, được cài vào chức vụ chủ tịch Ủy Ban Chống Ma Tuý Hải Quân. Mặc dù cần phải có chứng minh đầy đủ, các sự kiện và quyết định vượt quá tầm kiểm soát của Quang dẫn đến một vạch trần nhục nhã trước công chúng. Ngày 25.07.1971, cảnh sát Ma Túy VNCH, với sự hỗ trợ của Thái Lan và Mỹ, đã phá vỡ một ổ ma túy Hoa Kiều Chợ Lớn, bắt 60 người trong tổ chức ma túy, tạo thành một trong những truy lùng ma túy lớn nhất lịch sử, là tịch thu 51 kg bạch phiến và 334 kg á phiện. Báo chí ca ngợi đây là một chiến thắng lớn của Thiệu, nhưng thật sự là một bối rối kinh khủng của Thiệu, vì họ phá vỡ buôn lậu ma túy Hải Quân của Thiệu. Tổ chức ma túy Hoa Kiều Chợ Lớn bắt đầu vào giữa năm 1970, khi “Mr. Big” ở Bangkok, một Hoa Kiều trong các tổ chức tài chính ma túy lớn nhất Đông Nam Á, quyết định bắt đầu giao dịch buôn lậu ma túy với Chợ Lớn. Ông liên lạc với một chủ hãng sản xuất “plastics” ở Chợ Lớn tên là Trần Minh, cả hai sớm đoạt tới thõa thuận. Hải Quân VNCH đảm trách về bảo vệ. Khoảng giữa năm 1970, một tàu đánh cá Thái Lan tới bờ biển Puolo Dama, một hòn đảo nhỏ VNCH ở vịnh Xiêm La, chuyên chở ma túy đầu tiên, chờ đợi thuyền là một tàu đánh cá Việt Nam, dưới sự chỉ huy của Đại Úy Hải Quân Hoa Kiều Chợ Lớn tên là Tăng Hải do Minh thuê, là người liên lạc giữa tổ chức Bangkok và Chợ Lớn. Sau khi 200 kg á phiện được chuyển giao giữa biển, thuyền VNCH hướng về Rạch Giá, khoảng 55 dặm hướng Đông Bắc. Tại Rạch Giá, một lượng á phiện khổng lồ được tải lên một ghe tam bản, di chuyển về Sài Gòn, che giấu dưới một lớp vỏ dừa. Đây chỉ là một trong những chuyên chở trong nhiều chuyến chuyên chở như vậy tới bến tàu Chợ Lớn. Một khi chiếc ghe tam bản vào ụ tại Quận Bảy, Chợ Lớn, ma túy được chuyển qua một chiếc xe bus nhỏ tới “kho” của Minh tại Quận Sáu, rồi được phân phối từ từ tới các nhà hút tại Sài Gòn-Chợ Lớn. Tất cả lưu lượng ma túy trên đường sông và đường biển được bảo vệ do Hải Quân VNCH. Đến chuyến thứ ba, Minh quyết định mở rộng vào thị trường lính Mỹ, đặt mua 10 kg bạch phiến nhãn hiệu “Double U-0 Globe” và 200 kg á phiện. Đến chuyến thứ tư, Minh sợ điểm giao hàng bị lộ nên thay đổi điểm mới là Hòn Panjang, một đảo 115 dặm phía Tây Nam Rạch Giá. Vào giữa năm 1971, buôn bán ma túy quá thịnh hành khiến tổ chức Chợ Lớn đặt hàng quy mô là 400 kg á phiện và 60 kg bạch phiến. Chỉ một mình bạch phiến đã trị giá 720.000 đô la. Đối với Hải và các thủy thủ làm việc với Hải, bảo vệ đường dây ma túy từ căn cứ Hải Quân Rạch Sỏi, là một việc không thể từ chối. Đầu tháng 7.1971, Hải giữ lời hẹn tàu đánh cá Thái Lan nhận hàng tại Hòn Panjang. Nhưng thay vì trở về Rạch Giá, Hải tiếp tục đi 60 dặm về phía Bắc tới đảo Phú Quốc để chôn giấu á phiện và bạch phiến vào một số bụi rậm. Sau