NGỤY QUÂN TỬ VÕ VĂN ÁI
Hồi II:
DẪN CHỨNG và PHÂN TÍCH
NHỮNG SỰ KIỆN
ÐỂ THẤY
GIÁO CHỈ SỐ 9
KHÔNG DO ÐỨC TĂNG THỐNG VIẾT và BAN HÀNH (1)
Hoàng Đông Tà
https://sachhiem.net/HOANGNN/Hoang14.php
3 tháng 5, 2008
(mời đọc Hồi I
)
Theo thời gian, mọi việc lắng đọng, từ từ mọi người có thời giờ hơn để
nghiền ngẫm lại những Thông Bạch, Giáo Chỉ, Quyết Ðịnh… đã khám phá ra những
hành động dối trá, khuynh loát Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải
Ngoại (GHPGVNTNHN) của kẻ “tiếm danh” Ðức Tăng Thống và Hòa Thượng
Quảng Ðộ, người đã ngụy tạo ra Giáo Chỉ Số 9, để đáp ứng mưu đồ chính trị cá
nhân và rồi đích thân kẻ “tiếm danh” đó lại phải “vác loa đi chữa
cháy”.
Những Dẫn Chứng Cụ Thể :
1.- Dẫn Chứng Thứ Nhất : Thượng tọa Minh
Tuấn, thị giả của Hòa thượng Tăng thống Thích Huyền Quang, cho biết :
“Có người từ Sàigon mang Giáo Chỉ ra Tu viện Nguyên Thiều, đi thẳng vào
phòng Hòa Thượng Huyền Quang và nói với Hòa Thượng hãy ký gấp Giáo Chỉ này
để mang vô lại Sàigon, chỉ trong vòng mấy phút. Hòa Thượng không kịp đọc,
cũng không kịp hỏi han gì cả. Người mang Giáo Chỉ nói : “Thời gian cấp bách,
hơn nữa tình hình không yên, xin Hòa Thượng thông cảm.” Nói xong người ấy
vội ra đi, trong khi Hòa Thượng Huyền Quang vẫn còn ngồi yên đó.”
2.- Dẫn Chứng Thứ Hai : Thượng Tọa Ðồng Trí về thăm gia đình, đến
hầu Hòa thượng Tăng thống và trình bày những sự việc xảy ra từ khi Giáo Chỉ
Số 9 ban hành, đã làm cho các GHTN hải ngoại tan vỡ. Khi nghe như vậy HT
Huyền Quang nói với TT Ðồng Trí : “Kể từ ngày tui làm Tăng thống đến
nay, mọi việc điều hành GH đều giao cho HT Quảng Ðộ. Tui đâu có viết hay ban
hành Giáo Chỉ gì đâu ?”.
3.- Dẫn Chứng Thứ Ba : TT Quảng Bình về thăm HT Huyền Quang, cũng
trình bày sự tác hại của Giáo Chỉ Số 9 đối với các GHTN hải ngoại, để HT
hiểu tình hình Phật giáo hải ngoại hiện thời và xin ý kiến HT. Nghe vậy, HT
Huyền Quang làm thinh một hồi rồi nói : “Ðiều này nên vô Sàigon hỏi HT
Quảng Ðộ thì rõ hơn. Tui ở đây không có điện đài, báo chí nên không biết tin
tức chi hết. HT Quảng Ðộ biết nhiều tin tức hơn tui.”.
4.- Dẫn Chứng Thứ Tư : Không Có Giá Trị Thời Gian
Trong Giáo Chỉ Số 9, nhận định thứ 6 (gạch - thứ 6) : “-. Nhận
định rằng những cuộc đàn áp liên tục, ngày càng gia tăng của nhà cầm quyền
CHXHCNVN, đặc biệt gần đây đối với các Ban Ðại Diện GHPGVNTN tại các tỉnh
miền Nam và miền Trung. HƠN NỮA, ngày 16 âm lịch Đinh Hợi tức 28.8.2007, hầu
hết hàng giáo phẩm thuộc Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo, từ Viện trưởng, Phó Viện
trưởng đến đa số các Tổng vụ trưởng bị các Ủy ban Nhân dân Phường mời đi làm
việc.... Các cuộc cứu trợ thuần túy từ thiện xã hội của Giáo hội ĐÃ ĐƯỢC
thực hiện công khai ngày 13.7 và 17.7 tại Saigon và ngày 23.8 tại Hà Nội...
Chiến dịch đàn áp, vu cáo và khủng bố tinh thần hiện nay đối với GHPGVNTN
báo hiệu một cuộc bắt bớ, đàn áp nước lũ có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, bó
buộc Giáo hội phải có biện pháp tự vệ cùng tiên liệu đối phó với tình hình
;”
Qua bảy [7] nhận định của Giáo Chỉ Số 9 để từ đó Giáo Hội đưa đến
quyết định : “Hội đồng Lưỡng Viện đã triệu tập cuộc họp khẩn hôm
22.8.2007 để nghe báo cáo Phật sự Giáo hội trong và ngoài nước và tìm biện
pháp khai thông.”
Trong lúc vội vã để viết Giáo Chỉ Số 9 một cách “cấp bách” hầu loại bỏ
“cấp kỳ” phần đông chư Tôn Ðức Tăng của GHPGVNTNHN nên tinh thần người viết
Giáo Chỉ Số 9 bị “khủng hoảng”, không định tĩnh, sáng suốt. Do đó, người
viết Giáo Chỉ Số 9 đã không nghĩ đến vấn đề khúc mắc của thời gian, vì thế
thứ tự thời gian các sự kiện bị đảo lộn trước thành sau và sau thành trước.
Chúng ta thấy :
- Ngày 28-8-2007, tại Saigon : “HẦU HẾT các hàng Giáo
Phẩm thuộc Ban Chỉ Ðạo của Viện Hóa Ðạo BỊ MỜI lên phường làm việc…Nhà nước
trên toàn quốc tấn công, bôi nhọ, vu cáo…”
Và :
- Ngày 23-08-2007, tại Hà Nội : “Cho cuộc cứu trợ dân
oan.”
Trong khi đó :
- Ngày 22-8-2007, tại chùa Giác Hoa : “Hội đồng Lưỡng
Viện đã triệu tập cuộc họp khẩn hôm 22.8.2007 để nghe báo cáo Phật sự Giáo
hội trong và ngoài nước và tìm biện pháp khai thông.”
Ba mốc thời gian cho thấy người “tiếm danh” viết Giáo Chỉ Số
9 hoặc giả là thần tiên mới có thần thông ngoại hạng hoặc giả có bệnh mộng
du, viễn tưởng, đi trước thời gian bằng đôi hia bảy dặm hoặc đồng hồ thời
gian của ông quá “hiện đại” đi ngược thời gian, để hôm nay, ngày
22-8-2007, họp để nghe báo cáo công việc “ÐÔ XẢY RA của ngày
28-08-2007 và ngày 23-08-2007 có hợp lý không ?
Công việc chưa xảy ra – tương lai của MỘT ngày sau, 23-8-07, và SÁU ngày
sau 28-8-07, thì làm sao để nghe báo cáo, và tìm biện pháp khai thông? Họp
ngày 22-8-07 mà biết tương lai 28-8-07 : “…Những cuộc đàn áp liên tục,
ngày càng gia tăng của nhà cầm quyền CHXHCNVN, đặc biệt gần đây đối với các
Ban Ðại Diện…” Khi nói “gần đây” thì ai cũng hiểu đó là sự việc đã xảy
ra trong quá khứ gần với hiện tại, 22-8-2007, chứ không phải tương lai gần.
