Á Phiện, Bạch Phiến, Và Chiến Tranh Tôn Giáo DuyênSinh https://sachhiem.net/LICHSU/D/Duyensinh02_aphien.php
Gồm các mục: ...
- 9.Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm Giành Lấy Đường Dây Bạch Phiến 9.Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm Giành Lấy Đường Dây Bạch Phiến Trong khi khối Độc Lập được bảo vệ của Thiệu, không may cho ba nhà lập pháp buôn lậu ủng hộ Thiệu bị hải quan của phe Khiêm tố cáo. Sau bốn năm sống lưu vong tại Đài Loan và Mỹ, Khiêm trở về Việt Nam tháng 05.1968 và được bổ nhiệm làm Bộ Trưởng Nội Vụ. Khiêm là một nhà lãnh đạo quân sự tích cực VNCH, tiến hành xây dựng quyền lực riêng cho mình, trở thành thủ tướng năm 1969. Trong vở kịch chính trị, Thiệu bị khóa chặt trong cuộc chiến tranh ngầm với Kỳ. Thiệu bổ nhiệm Khiêm làm thủ tướng vì Thiệu cần tài năng của Khiêm. Khi làm Thủ Tướng, Khiêm bổ nhiệm người trong họ hàng, nắm giữ các văn phòng dễ sanh lợi trong bộ máy dân sự, bắt đầu xây dựng bộ máy đó, càng ngày càng trở thành độc lập trong chính quyền Thiệu. Cũng rập theo một khuôn mẫu của những người đi trước mình là Diệm, Kỳ, và Thiệu, Khiêm không trực tiếp nhúng tay vào buôn lậu ma túy, mà để thân nhân mình làm. Tháng 6.1968, Khiêm sử dụng ảnh hưởng ngày càng tăng của mình, bắt đầu tạo vây cánh, bổ nhiệm anh em rể là đại tá Đỗ Kiến Nhiễu làm Đô Trưởng Thủ Đô Sài Gòn; người anh em là Trần Thiện Khởi làm Trưởng “Phòng Chống Gian Lận Hải Quan” (Customs’ Fraud Repression Division); người anh là Trần Thiện Phương làm giám đốc Cảng Sài Gòn; người anh em họ là đại tá Trần Thiện Thành làm Phó Thống Đốc Sài Gòn-Gia Định; người bà con của bà Khiêm là tướng Trần Thanh Phong làm Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia. Một trong những người quan trọng nhất trong bộ máy của Khiêm là Trần Thiện Khởi. Ngay sau khi các cố vấn hải quan Mỹ bắt đầu làm việc tại sân bay Tân Sơn Nhất năm 1968, họ đã báo cáo các chi tiết. Một quan chức Mỹ nói: “Họ chỉ bắt đầu làm sạch khi anh em của Khiêm đến, và sau đó tất cả đã đi ra ngoài cửa sổ.” Là giám đốc của phòng Chống Gian Lận, Khởi giao nhiều công việc bẩn thỉu (dirty work) cho phó trưởng phòng, và cả hai người đã làm cho các công việc đang trôi chảy suôn sẻ phải bị ngừng lại. Đối tác của Khởi diễn tả một cách linh động trong một báo cáo năm “1971 Tường Trình Tư Lệnh Hiến Binh Mỹ” (1971 U.S. provost marshal’s report): “Khởi nghiện á phiện và phải hút khoảng 10.000 đồng một ngày và thường xuyên vào các nhà hút địa phương. Khởi bị tố cáo trầm trọng cách đây khoàng hai năm, nhưng vì Khởi đóng đủ tiền hối lộ và ảnh hưởng chính trị, tố cáo đã bị huỷ bỏ. Khi nhậm chức, Khởi gần như thiếu hụt mọi thứ, nhưng bây giờ Khởi rất giàu, có tới hai, ba bà vợ.” Bản báo cáo mô tả chính Khởi là: “Người chủ yếu đường dây á phiện” nỗ lực thiết lập một tổ chức ma túy ngay trong cơ quan Chống Gian Lận. Dưới sự chỉ huy của Khởi, vàng và á phiện buôn lậu tại Tân Sơn Nhất trở nên om sòm, mà trong tháng 2.1971, một cố vấn hải quan Mỹ báo cáo: “Sau ba năm hội họp và vô số các chỉ thị được ban hành ở tất cả các cấp, hoạt động Hải Quan tại sân bay… đạt đến một điểm mà các nhân viên Hải Quan VNCH trở thành tay sai cho bọn buôn lậu.” Bản báo cáo đã mô tả các mối quan hệ đối tác giữa các quan chức Hải Quan và một nhóm buôn lậu chuyên nghiệp, dường như điều khiển ngay cả sân bay: “Trên thực tế, các cán bộ Hải Quan có vẻ rất lo lắng để làm hài lòng những kẻ buôn lậu, và không chỉ hộ tống họ qua các quầy kiểm tra, mà thậm chí đi cùng với họ ra xe taxi chờ đợi. Điều này tạo ra một không khí hợp pháp để không có sự can thiệp của hải quan quá nhiệt thành, hoặc cảnh sát mới trong công việc, không biết những gì cần phải làm.” Buôn lậu quan trọng nhất tại sân bay Tân Sơn Nhất là một phụ nữ: “Một trong những vấn đề lớn nhất tại sân bay, đó là chủ đề của một trong các báo cáo đầu tiên là bà Chín có biệt danh là “Chín Mập.” Mô tả này phù hợp với bà cũng như bà là bia đen đủ thể dễ dàng xác định trong bất kỳ nhóm nào... Người này đứng đầu một nhóm 10 hoặc 12 phụ nữ, và những phụ nữ này có mặt tại tất cả các cuộc xuất hiện của tất cả các máy bay từ Lào và Singapore, là những người nhận hầu hết các hàng hóa đến từ các chuyến bay, nhưng hành lý không có người... Khi bà Chín rời khỏi khu vực Hải Quan, bà ấy giống như một con vịt mẹ. Vịt mẹ dẫn đầu từ 8 đến 10 vịt con khuân vác, chở hàng chất lên xe taxi chờ... Tôi nhớ lại một việc xảy ra... Tháng 7.1968, khi một máy bay đến từ Lào... Tôi bày tỏ sự quan tâm về một loại thuốc Tàu mà người phụ nữ này đã nhận được và đã đem đi. Một trong các công chức hải quan mới đã mở ra một trong các gói và đã phát hiện không phải thuốc, nhưng là vàng lá mỏng... Điều này đã đưa đến sự chú ý của Tổng Giám Đốc, nhưng xếp Khu 2… nói rằng tôi chỉ đoán và tôi không thể buộc tội bà Chín bất kỳ sai phạm nào. Tôi mang vấn đề này ra để cho mọi người thấy người phụ nữ này được bảo vệ bởi tất cả các cấp hải quan VNCH.” Mặc