đó, Hải trở về Rạch Giá nói với người liên lạc của Minh là lô hàng đã bị đánh cắp bởi Hải Quân VNCH, và người liên lạc chuyển tin đến Chợ Lớn. Khi Minh đồng ý mua lại một nửa lô hàng từ Hải Quân VNCH với giá 25.000 đô la, Hải trở về đảo Phú Quốc, đào lên một mớ, và giao một phần cho người liên lạc ở Rạch Giá sau khi chôn phần còn lại ở một nơi gần nhà của Hải. Người liên lạc thuê chủ của chiếc ghe tam bản, bán số ma túy này tại Chợ Lớn, nhưng người này bị cướp, lần này là cướp thật. Bọn cướp là ba hạ sĩ Bộ Binh VNCH, chỉ cách đó ba dặm, ở thượng nguồn trên một con sông tại Rạch Giá. Người chủ ghe tam bản trở về Rạch Giá kể lại vận mang rủi ro của mình với người liên lạc, làm tin tức bị đồn đại khắp Chợ Lớn. Nghèo bị nghèo thêm, Minh thông báo cho Bangkok ông đã bị cướp hai lần và không thể trả tiền lô hàng. Tuy nhiên, tổ chức ma túy Bangkok nghĩ mình bị lừa và quyết định quét sạch toàn bộ tổ chức ma túy Chợ Lớn. Thuyền trưởng đánh cá Thái Lan được chọn là người cung cấp tin, và ông tiếp xúc Đại Tá Pramual Vangibandhu, Cục Ma Túy Trung Ương Thái Lan, với đề nghị trao đổi một bảo đảm giấu tên tổ chức ma túy Bangkok, lấy tên giả cho hai người liên hệ quan trọng, chỉ có tổ chức ma túy Bangkok mới biết. Đại tá Pramual chấp nhận đề nghị và liên lạc với cơ quan Đặc Trách Ma Túy Mỹ, William Wanzeck, yêu cầu mở một phiên họp với chánh phủ VNCH. Hai người bay tới Sài Gòn, gặp chỉ huy trưởng cảnh sát đặc trách ma tuý VNCH, Lý Ký Hoàng và chỉ huy Đặc Trách Ma Túy Mỹ Fred Dick. Họ đồng ý đặt kế hoạch bố ráp cùng lúc: Cảnh sát VNCH bố ráp ma túy Sài Gòn, trong khi Hoàng, Pramual, và Dick, bay tới Rạch Giá bắt Hải và bè đảng của hắn. Hai cuộc tấn công được hoạch định lúc 9 giờ 30 sáng ngày 25.7.1971, kém ba tuần sau khi các chuyến đầu tiên đến ngoài khơi Hòn Panjang. Cuộc đột kích Sài Gòn hoàn hảo, nhưng tại Rạch Giá, Hoàng không gặp Hải ở nhà. Hoàng, mặc đồ dân sự, giải thích cho chị của Hải là ông chủ Trần Minh, gửi ông đến thương lượng về số ma túy bị mất. Sau 50 phút giải thích khéo léo, người chị của Hải đồng ý đưa Hoàng tới một nhà hàng, nơi đó Hải đang nhậu nhẹt với một số người bạn. Dick và Pramual, leo vào một xe Lambretta, rời khỏi khoảng ba mươi phút sau đó, chờ phía trước một nhà hàng ở Rạch Sỏi, là một bến đánh cá nhỏ bốn dặm phía Nam Rạch Giá. Bên trong, Hải là khách danh dự tại một bữa tiệc náo nhiệt tổ chức bởi các chỉ huy căn cứ Hải Quân Rạch Sỏi. Hải, với sự tham dự của 20 sĩ quan Hải Quân vũ trang và các thủy thủ. Giải thích rằng chính Minh đang chờ đợi tại Rạch Giá, Hoàng đề nghị ông và Hải sẽ đi tới đó để thảo luận mua lại số ma túy. Khi Hải đáp Hải muốn ở lại bàn tiệc, Hoàng dựng ra câu chuyện, giải thích rằng ông chủ sẵn sàng trả 