tiếng Việt: http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12019&rb=0303
22 tháng 1, 2008
Vài năm sau khi tôi trở thành tín đồ Công giáo, tôi đã gia
nhập dòng Thừa sai Bác ái của Mẹ Teresa. Tôi là một trong các
chị em của Mẹ trong suốt chín năm rưỡi, sống ở Bronx, Rome, và
San Francisco, cho đến khi tôi vỡ mộng và rời bỏ vào tháng 5 năm
1989. Từ khi trở lại với thế giới, tôi từ từ tháo gỡ manh mối
những dối trá mà tôi đã sống. Tôi tự hỏi tại sao tôi có thể tin
tưởng những điều này trong suốt bấy lâu nay.
Tất cả ba điều dạy căn bản của Mẹ Teresa cho nhà dòng của Mẹ đều
nguy hiểm bởi vì chúng được các chị em của Mẹ thành thật tin
tưởng. Điều căn bản nhất là niềm tin tưởng rằng chừng nào nữ tu
vâng lời là chị ấy đang làm theo ý Chúa. Một điều nữa là niềm
tin tưởng rằng các chị em tiến gần tới Chúa bằng cách chọn đau
khổ. Nỗi khổ đau của họ làm Chúa rất hài lòng. Và rồi Chúa sẽ
ban thêm phước lành cho nhân loại. Điều thứ ba là niềm tin tưởng
rằng bất cứ sự quyến luyến với con người, với cả những người
nghèo khó họ đang phục vụ, được xem như làm cản trở tình yêu của
Thiên Chúa, và phải được thận trọng ngăn ngừa hoặc dứt bỏ ngay.
Những cố gắng ngăn ngừa bất cứ sự quyến luyến nào không ngừng
làm hỗn loạn và lẫn lộn, làm biến chuyển và thay đổi trong nhà
dòng. Mẹ Teresa không sáng chế những niềm tin này – chúng là
điều thường thấy trong các nhà dòng trước Công đồng Vatican II –
nhưng mẹ đã làm tất cả trong quyền hạn của mẹ (quyền hạn rất
lớn) để áp buộc chúng.
Một khi một nữ tu đã chấp nhận những điều nguỵ biện này, chị sẽ
làm hầu như bất cứ điều gì. Chị có thể để cho sức khoẻ của chị
bị phá huỷ, lãng quên những người mà chị đã nguyện sẽ giúp đỡ,
và dập tắt cảm xúc và tư duy độc lập của chị. Chị có thể nhắm
mắt trước nỗi đau, cung cấp tin tức về các chị em của mình, nói
láo dễ dàng, và bất chấp các luật pháp và qui tắc công cộng.
Những phụ nữ từ nhiều quốc gia đã nối kết với Mẹ Teresa trong
niềm kỳ vọng rằng họ sẽ giúp đỡ được người nghèo khó và đến gần
Thiên Chúa hơn. Khi tôi ra đi, đã có hơn 3.000 chị em cư ngụ
trong chừng 400 ngôi nhà rải rác khắp thế giới. Nhiều chị em
trong họ tin tưởng Mẹ Teresa sẽ hướng dẫn họ đã trở nên những
người tuyệt vọng. Đối diện với các bằng chứng đầy dẫy, cuối cùng
một số chị em đã thú nhận rằng niềm tin của họ đã bị phản bội,
Thiên Chúa không thể ra lệnh mà họ nghe được. Thật là khó khăn
khi họ quyết định ra đi - niềm tự tin của họ đã bị phá hủy, và
họ không có sự giáo dục nào khác ngoài sự giáo dục mà họ mang
theo khi họ gia nhập - Tôi là một trong những chị em may mắn có
đủ can đảm để rời bỏ.
Chính với niềm hy vọng rằng những người khác có thể nhận thấy sự
nguỵ biện của cách thức để đạt đến sự thánh thiện này khiến tôi
[muốn] nói một chút về những gì tôi biết. Mặc dù tương đối có ít
người gia nhập dòng các chị em của Mẹ Teresa, có nhiều người đã
ủng hộ việc làm của Mẹ một cách rộng rãi bởi vì họ không biết
những lời hứa méo mó của Mẹ làm thiệt hại đến những cố gắng làm
giảm bớt sự khốn cùng. Họ không ý thức được rằng phần lớn những
tiền tặng không được dùng đến, nằm yên trong những trương mục
nhà băng của Mẹ. Họ bị lừa để nghĩ rằng họ đang giúp đỡ người
nghèo khó.