dù gần như tất cả các viên chức trong ngành Hải Quan đều nhận được tiền từ những người buôn lậu, cố vấn Mỹ tin rằng số tiền của Khởi nhận là cao nhất. Trong khi hầu hết các trưởng bộ phận nhận được tiền từ tay chân trực tiếp của mình, quyền hạn của Khởi cho phép Khởi nhận tiền từ tất cả các bộ phận Dịch Vụ Hải Quan. Ngay cả những giới chức không quan trọng như nhân viên sưu tập chính kho hàng Tân Sơn Nhất nhận 22.000 đô la một tháng, thu thập của Khởi phải là rất đáng kể. Đầu năm 1971, cố vấn Hải Quan Mỹ làm việc vất vả tìm cách thuyên chuyển Khởi, nhưng Khởi thành thạo trong việc bảo vệ. Tháng 03.1971, các giới chức Mỹ tại Vientiane thông báo là Dân Biểu Phạm Chí Thiện sẽ lên một chuyến bay tới Sài Gòn có mang 4 kg bạch phiến. Khi Cố Vấn Hải Quan Mỹ yêu cầu Phòng Chống Gian Lận của Khởi đón bắt Thiện vì các giới chức hải quan Mỹ không có quyền. Khởi giao việc đó lại cho người phụ tá. Người phụ tá tổ chức một bữa tiệc linh đình ăn mừng thành công, và Hải Quan Mỹ cũng được mời tham dự. Mặc dầu các giới chức Mỹ muốn người này bị sa thảy, hoặc ít nhất bị thuyên chuyển, họ cũng phải “bị” tham dự bữa tiệc của người phụ tá Khởi. Bực mình vì các giới chức thẩm quyền Mỹ không hành động và phía VNCH thì lừa đảo, cố vấn hải quan Mỹ quyết định đưa mọi trường hợp ra công chúng Mỹ. Bản sao tường trình của cố vấn hải quan được gởi tới báo chí và trở thành nền tảng của một bài viết trên trang nhất tờ New York Times ngày 22.4.1971, dưới tựa đề: “phi cảng Sai Gòn một lâu đài của buôn lậu” (Saigon Airport a smuggler’s paradise). Phản ứng của Mỹ là ngay lập tức, Washington cử nhiều cố vấn hải quan thi hành công tác tại Tân Sơn Nhất, và Sứ Quán Mỹ cuối cùng đã phải yêu cầu hành động từ chế độ Thiệu. Tuy nhiên, chính quyền Sài Gòn đã làm diệu sứ quán bằng cách dẹp sạch phòng Chống Gian Lận của Khởi. Nhưng đây không phải là một việc quan trọng cho đến khi buôn lậu trở thành một vấn đề chính trị giữa hai phe: Phe thủ tướng Khiêm và phe tổng thống Thiệu. 10. Tranh Giành Bạch Phiến Giữa Nguyễn Văn Thiệu Và Trần Thiện Khiêm Khi tổ tức phòng Chống Gian Lận xây dựng cho Khiêm một số quyền lực chính trị, chẳng hạn như Cảnh Sát và Cảng Sài Gòn, đó là kết quả một sức mạnh cần thiết để tạo thành một phe phái chính trị độc lập. Thủ tướng Trần Thiện Khiêm nổi lên như là một sức mạnh chính trị ở bên phải của riêng mình, tạo ra căng thẳng bên trong tổ chức của Thiệu, và sản xuất năng lượng tạo điều kiện cho Khiêm tranh giành chính trị. Khi mối quan hệ giữa các phe phái Thiệu và Khiêm trở nên xấu đi, vấn đề buôn lậu trở thành một vũ khí để họ chống lại nhau. Như một trong những quan chức Mỹ tại Sài Gòn đã thẳng thắn nói: “Vai trò của chúng tôi chính yếu là chấm dứt việc một phe phái sử dụng áp lực của Mỹ để đẩy phe kia đi tới chỗ phá sản.” Ông nói thêm: “Cách thức mà những người này nhảy bổ vào nhau một cách thích thú là họ làm giống như họ đang thực sự mong muốn xuống thang trong... một giao thông vô cùng hấp dẫn.” Khi tiếp viên Hàng Không VNCH bị bắt với 9,6 kg bạch phiến, văn phòng Thủ Tướng Khiêm đã ban hành một tuyên bố chính thức xác nhận tin đồn một đại biểu Quốc Hội ủng hộ Thiệu đã tham gia. Hơn nữa, nguồn tin đáng tin cậy từ Hạ Viện cho rằng gây hấn bởi Phòng Chống Gian Lận của Khởi là một thúc đẩy chính trị. Thiệu sau đó đã trả đũa. Theo báo chí Sài Gòn, các thành viên nội các của Khiêm “phản đối... nhận xét của Tổng Thống Thiệu là buôn lậu có liên quan đến nhiều quan chức cao cấp Hải quan tại sân bay Tân Sơn Nhất, do một trong những anh em của Khiêm kiểm soát.” Bất chấp phản đối của nội các, chức Tổng Giám Đốc Hải Quan bị bãi bỏ, và vào cuối tháng 6.1971, Khởi đi nghỉ mát ở Paris. Khi trở về vài tuần sau, ông được thuyên chuyển tới một nơi ít hấp dẫn là “Nhà Hải Quan Chợ Lớn” (Cholon Customs House). Người phụ tá làm á phiện cho Khởi, dường như được di chuyển đến làm cho Thư Viện Hải quan, một “bải đổ rác” đối với những người không may trở thành vô dụng. Ba tháng sau, Tổng Giám Đốc Cảnh Sát Quốc Gia, một trong những người thân của bà Khiêm, đã bị áp lực từ chức. Báo chí Sài Gòn báo cáo tổng giám đốc Cảnh Sat Quốc Gia đã tham gia vào buôn lậu bạch phiến và đã bị bác bỏ như là một phần của chiến dịch chống ma túy. Cung cấp một quan điểm đáng tin cậy, một tờ báo Sài Gòn đã loan báo: “Tổng Thống Thiệu đã tận dụng lợi thế của chiến dịch chống buôn lậu ma túy để đẩy người của Khiêm ra và thay thế người của mình vào.” Cảnh sát mới của Thiệu là Đại Tá Nguyễn Khắc Bình, một người cháu của bà Thiệu. Mặc dù có đấu hiệu đấm đá chính trị nội bộ, buôn lậu bạch phiến vẫn tiếp tục thịnh hành. Cố vấn hải quan Mỹ đã chỉ trích các chuyến bay thương mại hàng không chỉ là một trong nhiều tuyến đường được sử dụng để lưu thông ma tuý vào VNCH. Sau khi an ninh sân bay thắt chặt, buôn lậu ma túy chỉ cần chuyển hướng vận chuyển tới các tuyến khác, đặc biệt là các căn cứ Không Quân và tàu thương mại. Trong suốt năm 1971, số lượng