25.000 đô la cho phần ma túy còn lại. Lúc này, chỉ huy Hải Quân khẳng định rằng Hoàng cần sử dụng xe jeep cá nhân của Hoàng, tới chở Minh đến bàn tiệc để bàn cãi. Một giờ sau, Hoàng trở lại trên một chiếc xe cảnh sát, cùng với Đại Tá Pramual và Fred Dick. Trong khi những người khác chờ đợi bên ngoài, Hoàng bước vào nhà hàng. Sau khi cho Hải biết rằng Hải cần bước ra ngoài nói chuyện với ông sếp lớn. Hải bước ra ngoài, Hoàng bắt Hải, trói lại, ném anh ta vào xe cảnh sát đang chờ, rồi chạy xuống Rạch Giá. Vài phút sau, các sĩ quan Hải Quân nhận ra Hải bị bắt, chộp lấy súng ống, chạy riết đuổi theo. Mặc dù nghi ngờ đội vũ trang Hải Quân không xa phía sau, đội Cảnh Sát Quốc Gia dừng lại trên đường đi Rạch Giá, tại một ngôi nhà của người anh em họ của Hải, để tìm kiếm người bị tình nghi. Trong khi Dick và Pramual mang Hải vào trong và tiến hành lục soát ngôi nhà, Hoàng vẫn còn ở trong xe, khoảng 100 yards cách đường phố, gọi máy một cách tuyệt vọng để được trợ giúp của cảnh sát. Khi cuối cùng ông nhận ra máy hư. Lực lượng xe jeep Hải Quân rít lên chận phía trước mặt nhà và các sĩ quan Hải Quân căng hàng ngang đối diện đường phố, với súng ống chỉa vào nhà. Hoàng bị “đóng đinh” trong xe cảnh sát, bị cô lập với bạn bè và cảm thấy sợ. Đột nhiên, Hoàng phát hiện một xe Lambretta sắp tới. Hoàng khép súng vào mình và chờ. Khi chiếc Lambretta tới ngang chiếc xe hơi của mình, Hoàng nhảy ra ngoài, nép theo chiếc Lambretta cho đến khi nó song song với các nhà, và sau đó Hoàng phóng vào cửa trước. Khi Hoàng nói với những người khác những gì đã xảy ra, Dick đập bể cửa kiếng, chỉa súng lục ra ngoài, nhưng Hoàng dịu dàng bảo ông ngừng lại. May mắn cho cảnh sát, một cảnh sát mặc thường phục vừa mới bước vào, sau khi Hoàng giải thích tình hình, cảnh sát này nhảy lên xe máy Honda của mình và tất tả tìm người giúp. Khi một đội vũ trang cảnh sát địa phương đến nơi 10 phút sau, các sĩ quan Hải Quân thấy không ổn, họ miễn cưỡng trở lại xe jeep và rút lui về Rạch Sỏi. Khi tìm kiếm ở trong nhà không thấy gì, Hoàng và những người khác lái xe đưa Hải tới sở cảnh sát Rạch Giá để điều tra. Ban đầu Hải từ chối nói chuyện, nhưng sau khi Hoàng, không muốn người khác biết mình dùng phương pháp gì, kết thúc với một vài phút xét hỏi chuyên môn, Hải thú nhận tất cả mọi thứ, ngay cả vị trí dấu ma túy trên đảo Phú Quốc. Trong khi Pramual và Dick bay với Hải ra đảo để đào (112 kg á phiện và 3,9 kg bạch phiến), Hoàng cũng đích thân đi bắt ba hạ sĩ Bộ Binh đã cướp một số bạch phiến trước đây, rồi giao họ lại cho an ninh quân đội thẩm vấn. Biết an ninh quân đội sẽ không làm gì cả, Hoàng ra lệnh cho người chỉ huy cảnh sát Rạch Giá gửi đến khách sạn của Hoàng một chiếc xe khi an ninh quân đội