Vậy mà : “HƠN NỮA, ngày 16 âm lịch Đinh Hợi tức 28.8.2007, hầu hết hàng
giáo phẩm thuộc Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo, từ Viện trưởng, Phó Viện trưởng
đến đa số các Tổng vụ trưởng bị các Ủy ban Nhân dân Phường mời đi làm
việc…” nói “hầu hết hàng Giáo Phẩm…” và “bị các Ủy ban Nhân dân
Phường mời đi làm việc” có nghĩa là sự việc đã xảy ra rồi, nên giờ đây
22.8.07 mới có cuộc họp khẩn để đối phó tình hình. Ðằng này, Giáo Chỉ Số 9
nói về sự việc đã xảy ra và tìm biện pháp tự vệ trong thời gian
chưa tới, 28.8.07 và 23.8.07.
Ba mốc thời gian trong Giáo Chỉ Số 9 không hợp lý cho thấy những sự kiện
diễn tiến trong Giáo Chỉ Số 9, được viết trong lúc hoảng hốt, không định
tĩnh chú tâm, sân hận u mê, vì thế không còn sáng suốt để nhớ thời gian theo
thứ tự từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai, chứ không thể đi
ngược chiều thời gian từ tương lai quay ngược đến hiện tại và từ hiện tại
quay ngược về quá khứ.
Văn phạm Việt Nam không có “thì quá khứ trong tương lai”.
Quá khứ: “Nhận định rằng những cuộc đàn áp liên tục, ngày càng
gia Tăng…” và “Các Tổng vụ trưởng bị các Ủy ban Nhân dân Phường mời
đi làm việc…” Sự việc đã xảy ra đối với thời gian hiện tại là ngày
22.8.07.
Hiện tại: “Hội đồng Lưỡng Viện đã triệu tập cuộc họp khẩn hôm
22.8.07 để nghe báo cáo Phật sự…” Thời gian 22.8.07 đối với thời gian
28.8.07 và 23.8.07 là quá khứ.
Tương lai : “Cuộc họp khẩn ngày 22.8.07 đối với sự việc chưa xảy
ra trong tương lai 28.8.07 và 23.8.07. Vậy thì sự kiện diễn tiến theo thời gian
trong Giáo Chỉ Số 9 bị đảo lộn hoàn toàn. Từ đó chúng ta suy tư, người viết
Giáo Chỉ Số 9 là ai ? Nếu là Ðức Tăng Thống nhìn thấy sự kiện qua các nhận
định trong Giáo Chỉ Số 9 để ban hành thì chắc chắn Ngài không thể nào nhầm
lẫn thứ tự ngày tháng được. Vì Ngài có cái nhìn thấu triệt mọi sự việc xảy
ra một cách tường tận chứ đâu có sơ suất khiếm khuyết như thế.
Còn nếu không phải là Ðức Tăng Thống viết thì theo như dẫn chứng thứ
nhất, do một người ở trong Sàigon mang ra rồi đưa cho Ðức Tăng Thống, và vội
vã mang đi.
Người mang Giáo Chỉ Số 9 từ Sàigon ra, TT Minh Tuấn giấu tên. Như vậy,
người viết Giáo Chỉ, kẻ “tiếm danh” Ðức Tăng Thống là ai ? Từ ngữ,
chữ nghĩa quá quen thuộc với ai đã từng thấy và nghe “kẻ tiếm danh”
viết và đọc các Nghị Quyết trong những Ðại Hội Thường Niên, Khoáng Ðại của
Giáo Hội, được phổ biến rộng rãi khắp nơi qua các Thông Cáo Báo Chí… của
Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế, và đã có nhiều lần cư sĩ chúng ta khen
ông viết hay.
5.- Dẫn Chứng Thứ Năm : Ðức Tăng Thống bị bao vây trong Tu Viện
Nguyên Thiều, Bình Ðịnh, ngày hai thời gióng chuông cầu nguyện. Không có hồ
sơ, tài liệu lưu trữ, không biết tin tức để thẩm định sự việc một cách khách
quan, không được tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài, thì có đâu mà biết
để ra Giáo Chỉ : 7 điều nhận định, 8 điều căn cứ để chiếu và 8 điều quyết
định ? Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế do ông Ái và cô Ỷ Lan phụ trách đã
ra Thông Cáo Báo Chí cho biết là Ðức Tăng Thống bị 200 Công an Cộng sản bao
vây – theo lời phúc trình của HT Thiện Hạnh – thì Ngài căn cứ trên những Văn
kiện nào, hồ sơ lưu nào để mà chiếu, mà quyết định ? Phòng ngủ của Ðức Tăng
Thống chỉ là một căn phòng bé nhỏ, chứ có phải là Văn phòng của Viện Tăng
Thống ? Mời quý vị đọc quyển “Phật Giáo Việt Nam Biến Cố và Tư Liệu”
để thấy rõ văn phong ý tứ của Ðức Tăng Thống đã viết qua các Tuyên Cáo,
Thông Bạch, Thư Chúc Mừng, Thông Bạch Ðặc Biệt, Thông Tư…
6.- Dẫn Chứng Thứ Sáu : Không có tâm kính trọng của một người tu.
Qua nhận định thứ tư (gạch - thứ tư) : “Nhận định rằng vì nhiều lý
do nội tại hay khách quan, vô tình hay cố ý, một số chư Tăng, Phật tử rời bỏ
con đường cao rộng của Chánh pháp, đem thân phục vụ thế quyền làm biến tướng
Bát chánh đạo và làm nghiêng ngửa Giáo hội;” Thật là hỗn xược, xấc láo,
“mục hạ vô nhân”, căn bản Phật pháp cạn cợt không hiểu biết gì về
tinh thần phương tiện của đạo Phật : “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần.
Phương tiện môn trung bất xả nhất pháp.” Như khi xưa Pháp Thuận Thiền sư
giả làm ông lão chèo đò đưa Lý Giác, Sứ Tàu, ở bến Sách Giang, Ngài đã dùng
thơ văn làm phương tiện ứng đối với sứ Tàu, để bảo vệ giang sơn gấm vóc cho
quê hương đất nước qua cơn chinh chiến ? và nhờ phương tiện Thiền Sư giả làm
ông lão chèo đò đã đem lại niềm tự hào cho dân tộc, khiến sứ giả nước Tàu
ngạc nhiên kính phục, tôn phong nước Nam ngang hàng với nước Tàu. Khi đã là
phương tiện để cứu người, cứu đời, cứu vật, cứu sự lầm than, chết chóc thì :
“Phương tiện thiện xảo từ bi lợi tế giả bất phạm.”
Người viết Giáo Chỉ Số 9 này nên hiểu cho. Phật pháp là thế đó, chứ Phật
pháp không phải là ngôn từ biến tướng của người làm chính trị xôi thịt, đã
“tiếm danh” (ngôn ngữ của ông Ái) Ðức Tăng Thống để có lời lẽ
thiếu lễ độ với chúng Tăng và Phật tử. Chúng ta đã đọc qua các Tuyên Cáo,
Thông Tư, Thông Bạch đặc biệt của Ngài không thấy nơi nào có lời lẽ khinh
miệt vô lễ đến với chúng Tăng và Phật tử như lời lẽ trong nhận định này. Khi
xưa, 1975, những tháng ngày nghiệt ngã, áp bức tàn bạo của chế độ CS đối với
Giáo Hội Thống Nhất, mà Ðức Tăng Thống khi ấy là Tổng Thư ký hay quyền Viện
trưởng Viện Hóa Ðạo, Ngài vẫn không có lời trách cứ nặng nề, ngôn từ thiếu
cung kính. Vì biết rằng cuộc đời này là cõi “Phàm Thánh đồng cư độ”
người phàm và bậc Thánh sống chung, nên luôn tỏ lòng kính trọng tất cả. Ðó
cũng chính là giữ gìn Phật tánh của mình được thanh tịnh. Có đâu như trong
một Giáo Chỉ của Viện Tăng Thống mà lời lẽ quá thô lậu, đầy ác tâm như
phường bát nháo như thế : “Một số chư Tăng, Phật tử rời bỏ con đường cao
rộng của chánh pháp, đem thân phục vụ thế quyền làm biến tướng bát chánh đạo
và làm nghiêng ngửa Giáo Hội.” Người viết câu văn này đã lộ ác tâm, ác
ý, tạo thành một ác nghiệp hiện đời. Vì có ác tâm mới sinh ra ác khẩu và ác
hạnh. Do vậy, nhận định này là kết quả của một ác tâm, tựu thành hành động
ác đối với chúng Tăng và Phật tử. Từ đó, chúng ta hiểu Ðức Tăng Thống không
thể có ác tâm, ác khẩu, ác hạnh đối với chúng Tăng và Phật tử.
