Theo dõi đọc
giả bàn về Thượng Đế trên các diễn đàn
trong mấy tuần qua, tôi nhận thấy hình như
chúng ta đã hoàn toàn bác bỏ ý niệm
Thượng Đế có nhân tính của Thiên Chúa
giáo; bởi vì ở thời đại thông tin nối
mạng này, ý niệm về một Thượng Đế có
đầy đủ hỉ, nộ, ái, và ố như được “mặc
khải” trong Kinh thánh không còn phù hợp
với nhận thức tiến bộ của con người khoa
học. Mặc dù vậy, qua cách trình bày của
các đọc giả, ý niệm Thượng Đế cũng đã
thay đổi để tiến hóa theo một chiều hướng
khác như đã từng xảy ra bao lần trong suốt
dòng lịch sử, nhưng tiếc là lần này nó
lại tiến hóa theo một chiều hướng thụt
lùi, nghĩa là thay vì đổi sang một ý
niệm mới lạ, trái lại, nó đang trở về
với ý niệm Thượng Đế của thuyết Phiếm
Thần (Pantheism)[1] thời Trung Cổ
khi con người chưa biết gì về khoa học, ý
niệm mà một thời con người đã từng cố
gắng bác bỏ, đàn áp, và tận diệt.
Thực vậy, ông
Nguyễn Hoài Vân (NHV) có nhắc đến trường
phái Khắc Kỷ (Stoicism)[2], do
đó, xin được bàn thêm một chút về trường
phái này.
Phái Khắc Kỳ
là một trường phái triết học ở thời cổ
Hy Lạp, khoảng 300 năm trước Công nguyên. Họ
chủ trương sống như những nhà hiền triết,
có trí thức và đạo đức, bằng cách làm
chủ mọi cảm xúc và tình cảm của mình.
Họ cũng hiểu con người có tự do nhưng thứ
tự do giới hạn bởi những yếu tố tiền
định bẩm sinh. Và họ tin tưởng con người
có thể đạt được tình trạng đạo đức bằng
cách sống hòa thuận với thiên nhiên, lẽ
trời. Họ chẳng tin và cũng chẳng cần quan
tâm về một đấng Sáng Tạo vì họ tin vũ
trụ không có khởi đầu và cũng chẳng có
tận cùng. Họ không tin con người còn có
phần linh hồn vẫn tiếp tục sống sau khi
chết. Họ xem linh hồn hay Thượng Đế nằm
trong tất cả mọi sự vật vô tri vô giác
thuộc vũ trụ. Đối với họ, Thượng Đế
chính là lực hay năng lượng chuyển động
tiềm tàng trong thiên nhiên.
Như vậy, đây
là một hệ thống triết học, một cách
sống, không phải một tôn giáo, có chủ
đích giúp con người đạt được hạnh phúc ở
ngay cõi đời này. Về phương diện tâm linh,
đây chính là chủ thuyết Phiếm Thần của
những người ngoại đạo ở thời tiền khoa
học vì bất cứ thứ gì cũng có thể gọi
được là thần. Người theo thuyết Phiếm Thần là
người không tin có một đấng Sáng Tạo toàn năng
hay can thiệp vào công việc của con người. Họ
dùng từ Thượng Đế để chỉ thiên nhiên hay những
qui luật vật lý trong vũ trụ. Thiên Chúa giáo
gọi họ là “ngoại đạo” hàm ý khinh thường những
niềm tin nằm ngoài Thiên Chúa giáo. Về phương
diện nhân sinh, nó giống chủ thuyết Nhân
Bản (Humanism) đầu thế kỷ 19 vì mục đích
cuộc đời là sống hạnh phúc ở cõi đời
này; không phải là phí phạm thì giờ và
công sức để phục vụ hoặc vinh danh bất cứ
một thần thánh nào, hầu mong được cứu
rỗi để có hạnh phúc vĩnh cửu ở đời sau.