không giới hạn bạch phiến đã có thể mua được ở bất cứ căn cứ Mỹ nào tại VNCH. 11. Mafia Phăng Dò Đường Dây Bạch Phiến Tìm Đến Đông Nam Á Sự phồn thịnh lưu lượng bạch phiến tại các căn cứ quân sự là một điều không thể ngờ vực về một thị trường mới mẻ quan trọng nhất cho cho các con buôn ma túy tại Đông Dương, nhưng đó không phải là điều duy nhất. Như chúng ta đã thấy, sự phồn thịnh nầy không thể vượt qua được con mắt của Mafia. Bị thất bại tại lưu vực Địa Trung Hải (Mediterranean basin), Mafia Mỹ và đoàn Corsican của Marseille bị bắt buộc phải để ý xem xét khu vực Đông Nam Á. John Warner, giám đốc phân tích tình báo Văn Phòng Ma Túy Mỹ (U.S. Bureau of Narcotics) nói: “Có người nghĩ rằng một khi các vấn đề ở Thổ Nhĩ Kỳ được quét sạch, đó là kết thúc giao thông ma túy, nhưng người Corsican không có ngu. Họ sẽ chuyển các cơ sở morphine của họ tới Đông Nam Á.” Tổ chức ma túy Corsican có trụ sở ở Sài Gòn và Vientiane. Họ đã cung cấp các nhà chế thuốc Châu Âu chất morphine có cơ sở tại Đông Nam Á trong nhiều năm. Liên hệ giữa họ và Marseille cũng được thành lập. Trong Chiến Tranh Đông Dương lần thứ I, băng đảng Corsican ở Marseille và Sài Gòn đã phối hợp chặt chẽ trong việc buôn lậu vàng, tiền tệ, và các chất ma túy. Năm 1962, Corsican Sài Gòn báo cáo Paul Louis Levet, một đầu đảng băng đảng Bangkok, cung cấp bạch phiến cho các phòng thí nghiệm Châu Âu với cơ sở morphine từ phía bắc Thailand. Hơn nữa, ít nhất là bốn máy bay Corsican Chater AirLines đóng một vai trò quan trọng á phiện khu vực Đông Nam Á từ năm 1955 tới 1965. Dù bị phá sản khi Lào quyết định đưa ra kế hoạch kinh doanh qui mô năm 1965, hầu hết các người Corsican vẫn ở lại Đông Dương, mở các doanh nghiệp hoặc làm việc tại Vientiane và Sài Gòn cho đến khi công việc mở cửa trở lại. Khi Tướng CIA Edward G. Lansdale quay trở lại Sài Gòn làm phụ tá đặc biệt cho Đại Sứ Henry Cabot Lodge năm 1965, ông đã nhanh chóng nhận ra kẻ thù cũ của ông là người Corsican vẫn còn đang ở trong thành phố. Trong sự đấu tranh giữa CIA và 2ème năm 1955, các băng đảng Corsican đã nỗ lực tham gia chống Lansdale. Ông giải thích trong một cuộc phỏng vấn năm 1971: “Vì vậy, tôi sẽ không phải nhìn sau lưng mỗi khi tôi đi bộ xuống các đường phố. Tôi quyết định có một cuộc họp với các nhà lãnh đạo Corsican. Tôi nói với họ tôi không quan tâm đến bất kỳ một điều tra phạm pháp nào, tôi đã không phải tới Việt Nam để làm chuyện đó. Và họ đã đồng ý để cho tôi được tự do mình tôi. Chúng tôi đã có một thõa thuận ngừng bắn.” Tướng Lansdale không thể nhớ nhiều về cuộc họp. Ông nhớ rằng một người Pháp gốc Việt tên là Hélène đóng một vai trò tích cực trong quá trình tố tụng. Sự việc đã đủ thân thiện và không có gì khác. Lansdale sau đó biết người Corsican vẫn còn liên hệ rất nhiều đến ma túy, nhưng vì đây không phải là trách nhiệm của ông, ông đã không làm gì cả. Hầu hết những gì Lansdale biết về người Corsican đến từ người bạn cũ là Đại Tá Lucien Conein, nhân viên CIA đã giúp lật đổ Diệm năm 1963. Là một cựu sĩ quan liên lạc OSS trong Thế Chiến Thứ II, Conein có một số kinh nghiệm sống chung với băng đảng Corsica Sài Gòn. Trong tua du lịch ở Sài Gòn, Conein đã dành phần lớn thời gian trong các quán bar và nhà hàng thuộc sở hữu của Corsican và đã gần gũi với nhiều việc ngầm quan trọng nhất của Sài Gòn. Khi Conein rời Việt Nam, Corsican khoe một huy chương vàng, nặng, chạm nổi với đại bàng Napoleon và đỉnh Corsica. Khắc trên mặt sau của nó là “Per TV Amicu Conein” (Đối với tình bạn, Conein). Conein tự hào giải thích huy chương này được mang bởi các nhà lãnh đạo Corsican mạnh mẽ trên thế giới và phục vụ như là một thẻ căn cước cho các cuộc họp bí mật, về ma túy, và những việc như thế. Qua tình bạn, Conein được sự kính trọng của người Corsican. Conein nói: “Corsican là những người thông minh, khó khăn, và tổ chức tốt hơn, so với người Sicilian. Họ hoàn toàn tàn nhẫn và bình đẳng bất cứ điều gì chúng ta biết về Sicilian; nhưng họ giấu chiến đấu nội bộ của họ tốt hơn.” Conein cũng biết được rằng nhiều nhà lãnh đạo Sài Gòn có người thân trong thế giới ngầm Marseille. Những quan hệ gia đình đóng một vai trò quan trọng giao thông ma túy quốc tế, bởi vì nhiều cơ sở morphine được sử dụng trong phòng thí nghiệm bạch phiến Marseille, đến từ Sài Gòn. Corsican buôn lậu tại Sài Gòn, mua cơ sở morphine Corsican tại Vientiane và vận chuyển trên các tàu buôn Pháp cho người thân và bạn bè ở Marseille. Nơi đó, morphine được chế biến thành bạch phiến. Conein nói: “Từ những gì tôi biết, họ sẽ hoàn toàn không thể cắt đứt giao thông. Bạn có thể cắt đứt, nhưng không bao giờ có thể ngăn chận, trừ khi bạn có thể ngăn chận người trồng cây á phiện trên các ngọn đồi.” Bi quan này có thể giải thích lý do tại sao Conein và Lansdale đã không giao thông tin mà họ đã có, tới Văn Phòng Ma Túy Mỹ. Đáng tiếc là Lansdale đã sắp xếp một số “thõa thuận” với tổ chức Corsican trong khoảng thời gian bạch phiến