7.- Dẫn Chứng Thứ Bảy: Bi quan và ích kỷ trên tinh thần hoằng
pháp độ sanh.
Qua nhận định thứ 5 (gạch - thứ năm): “Nhận định rằng sự phát
triển bền vững của nhân loại ngày nay là cuộc phát triển tổng hợp và đồng bộ
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị văn hóa, giáo dục, môi sinh ;
đạo Phật chỉ có thể phục vụ hữu hiệu con người trong một xã hội tự do, tôn
trọng nhân quyền và dân chủ…”
Người xưa thường nói : “Xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo” còn nhận
định này thì : “Xả bần cầu phú, xả đạo cầu thân.” Giáo Chỉ Số 9 viết
: “Ðạo Phật chỉ có thể phục vụ hữu hiệu con người trong một xã hội tự do
tôn trọng nhân quyền và dân chủ.”
Nếu nhìn theo nhận định này thì đạo Phật quá ư là bi quan và tiêu cực.
Ðạo Phật không có tinh thần, lý tưởng dấn thân để hóa độ. Đạo Phật chỉ phục
vụ cho con người trong cảnh thanh bình thịnh trị mới hữu hiệu, còn vào thời
loạn ly, vào nơi đau khổ, lầm than thì đạo Phật phục vụ không hữu hiệu ? Như
vậy Bồ Tát Ðịa Tạng nguyện xuống địa ngục – nơi nhiều đau khổ, không có tự
do, không tôn trọng nhân quyền dân chủ nơi ngục tốt, nơi ngưu đầu mã diện,
nơi cột đồng cháy, vạc dầu sôi…?
Người viết Giáo Chỉ Số 9 này chưa một lần đến các ngôi chùa Úc Ðại Lợi và
Tân Tây Lan để nghe quý Thầy công phu, qua lời tựa Chú Lăng Nghiêm :
“Phụng thỉnh Thế Tôn vị chứng minh. Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập. Như nhất
chúng sinh vị thành Phật. Chung bất ư thử thủ nê hoàn.” Đó là lời phát
nguyện của Tôn Giả A Nan. Cuộc đời khổ Ðức Phật mới thị hiện để cứu khổ,
cảnh đời lầm than Ðức Phật mới thuyết pháp chỉ dạy cho hết lầm than. Chứ nếu
cuộc đời này như Giáo Chỉ nói : “Đạo Phật chỉ có thể phục vụ hữu hiệu con
người trong một xã hội tự do, tôn trọng nhân quyền và dân chủ.” thì đạo
Phật đâu có hiện hữu giữa cảnh đời này nữa, vì xã hội đã có tự do, nhân
quyền, dân chủ, có nghĩa là xã hội không còn những bất công, nô lệ, xiềng
xích, áp bức, một thiên đường giữa nhân gian, vai trò của đạo Phật không còn
cần thiết trong thế giới thiên đường trần gian này. Bồ Tát Duy Ma Cật nói :
“Vì chúng sinh bệnh cho nên tôi bệnh” Chúng ta đã thường nghe :
“Nơi nào còn khổ đau thì nơi đó đạo Phật còn hiện hữu.” Nơi nào có tiếng
kêu cứu trong cảnh lầm than thì nơi đó Bồ Tát thị hiện để cứu khổ. Lòng từ
bi được thể hiện qua sự cứu độ của Bồ Tát Quán Thế Âm. Hay như Tôn giả Phú
Lâu Na bạch Phật, xin đi đến nước Du Lô Na ở phương Tây để hóa độ. Nghe vậy,
Ðức Phật bảo :
“Này Phú Lâu Na, dân xứ Du Lô Na họ hung dữ, khi thấy con đến nước họ,
họ sẽ dùng lời chửi mắng con. - Bạch Ðức Thế Tôn, như vậy dân xứ Du Lô Na
hãy còn hiền thiện, mà họ chưa lấy sỏi đá quăng ném con. - Nếu họ lấy ngói
sỏi quăng ném con thì sao ? - Bạch Ðức Thế Tôn, họ hãy còn hiền thiện, vì họ
chưa lấy cây gậy đánh đập con. - Nếu như họ lấy cây gậy đánh đập con thì sao
? - Bạch Ðức Thế Tôn, họ hãy còn hiền thiện, vì họ chưa lấy giáo mác đâm
chém con. - Nếu họ lấy giáo mác đâm chém con thì sao ? - Bạch Ðức Thế Tôn,
con sẽ cám ơn họ, vì nhờ họ mà con kết thúc cái thân già cả ốm yếu, nhiều sự
khổ đau bất tịnh này.”
Tinh thần đạo Phật phục vụ cho con người là như thế đó, không như nhận
định của Giáo Chỉ Số 9, chối bỏ trách nhiệm dấn thân hy sinh, mà chỉ có ích
kỷ cho riêng mình như Nhận định thứ 5 (gạch - thứ 5) của Giáo Chỉ Số
9 : “Nhận định rằng sự phát triển bền vững của nhân loại ngày nay là cuộc
phát triển tổng hợp và đồng bộ trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị,
văn hóa, giáo dục, môi sinh; đạo Phật chỉ có thể phục vụ hữu hiệu con người
trong một xã hội tự do, tôn trọng nhân quyền và dân chủ. Nhận định này làm
nền tảng cho yêu sách phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo hội Phật
giáo Việt Nam Thống nhất tại Việt Nam.”
Pháp lý của GH, như Hòa thượng Huyền Quang nói : “Pháp lý của Giáo Hội
là bề dày 2000 năm lịch sử, tài sản của Giáo Hội là từ cao nguyên đến hải
đảo, từ thành thị đến nông thôn, nhân lực của Giáo Hội là từ Cụ già đến em
bé.” Thế mà Giáo Chỉ lại nhận định : “đạo Phật chỉ có thể phục vụ hữu
hiệu con người trong một xã hội tự do, tôn trọng nhân quyền và dân chủ. Nhận
định này làm nền tảng cho yêu sách phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý của Giáo
hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất tại Việt Nam.” Người viết Giáo Chỉ
thiếu hiểu biết về pháp lý của PGVN đã có một dòng lịch sử hơn 2000 năm qua.
Viết như vậy chẳng khác nào một người đã thọ 2000 tuổi, bỗng nhiên nổi hứng
đi xin giấy tờ làm Khai Sinh, và tự hỏi mình sinh khi nào ?
Thật tội nghiệp cho một kiến thức nông cạn, thiển cận. Thật tội nghiệp
cho cái giá trị của Giáo Chỉ bị người đời mượn danh Ðức Tăng Thống ngụy tạo,
bày trò làm ô danh Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất, ô danh Phật giáo Việt Nam,
gieo tiếng ác cho nhị vị Hòa thượng.
Ðây là một việc làm đầy ác tâm, tàn độc, đã “tiếm danh”, bán đứng
quý Ngài một cách mê muội, để thỏa mãn những sân hận cá nhân mà không nghĩ
đến những hậu quả tác hại đến mọi sinh hoạt của Giáo Hội Thống Nhất nói
riêng và Phật Giáo Việt Nam nói chung.
Lịch sử và người đời sau chỉ căn cứ trên chữ ký của quý Ngài trong Giáo
Chỉ Số 9 mà luận công hay tội chứ có biết đâu kẻ “tiếm danh” Ðức Tăng
Thống là tác giả những bản văn đó. Ðúng là “Bán trời không mời thiên lôi”
như người xưa thường nói.