Như vậy, đối tượng phục vụ là con người
và cuộc đời, không phải Thượng Đế.
Tiếc là một
chủ thuyết rất hợp nhân bản, tình người
đã bị Thiên Chúa giáo tiêu diệt ở ngay
đầu thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Đọc lịch
sử, chúng ta biết Thiên Chúa giáo ở thời
điểm đó đang thống trị toàn đế quốc La
Mã. Vì Thiên Chúa giáo tin vào một đấng
Sáng Tạo và con người còn có phần linh
hồn bất tử nên đã xem triết thuyết Khắc
Kỷ như là thứ tà thuyết của người ngoại
đạo. Chính hoàng đế Justinian I đã ra lệnh
đóng cửa tất cả các trường phái triết
học năm 529 sau Công Nguyên vì cho rằng quan
điểm triết lý của họ không phù hợp với
đức tin Thiên Chúa giáo.
Điều khôi hài
là mặc dù không phù hợp như đã trình bày
ở trên, thần học Thiên Chúa giáo lại bị
ảnh hưởng bởi triết thuyết Khắc Kỷ quá
nặng nề đến nỗi đã mượn phần lớn những
tư tưởng căn bản triết học của họ làm
nền tảng cho thần học của mình, chẳng
hạn như những ý niệm về Ngôi Lời, Thần
Khí, nhân đức, lương tâm, ý thức, lý trí,
v/v… Như vậy, Thiên Chúa giáo có nguồn gốc
từ Do Thái giáo nhưng thần học của họ
được trộn lẫn bởi những tư tưởng triết
học của người cổ Hy Lạp. Bằng phương tiện
vũ lực và đàn áp, Thiên Chúa giáo đã
phá nát một nền văn hóa nhân bản Hy Lạp
có nguồn gốc từ hơn 300 năm trước khi Chúa
giáng sinh để trở thành quốc giáo, rồi
sau thành tôn giáo hoàn vũ.
Việc ông NHV
trích dẫn câu nói của bà thánh Therese
d’Avila (1515-1582) rằng “tự do là trở thành
nô lệ Thiên Chúa", và việc ông NHV giảng
giải thêm rằng “Thiên Chúa hiểu như một quy
luật tối thượng của trời đất, thuận theo quy
luật ấy thì «tự do» hơn là làm nô lệ dục vọng
của mình”, chứng tỏ ông muốn trở lại ý
niệm Thượng Đế của triết thuyết Khắc Kỷ
được hiểu như những qui luật vật lý trong
thiên nhiên. Đó là lối giải thích Thượng
Đế của người ngoại đạo đã bị Thiên Chúa
giáo bác bỏ và tiêu diệt ở thời Trung
Cổ.
Ở điểm này,
chúng ta cũng nên có thêm một nhận xét,
rằng Thiên Chúa giáo thường hay cưỡng từ
đoạt lý bằng cách cố tình bẻ cong ý
nghĩa của những phạm trù thông thường
dùng trong truyền thống thành ý nghĩa mà
họ muốn dẫn dắt. Thánh Therese d’Avila gọi
“tự do là trở thành nô lệ Thiên Chúa”,
cũng giống như rất nhiều định nghĩa khác
mà người tín hữu được chỉ dạy, chẳng
hạn như “yêu là trở nên giống Chúa”;
hoặc “yêu người là mến Chúa”; hoặc
“sống là sống cho Chúa Ki-tô, vì Chúa
Ki-tô, còn chết là hưởng nhan thánh Chúa”;
hoặc “người khôn ngoan là người biết
kính mến Thiên Chúa”; hoặc “Thiên
Chúa chính là ông trời”; hoặc như ông
NHV viết ở trên rằng “Thiên Chúa hiểu như
một quy luật tối thượng của trời đất, thuận theo
quy luật ấy thì «tự do» hơn là làm nô lệ dục
vọng của mình”; trong khi Thiên Chúa là
một hữu thể có nhân tính, có ý chí tự
do, còn “quy luật tối thượng của trời
đất” là những định luật máy móc, vô
tình, không có ý chí tự do. Chừng nào
hội đủ mọi yếu tố mà nhà Phật gọi là
duyên khởi thì hiện tượng phải xảy ra,
còn chưa đủ thì nó không thể xảy ra; chứ
chẳng phải vì nó bị bắt buộc tuân theo ý
chí tự do của một siêu sinh vật nào. Vậy
không thể nhập nhằng đồng hóa một hữu
thể hữu tình với những loài vô tình, vô
tri, vô giác.