bỏ cuộc. An ninh quân đội đã bỏ ra 6 tiếng đồng hồ thẩm vấn nhưng không có một kết quả gì cả cho đến 2 giờ sáng; Hoàng đến trụ sở cảnh sát một giờ sau đó và chỉ thẩm vấn có 15 phút. Sáng hôm sau, một đội cảnh sát đào lên 32,7 kg bạch phiến và 35 kg á phiện gần một con kênh đào cách Rạch Giá không xa. Tìm kiếm tại sân nhà của Hải ngày hôm sau, Hoàng cũng phát hiện 7 kg Double U-0 Globe bạch phiến và 88 kg á phiện. Khi trở lại Bangkok, cảnh sát Thái triệu tập một cuộc họp báo ngày 29.7.1971, bốn ngày sau cuộc tấn công ngoạn mục, sợ tin đồn về tham gia vào đường dây ma túy quốc tế, cảnh sát Thái nóng nảy gây niềm tin. Tướng Nitya Bhanumas, tổng hội đồng Ma Tuý Thái, tuyên bố những thông tin dẫn đến các cuộc bố ráp là do ông phát triển và điều tra trong một cuộc khám xét do ông lãnh đạo một tháng trước đây. Khi cảnh sát VNCH đọc báo vào sáng hôm sau, họ nổi giận. Không chỉ người Thái tuyên bố gây tiếng tốt cho họ mà còn cho việc lùng bắt tổ chức buôn lậu là của họ nữa, nhưng cuộc điều tra vẫn đang tiếp tục và cảnh sát VNCH lo ngại các tiêu đề ma túy có thể đẩy các tổ chức ma túy đến chỗ phải trốn. Cảnh sát Thái Lan đã chỉ cho các đối tác VNCH hai cái tên là Mr. Big, Tăng Hải, và Trần Minh. Làm việc phương thức, cảnh sát VNCH chỉ mới bắt đầu gom góp một mạng lưới hơn 60 người. Theo nguồn tin bên trong Hải Quân, cuộc tấn công tạo ra một hốt hoảng làm náo loạn Hải Quân, làm các sĩ quan cao cấp Hải Quân tranh giành cứu vãn tình hình. Hai trong số các sĩ quan tham gia xâm lược Campuchia được chuyển về. Đại úy Nguyễn Văn Thông bị mất chức Riverine Task Force 211 và chỉ định theo học một khóa học đào tạo chỉ huy vài ngày sau cuộc tấn công. Chỉ huy của lực lượng tuần tra ven biển, Đại úy Nguyễn Hữu Chí, được chuyển giao cho nhân viên một trường cao đẳng hai tuần sau đó. Mặc dù an ninh quân đội bắt giữ các sĩ quan Hải Quân tại Rạch Sỏi trực tiếp liên quan đến tổ chức ma túy, đã có báo cáo các sĩ quan quân đội cao cấp đang làm hết sức mình để bảo vệ Hải Quân và bảo đảm mọi việc không được đưa lên báo chí. Trong khi Hải Quân VNCH tham gia ma túy bằng ghe tàu, Bộ Binh tránh phân phối ma túy trực tiếp cho binh lính. Để tránh rủi ro, các sĩ quan cao cấp Bộ Binh VNCH giao việc phân phối cho Tổ Chức Hoa Kiều Chợ Lớn. Do đó, các lô hàng bạch phiến buôn lậu vào VNCH, bằng chính quân đội hoặc bằng các tổ chức Hoa Kiều với sự bảo vệ của quân đội. Hoa Kiều Chợ Lớn trách nhiệm đóng hộp và phân phối. Từ Chợ Lớn, các người Hoa và người Việt phân phối khắp mọi nơi từ vĩ tuyến 17 tới Mũi Cà Mau. Ba trong số bốn vùng chiến thuật, phân phối địa phương được giám sát của các sĩ quan Bộ Binh cao cấp: Ở Vùng IV do Tướng Đặng Văn Quang; Vùng II do hai tướng đang cạnh tranh nhau