Bổn phận của mọi người con Phật là phải làm sáng tỏ những việc làm khuất
lấp của những kẻ ném đá dấu tay để khỏi lem luốc đến quý Ngài, lem luốc đến
Giáo Hội cũng như lịch sử Phật giáo Việt Nam.
8.- Dẫn Chứng Thứ Tám : Hoang tưởng, mộng tưởng hay loạn tưởng
?
Ðọc đến nhận định thứ 6 (gạch - thứ 6), người đọc tối tăm
mặt mày, có cảm giác là GHTN sắp chết đến nơi. Trong lúc tâm tư hoảng loạn,
người viết Giáo Chỉ Số 9 đã cố tình khích động, cố tình tạo nên hoàn cảnh bi
đát cho GH để gây xúc động, căm phẫn cho người đọc, với thâm ý xách động
quần chúng trút tất cả những căm phẫn này cho chư Tăng hải ngoại (các
thành viên GHTN đã bị “về vườn” bởi Giáo Chỉ Số 9) : “Trong lúc Giáo Hội
quê nhà đang gặp hoạn nạn mà ở hải ngoại lại “chệch hướng”.
Nhớ lại khi xưa, các năm 77, 78, 80, 85., chư Tôn Hòa thượng – HT Thiện
Minh bị tù tội, Ngài đoán trước sự việc sẽ xẩy ra nên bình thản chuẩn bị sẵn
“hành trang đi tù” với một cái túi, trong ấy chỉ có một bộ áo quần, một
quyển kinh, một ít vật dụng cá nhân, để sẵn sàng vào tù bất cứ lúc nào. Ngài
đã không nao núng run sợ, mất tinh thần như nhận định trên của Giáo Chỉ Số
9. Ngài bình bĩnh trước mọi áp bức của nhà cầm quyền CSVN, cho dẫu bị đánh
đập đến tử vong. Đó chính là tâm kim cương, tâm định tĩnh, tâm thanh tịnh
của những bậc chân tu thật đức. Hòa thượng Huyền Quang vào thời ấy thì sao ?
Thời gian mà sinh mệnh của quý HT, của GH như chỉ mành treo chuông, như ngọn
đèn trước gió, có thể đứt và tắt bất cứ khi nào, nhưng Hòa thượng đâu có
hoảng hốt bấn loạn khi viết một văn kiện nào của Giáo Hội giống như Giáo Chỉ
Số 9 mang tên Ngài. Hòa thượng điềm tĩnh, nhận định kỹ lưỡng những sự việc
xảy ra với lời lẽ đôn hậu, nhu mì, khi nói chuyện với bất cứ ai, dù người đó
là kẻ có ý muốn tước bỏ sự sống của Ngài, HT cũng vẫn không nao núng. Đó
chính là sự khác biệt giữa tâm của người tu hành chân thật và tâm của kẻ
phàm tục trí trá, u mê.
Chúng ta hãy cùng đọc một văn kiện, đề ngày 17/3/1977 gởi cho Phạm Văn
Ðồng, Thủ tướng nhà nước CHXHCNVN, của Hòa thượng Huyền Quang, khi ấy Ngài
là Phó Viện trưởng Viện Hóa Ðạo :
-. “Thưa Thủ tướng, từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng,
đã xảy ra nhiều vụ vi phạm chánh sách tôn trọng tự do tín ngưỡng của chính
phủ do các cấp cơ sở gây nên đối với Phật giáo tại miền Nam.
Giáo Hội chúng tôi đã phản ảnh tất cả những sự kiện này lên Ủy ban
Quân Quản Sài Gòn Gia Ðịnh, Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam
trước đây và Ủy ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh hiện nay xin can thiệp để
ngăn chặn những trường hợp như vậy. Nhưng tình trạng không những không cải
thiện mà còn có chiều hướng phát triển thêm.
Bởi thế, hôm nay, Giáo Hội chúng tôi kính gởi đến Thủ tướng và Ban
Thanh Tra Trung Ương tập tài liệu ghi những sự kiện xảy ra từ gần hai năm
qua đối với Phật giáo để Thủ tướng có biện pháp thích nghi đối với các cấp
chính quyền cơ sở để những việc tương tự đừng tái diễn trong tương lai, hầu
tạo niềm tin của tín đồ Phật giáo đối với các chính sách của chính phủ và
giữ vững tình đoàn kết dân tộc.” (Phật Giáo Việt Nam - Biến Cố và Tư Liệu,
1975-1995 - tr. 101)
Hoặc, Thông Bạch HT Huyền Quang gởi đến các thành viên của Giáo Hội :
-. “Kính thưa quý Liệt vị, đạo Phật đã cùng với dân tộc Việt
Nam xây dựng đất nước, phụng sự quê hương hơn hai ngàn năm lịch sử.
Trong suốt thời gian ấy, đạo Phật đã hưng vong trong sự hưng vong của
quốc gia dân tộc, đạo Phật đã cùng vinh nhục trong những bước ngoặc thăng
trầm của lịch sử dân tộc Việt Nam. Đạo Phật Việt Nam đã được nuôi dưỡng bằng
những chất liệu thuần phác và quật cường của dân tộc Việt Nam, và dân tộc
Việt Nam cũng đã được nuôi dưỡng bằng những chất liệu Từ Bi và Trí Tuệ của
đạo Phật Việt Nam.
Và trên thực tế, lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh rằng khi nào
quốc gia hưng thịnh thì Ðạo pháp vinh quang, chùa chiền là trung tâm tu tập,
thực nghiệm sâu xa về đời sống tâm linh, nơi duy trì huấn luyện và vạch
hướng đạo đức cho nhân quần xã hội, nơi trung tâm văn hóa gạn lọc những tư
tưởng đồi trụy, ngoại lai, phi nhân bản, thẩm định lại giá trị và ý nghĩa
cuộc sống, dẫn đạo cho mọi sinh hoạt và sáng tác của nhân sinh, hướng đến
tinh thần vị tha vô ngã, và chùa là nơi trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng thuần
khiết của dân tộc Việt Nam…
Hơn mười bảy năm qua, chính quyền nhìn nền tín ngưỡng của dân tộc ta
theo chuẩn mực phiến diện, nên đã có những chính sách bao cấp tôn giáo,
không phù hợp với nguyện vọng của quảng đại quần chúng Việt Nam. Quý vị lãnh
đạo chính quyền muốn biến tổ chức tôn giáo thành những công cụ tuyên truyền
cho chính trị…
Và mười bảy năm qua, những Tăng Ni Phật tử Việt Nam sống lưu lạc nơi
xứ người đã biết quy tụ lại với nhau, un đúc ý chí, nuôi dưỡng tình cảm
hướng về quê hương phục vụ Ðạo Pháp và Dân Tộc.