Và cuối cùng,
ông NHV còn viết “Khoa học duy lý cũng cần
niềm tin, ít ra là tin vào chính nó” cho
đọc giả chúng tôi hiểu rằng ông đang cố
gắng lập lờ trộn lẫn giữa niềm tin khoa
học và đức tin tôn giáo. Đây cũng là lối
gièm pha những nhà khoa học mà tôi hay
được nghe từ những nhà hữu thần. Đúng
hơn, hai niềm tin này là hai thái cực đối
chọi nhau như nước với lửa. Vậy xin được
đưa ra một thí dụ để cho thấy sự khác
biệt căn bản giữa hai niềm tin này.
Thí dụ, tôi
chưa bao giờ đi Paris nhưng tôi biết Paris
nằm ở đâu trong bản đồ. Tôi mua một vé
máy bay từ Sài Gòn đi Paris. Tới ngày đi,
tôi tin rằng chỉ cần ngồi trên máy bay một
thời gian thì ngày hôm sau tôi sẽ có mặt
ở Paris. Vì tin như vậy nên tôi mới bỏ
tiền mua vé và chịu cực ngồi trên máy bay
mấy chục tiếng đồng hồ. Đó là niềm tin
khoa học dựa trên lý trí và tìm hiểu,
không thể đồng hóa để lẫn lộn với niềm
tin tôn giáo.
Những tín
điều tôn giáo như tội tổ tông, Thiên Chúa
ba ngôi, Đức Maria sinh con nhưng vẫn còn
đồng trinh và lên trời cả hồn lẫn xác,
ngày tận thế xác loài người sẽ sống
lại, v/v… thì người tín hữu chỉ việc
nhắm mắt mà tin, không được thắc mắc. Đó
là lý do tại sao bà Ts. Bs. Nguyễn Thị
Thanh gọi là “con mắt đức tin nhiệm mầu
nhưng không chuyển nhượng và điều khiển được,
vì nó đến từ Đấng Siêu mà người Công
Giáo gọi là ơn thánh sủng”, và ông NHV
gọi là “hồng ân”. Vậy nếu không có
“ơn thánh sủng” hay “hồng ân”
thì làm sao con người có thể tin được
những điều vô lý; trong khi tại sao các
nhà khoa học đâu cần “ơn thánh sủng”
hay “hồng ân” mà họ vẫn cứ tin vào
khoa học? Nhà khoa học chỉ đơn thuần dùng
đầu óc của họ suy luận để biết điều gì
nên tin hay không.
Hơn nữa, niềm
tin của các nhà khoa học không bao giờ
được gọi là đức tin; trong khi chỉ có
niềm tin của những tín đồ Thiên Chúa giáo
mới cần phải thăng hoa thành một nhân đức
lớn và tối quan trọng: nhân đức tin. Đó
là sự khác biệt lớn mà ông NHV không nhận
ra.
Như vậy, nếu
chúng ta nắm vững được sự khác biệt về
ý nghĩa của những từ ngữ thì sẽ dễ
dàng nhận ra ngay lối ngụy biện nằm trong
cách giải thích của những nhà hữu thần.
Cách gán ghép hay đồng hóa nhập nhằng
những phạm trù của từ ngữ như đã trình
bày ở trên cũng giống như kiểu nói của
người Cộng sản, rằng “yêu nước là yêu
xã hội chủ nghĩa”. Hoặc giả như người
Cộng sản cũng bắt chước câu nói của bà
thánh Therese d’Avila “tự do là trở
thành nô lệ Thiên Chúa” để lập luận
rằng, các ông tranh đấu đòi tự do mà
chẳng hiểu tự do là gì, phải hiểu “tự
do là trở thành nô lệ bác và đảng”,
thì liệu chúng ta có cảm thấy dị ứng và
chói tai không? Một kiểu cách lập luận
cưỡng từ đoạt lý, cực đoan giáo điều của
một bà thánh Công Giáo được đưa vào diễn
đàn như vậy mà có người lại xuýt xoa khen
ngợi bằng những lời sáo ngữ: “Bài vắn
tắt của anh như một làm gió mát thổi vào những
xáo trộn của sự tấn công của ông Trần Tiên Long
đối với "Thượng Đế" của TCG, những tấn công này
giống như gặp phải một bức tường bằng đá của phe
bên kia khiến cho cát đá bụi bay mù mịt.” [trích nguyên văn]
Đứng trước
một hiện tượng hay một biến cố chưa có
sự giải thích, nhà khoa học chỉ đơn giản
và khiêm tốn trả lời, chúng tôi không
biết. Đó là một thách đố chung cho tất
cả mọi người. Bản chất của khoa học là
tìm kiếm chân lý rồi trình bày một cách
khách quan những gì đã được khám phá,
chẳng cần quan tâm điều mình khám phá có
hợp hay không với các niềm tin tôn giáo.
Khoa học đứng bên ngoài các tôn giáo và
phe nhóm. Việc tấn công khoa học bằng cách
chụp cái mũ Cộng sản vô thần hay đánh
phá tôn giáo là những gì chúng ta thường
nghe quen quen trên các diễn đàn.
Bây giờ xin
chuyển sang đề tài ý chí tự do.
Bàn về
tiền định thì chắc chúng ta không thể bỏ
qua quan điểm của giáo phái Calvinism[3], Tin Lành, vì triết thuyết của phái này
có một quan điểm tiêu biểu cực đoan, hoàn
toàn đối nghịch với quan điểm của Công
Giáo.
John Calvin 1554 |
John Calvin
(1509-1564) khẳng định rằng Thiên Chúa đã
định trước sẽ cứu rỗi người nào lên thiên
đàng và cũng định trước sẽ đày người
nào xuống địa ngục. Như vậy, con người
được tiền định để tin Thiên Chúa bằng đức
tin trước khi họ có ý muốn tin Ngài. Vấn
đề tiền định của Tin Lành là một đề tài
lớn. Công Giáo đã chính thức lên án quan
điểm tiền định này. Trong một vài trang
giấy, thực khó có thể bàn chi tiết về
một đề tài phức tạp như vậy. Ở bài này,
tôi chỉ muốn giới hạn đề tài để chủ
đích bàn về quan điểm của Công Giáo La
mã.
Giáo lý Công
Giáo La Mã dạy rằng con người cần phải
có ý chí tự do mới có thể có hạnh
phúc. Vì Thiên Chúa là đấng “nhân từ
và lòng lành vô cùng” nên không thể
sáng tạo con người như những người máy.
Chỉ có ý chí tự do mới làm con người
cảm nghiệm được tình yêu và hạnh phúc.
Nhưng con người đã lạm dụng sự tự do để
phạm tội, và như vậy, họ mang sự dữ vào
thế giới vốn nguyên thủy tốt lành khi
Thiên Chúa tạo dựng. Thiên Chúa không thể
cưỡng bức con người làm theo ý Ngài; do
đó, có trách là trách con người đã tự ý
chọn làm điều ác, không thể trách Thiên
Chúa.