Marseille chuyển đổi từ Thổ Nhĩ Kỳ đến các cơ sở morphine Đông Nam Á. Trong một cuộc phỏng vấn giữa năm 1971, Conein nói các nhà môi giới quyền lực trong bộ máy của Thủ Tướng Kỳ đã ngầm liên lạc với các nhà lãnh đạo của Corsican tại Sài Gòn năm 1965-1966, và đã đồng ý để cho họ chở các lô hàng ma túy đến Châu Âu để đổi lấy một lợi nhuận cố định. Tháng 10.1969, những lô hàng này đã trở thành rất quan trọng đối với phòng thí nghiệm bạch phiến Marseille, mà sự quan trọng này là một cuộc họp thượng đỉnh của các ông chủ từ khắp nơi trên thế giới, tại khách sạn Continental Palace thủ đô Sài Gòn. Các nhà lãnh đạo tổ chức ma túy từ Marseille, Bangkok, Vientiane và Phnom Penh (Nam Vang) đã bay đến để tham dự cuộc họp. Họ đã thảo luận một loạt về cạnh tranh quốc tế, nhưng có lẽ tập trung vào việc tổ chức trở lại giao thông ma túy. Theo một nhà ngoại giao Mỹ tại Sài Gòn, Đại Sứ Mỹ đã cung cấp tin tức đáng tin cậy của tổ chức Corsican, tuyên bố các cuộc họp tương tự cũng được tổ chức vào năm 1968 và 1970, tại khách sạn Continental Palace. Điều quan trọng nhất là, ông chủ Mafia Mỹ, Santo Trafficante, Jr., đã đến thăm Sài Gòn vào năm 1968, và người ta tin ông đã có liên hệ với tổ chức Corsican tại Sài Gòn. Cảnh sát VNCH báo cáo chủ sở hữu của khách sạn Continental Palace là Philippe Franchini, người thừa kế Mathieu Franchini, là một tổ chức có uy tín về tiền bạc và buôn lậu á phiện giữa Sài Gòn và Marseille trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ I. Các quan chức cảnh sát cũng vạch trần một trong những người ủng hộ mạnh nhất của Kỳ, thuộc Không Quân vận tải và là Tư Lệnh Sư Đoàn, Đại Tá Phan Phụng Tiên, là người gần gũi băng đảng Corsican, liên quan đến buôn lậu ma túy giữa Lào và VNCH. Từ năm 1965 đến 1967, Phòng Liên Lạc Cao Cấp của Lansdale làm việc chặt chẽ với Kỳ và Lansdale. Lansdale được xác định là một trong những tướng trẻ ủng hộ Kỳ mạnh nhất. Người ta tự hỏi, sự sẵn lòng của Conein và Lansdale cho người Corsican một cuộc “thõa thuận ngừng bắn” và bỏ qua sự tham gia của họ đang phát triển trong lưu lượng bạch phiến Mỹ, có thể được thúc đẩy bởi những cân nhắc chính trị, có nghĩa là, Conein và Lansdale sợ làm xấu hổ thủ tướng Kỳ. Cũng như hầu hết các băng đảng Corsican, Corsican ở Sài Gòn và Vientiane năm 1973 đã đến Đông Dương theo đoàn quân Pháp cuối thập niên 1940. Mafia Mỹ theo quân đội Mỹ đến VNCH vào năm 1965. Giống như một nhóm đầu tư, Mafia tìm kiếm lĩnh vực tài chính mới, và khi Chiến Tranh Việt Nam bắt đầu nóng bỏng, một số doanh thương trẻ chuyển ngân khỏi tổ chức và rời khỏi Sài Gòn. Thu hút vào Việt Nam là hợp đồng xây cất và dịch vụ tư nhân, các mafiosi (thành viên Mafia) làm việc bình thường lúc đầu nhưng sau đó phân nhánh buôn lậu ma túy khi xây dựng được liên lạc với Hồng Kông và Đông Dương. Người tiên phong quan trọng nhất là Frank Carmen Furci, một Mafioso trẻ từ Tampa, Florida. Mặc dù người nào cũng dấu bối cảnh gia đình đối với Furci, Furci thấy ấn tượng tham nhũng, trục lợi, và côn đồ Corsican, là bạn bè của Furci ở Sài Gòn. Ông nói với họ bằng tất cả tự hào: “Người cha của tôi là ông chủ Mafia Tampa, Florida.” (Trên thực tế, cha của Furci, Dominick Furci chỉ là một trung úy trung cấp trong gia đình mạnh mẽ tại Florida, đứng đầu là Santo Trafficante, Jr., ông chủ Mafia của Tampa). Furci đến Việt Nam năm 1965, với hậu thuẫn tài chính tốt, Furci đã trở thành một nhân vật quan trọng trong tham nhũng có hệ thống và bắt đầu với bệnh dịch câu lạc bộ quân sự Mỹ tại Việt Nam như hàng trăm ngàn lính khác đổ vào chiến tranh. Thượng Viện Mỹ kéo dài điều tra tiếp xúc với các mạng lưới tham nhũng, hối lộ và tìm ra quả là anh ta trục lợi và lừa đảo các câu lạc bộ quân sự và khách hàng lính Mỹ bỏ ra hàng triệu đô la. Các câu lạc bộ được quản lý bởi các “Hạ Sĩ Quan” (Non-Commission Officers, NCOs), thường là trung sĩ, người làm cho quân đội, và sự nghiệp được coi là chuyên nghiệp, đáng tin cậy. Trong khi các sĩ quan bận rộn với chiến tranh, các trung sĩ bị bỏ lại với trách nhiệm quản lý một trong các nhà hàng và chuỗi câu lạc bộ đêm lớn nhất trên thế giới, đặt mua tủ lạnh, thuê ban nhạc, lựa chọn các thương hiệu rượu, và đàm phán các đơn đặt hàng, cho tất cả mọi thứ. Hệ thống kế toán chất lượng kém, và toàn bộ hệ thống dễ bị tổn thương để được tổ chức tốt. Bảy trung sĩ đã phục vụ trong Sư Đoàn Bộ Binh thứ 20th tại Augsburg, Đức, trong những năm 1960 đã phát hiện ra điểm yếu này và khai thác. Trộm cắp lên đến 40.000 đô la một tháng từ các câu lạc bộ hạ sĩ quan. Năm 1965, bảy trung sĩ bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam để chăm sóc và quản lý câu lạc bộ lộn xộn tại Sư Đoàn I Bộ Binh, Sư Đoàn Americal, và trụ sở quân đội Mỹ tại Long Bình. Quan trọng hơn tất cả, là kẻ cầm đầu nhóm, Trung Sĩ William O. Wooldridge, được bổ nhiệm làm trung sĩ chính của quân đội trong tháng 7.1966. Là người cao cấp nhất trong danh sách, ông phục vụ trực tiếp cho quân đội Lầu