Tăng Ni Phật tử Việt Nam đã từng hy sinh xương máu, hiện đang và sẽ
tiếp tục, quyết không để những nhát rìu thời đại bửa nát lên truyền thống
cao đẹp của Phật Giáo và Dân Tộc Việt Nam mà Lịch Ðại Tổ Sư, các vị Phật tử
anh hùng tiền bối, chư anh linh Thánh Tử Ðạo đã dày công xây dựng.” (sđd, tr
133)
Ngay sau biến cố 75, người dân miền Nam thấy rõ bản chất của chế độ Cộng
sản Việt Nam tàn ác, dã man, chà đạp và phá đổ tất cả những gì thuộc đời
sống tâm linh, của gia tài Tổ tiên, nòi giống, của tự do, dân chủ nhân
quyền, của tánh mạng cao quý của con người. Thời điểm đó là thời điểm cao độ
đàn áp dã man, hủy hoại chùa chiền, giật sập các tượng đài chư Phật, chư Bồ
Tát, cưỡng đoạt các cơ sở chùa chiền, văn hóa, từ thiện xã hội, hủy hoại
kinh sách của Giáo Hội, kho tàng sách vở văn hóa miền Nam, bách hại người
dân và các tu sĩ. Thế nhưng, Hòa thượng Huyền Quang với tâm lượng của một vị
chân tu, khi ban hành các Thông Tư, Tuyên Cáo… Ngài đâu hề sử dụng những lời
lẽ hung hãn, thô lậu với những người đã có những hành động tàn độc, áp bức,
và bắn giết mình đâu ? Trong khi đó giá trị cao quý từ một Giáo Chỉ của Viện
Tăng Thống là cơ quan lãnh đạo tối cao của Tăng già là vị đứng đầu của một
cộng đồng Tăng mà ban hành Giáo Chỉ lại có lời lẽ thiếu thận trọng, khi dễ,
xem thường miệt thị chư Tăng : “Vì nhiều lý do nội tại hay khách quan, vô
tình hay cố ý, một số chư Tăng, Phật tử rời bỏ con đường cao rộng của Chánh
pháp, đem thân phục vụ thế quyền làm biến tướng Bát chánh đạo và làm nghiêng
ngửa Giáo hội ;”
Kính mời toàn thể quý Phật tử trên thế giới cùng đọc một đoạn của nhận
định thứ 6 (gạch - thứ 6) để xem có phải là văn phong của Hòa thượng
Tăng Thống Thích Huyền Quang hay không ? : “Chiến dịch đàn áp, vu cáo và
khủng bố tinh thần hiện nay đối với GHPGVNTN báo hiệu một cuộc bắt bớ, đàn
áp nước lũ có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, bó buộc Giáo hội phải có biện pháp
tự vệ cùng tiên liệu đối phó với tình hình ;”
Quả là lời lẽ của một người làm chính trị thiếu bản lãnh, dễ dàng mất
bình tĩnh theo trí tưởng tượng của mình. Còn nếu có thật thì mới có “vu
cáo và khủng bố tinh thần” và chỉ mới “báo hiệu một cuộc bắt bớ”
và “có thể xảy ra bất cứ lúc nào”. Tất cả đều là giả thuyết chưa xảy
ra sự thật. Vì mới có “khủng bố tinh thần” mà đã hoảng hốt, mới có
“báo hiệu” và “có thể xảy ra” mà đã lanh chân phóng chạy trước.
Ðây có phải là tâm tư suy nghĩ và bản lãnh thống suất Tăng chúng của Ðức
Tăng Thống Thích Huyền Quang ?
Là bậc trượng phu xuất trần vi thượng sỹ, xem cái chết nhẹ tợ lông hồng,
xem sự thành bại của thế gian như mây tan hợp. Bao lần Ngài đã trải qua
những thăng trầm, áp bức của thế gian nhưng vẫn bình tâm, định tĩnh, nhất
tâm đòi hỏi cho bằng được sự tự do dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo và sự
phục hoạt GHTN một cách kiên định, vững chắc, sáng suốt và can đảm, không hề
nhút nhát, lo sợ, để đánh mất lòng tự tin mà gây hoang mang rối loạn. Vững
chãi lèo lái con thuyền GH qua bao sóng gió, có đâu mà hốt hoảng, bấn loạn
như ai kia đã hấp tấp, vội vã đánh phèng la : “bó buộc Giáo Hội phải có
biện pháp tự vệ cùng tiên liệu đối phó với tình hình”.
Ðây là một việc làm đầy ác ý thâm độc! đã tiếm danh Ðức Tăng Thống lại
còn tung hỏa mù gây khủng hoảng cho mọi giới. Ðầu óc tưởng tượng phong phú
của người viết Giáo Chỉ Số 9 làm mọi người liên tưởng đến “Trận hỏa công
trên sông Xích Bích” của truyện Tàu, Tam Quốc Chí. Thật là tội nghiệp ! Ai
“tiếm danh” của Ðức Tăng Thống? và ai đã tạo ra cảnh “ly khai” của
các GHTN hải ngoại hôm nay ? Từ dẫn chứng này, thì mọi người đã thấy rõ Giáo
Chỉ Số 9 không phải do Ðức Tăng Thống Thích Huyền Quang viết và ban hành ?
Như đã nói ở trên : “Người viết Giáo Chỉ mượn danh và “tiếm danh” Ðức
Tăng Thống, bày trò khủng bố tinh thần người dân để làm ô danh Giáo Hội và
gieo tiếng ác cho nhị vị Hòa thượng. Cố tình khích động, gây căm phẫn cho
người đọc, với thâm ý xách động quần chúng trút tất cả những căm phẫn này
cho chư Tăng hải ngoại (các thành viên GHTN đã bị “về vườn” bởi Giáo Chỉ Số
9) : “Trong lúc Giáo Hội quê nhà đang gặp hoạn nạn mà ở hải ngoại lại “chệch
hướng”.
9.- Dẫn Chứng Thứ Chín : Sự vu khống, chụp mũ của một người thiếu
lương tâm, đạo đức ?
Qua nhận định thứ 7 (gạch - thứ bảy) người đọc sẽ nhìn thấy
cái tâm bất chánh với lời lẽ vu khống, chụp mũ đến Chư Tăng, Phật tử :
“…một số phần tử cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại…” “phần tử
cơ hội trong cộng đồng Phật giáo hải ngoại” là ai sao trong Giáo Chỉ không
nêu rõ để tìm cách “tiên liệu” mà “đối phó” tránh bị “gây
phân hóa, tạo ly gián” cũng như “biến tướng chủ trương” và “âm
mưu dập tắt tiếng nói của Giáo hội trên địa bàn quốc tế.” ?
Rõ ràng là chính những điều nhận định mộng tưởng và mơ hồ này đã tạo nên
sự nghi ngờ, “phân hóa, ly gián” cho người khác. Ðây là âm mưu của người
viết Giáo Chỉ Số 9. Nếu ai không tinh tế nhận định để thấy, thì dễ dàng bị
sập bẫy, hùa theo ác ý của người viết mà đập chết người khác. Ðây không phải
là ngôn ngữ và tâm lượng của Ðức Tăng Thống.
Chưa hết, từ 7 nhận định đưa đến đề xuất 9 dẫn chứng, mọi người đã thấy
một cách quá rõ ràng, những điều phi lý, trái với sự thật; với chủ trương
phá hòa hợp Tăng già, nhằm đưa đến tình trạng phân hóa và tiêu vong GH. Xin
được nhắc lại một lần nữa, phi lý ở chỗ là : “Triệu tập cuộc họp khẩn
22.8.2007 để nghe báo cáo Phật sự “đã thực hiện” của ngày 23.8.07 (sau ngày
họp một ngày) đi cứu trợ vật chất cho dân oan và ngày 28.8.07(sau ngày họp
khẩn sáu ngày), Ban Chỉ đạo Viện Hóa Đạo, từ Viện trưởng, Phó Viện
trưởng đến đa số các Tổng vụ trưởng bị các Ủy ban Nhân dân Phường mời đi làm
việc…”. Con số, ngày giờ của Giáo Chỉ như vậy - loạn tưởng - thì làm
sao tinh thần có đủ sáng suốt mà “tìm biện pháp khai thông” ? Con số ngày
giờ viết còn không đúng, làm sao có thể “tiên liệu”, làm sao có thể “đối
phó” với ai ? Những mâu thuẫn ngày tháng của Giáo Chỉ Số 9 đã tự nó tiêu hủy
chính nó, tự nó đưa lên giàn lửa đốt cháy bởi chính nó.
Ðể kết luận 7 nhận định được gọi là “cơ bản” hay hoang đường, giả tưởng?