là Lữ Lan và Ngô Dzu; Vùng I trực tiếp do tư lệnh quân đoàn. Ngày 10.6.1971, Trưởng Cố Vấn Cảnh Sát Mỹ thiết lập hồ sơ về Tướng Dzu như sau: ● Một nguồn tin bí mật cho ban giám đốc hay là cha của Dzu, buôn bán bạch phiến với ông Chánh, một người Hoa Chợ Lớn (chưa nhận diện được là ai). ● Cha của Dzu sống ở Qui Nhơn. Ông Chánh thường xuyên đi từ Sài Gòn đến Qui Nhơn, bằng hàng không VNCH, nhưng thỉnh thoảng bằng máy bay riêng của Dzu. Chánh đi Qui Nhơn một mình hoặc với một người Hoa Chợ Lớn khác. Khi tới sân bay Qui Nhơn, ông tiếp xúc với an ninh quân đội hoặc quân cảnh. Rồi Chánh được dẫn tới gặp cha của Dzu và bán lại cho cha của Dzu vài kg bạch phiến. Chánh thường lưu lại vài ngày tại Qui Nhơn ở khách sạn Hòa Bình trên đường Gia Long. Khi trở lại Sài Gòn, Chánh cũng được hộ tống tại sân bay Tân Sơn Nhất. ● Cảnh Sát Quốc Gia tại Qui Nhơn, đặc biệt là cảnh sát đặc trách sân bay, báo cáo theo dõi hoạt động giữa cha của Dzu và Chánh, nhưng sợ báo cáo hoặc điều tra sẽ bị biến thành con vật tế thần của Dzu. ● Ông Chánh (AKA: Red Nose) là một người gốc Hoa Chợ Lớn khoảng 40 tuổi. Sau khi lô hàng lớn bạch phiến được chuyển giao cho thành phố hoặc căn cứ QLVNCH gần căn cứ Mỹ, bạch phiến được bán lại cho lính Mỹ qua mạng lưới giao hàng, gồm bồi barrack, người bán hàng rong, đĩ, hoặc nhóc đứng đường (street urchins), hoặc lính VNCH. Tại Sài Gòn và xung quanh Vùng II, hầu hết bạch phiến được quản lý bởi mạng lưới dân sự, nhưng khi người lính nghiện bị chuyển khỏi thành phố tới những căn cứ hoả tuyến cô lập dọc theo biên giới Lào hoặc vĩ tuyến 17, người buôn bán nhiều hơn. “Làm sao để có những thứ đó?” Một người lính tại căn cứ hoả tuyến cô lập cho biết: “Chỉ đi tới hàng rào ra hiệu (rap) với người lính. Nếu người đó có, bạn có thể mua lại.” Ngay cả tại Long Bình, số đông lính Mỹ đóng tại ngoại ô Sài Gòn, sĩ quan VNCH làm việc phân phối. Một người nghiện đóng quân tại căn cứ Long Bình nói: “Bạn luôn luôn mua được từ một người Bộ Binh VNCH. Không phải từ người lính, nhưng từ sĩ quan. Tôi đã mua được từ một người mang tới cấp bậc Đại Úy.” Một con đường giao thông ma túy làm Thiệu bực mình là buôn lậu do những nghị viên Hạ Viện Quốc Hội ủng hộ Thiệu. Tại một thời điểm trong sự cạnh tranh giữa Thiệu và Thủ Tướng Khiêm, sự dễ dãi với những kẻ buôn lậu có thể tạo vấn đề cho bộ máy của Thiệu. Trong khi chỉ có một chút xíu hoạt động buôn lậu của ủng hộ Thiệu bị rỉ, trò hề Hạ Viện bị đánh giá khắp thế giới. Giữa tháng 9.1970 và 3.1971, ít nhất là 7 nghị viên trở về từ chuyến du hành học hỏi ở nước ngoài, bị bắt vì đã buôn lậu đủ mọi thứ, từ vàng, bạch phiến, cho tới lịch Playboy, và báo khiêu dâm… Các nhà quan sát ngoại quốc tuyệt vọng vì quá nhiều người bị