Năm Góc, nơi ông giữ một vị trí lý tưởng để thao tác và bao che cho các hoạt động của nhóm. Tại đỉnh của hệ thống, các nhà doanh nghiệp dân sự Frank Furci, đối thủ của William J. Crum, người đại lý cho một loạt các công ty Mỹ, trả viên trung sĩ tiền phung phí, đút lót, và các hàng hóa khổng lồ quân đội cho các thiết bị nhà bếp, đồ ăn nhẹ, và rượu. Furci cũng tham gia sâu vào thị trường tiền tệ đen. Thượng viện Hoa Kỳ điều tra các thao tác tiền tệ bất hợp pháp tại Việt Nam, sau đó cho thấy Furci đã chuyển 99.200 đô la một cách trái phép. Theo giá thị trường đen là một đô la trị giá 300 hoặc 400 đồng so với giá chính thức là một đô la trị giá 118 đồng. Thật không may cho Furci, Crum cũng nhận thức được các giao dịch bất hợp pháp, và ông quyết định sử dụng kiến thức này để loại Furci ra khỏi doanh nghiệp. Furci chỉ đơn giản là đánh bại người một mắt William Crum, một người Trung Quốc già đã thực hiện lợi nhuận trên hầu hết các cuộc chiến tranh ở châu Á kể từ năm 1941. Bị thu hút bởi tiềm năng kinh tế của xung đột ngày càng tăng, Crum nghỉ hưu ở Hồng Kông và di chuyển đến Sài Gòn năm 1962. Trong khi một khối lượng lớn quân đội Mỹ mở rộng năm 1965 đã thu hút các cơ sở thương mại, Crum có vẻ đặc biệt bực tức Furci, cạnh tranh các thương hiệu rượu, máy slots, và thiết bị đánh cắp nhà bếp trị giá 2.5 triệu. Crum quảng bá tin tức về sự chuyển ngân lậu tới Phòng Chống Gian Lận Hải Quan VNCH, thông qua quân đội Mỹ nói chung mà Crum được trả 1.000 đô la mỗi tháng. Việc Hải Quan VNCH đã bố ráp văn phòng Furci tháng 7.1967, cho thấy bằng chứng cáo buộc, và sau đó bị phạt 45,000 đô la. Không thể trả tiền phạt lớn, Furci phải rời Sài Gòn. Crum sau đó khoe khoang ông đã “lo lót” cho các cuộc tấn công để loại bỏ đối thủ cạnh tranh của mình. Furci chuyển đến Hồng Kông và vào tháng 8.1967, đã mở một nhà hàng có tên là “San Francisco Steak House” với vốn đầu tư danh nghĩa là 100.000 đô la. Quan trọng hơn, Furci là công cụ trong việc hình thành Maradem Ltd, một công ty mà trung sĩ Augsburg, người quản lý câu lạc bộ hạ sĩ quan tại Việt Nam, được sử dụng để tăng lợi nhuận bất hợp pháp từ các câu lạc bộ quân sự. Mặc dù tên của Furci không xuất hiện trên bất kỳ các loại giấy tờ thành lập công ty. Maradem Ltd không phải là một nhà cung cấp buôn bán, cửa hàng bán lẻ, nhưng là nhà môi giới sử dụng kiểm soát đối với hạ sĩ quan câu lạc bộ và hội trường lộn xộn để lực lượng buôn bán hợp pháp thanh toán một tỷ lệ cố định của lợi nhuận làm kinh doanh. Maradem cạnh tranh đã dần dần “ép” các doanh nghiệp, và trong năm đầu tiên hoạt động, công ty đã đạt giá trị 1.210.000 đô la đối với câu lạc bộ hạ sĩ quan tại Việt Nam. Đến năm 1968, Frank Furci đã được ba năm kinh nghiệm trong thế giới Hồng Kông và Đông Dương. Ông là nhà lãnh đạo mạnh mẽ của tổ chức người Corsican ở Sài Gòn và đã có cơ hội để hình thành các mối quan hệ tương tự với người Hoa làm chủ tại Hồng Kong. Vì vậy, đây không phải là quá ngạc nhiên đối với ông chủ chính của mình, Santo Trafficante Furci Jr., đã vinh dự đến thăm ông tại Hồng Kông vào năm 1968. Cùng với cha của Frank, Dominick Furci, Trafficante được các cơ quan liên đới đến thăm viếng và phỏng vấn. Theo một điều tra Thượng Viện Mỹ: “Họ đi du lịch trên khắp thế giới cùng nhau vào thời điểm đó. Họ dừng lại để thăm Furci ở Hồng Kông và nhà hàng của họ.” Sau khi dừng chân, Trafficante đến Sài Gòn. Ở đây, theo nguồn tin Sứ Quán Mỹ, ông đã gặp một số băng đảng nổi tiếng Corsican. Trafficante không phải là người đầu tiên thăm Hồng Kông. Tháng 04.1965, John Pullman đã có một cuộc ghé thăm kéo dài tại Hồng Kông. Nơi đó, ông báo cáo điều tra ma tuý và cờ bạc. Một số quan sát Mafia lo ngại chuyến viễn du của Trafficante tới Châu Á. Có vài người nhận thức cuộc hành trình của Trafficante đến Châu Á đã làm bối rối nhiều người. Người ta có lý do để tin tưởng đáp ứng cuộc khủng hoảng trong các “Giao Thông Ma Túy Địa Trung Hải” (Mediterranean drug traffic), sẽ bảo đảm nguồn bạch phiến mới cho các nhà phân phối Mafia bên trong Mỹ. Với gần 70% nguồn cung cấp á phiện bất hợp pháp trên thế giới trong Khu Tam Giác Vàng, các nhà hoá học bạch phiến có tay ấn cao ở Hồng Kông và Corsica, cố thủ Đông Dương, là một lựa chọn hợp lý. Ngay sau chuyến viếng thăm của Trafficante tại Hồng Kông, một vòng chuyển phát nhanh Philippines bắt đầu cung cấp bạch phiến Hồng Kông đến các nhà phân phối Mafia Mỹ. Năm 1970, các cơ sở ma túy Mỹ đã bắt giữ nhiều người trong số những người chuyển giao ma túy. Thẩm vấn tiết lộ: “Chiếc nhẫn đã thành công nhập lậu 1.000 kg bạch phiến tinh khiết vào Mỹ, tương đương với 10% đến 20% tiêu thụ hàng năm của Mỹ.” Phòng Ma Túy Mỹ (U.S. Bureau of Narcotics) tường trình đầu thập niên 1970 cho thấy một vòng chuyển vận bạch phiến Hồng Kông vào Mỹ thông qua vùng biển Caribbean, khu vực Trafficante. Từ Hồng Kông, bạch phiến thường bay tới Chile trên các chuyến bay thường xuyên và sau đó nhập lậu qua biên giới