Vì bấn loạn, mộng tưởng mà người viết một câu văn 2 vế mà chỉ có một ý :
“Phát xuất từ 7 nhận định cơ bản trên, và trước tình hình cấp cứu hiện tại…”
vì có tình hình cấp cứu hiện tại mà có 7 nhận định cơ bản. Vậy 7 nhận định
cơ bản và tình hình cấp cứu hiện tại chỉ là một mà không phải là hai vấn đề,
vì thế không thể có chữ “và” và “dấu phẩy”. Ví dụ : tôi và anh, núi non và
biển cả. Ðó là trí tuệ của người viết Giáo Chỉ, hay là một âm mưu thao túng,
hủy diệt ? Ðể thấy rõ hơn sự thao túng đó “tìm biện pháp khai thông” “Hội
Ðồng Lưỡng Viện đã triệu tập cuộc họp khẩn hôm 22.8.07 để nghe báo cáo Phật
sự Giáo Hội trong và ngoài nước.” Ở trong nước ai là người tham dự cuộc họp
khẩn ngày 22-8-2007 để nghe báo cáo Phật sự. Chắc một mình Hòa thượng Quảng
Ðộ, có lẽ có thêm nữa chắc thầy Không Tánh. Và ai là người báo cáo Phật sự ?
Trong nước là thầy Thiện Hạnh, chánh Thư Ký Viện Tăng Thống, viết phúc trình
gian dối, đầy ác ý để trình đến Viện Hóa Ðạo thẩm tường. Ngoài nước ai là
người viết bản báo cáo Phật sự về các Giáo Hội Thống Nhất hải ngoại ? Vì sự
báo cáo của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế này mà Giáo Chỉ Số 9 ra đời,
để gạt bỏ chư Tôn Ðức Tăng không thuận theo kẻ “tiếm danh”. Sở dĩ nói
như vậy là vì các thành viên Viện Hóa Ðạo cũ, hay nhân sự của Hội Ðồng Ðiều
Hành GHPGVNTNHN tại Hoa Kỳ, phần lớn hoàn toàn không hay biết gì về cuộc họp
khẩn ngày 22-8-2007 của Hội Ðồng Lưỡng Viện trong nước, cũng như chẳng ai
hay biết gì về những bản báo cáo Phật sự ở ngoài nước. Ðiều này chứng tỏ,
chỉ có một số nhỏ thành viên của Giáo Hội tự tung tự tác, thao túng Giáo Hội
cả trong lẫn ngoài nước.
Và cuối cùng 3 câu kết của 7 nhận định : “Tiếp thu các đề xuất thù ứng
với tình hình của Giáo hội trong giai đoạn mới, nay ban hành Giáo chỉ thành
lập Văn phòng II Viện Hóa Đạo để truyền đạt chủ trương, đường lối và hoạt
động của Giáo hội tại hải ngoại và trên trường quốc tế, mặt khác nối tiếp
nhiệm vụ và hoạt động của Giáo hội gặp khi Viện Hóa Đạo trong nước lâm tình
cảnh khó khăn.”
Các nhận định trên nghe qua có vẻ dữ dằn, hung hãn, GHTN sắp hấp hối “mời
đi làm việc”, “một cuộc bắt bớ”, “đàn áp nước lũ”, “biện pháp tự vệ”, “tiên
liệu đối phó”, “phần tử cơ hội”, “gây phân hóa”, “tạo ly gián”, “biến tướng
chủ trương”, “âm mưu dập tắt tiếng nói…” toàn là những danh từ “đao to búa
lớn” tạo cho người đọc có cảm giác như người bị dây thòng lọng thắt cổ, ấy
thế mà đến câu kết thì “Khi Viện Hóa Ðạo trong nước lâm tình cảnh khó khăn”.
Thả lỏng một câu nhẹ nhàng buông xuôi. Chỉ “Tình cảnh khó khăn” ? Nếu chỉ là
để giải quyết sự khó khăn khi Viện Hóa Ðạo gặp phải thì có gì mà phải ra
Giáo Chỉ thành lập Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo. Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo đã
có, đã thành lập từ năm 1992 rồi, thì tại sao hôm nay, ngày 8 tháng 9 năm
2007 dương lịch lại ban hành Giáo Chỉ thành lập Văn Phòng II nữa ?
Vậy Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo đã được thành lập năm 1992, từ Ðại Hội
Thống Nhất Giáo Hội tại Hoa Kỳ thì sao ? Tại sao có việc làm chòng chéo lên
nhau ? Cái này chưa giải tán, chưa bãi nhiệm lại có cái thứ hai ra đời ?
Giáo Hội giải tán Văn Phòng II cũ để thành lập Văn Phòng II mới, có thông
báo họp bàn với các thành viên Văn Phòng II cũ không ? Chỉ một vài cá nhân
trong Văn Phòng II cũ khuynh loát, tự tung tự tác đã tự ý quyết định, sa
thải người này, công cử người kia theo ý hướng riêng tư. Trong khi đó, chư
Tăng của Văn Phòng II cũ bị sa thải, loại trừ mà hoàn toàn không hề hay biết
lý do bị sa thải, cũng như không hề được hỏi ý kiến. Ðây chính là những hành
động gian trá đầy ác tâm chưa từng có trong dòng lịch sử Phật Giáo Việt Nam,
giữa chư Tăng với chư Tăng. Ai là người chịu trách nhiệm về những bản văn
này? Phải chăng người ký tên ban hành Giáo Chỉ và Thông Bạch Hướng Dẫn…? Còn
những kẻ núp bóng, mạo danh, “tiếm danh” thì ung dung biến mất. Dầu
muốn dầu không, Hòa thượng Chủ tịch Thích Hộ Giác cũng liên đới chịu trách
nhiệm trước lịch sử về những sự kiện đã xảy ra cho Giáo Hội Thống Nhất Hải
Ngoại. Liệu Hòa thượng có biết những điều này chăng mà Ngài lại im lặng đồng
lõa với những kẻ gây rối cho GHTN hải ngoại ?
Bảy nhận định của Giáo Chỉ được trình bày qua 9 dẫn chứng để thấy
ai là tác giả, ai không là tác giả mà lại còn bị “tiếm danh”, lợi dụng, qua
mặt Ðức Tăng Thống. Tiếp đến là 8 điều tham chiếu, (điều này không
cần bàn) để đưa đến 8 điều Quyết Định.
Ðọc Quyết Ðịnh điều “1.1 Phát huy Phật giáo Việt Nam trên thế giới để
đóng góp phần mình cho nền hòa bình nhân loại, liên hữu với các tổ chức Phật
giáo năm châu củng cố cơ sở Phật giáo quốc tế, liên hữu huynh đệ và thông
cảm với các tôn giáo bạn, các tổ chức hòa bình, nhân đạo, văn hóa, xã hội
trên thế giới ;”
Người viết phác họa ra một cảnh trí nguy nga, tráng lệ, một khung trời lý
tưởng, mộng mơ cho người đọc cảm thấy hào hứng, rồi lăn ra ngất xỉu trước
khung trời lý tưởng ấy :
1.- Phát huy Phật giáo Việt Nam trên thế giới để đóng góp phần
mình cho nền hòa bình nhân loại.
2.- Liên hữu với các tổ chức Phật giáo năm châu củng cố cơ sở Phật
giáo quốc tế.
3.- Liên hữu huynh đệ và thông cảm với các tôn giáo bạn, các tổ
chức hòa bình, nhân đạo, văn hóa, xã hội trên thế giới.
Qua 3 mục tiêu của điều 1.1, mọi người đều thấy, “Phát huy Phật giáo Việt
Nam trên thế giới” thì chưa tỏ mà đã thấy sự đổ vỡ, ly tan của các GHTN hải
ngoại, kể từ ngày Giáo Chỉ Số 9 được ban hành từ Phòng Thông Tin Phật Giáo
Quốc Tế. Và “đóng góp phần mình cho nền hòa bình nhân loại.” Trong nội bộ
GHTN đã có “hòa bình” chưa mà đòi “hòa bình nhân loại” ? Khổng Tử nói muốn
bình thiên hạ thì trước phải : “Thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ”. Các cận sự viên của Hòa thượng Viện trưởng Thích
Quảng Ðộ đã có thành ý, chánh tâm chưa ? Hay là chỉ có tà tâm, ác ý tiêu
diệt những ai không đồng lòng theo ác ý và tà tâm của mình qua những bài
viết : “Từ Thân Hữu Già Lam đến Thân Hữu Già Hồ… của Thích Chánh Hạnh –
Canada. Tôn Giáo Hòa Hợp XHCNVN… của Taiwan, 2007 – Thích Tánh Hải.