bắt, nhưng cộng đồng VNCH chỉ đơn giản xem đó như là một phần của lịch sử bốn năm đút lót, tham nhũng, và hủ bại. Các hành vi giận dữ của người đại diện trên sân khấu quốc hội, nơi những lời lăng mạ thô tục, được sử dụng để giao dịch công khai, làm mất rất nhiều sự kính trọng của nông dân VNCH. Bầu bán đối với việc chính yếu được giao bán cho người trả giá cao nhất. Thêm vào tiền lương hàng tháng, là tiền cho tết cho năm mới, đó là số tiền thưởng 350 đô la. Những đại biểu ủng hộ Thiệu lãnh đến 1.800 đô la cho mỗi biểu quyết về các vấn đề quan trọng của chính phủ. Trong thực tế, thậm chí cả các thành viên đối lập nhiều khi đã bỏ phiếu đúng cách để kiếm thêm tiền, mặc kệ cho phe của họ bị đánh bại, là điều không thể tránh khỏi. Trong Hạ Viện, Thiệu dựa vào các thành viên Khối Độc Lập để thương lượng và trả lương, thay vì thương lượng cá nhân. Bao gồm gần như hoàn toàn người di cư Ca-tô Rô-ma giáo Miền Bắc, khối này duy trì một vị trí chống Cộng bạo động và cực đoan sau cái chết của Ngô Đình Diệm. Mặc dù trên danh nghĩa là độc lập, lãnh đạo là Nguyễn Quang Luyện, đã gặp Thiệu ngay sau khi nhóm được thành lập, và họ “đồng ý bằng miệng” hỗ trợ tổng thống trong sở thích không xác định. Khối đã có ảnh hưởng vượt xa sức mạnh của nó, và tất cả các thành viên của nó đã chiếm những vị trí chủ chốt, như đứng đầu ủy ban, gây quỹ, hoặc kêu gọi bầu cử. Chỉ có 19 thành viên, mà Khối Độc Lập đã kiểm soát 6 thành viên trong số 16 thành viên chủ tịch năm 1973. Trong các cuộc tranh luận luật bầu cử 1971, ví dụ, là một thành viên khối độc lập, Phạm Hữu Giáo, người quản lý sàn nhà lo việc thông qua Điều Số 10. Điều này có thể bàn cãi khoản yêu cầu tối thiểu, là bốn mươi chữ ký của Quốc hội, trên tất cả các đơn đề cử cuộc bầu cử tổng thống sắp tới, và làm cho tổng thống Thiệu có thể loại bỏ Kỳ trong cuộc chạy đua. Đầu tiên trong các cuộc tranh luận, Giáo thông báo đã mua một số phiếu của các bộ tộc Cao Nguyên với giá ít nhất là 350 đô la, và hầu hết phiếu bầu của các dân tộc thiểu số Campuchia với giá gần 700 đô la. Tuy nhiên, trong ba ngày đàm phán căng thẳng trước khi bỏ phiếu cuối cùng, giá đã tăng từ 1.000 đến 1.800 đô la cho số phiếu cuối cùng để hoàn thành chiến thắng với 75 phiếu. Trung thành với Thiệu dường như có lợi ích. Không có thành viên đối lập, thậm chí đến cả việc buôn lậu nghiêm trọng. Tất cả các đại diện Hạ Viện liên quan đến đường dây bạch phiến và vàng, đều là thành viên hiện tại hoặc trong quá khứ, của Khối Độc Lập. Lý do rất đơn giản, các đại biểu đối lập thường thiếu vốn cần thiết để tài trợ cho các chuyến đi như vậy và không được bảo đảm “sự giúp đỡ của cảng” khi họ trở về. Tuy nhiên, các đại biểu ủng hộ chính phủ được trợ cấp một ngân khoản chính