Paraguay trên máy bay tư nhân. Cuối thập niên 1960, Paraguay trở thành trung tâm vận chuyển chính bạch phiến vào Hoa Kỳ từ châu Mỹ La tinh; tới từ hai nơi, gồm Hồng Kông và Đông Nam Á, bạch phiến nhập lậu qua Thái Bình Dương vào Chile và châu Âu. Bạch phiến chuyển qua Đại Tây Dương vào Argentina, được đưa đến Paraguay trước khi chuyển tiếp đến Hoa Kỳ. Argentina và Paraguay được phổ biến là nơi cư trú của các băng đảng Marseille ở Pháp có thành tích tội ác nghiêm trọng. Nổi bật nhất trong số này là Auguste Joseph Ricort, một băng đảng Marseille làm việc với Gestapo trong Thế Chiến Thứ II. Sử dụng đủ loại tiện nghi khác nhau, từ máy bay tư nhân đến hình thức nhân tạo, Ricort được cho là người đã nhập lậu bạch phiến trị giá khoảng 2,5 tỷ đô la vào Hoa Kỳ từ Argentina và Paraguay từ năm 1968 đến năm 1973. Mặc dù các quan chức pháp luật luôn luôn giả định rằng Ricort và các cộng sự của ông được cung cấp bạch phiến từ Marseille, báo cáo của các chuyến hàng từ Hong Kong và Đông Nam Á, về vấn đề Paraguay đưa ra năm 1972, cho thấy các nguồn bạch phiến cũng có thể được chuyển sang từ châu Á. 12. Chính Sách Đồng Lõa Của Đại Sứ Quán Mỹ Khi đối mặt với những trách nhiệm song sinh của các vấn đề ma túy Việt Nam, bệnh dịch bạch phiến trong quân đội đưa tới xuất khẩu bạch phiến càng ngày càng tăng đến Hoa Kỳ. Phản ứng thế nào từ các quan chức ngoại giao và quân sự Mỹ tại Việt Nam? Nhìn chung, phản ứng của họ là một kết hợp bối rối và sự thờ ơ. Bối rối, bởi vì họ đã biết đến một mức độ nào đó, mặc dù họ không thừa nhận điều đó, rằng các phần tử Chính Phủ VNCH, những người được lính Mỹ bảo vệ, đã đẩy lính Mỹ tới chỗ hút bạch phiến. Sự thờ ơ, bởi vì hầu hết trong số họ cảm thấy rằng, bất kỳ ai sử dụng bạch phiến, xứng đáng nhận những gì bạch phiến mang đến cho người đó. Hầu như tất cả các quan chức Mỹ bày tỏ lo ngại mỗi khi vấn đề bạch phiến được đề cập tới, nhưng hầu hết những người sử dụng bạch phiến không quan tâm. Họ đã đến Việt Nam để bảo vệ dân chủ; trên thực tế, một số người bảo vệ dân chủ đã bị bạch phiến đánh bại. Câu trả lời cho tình thế tiến thoái lưỡng nan của Mỹ là sự quản trị của Thiệu. Mặc dù Thiệu và Kỳ đã giành quá nhiều thời giờ để đánh nhau, người Mỹ nói chung, hài lòng với khả năng điều hành của Thiệu-Kỳ. Sau khi biết được rằng loại chính phủ độc tài là phù hợp với lợi ích của Mỹ, các quan chức Mỹ không sẵn sàng phản đối khi cả hai nhà lãnh đạo, Thiệu và Kỳ, tham gia vào tham nhũng có hệ thống, bao gồm cả lưu lượng đường dây ma túy. Khi ma túy được độc quyền cho người hút Trung Quốc và Việt Nam, Quốc hội Mỹ phàn nàn về tham nhũng. Vào năm 1968, Thượng nghị sĩ Albert Gruening, cáo buộc Kỳ buôn lậu á phiện, Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn đã ban hành một cách cứng rắn, lời từ chối, nếu không muốn nói là biện hộ, và vấn đề này bị lãng quên. Nhưng khi tổ chức ma tuý VNCH bắt đầu khai thác thị trường bạch phiến tới các chiến binh Mỹ, vấn đề đã không còn có thể bị bác bỏ một cách dễ dàng được nữa. Sau khi phóng viên Sài Gòn NBC buộc tội trưởng cố vấn của Tổng Thống Thiệu, Tướng Đặng Văn Quang, là người buôn bán bạch phiến lớn nhất cho lính Mỹ tại Việt Nam, Đại sứ quán Mỹ “nộp một báo cáo đến Washington nói rằng không có bằng chứng buộc tội Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ đã tham gia hoặc thu lợi nhuận từ buôn bán ma túy.” Đồng thời, các quan chức Mỹ bảo vệ Thiệu và Kỳ công khai. Theo một quan chức Đại Sứ Mỹ đặc trách về vấn đề ma túy, nhiệm vụ của Mỹ là “Tìm không thấy bằng chứng” bởi vì Mỹ tránh tìm kiếm. Đó là một “Luật bất thành văn” giữa các quan chức Đại Sứ Mỹ là “không ai có quyền đề cập đến tên của bất cứ một giới chức cao cấp VNCH nào, khi nói đến đường dây bạch phiến.” CIA tránh thu thập tin tức về tham gia cao cấp, và ngay cả trong phiên họp đóng cửa với Đại Sứ Mỹ, chỉ để thảo luận về các vấn đề ma túy và nghiện ngập bình thường. Sứ mệnh của Mỹ sử lý những cáo buộc liên quan đến sự tham gia của Tướng Ngô Dzu trong việc buôn bán bạch phiến là một trường hợp điển hình. Bắt đầu từ tháng 1.1971, “Chi Nhánh Điều Tra Phạm Pháp” (Criminal Investigation Division, CID) của quân đội Mỹ bắt đầu điều tra và thu thập tin tức chi tiết về tham gia của Dzu liên quan đến bạch phiến trong phạm vi các chiến binh Mỹ. Mặc dù các báo cáo được gửi tới Đại Sứ Quán Mỹ, thông qua các liên lạc bình thường, Đại Sứ Quán Mỹ đã không làm gì cả. Khi dân biểu Robert H. Steele nói với một tiểu ban của Quốc Hội tháng 07.1971 rằng: “Chính Quyền Quân Sự Mỹ đã cung cấp cho Đại Sứ Bunker tin tức tình báo khó khăn vì một trong những người môi giới buôn lậu bạch phiến là Tướng Ngô Dzu, Chỉ Huy Trưởng Vùng II Chiến Thuật.” Các giới chức Sứ Quán sẽ làm hết sức mình để bất tín nhiệm vị dân biểu. Thay vì tố cáo Dzu buôn bán bạch phiến, cố vấn cao cấp Mỹ, đặc trách Vùng II, tuyên bố công khai: “Không có bằng chứng bất kỳ dưới mọi hình thức nào chứng minh những lời cáo buộc của Dân