Tu Hành Thuần Túy XHCH Hay Bức Tử Ôn Già Lam… của Thích Tỉnh Thức – Germany,
2007.” Và còn nhiều những bài viết giả danh khác nữa, để chửi bới, vu
khống, mạ lỵ, chụp mũ CS… việc làm như vậy, lời nói như vậy thì có “Phát huy
Phật giáo Việt Nam trên thế giới để đóng góp phần mình cho nền hòa bình nhân
loại…” ? Hay ác ý tạo chiến tranh nội bộ GHTN? Gây cảnh phân ly, tan nát
giữa chư Tăng và Phật tử ? Ðể thấy cảnh nồi da xáo thịt, huynh đệ tương tàn
? Hòa bình ở đâu kể từ ngày Giáo Chỉ Số 9 ra đời ? Chỉ thấy có chiến tranh
bằng miệng lưỡi, bằng chữ nghĩa hạ đẳng không thôi.
Qua phần 2 của điều 1.1 “Liên hữu với các tổ chức Phật giáo năm châu
củng cố cơ sở Phật giáo quốc tế.” Phật giáo năm châu là Phật giáo nào ?
Phải chăng là các tổ chức Phật giáo Miến Ðiện, Tây Tạng, Ðài Loan, Nhật Bản…
Hay là GHTN của các Châu lục ? Nếu là của các quốc gia Phật giáo trên thế
giới thì quả là một tham vọng viễn tưởng mông lung, không có thực khi nhìn
lại khả năng của mình chỉ như hạt bụi. Còn nếu là của GHTN, của Tăng Ni,
Phật tử Việt Nam hải ngoại thì đó là điều trí trá, lừa bịp Phật tử. Vì rằng,
hiện nay, các cận sự viên của Hòa thượng Quảng Ðộ đang thao túng, lộng
quyền, xua đuổi chư Tăng Ni, Phật tử thành viên của Giáo Hội, thì chuyện
“liên hữu” ở đâu mà có ? Thực tế cho thấy các Giáo Hội Hoa Kỳ, Canada, Úc
Ðại Lợi và Tân Tây Lan … do Giáo Chỉ Số 9 và Thông Bạch Hướng Dẫn… làm cho
tan nát như tương. Tội lỗi này ai là người gánh chịu ? Còn việc “củng cố cơ
sở Phật giáo quốc tế” là cơ sở nào ? Cơ sở Quê Mẹ hay Phòng Thông Tin Phật
giáo Quốc Tế, do ông Ái làm Giám Ðốc ? Nếu là của Quê Mẹ và Phòng Thông Tin
Phật Giáo Quốc Tế thì đây là một tham vọng đã hiển lộ. Lợi dụng công sức của
chư Tăng Ni Phật tử “phát huy Phật tử Việt Nam trên thế giới” để “củng cố cơ
sở Phật giáo trên thế giới” của ông Võ Văn Ái. Ðiều này đã thấy rõ trong
những năm qua, không một Ðại Hội Thường Niên nào, mà Hòa thượng Hộ Giác
không kêu gọi các thành viên GH tiếp tay đóng góp tiền bạc hàng tháng, hàng
năm cho Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế. Còn nếu “cơ sở Phật giáo quốc tế”
là các quốc gia Phật giáo bạn trên thế giới như đã nói ở trên thì thật là
đại ngôn, vì Giáo Hội Thống Nhất ngân quỹ được bao lăm mà đòi “liên hữu” để
“củng cố cơ sở Phật giáo quốc tế” bạn ? Ðến hôm nay, trải qua hai lần dâu
biển, “Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo cũ và mới” vẫn còn phải mượn chùa
Diệu Pháp để đặt Văn Phòng. Đúng là ngoa ngữ hão huyền, lừa mị người nhẹ dạ.
Trong phần 3 của điều 1.1 viết : “Liên hữu huynh đệ”, đọc 4 chữ này thấy
có tình có nghĩa làm sao “chị ngã em nâng” ? hay là vác dao chặt tỉa hết
cành nhánh của cây đại thọ GHTN hải ngoại, giờ chỉ còn một thân trơ trụi ?
như lời của HT Tâm Châu nói trong “Tâm Thư Ðạo Tình, Văn Thư số
1413/VP/TT ” viết từ Tổ Ðình Từ Quang, ngày 15 htáng 02 năm 2008: “Mấy tháng
trước đây, nhân danh chống cộng, tự bản thân Phật giáo bị vô minh che lấp,
bị ma chướng điều khiển, gây ra biến động, khiến cho danh dự Phật giáo bị
thương tổn nặng nề, Phật sự bị ngưng trệ ghê gớm và sự chua xót giáng tới
các chùa, các Giáo Hội, chư vị Tăng, Ni, chân thành tận tâm phục vụ cho Giáo
Hội, một cách không tưởng tượng ! Biến động ấy đáng vui hay đáng buồn ! Tỷ
dụ, biến động ấy là sách lược đúng, cần làm, nhìn lại sau, chỉ còn đống gạch
vụn, những con người tứ chi bị mất, liệu có vui và có thành công được không
? Ai chịu trách nhiệm ? ” Vậy theo Giáo Chỉ có “liên hữu” hay đã cắt hết
chân tay của Giáo Hội Thống Nhất ? Hãy xem những tấm hình chụp trong ngày
Ðại Hội Bất Thường ở chùa Bửu Môn, Port Arthur, Texas vừa qua, trên bàn
Chứng Minh chỉ thấy Hòa thượng Hộ Giác và Chánh Lạc ngồi tiu nghỉu, chơ vơ,
lạc lõng. Nhìn những tấm hình này, người ta tưởng như hai vị Hòa thượng là
kẻ đồng hội, đồng thuyền, đồng chí hướng nên sẽ sống chết có nhau. Nhưng có
ngờ đâu, những kẻ đồng chí hướng, quay đi đâm sau lưng Hòa thượng Hộ Giác
một nhát dao chí tử, qua bài viết trong quyển “Sự Thật” của tác giả Lê Hữu
Dản, HT Chánh Lạc nói : “Bác muốn đăng tài liệu của tôi lên Sự Thật, sẵn
dịp mời Bác lên đây – chùa Như lai Colorado, tôi sẽ đưa hết những tài liệu
của HT Hộ Giác mà đăng luôn cho tá hỏa tam tinh.” Ðó là tình nghĩa của
những người đồng hội, đồng thuyền, đồng chí hướng !!! cần phải “liên hữu
huynh đệ” và “thông cảm với các tôn giáo bạn”. Các tôn giáo bạn làm gì mà
phải thông cảm ? Anh em trong nhà, các thành viên trong Giáo Hội Thống Nhất,
đã thông cảm chưa mà đi thông cảm các tôn giáo bạn ? Rồi lại còn “các tổ
chức hòa bình, nhân đạo, văn hóa, xã hội trên thế giới” nữa. Ðây chỉ là cách
nói khoa trương để chiêu dụ, mà mắt người đọc, người nghe để che dấu những
hậu ý tà tâm dấu bên trong ngôn từ chữ nghĩa của bản văn Giáo Chỉ.
Ðiều 1.2 viết : “Liên hệ giúp đỡ và điều hướng các cơ sở Giáo hội,
các tổ chức Phật giáo Việt Nam và các tổ chức, đoàn thể người Việt tại các
châu lục trong công tác Phật sự, hoằng dương chánh pháp và văn hóa”
Trong điều 1.1 của Giáo Chỉ, dùng chữ “liên hữu” như đã trình bày ở trên,
mục này lại dùng chữ “liên hệ giúp đỡ”. Có thật sự “liên hệ giúp đỡ” không ?