thức hoặc quỉ tiết kiệm từ tháng bỏ phiếu đúng cách, có thể tận dụng lợi thế của bốn chiếu khán xuất ngoại mỗi năm, một đặc quyền được đảm bảo tất cả các chuyến du lịch nước ngoài trong các ngày lễ hợp pháp. Kết quả là sự bùng nổ đại biểu ra nước ngoài của thành viên ủng hộ chính phủ. Năm 1969-1970, các đại diện đã chi 821.000 đô la cho các chuyến đi của họ. Một đại diện nổi bật ủng hộ chính phủ đã ra nước ngoài 119 ngày năm 1969; 98 ngày năm 1970; và 75 ngày trong ba tháng đầu năm 1971. Mặc dù hầu hết các đại biểu ủng hộ chính phủ thường trở lại với một số hình thức lậu thuế, tính thuế không khai báo, hoặc đi qua hải quan mà không bị kiểm tra. Ngay cả một dân biểu bị bắt, hải quan chỉ đơn giản đòi đóng tiền phạt và cho phép các vật dụng bất hợp pháp đi qua. Ví dụ, trong tháng tháng 8.1970 và 10.1970, Hải Quan VNCH, tại sân bay Tân Sơn Nhứt đã phát hiện ra vàng và tính thuế hàng hóa trong hành lý của nghị viên Giáo. Các nhà lập pháp đã bị phạt tiền danh nghĩa, và toàn bộ vấn đề được giữ kín cho đến khi có một cuộc tranh cãi dữ dội vài tháng sau đó. Nhịp độ buôn lậu Quốc Hội dường như được tăng cường bởi sự bùng lên phong trào bệnh dịch bạch phiến và sự tự do hóa của pháp luật du lịch. Trong tháng 12.1970, một nhóm đại biểu ủng hộ Thiệu kiểm soát văn phòng hành chính Hạ Viện quyết định cho phép các dân biểu đi nước ngoài mỗi năm bốn lần thay vì hai lần. Khi ba tháng đầu năm nghỉ phép bắt đầu vào tháng Giêng, một tờ báo phát hành hàng ngày tại Sài Gòn ghi nhận 140 trong số 190 nghị viên đi nước ngoài. Buôn lậu lên cao theo sau ba vụ bắt giữ của hải quan trong thời gian 10 ngày tháng 03.1971, sau khi các nhà lập pháp trở về chuẩn bị kỳ họp Quốc Hội sắp tới. Người phạm pháp đầu tiên là Võ Văn Mầu, một Ca-tô Rô-ma giáo Miền Bắc di cư, và là thành viên của Khối Độc Lập ủng hộ Thiệu. Trong chuyến bay của Hàng Không VNCH đi từ Vientiane tới Sài Gòn ngày 10.3.1971, một người Hoa Kiều buôn lậu chuyển một va li cho tiếp viên, bà Nguyễn Ngọc Quí. Thay vì được miễn xét hải quan tại Tân Sơn Nhất như thường lệ, hành lý của bà Quí bị lục xét kỹ lưỡng, nhân viên hải quan đã tìm thấy 9.6 Kg bạch phiến thượng hạng của Lào “Double U-0 Globe” và một lá thư gửi cho nghị viên Võ Văn Mầu, một điều bất bình thường đối với một dân biểu cao cấp. Giới chức “Chống Gian Lận Hải Quan” (Fraud Repression Division) theo dõi. Sau một cuộc lục xét, người ta tìm được trong văn phòng của Mầu, thẻ căn cước của người Hoa buôn lậu. Mặc dù phát ngôn viên văn phòng thủ tướng Khiêm sau đó thông báo việc lục xét được điều nghiên kỹ lưỡng, tức là “chỉ thẳng” Mầu, Mầu chưa bao giờ chính thức bị truy tố. Mầu lặng lẽ lánh mặt và thất bại trong việc tái tranh cử vài tháng sau đó. Ngày 