Với tư cách là một người của dòng Thừa sai Bác ái, tôi được giao
phó nhiệm vụ ghi nhận các đồ tặng và viết thư cám ơn. Tiền nhận
được theo một gia tốc điên cuồng. Người đưa thư phải giao thư
trong các túi đựng. Chúng tôi thường hay viết phiếu biên nhận
cho những ngân phiếu 50.000 đôla hoặc hơn. Đôi khi người tặng
gọi đến để hỏi chúng tôi đã nhận được ngân phiếu của họ chưa, kỳ
vọng chúng tôi nhớ ngay vì đó là một món tiền quá lớn. Làm sao
chúng tôi có thể trả lời rằng chúng tôi không nhớ vì chúng tôi
cũng đã nhận được quá nhiều món tiền còn lớn hơn?
Khi Mẹ nói chuyện với công chúng, Mẹ không bao giờ xin tiền,
nhưng Mẹ khuyến khích mọi người phải hy sinh cho người nghèo,
phải “cho đến khi thấy đau” (give until it hurts). Nhiều người
đã làm vậy và họ cho Mẹ điều đó. Chúng tôi đã nhận được những
bức thư rất xúc động từ những người, đôi khi có vẻ như chính họ
rất nghèo, gửi cho chúng tôi một món tiền nhỏ để giúp những
người đang chết đói ở châu Phi, những nạn nhân lụt ở Bangladesh,
hoặc những trẻ em nghèo khổ ở Ấn Độ. Phần lớn số tiền này nằm
yên trong các trương mục ngân hàng của chúng tôi.
Các tặng phẩm ồ ạt này được xem như dấu hiệu của Thiên Chúa chấp
thuận nhà dòng của Mẹ Teresa. Chúng tôi được các bề trên bảo
rằng chúng tôi đã nhận được nhiều tặng phẩm hơn các dòng khác
bởi vì Thiên Chúa bằng lòng với Mẹ, và bởi vì các chị em dòng
Thừa sai Bác ái trung thành với tinh thần chính thực của đời
sống tôn giáo.
Phần đông, các chị em không biết số tiền nhà dòng đã tồn kho
được bao nhiêu. Cuối cùng, chúng tôi được lệnh không được nhận
bất cứ thứ gì nữa. Vào một mùa hè, các chị em ở vùng ngoại ô
Rome nhận được những thùng đựng cà chua nhiều hơn họ có thể phân
phối. Không ai ở trong vùng muốn những thùng cà chua này bởi vì
mùa màng năm đó sai quả. Các chị em quyết định đóng hộp những
trái cà chua đó, hơn là để thối, nhưng khi Mẹ biết được điều đó,
Mẹ tỏ vẻ rất giận dữ. Việc dự trữ lương thực chứng tỏ thiếu tin
tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Tặng phẩm cứ tiếp tục được gửi tới và nằm yên ở nhà băng, nhưng
không ảnh hưởng gì tới cuộc sống khổ hạnh của chúng tôi, và rất
ít ảnh hưởng tới những cuộc sống của những người nghèo mà chúng
tôi đang giúp đỡ. Chúng tôi sống một cuộc sống đơn giản, không
màng đến tất cả những đồ thừa thãi. Chúng tôi có ba bộ quần áo,
mà chúng tôi vá chúng đến nỗi không còn chỗ để vá nữa. Chúng tôi
giặt quần áo bằng tay. Chúng tôi cũng phải giặt bằng tay những
đống khăn và tấm trải giường được dùng ở chỗ trú đêm của những
người vô gia cư. Khám răng và khám sức khoẻ được xem như những
thứ xa xỉ không cần thiết.
Mẹ rất lo lắng muốn chúng tôi duy trì tinh thần khó nghèo. Việc
chi tiền sẽ phá hủy sự nghèo khó đó. Mẹ có vẻ như bị ám ảnh việc
chỉ dùng những phương tiện đơn giản nhất cho công việc. Không
biết đó có phải là phù hợp với quyền lợi tốt nhất của những
người chúng tôi đang giúp đỡ, hay là thực ra chúng tôi đang sử
dụng chúng như dụng cụ để đạt sự thánh thiện? Ở Haiti, để duy
trì tinh thần khó nghèo, các chị em đã phải dùng lại các kim
chích cho đến khi chúng cùn mòn. Chứng kiến nỗi đau do kim chích
cùn mòn gây ra, có một số người tự nguyện mua thêm kim chích,
nhưng các chị em đã từ chối.