Quan điểm này
có rất nhiều điều mâu thuẩn. Quentin Smith
đã bàn rất kỹ về ý chí tự do của Thiên
Chúa trong bài Hai Lối Chứng Minh Không
Có Thượng Đế.[4] Epicurus
cũng đã dùng lý luận thuần lý của
Parmenides để loại bỏ ý niệm về Thiên
Chúa mà tôi đã trình bày trong bài Vấn
Đề Chứng Minh Thượng Đế.[5]
Cả hai bài đã được đưa vào diễn đàn. Ở
đây, tôi xin chỉ bàn về ý chí tự do của
con người nhân dịp ông NHV góp ý.
Làm sao mà
một người có thể có tự do khi họ bị đe
dọa về những hệ quả của việc họ chọn
lựa? Hình phạt hành hạ đời đời kiếp
kiếp ở địa ngục cho những người không
chọn tin Giê-su là đấng Cứu Thế đã được
ghi bằng giấy trắng mực đen trong Kinh
thánh, cuốn kinh mà người Công Giáo phải
xưng tụng hằng ngày là lời của Chúa. Nếu
chúng ta chấp nhận lối lập luận này thì
người Cộng sản cũng có thể bắt chước
chúng ta để lập luận rằng, chúng tôi giết
các ông là tại vì các ông đã được tự do
chọn lựa nhưng các ông đã không lựa chọn
theo chúng tôi. Nếu Thiên Chúa có quyền
giết những người không tin theo Ngài thì
chúng tôi cũng có cái quyền đó để giết
những kẻ không theo chúng tôi.
Hơn nữa, nếu
Thiên Chúa là đấng toàn năng thì Ngài
cũng có thể tạo dựng loại người không có
ý chí tự do nhưng vẫn có thể cảm nghiệm
được hạnh phúc, chẳng hạn như những thiên
thần đang ở trên thiên đàng. Nếu đã là
hoàn hảo, toàn trí thì tại sao lại có
thể tạo dựng một loại người bất toàn đã
có thể tự hủy hoại hạnh phúc của mình?
Cho dù là phải cần thiết có ý chí tự do
mới có thể cảm nghiệm được hạnh phúc
thì Thiên Chúa cũng có thể tạo dựng một
loại người chỉ có ý chí tự do chọn làm
một số điều tốt trong muôn vàn những điều
tốt khác. Hơn nữa, Thiên Chúa toàn năng, “lòng lành và nhân từ vô cùng” đã
biết trước những gì sẽ xảy ra, vậy lý do
nào Ngài đã tạo dựng những người vô thần
không tin nơi Ngài khi biết chắc chắn họ
sẽ bị đọa đày ở địa ngục? Phải chăng lý
do duy nhất là để nhìn ngắm họ bị hành
hạ, chịu đau khổ muôn đời muôn kiếp?
Còn có một
điều ít ai chịu để ý: Mặc dù giáo lý
Công Giáo dạy rằng con người đã mang sự
dữ vào thế gian bằng cách phạm tội; nhưng
Kinh thánh của họ thì lại dạy khác, rằng
chính Thiên Chúa đã tạo dựng sự dữ.
Isaiah 45:7: “I form the light and create darkness. I make
peace and create evil. I the lord do all these
things.”
Tài liệu tôi
chép xuống từ trang nhà VietCatholic thì
cố tình dịch sai như sau: “Ta tạo ra ánh
sáng, ta dựng nên bóng tối. Ta cho thư thái, ta
bắt chịu cực. Chính Gia-vê ta đây làm ra mọi
sự.”
Để chính xác
hơn thì nên dịch: “Ta tạo ra ánh sáng và
dựng nên bóng tối. Ta tạo ra sự an bình và
dựng nên sự dữ. Chính Gia-vê ta đây làm ra
tất cả mọi sự này.”
Như vậy, câu
hỏi nên được đặt ra: Bởi vì chính Thiên
Chúa đã tạo dựng mọi sự dữ, tại sao lại
đổ trách nhiệm đó lên đầu loài người để
hành hạ họ?