17.3.1971, một dân biểu ủng hộ Thiệu, ông Phạm Chí Thiện, hạ cánh tại sân bay Tân Sơn Nhứt lúc 4 giờ 30 chiều, đến từ Bangkok. Nhiều ngạc nhiên cho dân biểu Thiện khi một viên chức hải quan quả quyết mở hành lý của Thiện để lục xét và mở một gói quà ông tìm thấy trong va li của nhà lập pháp. Gói quà thực ra chứa 4 kg bạch phiến thượng hạng Double U-0 Globe. Thiện công bố từ chức một tuần sau đó. Thiện phủ nhận ông là kẻ buôn lậu, tuyên bố chỉ đơn giản nhận gói quà mang giùm về Sài Gòn của “một phụ nữ ăn nói dịu dàng” mà ông gặp tại Vientiane. Ông nói ông có nhận tiền để chuyển gói quà nhưng phủ nhận biết bất cứ cái gì ở bên trong gói quà. Trong lúc hai nhà lập pháp không quan trọng gây mất tinh thần là Võ Văn Mầu và Phạm Chí Thiện bị truy tố, việc bắt giữ một nhà lập pháp thứ ba ủng hộ Thiệu là Nguyễn Quang Luyện buôn lậu vàng, là một vụ bê bối lớn. Luyện là phó chủ tịch thứ hai của Hạ Viện, là Chủ Tịch Liên Minh Nghị Viên Á Châu, và là Chủ Tịch Khối Độc Lập ủng hộ Thiệu từ những năm 1967-1970. Khi Luyện lên một chuyến bay từ Sài Gòn đi Bangkok ngày 18.3.1971, Hải quan Thái xét và phát hiện 15 kg vàng nguyên chất, trị giá khoảng 26.000 đô la trên thị trường chợ đen Sài Gòn. Tuy nhiên, đại sứ quán VNCH can thiệp và bảo đảm lập tức sau khi một nhà lập pháp khác đi với Luyện, chạy vào trung tâm thành phố Bangkok, cầu xin được cứu giúp của Đại Sứ Quán VNCH. Bốn ngày sau, một tờ báo Sài Gòn báo cáo Hải quan Thái nghi ngờ Luyện là một phần của một đường dây buôn lậu quốc tế nhiều năm nhưng đã được giám sát kín đáo vì bản chất nhạy cảm của mối quan hệ Thái-Việt. Số lượng 15 kg vàng bị thu giữ trong hành lý của Luyện được báo cáo là một phần của một lô hàng lớn 90 kg vàng (trị giá 158.000 đô la trên thị trường chợ đen Sài Gòn) được nhập lậu từng phần vào Sài Gòn. Nguồn tin đáng tin cậy bên trong Hạ Viện báo cáo các nghị viên khác của Khối Độc Lập đã ủng hộ tài chính trong cuộc chuyển vận buôn lậu này. Một cách tổng quát, các nghị viên Hạ Viện đã buôn lậu ma túy, vàng, và hàng hoá vào VNCH hơn ba năm. Bắt giữ thì rất là hiếm, và khi bị phát giác, các nhà lập pháp hầu như luôn luôn giải quyết vấn đề một cách âm thầm bằng đóng tiền phạt. Tại sao hải quan VNCH đột nhiên trở nên hung dữ và nhiều quả quyết? Tại sao phe Thiệu đột nhiên hèn hạ có tới ba nhà lập pháp liên quan đến buôn lậu lậu trong thời gian chỉ có mười ngày? Câu trả lời, như thường lệ là “chính trị.” Trớ trêu thay, con mồng hút máu của Tổng Thống Thiệu được nhặt lên từ tay của Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm!..
Bài đọc thêm: - GHLM: Lịch Sử và Hồ Sơ Tộc Ác (Nguyễn Mạnh Quang)- Chương 91: Vân Nạn Buốn Bán Ma Túy: https://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php
|