Chúng tôi xin đồ ăn và đồ tiếp tế từ các thương gia địa phương,
làm như chúng tôi không có một nguồn nào khác. Có lần hiếm hoi
khi chúng tôi hết bánh mì cứu trợ, chúng tôi đã đến xin các tiệm
địa phương. Khi chúng tôi xin không được, Mẹ bề trên của chúng
tôi ra lệnh dùng xúp thay cho bánh mì trong suốt ngày hôm đó.
Không phải chỉ có những thương gia địa phương mới được có cơ hội
rộng rãi, mà các hãng hàng không cũng được kêu gọi không tính
tiền việc chuyên chở các chị em và hàng hoá. Các nhà thương và
bác sĩ cũng được kỳ vọng không tính tiền chi phí chữa bệnh cho
các chị em, hoặc họ được quyên góp cho mục tiêu tôn giáo. Những
người làm việc được khuyến khích làm không công hoặc nhận đồng
lương giảm thiểu. Chúng tôi tin cậy vào những người thiện nguyện
làm việc nhiều giờ ở trong bếp, nơi tạm trú đêm, và các trại ban
ngày.
Một người nông dân hiến dâng những giờ giấc tỉnh táo của ông để
thu góp và giao đồ ăn cho nhà bếp và các trạm tiếp tế. Ông ta đã
hỏi “nếu tôi không đến thì các ông bà ăn cái gì?”
Hiến chương của chúng tôi cấm chúng tôi xin đồ nhiều hơn chúng
tôi cần, nhưng, khi xin, nhiều triệu đôla chồng chất trong nhà
băng được xem như không bao giờ có.
Suốt nhiều năm, tôi đã phải viết nhiều ngàn lá thư cho những
người biếu tặng, báo tin họ rằng toàn tặng phẩm của họ được dùng
để mang lòng thương xót của Thiên Chúa đến người nghèo khó nhất
trong các người nghèo khó. Tôi có thể kiểm soát được lương tâm
cắn rứt của tôi bởi vì tôi đã được dạy rằng Thánh thần đang
hướng dẫn Mẹ. Nghi ngờ Mẹ là một dấu hiệu cho thấy chúng ta đang
thiếu lòng tin tưởng và, tệ hại hơn, phạm đến tội kiêu ngạo. Tôi
dẹp bỏ những bất mãn của tôi và hy vọng rằng, một ngày nào đó,
tôi sẽ hiểu tại sao Mẹ Teresa muốn thu góp nhiều tiền như vậy,
trong khi chính Mẹ đã dạy chúng tôi rằng ngay cả việc dự trữ
nước cà chua cũng là tỏ sự thiếu tin tưởng vào Đấng Quan phòng.
Susan Shields là một nữ tu thuộc dòng Thừa sai
Bác ái trong suốt một thập niên. Bà đã giữ chức vụ quan trọng
trong tổ chức của Mẹ Teresa cho đến ngày bà từ chức.
Bản Anh Ngữ
Mother Teresa's House of Illusions
How She Harmed Her Helpers As Well As Those They 'Helped'
Some years after I became a Catholic, I joined Mother
Teresa's congregation, the Missionaries of Charity. I was one of
her sisters for nine and a half years, living in the Bronx,
Rome, and San Francisco, until I became disillusioned and left
in May 1989. As I reentered the world, I slowly began to unravel
the tangle of lies in which I had lived. I wondered how I could
have believed them for so long.
Three of Mother Teresa's teachings that are fundamental to
her religious congregation are all the more dangerous because
they are believed so sincerely by her sisters. Most basic is the
belief that as long as a sister obeys she is doing God's will.
Another is the belief that the sisters have leverage over God by
choosing to suffer. Their suffering makes God very happy. He
then dispenses more graces to humanity. The third is the belief
that any attachment to human beings, even the poor being served,
supposedly interferes with love of God and must be vigilantly
avoided or immediately uprooted. The efforts to prevent any
attachments cause continual chaos and confusion, movement and
change in the congregation. Mother Teresa did not invent these
beliefs - they were prevalent in religious congregations before
Vatican II - but she did everything in her power (which was
great) to enforce them.
Once a sister has accepted these fallacies she will do almost
anything. She can allow her health to be destroyed, neglect
those she vowed to serve, and switch off her feelings and
independent thought. She can turn a blind eye to suffering,
inform on her fellow sisters, tell lies with ease, and ignore
public laws and regulations.
Women from many nations joined Mother Teresa in the
expectation that they would help the poor and come closer to God
themselves. When I left, there were more than 3,000 sisters in
approximately 400 houses scattered throughout the world. Many of
these sisters who trusted Mother Teresa to guide them have
become broken people. In the face of overwhelming evidence, some
of them have finally admitted that their trust has been
betrayed, that God could not possibly be giving the orders they
hear. It is difficult for them to decide to leave - their
self-confidence has been destroyed, and they have no education
beyond what they brought with them when they joined. I was one
of the lucky ones who mustered enough courage to walk away.