Biểu Steele.” Theo trích dẫn của Chi Nhánh Điều Tra Phạm Pháp trước đây, sứ mệnh của Mỹ là để bảo vệ chế độ Thiệu trong mọi cuộc điều tra về sự tham gia của Thiệu trong vấn đề bạch phiến. Trong khi Sứ Quán Mỹ đã làm tất cả những gì tốt nhất để bảo vệ chế độ Thiệu tránh mọi sự chỉ trích, Chính Quyền Nixon và các Tư Lệnh Quân Đội Mỹ cố gắng xoa dịu mối quan tâm của công chúng về bệnh dịch bạch phiến bằng cách giảm thiểu mức độ vấn đề. Quân đội được cung cấp hai biện luận chính để biện minh cho sự lạc quan của họ: • Thử nghiệm nước tiểu cho thấy không quá 5,5% nhân viên sử dụng bạch phiến. • Chỉ có 8,0% nghiện dùng phương pháp tiêm hoặc “mainlined,” phần lớn những người khác không thật sự nghiện và sẽ không có vấn đề loại trừ thói quen khi họ trở về Mỹ. Không may, giả thiết đầu tiên của quân đội không đúng sự thật. Ngày 22.6.1971, Tư Lệnh Quân Đội Mỹ ra lệnh tất cả các chiến binh rời khỏi Việt Nam phải qua các cuộc thử nghiệm phức tạp để có thể phát hiện số lượng morphine trong cơ thể. Bất kỳ chiến binh nào xét nghiệm có dương tính sẽ được gởi đến một trung tâm giải độc đặc biệt, và chỉ được trở về Mỹ sau khi được chữa trị lành và có thể vượt qua các cuộc kiểm tra. Từ điểm đầu tiên, các chiến binh bắt đầu nghĩ ra cách khéo léo đánh bại các hệ thống kiểm tra. Giám sát các trung tâm thử nghiệm đã lỏng lẻo, và nhiều người nghiện nghiêm trọng lọt qua thử nghiệm, bằng cách đưa một bạn thân có nước tiểu “sạch” để qua mạng lưới kiểm tra thay thế cho mình. Khi phân tích nước tiểu, morphine trong cơ thể của người nghiện chỉ có thể phát hiện khi nào người nghiện sử dụng bạch phiến bốn hoặc năm ngày trước đó, nhiều người nghiện “nhịn hút” khoảng một tuần trước các cuộc kiểm tra. Thật vậy, y tá quân đội đã thấy nhiều người nghiện vượt kiểm tra. Tuy nhiên người nghiện chỉ có thể nhịn hút trong một khoảng thời gian nào đó mà thôi. Thường thường cuối tháng, họ nhịn hút vài ngày chờ lãnh lương. Hầu như mỗi người lính Mỹ ở Việt Nam biết chính xác ngày trở về của mình, và hầu hết họ đếm ngược thời gian, mà nhiều người còn đếm cả ngày và giờ. Ngày trở về (Date of Expected Return, DEROS) của mỗi chiến binh có một lịch sử, và ngay cả một giá trị tôn giáo của nó, và ý tưởng phải ở lại thêm một tuần, hoặc thậm chí một vài ngày là hoàn toàn không ai có thể chấp nhận. Hầu hết các chiến binh nghiện chấp nhận nổi đau thu hồi tự nguyện “cai bạch phiến” để vượt qua các kiểm tra và được trở về trên các chuyến bay theo lịch trình của họ. Những người quá yếu đuối nhiều khi phải hủy thác mặc tình cho chương trình “ân xá” của các căn cứ trưởng. Nhiều bác sĩ quân đội báo cáo một tỷ lệ không cân xứng cao đối với bệnh nhân chỉ có một vài tuần còn ở lại. Khi một chiến binh được hỏi lý do tại sao ông và bạn bè của ông đã tạm thời từ bỏ ma túy, ông trả lời: “Ma thuật, hoàn toàn ma thuật, là… DEROS.” Giải độc đau đớn, ngắn ngủn, chỉ đơn giản là: “Rửa sạch cái bình chứa morphine, không phải là phương pháp ngăn chận cái bình chứa morphine trở lại.” Nhiều người đã chữa trị bệnh dịch bạch phiến lành lặn, sau khi trở về Mỹ, họ tìm cách “hít bạch phiến” trở lại. Quân đội nhận định rằng những người nghiện hút bạch phiến tại Việt Nam, bằng cách nào đó, nghiện ít hơn so với những người “mainlined” trở lại Mỹ là vô lý. Trong khi đó sự thật là “tim” mạnh hơn “hít” hoặc “hút.” Bạch phiến Việt Nam rất tinh khiết, từ 90% đến 98% tinh khiết so với 2% tới 10% tinh khiết tại Mỹ vào thời điểm đó. Một lọ bạch phiến Việt Nam tiêm được năm hoặc sáu lần cho người lớn. Hầu hết các chiến binh Mỹ phải bỏ ra trung bình 200 đô la một ngày tiền mua bạch phiến khi họ trở về Mỹ. Quân đội tuyên bố chống bạch phiến vì không sẵn sàng thừa nhận ảnh hưởng chiến binh nghiện tại Việt Nam, và cuộc khủng hoảng ma túy càng ngày càng tồi tệ tại Hoa Kỳ. Mặc dù Tổng Thống Nixon hứa: “Tất cả các chiến binh tại Việt Nam phải được ban quyền phục hồi tình trạng bình thường.” Mỗi Tư Lệnh Quân Đội Mỹ tại Việt Nam được giải ngũ với tỉ số từ 1.000 đến 2.000 chiến binh nghiện bạch phiến một tháng. Đây là những người được tuyên bố: “Chểnh mảng và kém giá trị đối với Quân Đội Hoa Kỳ” sau hai lần thất bại phân tích nước tiểu. Mặc dù mỗi chiến binh tại Việt Nam được đảm bảo quyền tuyên bố mình là một người nghiện và tình nguyện được điều trị, khoan hồng của quân đội đã không thường xuyên mở rộng hơn hai lần thất bại. Khi một sĩ quan chỉ huy quyết định một kẻ thất bại hai lần là một trường hợp tuyệt vọng, người nghiện sẽ phải bay về Mỹ và phải bị giải ngũ gần như ngay lập tức. Hầu như không ai trong số những người nghiện được đưa ra điều trị tiếp tục. Tháng 8.1971, Chủ Tịch “Tiểu Ban Y Tế Công Cộng” (the House Subcommittee on Public Health), Đại diện Paul Rogers tuyên bố: “Các bệnh viện cựu chiến binh chính đưa ra chỉ có ba chiến binh trong số 12.000 chiến binh nghiện bạch phiến… tại Việt Nam.” Phải tự lo cho bản thân, nhiều người trong số những người trở về thị trấn nhà của họ như là một người nghiện, xác nhận: “Một tỷ lệ lớn của các cựu chiến binh trở về đã được người Mỹ trung lưu từ các cộng đồng luôn luôn chữa trị bạch phiến miễn phí. Tội phạm có tổ chức không bao giờ thiết lập một chỗ đứng trong cộng đồng da trắng thuộc tầng lớp trung lưu, và hầu hết các chuyên gia pháp luật xem như họ miễn nhiễm bạch phiến. Khi người chiến binh nghiện trở về sống giữa người Mỹ, các chuyên gia quan tâm họ có thể là những người mang bệnh dịch truyền nhiễm bạch phiến.” Trong tháng 6.1971, một chuyên gia cho biết: Mỗi người nghiện, sẽ nghiện tới nghiện lui, ít nhất là bốn lần. Một mình người đó sẽ không chịu đựng nổi, và chắc chắn người đó phải tìm đến người khác yêu cầu được giúp đỡ. Dây là trường hợp khẩn cấp mà chúng ta giờ phải đối mặt.” Một số người đã khẳng định hai năm sau đó, khi một lực lượng đặc nhiệm Nhà Trắng khảo sát các cựu chiến binh nghiện tại Việt Nam, đã nhận thấy rằng một phần ba những người đã lành hẳn sau khi chữa trị, đã hút trở lại. Tại Việt Nam, bạch phiến được sử dụng rất phổ biến trong số các chiến binh, vì vậy các ác cảm của tầng lớp trung lưu bị phá vỡ. Một cuộc khảo sát quân đội Mỹ cho thấy 1.000 chiến binh từ quân đội trở về tháng 3.1971 chỉ có 11% sử dụng ma túy thường xuyên, 22% thử ma túy ít nhất là một lần. Hai năm sau, lực lượng đặc nhiệm Nhà Trắng cho thấy 34% lính Mỹ ở Việt Nam “thường sử dụng” bạch phiến. Đối với những người này, bạch phiến chỉ là một ma túy, như cần sa, thuốc pep, hoặc rượu. Tại Việt Nam, các binh sĩ sử dụng bạch phiến thường xuyên tự mua cho mình, chọn một số cho các bạn thân đang thi hành công vụ, hoặc bán bạch phiến để tạo lợi nhuận, mà các ý tưởng về bán bạch phiến, một khi họ trở về Mỹ, dường như tự nhiên. Một người Mỹ trung niên 22 tuổi đã nói tại trung tâm điều trị Long Bình: “Tôi có nghe nói từ một số người vẫn chưa dám dùng, họ chưa dám dùng vì mắc quá, dù sao, họ sợ “tim” bằng kim, nhưng họ nói họ cần tôi gởi họ mọt ít scag (tiếng lóng chỉ bạch phiến) nên họ có thể bán để kiếm chút ít tiền. Bạn biết một jug (lọ) ở đây giá chỉ có hai đô la, nhưng bạn có thể bán được một trăm đô la trong world (world là tiếng lóng chỉ Mỹ).” Du lịch “tour” Châu Á điều tra, Dân Biểu John M. Murphy nói: “Rất nhiều ví dụ chiến binh khéo léo giải ngũ, về Mỹ, rồi sau đó trở lại, tự vấn thân vào đường dây bạch phiến.” Theo các Cơ Quan Ma Túy Mỹ, một trong những nhà xuất khẩu bạch phiến quan trọng hơn hết ở Thái Lan, là một cựu chiến binh, William Henry Jackson, quản lý nhà hàng “Quán Bar Năm Sao” (Five Star Bar) tại Bangkok, là một người da đen lui tới thường xuyên. Làm việc với cựu chiến binh khác, Jackson tuyển dụng các binh sĩ còn đang làm việc tại nhiệm, tới lui từ Mỹ làm người thông tin, và dùng chiến binh địa phương mang bạch phiến về Mỹ xuyên qua hệ thống Bưu Điện Bộ Binh và Không Quân. Một Cơ Quan Mỹ đã bắt giữ một số cựu chiến binh buôn bán ma túy, cho biết: “Hầu hết những người này tự nói với chính họ, chừng nào tôi kiếm được 100.000 đô la để mua một cây xăng, một cái nhà, một chiếc xe tại California, thì tôi nghỉ. Hầu hết họ là những người bình thường.” Ngày 5.4.1971, các quan chức Hải Quan Mỹ tại Fort Monmouth, New Jersey, thu giữ 7,7 kg bạch phiến Double U-0 Globe trong một gói gởi đi từ Bangkok, Thái Lan, qua hệ thống bưu điện quân sự của Mỹ. Gói bạch phiến trị giá bán lẻ ước tính khoảng 1.750.000 đô la. Trong tháng 3.1971 và tháng 4.1971, Hải Quan Mỹ thu giữ 248 lá thư có ma túy trong hệ thống bưu chính Bộ Binh và Không Quân. Khi số lượng quân đội Mỹ tại Việt Nam nhỏ dần và biến mất, người ta có một xu hướng tự nhiên quên đi bệnh dịch bạch phiến. Nếu chính quyền Nixon không gặp cuộc trắc trở Watergate, chính quyền đó đã có thể cố gắng giải quyết đoạn kết vấn đề bạch phiến của chiến binh Mỹ, một vấn đề cần hoàn tất trước nhất. Trở lại người chiến binh “nghiện” trở về nhà mang mầm bệnh về cho cộng đồng của họ vi trùng bạch phiến (virus heroin). Các phòng thí nghiệm “Bạch Phiến Golden Triangle” đã cung cấp bạch phiến cho binh lính Mỹ tại Việt Nam từ cuối năm 1969, đã không bị phá sản. Khi số lượng lính Mỹ giảm mạnh năm 1971, Corsican và các tổ chức Trung Quốc bắt đầu vận chuyển bạch phiến Lào trực tiếp đến Hoa Kỳ. Trong tháng 4.1971, Đại Sứ Lào tại Pháp bị bắt giữ tại Paris với 60 kg bạch phiến Double U-0 Globe chờ chuyên chở tới Hoa Kỳ. Ngày 11.11.1971, một nhà ngoại giao Philippines và một thương gia Bangkok Trung Quốc đã bị bắt giữ tại khách sạn Lexington, thành phố New York, với 15,5 kg bạch phiến Double U-0 Globe ngay sau khi họ đến từ Vientiane. Gần hai mươi năm qua, Phòng Ma Túy Mỹ lập luận rằng chỉ có 5% nguồn cung cấp bạch phiến từ Đông Nam Á đến Mỹ, nhưng trong tháng 11.1972, Phòng Ma Túy Mỹ tuyên bố khoảng 30% bạch phiến đến từ Đông Nam Á.
Bài đọc thêm: - GHLM: Lịch Sử và Hồ Sơ Tộc Ác (Nguyễn Mạnh Quang)- Chương 91: Vân Nạn Buốn Bán Ma Túy: https://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH91.php
|