Dĩ nhiên,
người ta cũng có thể phản biện như đã
từng phản biện rằng, tại các ông đã hiểu
sai Kinh thánh. Đúng hơn, phải hiểu như thế
này, thế kia, bla, bla, bla, v/v… Họ cố
tình quên rằng các học giả chuyên môn về
Kinh thánh, bao gồm những hồng y, giám
mục, linh mục, các nam nữ tu sĩ, giáo sư
tiến sĩ thần học, vẫn thường hay cãi
nhau, giải thích Kinh thánh mỗi người theo
mỗi ý[6]. Vậy làm sao những đọc
giả trung bình như chúng ta có thể hiểu
Kinh thánh một cách đồng thuận? Lấy tiêu
chuẩn nào để phán đoán ai hiểu đúng sai?
Tại sao Thiên Chúa toàn năng lại không thể
làm được một cuốn kinh mà ai đọc cũng có
thể hiểu ngay được? Nếu làm được vậy thì
đạo Chúa đâu có bị chia năm xẻ bảy.
Tóm lại, trong
suốt tiến trình tiến hóa của tư tưởng, ý
niệm về Thượng Đế đã phải thay đổi nhiều
lần để phù hợp với những khám phá mới
của khoa học. Ngày nay, chẳng còn mấy ai
thực lòng tin tưởng một Thượng Đế có nhân
tính của Thiên Chúa giáo. Bởi vậy, các
nhà hữu thần lại loay hoay cố gắng vớt
vát ý niệm Thượng Đế bằng cách giáng
cấp Ngài từ loài sinh vật hữu tình, có
ý chí tự do, xuống thành loài vô tình, vô
tri, vô giác; từ một hữu thể có quyền
phép vô biên ban các “ơn thánh sủng”
hay “hồng ân” thành “một quy luật
tối thượng của trời đất”.
Chỉ có một
câu trả lời duy nhất và rất đơn giản, có
thể giải thích thỏa đáng mọi thắc mắc
trình bày ở trên, nhưng lại có ít người
dám can đảm chấp nhận, đó là Thượng Đế
chỉ là sản phẩm tưởng tượng của con
người. Tâm trí của chúng ta thế nào thì
Thượng Đế cũng sẽ như vậy. Bởi vì tâm
trí luôn luôn biến động và bất đồng giữa
mỗi cá nhân nên Thượng Đế trở thành không
thể nghĩ bàn. Vậy đây là Đạo, là đường
đi, không còn là tôn giáo với một Thượng
Đế để vinh danh, tôn thờ, cầu khẩn, van xin
“ơn thánh sủng” hay “hồng ân”.
Vấn đề còn lại là làm sao giáo dục và
trau dồi tập luyện để tâm trí chúng ta
luôn luôn hướng tới Chân-Thiện-Mỹ, một
biểu tượng tuyệt đối về Thượng Đế. Đây
chính là ý niệm “Thượng Đế nội tại”
mà các vị đạo sư thường hay bàn từ xưa
nay. Thiên Chúa giáo ngày nay cũng đang
biến chuyển dần để trở về với ý niệm “Thượng Đế nội tại” này.
Ghi chú:
[1]
Nguồn:
http://en.wikipedia.org/wiki/Pantheism
[2]
Nguồn:
http://en.wikipedia.org/wiki/Stoicism
[3]
Nguồn:
http://en.wikipedia.org/wiki/Predestination_(Calvinism)
[4]
Hai Lối Chứng Minh Không Có Thượng Đế /
Quentin Smith / Trần Tiên Long dịch
Nguồn:
http://www.sachhiem.net/TONGIAO/tgTR/TranTL04.php
[5]
Vấn Đề Chứng Minh Thượng Đế / Trần Tiên
Long
Nguồn:
http://www.sachhiem.net/TONGIAO/tgTR/TranTL05.php
[6]
Thần học Tự do-Hiện đại / Trần Tiên Long dịch
Nguồn:
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9279&rb=0303