It is in the hope that others may see the fallacy of this
purported way to holiness that I tell a little of what I know.
Although there are relatively few tempted to join Mother
Teresa's congregation of sisters, there are many who generously
have supported her work because they do not realize how her
twisted premises strangle efforts to alleviate misery. Unaware
that most of the donations sit unused in her bank accounts, they
too are deceived into thinking they are helping the poor.
As a Missionary of Charity, I was assigned to record
donations and write the thank-you letters. The money arrived at
a frantic rate. The mail carrier often delivered the letters in
sacks. We wrote receipts for checks of $50,000 and more on a
regular basis. Sometimes a donor would call up and ask if we had
received his check, expecting us to remember it readily because
it was so large. How could we say that we could not recall it
because we had received so many that were even larger?
When Mother spoke publicly, she never asked for money, but
she did encourage people to make sacrifices for the poor, to
"give until it hurts." Many people did - and they gave it to
her. We received touching letters from people, sometimes
apparently poor themselves, who were making sacrifices to send
us a little money for the starving people in Africa, the flood
victims in Bangladesh, or the poor children in India. Most of
the money sat in our bank accounts.
The flood of donations was considered to be a sign of God's
approval of Mother Teresa's congregation. We were told by our
superiors that we received more gifts than other religious
congregations because God was pleased with Mother, and because
the Missionaries of Charity were the sisters who were faithful
to the true spirit of religious life.
Most of the sisters had no idea how much money the
congregation was amassing. After all, we were taught not to
collect anything. One summer the sisters living on the outskirts
of Rome were given more crates of tomatoes than they could
distribute. None of their neighbors wanted them because the crop
had been so prolific that year. The sisters decided to can the
tomatoes rather than let them spoil, but when Mother found out
what they had done she was very displeased. Storing things
showed lack of trust in Divine Providence.
The donations rolled in and were deposited in the bank, but
they had no effect on our ascetic lives and very little effect
on the lives of the poor we were trying to help. We lived a
simple life, bare of all superfluities. We had three sets of
clothes, which we mended until the material was too rotten to
patch anymore. We washed our own clothes by hand. The
never-ending piles of sheets and towels from our night shelter
for the homeless we washed by hand, too. Our bathing was
accomplished with only one bucket of water. Dental and medical
checkups were seen as an unnecessary luxury.
Mother was very concerned that we preserve our spirit of
poverty. Spending money would destroy that poverty. She seemed
obsessed with using only the simplest of means for our work. Was
this in the best interests of the people we were trying to help,
or were we in fact using them as a tool to advance our own
"sanctity?" In Haiti, to keep the spirit of poverty, the sisters
reused needles until they became blunt. Seeing the pain caused
by the blunt needles, some of the volunteers offered to procure
more needles, but the sisters refused.
We begged for food and supplies from local merchants as
though we had no resources. On one of the rare occasions when we
ran out of donated bread, we went begging at the local store.
When our request was turned down, our superior decreed that the
soup kitchen could do without bread for the day.
It was not only merchants who were offered a chance to be
generous. Airlines were requested to fly sisters and air cargo
free of charge. Hospitals and doctors were expected to absorb
the costs of medical treatment for the sisters or to draw on
funds designated for the religious. Workmen were encouraged to
labor without payment or at reduced rates. We relied heavily on
volunteers who worked long hours in our soup kitchens, shelters,
and day camps.
A hard-working farmer devoted many of his waking hours to
collecting and delivering food for our soup kitchens and
shelters. "If I didn't come, what would you eat?" he asked.
Our Constitution forbade us to beg for more than we needed,
but, when it came to begging, the millions of dollars
accumulating in the bank were treated as if they did not exist.
For years I had to write thousands of letters to donors,
telling them that their entire gift would be used to bring God's
loving compassion to the poorest of the poor. I was able to keep
my complaining conscience in check because we had been taught
that the Holy Spirit was guiding Mother. To doubt her was a sign
that we were lacking in trust and, even worse, guilty of the sin
of pride. I shelved my objections and hoped that one day I would
understand why Mother wanted to gather so much money, when she
herself had taught us that even storing tomato sauce showed lack
of trust in Divine Providence.
For nearly a decade, Susan Shields was a Missionaries of
Charity sister. She played a key role in Mother Teresa's
organization until she resigned.