Xin người viết Giáo Chỉ hãy ngay thật, đừng gian dối, có thì nói có, không
thì nói không, chứ đừng bày trò trá ngụy.
Ðể chứng minh sự thiết lập Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo tại hải ngoại nhằm 3
mục tiêu như trong Giáo Chỉ Số 9 đưa ra có được thực thi, thể hiện “liên hệ
giúp đỡ và điều hướng các cơ sở Giáo hội, các tổ chức Phật giáo Việt Nam”
không ? Các chùa, Tự viện, Tu viện… tại Úc Ðại Lợi và Tân Tây Lan được xây
dựng từ những ngày đầu, từ khi cộng đồng Phật giáo Việt Nam có mặt cho đến
nay, bao nhiêu công trình mồ hôi, nước mắt, bao nhiêu công sức tiền bạc, bao
nhiêu tấm lòng hộ đạo của quý Phật tử, và công cuộc hoằng pháp lợi sanh nơi
đây, Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo đã có lời nào thăm hỏi, đã có cử chỉ ân cần,
thân thiết nào chưa ? chứ đừng nói gì đến “liên hệ giúp đỡ”, “điều hướng các
cơ sở Giáo hội, các tổ chức Phật giáo Việt Nam”
Nhớ lại ngày nào, chùa Pháp Hoa của Hòa thượng Như Huệ, bị đập phá tơi
bời, hư hao tổn thất, HT Như Huệ viết Tâm Thư kêu gọi, Văn Phòng II có chi
ngân khoản nào để “liên hệ giúp đỡ” không ?
Chùa Thiện Minh tại Lyon, Pháp quốc bị cháy, Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo có
trích cho ngân khoản nào để “liên hệ giúp đỡ” điều hướng xây dựng lại không
?
Hay Như Lai Thiền Tự ở San Diego, Cali, Hoa Kỳ bị cháy, Văn Phòng II Viện
Hóa Ðạo, có “liên hệ giúp đỡ và điều hướng” xuất quỹ phát tâm cúng dường để
HT Minh Hồi sửa sang lại Như Lai Thiền Tự không ?
Ðó là những thí dụ tiêu biểu về một số những ngôi chùa gặp hoạn nạn, còn
tất cả mọi công trình xây dựng tự viện nơi hải ngoại là do chính quý Thầy,
quý Phật tử địa phương phát tâm xây dựng và cúng dường, có những nơi quý
Thầy, quý Phật tử phải thức khuya dậy sớm miệt mài tự lực làm tương chao,
đậu hũ… để duy trì sinh hoạt, xây dựng ngôi Tam Bảo. Có những tấm lòng thành
của chư vị thiện nam tín nữ lớn tuổi, đã đóng góp những giọt mồ hôi, công
sức, nhịn ăn, nhịn tiêu… cúng dường xây dựng ngôi Tam Bảo, ngôi nhà tâm linh
của chính họ. Thực tế hiển bày như thế đó !
Các ngôi tự viện ở Úc Ðại Lợi và Tân Tây Lan như Tu viện Vạn Hạnh của TT
Quảng Ba, chùa Pháp Bảo của HT Bảo Lạc, chùa Pháp Hoa của HT Như Huệ, chùa
Trúc Lâm của TT Tâm Minh, chùa Bảo Vương của HT Huyền Tôn, chùa Phổ Quang
của TT Phước Nhơn, chùa Giác Nhiên của TT Trường Sanh… Văn Phòng II Viện Hóa
Ðạo có “liên hệ giúp đỡ và điều hướng các cơ sở Giáo hội” này không ? hay
mọi việc lớn nhỏ đều do Tăng Ni Phật tử tự “liên hệ giúp đỡ và điều hướng” ?
Tất cả Phật tử Úc Ðại Lợi và Tân Tây Lan bao năm qua chưa hề thấy mặt mũi
Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo nào đến đây để “liên hệ giúp đỡ và điều hướng”.
Vậy thì người viết Giáo Chỉ đừng lộng ngôn, “tiếm danh” quý Ngài.
Mục tiêu 1.3 viết : “Mở rộng và thúc đẩy tích cực công tác vận động
quốc tế nhằm hậu thuẫn công cuộc phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý …” Nói
vậy chẳng khác nào suốt từ ngày thành lập GHTN Hoa Kỳ, Văn Phòng II Viện Hóa
Ðạo (cũ), năm 1992 đến nay, Văn Phòng II đóng khung, teo hẹp, đắp mền nằm
ngủ chứ chẳng hề “mở rộng và thúc đẩy tích cực công tác vận động quốc tế
nhằm hậu thuẫn công cuộc phục hồi quyền sinh hoạt pháp lý ” cho GHTN ?
Như vậy thì phải chăng kẻ “tiếm danh” đã tự mâu thuẫn với chính
mình, phủ nhận hết những vận ðộng quốc tế có sự ðóng góp công sức của quý
Ngài ? Hoặc : Kể từ ngày Hòa thượng Quảng Ðộ, Viện trưởng Viện Hóa Ðạo ban
hành Quyết Ðịnh mời : “Ðạo hữu Võ Văn Ái làm phát ngôn nhân của Viện Hóa
Ðạo” đến nay ông Ái đã làm được gì có hiệu quả cho GHTN Hoa Kỳ, HT Hộ
Giác mời ông Võ Văn Ái làm Tổng Vụ Trưởng Tổng Vụ Ngoại Vụ chỉ để cầm cờ
hiệu mà chạy rông sao ?
Hay ông Ái chỉ làm quân sư quạt mo vẽ đường cho rắn bò về cắn chết người
nhà của mình ? Bao nhiêu lần ông Ái, HT Chánh Lạc, HT Hộ Giác, TT Viên Lý
vận động với quốc hội Hoa Kỳ, vận động với các quốc gia, dâng kiến nghị đến
quốc hội Âu Châu, Thụy Ðiển, Thụy Sỹ … có đem lại tích sự gì cho Giáo Hội
Thống Nhất không ? Sự “tích cực công tác vận động quốc tế” của mười mấy năm
qua, quốc tế có đem lòng thương xót gì GHTN không ? Hay Giáo Hội Thống Nhất
vẫn bị khủng bố ? Nhị vị Hòa Thượng Huyền Quang, Quảng Ðộ vẫn còn bị bức
hại, vây hãm bởi cộng sản Việt Nam ?
Quý Ngài chưa được tự do. GHTN chưa được sinh hoạt bình thường, thì thử
hỏi việc làm của Phòng Thông Tin Phật Giáo Quốc Tế có tầm ảnh hưởng đến quốc
tế bao nhiêu ? và việc làm của Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo có thực lực không ?
Hay chỉ là cái tiếng, cái danh để bao nhiêu người chen vào mà tranh dành cái
ghế ? Nào là Phó Viện trưởng Viện Hóa Ðạo kiêm Tổng Vụ trưởng Tổng vụ Hoằng
Pháp kiêm Phó Chủ tịch Hội Ðồng Ðiều Hành.
Chức tước tràn ngập từ đầu tới chân. Ðược gì với những chức tước ấy ? để
hù dọa thiên hạ với cái lớp vỏ bọc Viện Hóa Ðạo chăng ? Chẳng khác nào con
chồn đội lốt da sư tử để làm oai với đàn cừu, chẳng may lớp da sư tử bị rớt
xuống, chồn vẫn hoàn chồn, đàn cừu đứng nhìn mà miệng mỉm cười nào có sợ gì
con chồn giả trá đó.
Thực tế, công tác vận động quốc tế chỉ là một phần trong tương quan sinh
hoạt giữa người với người, quốc tế không phải là cái mũi để thở giùm mình,
mà tự mình phải thở bằng cái mũi của chính mình, chứ không phải thở nhờ cái
mũi của quốc tế. Vì thế, “Công tác vận động quốc tế” chỉ là phương tiện,
không phải là cứu cánh giúp cho sự phục hoạt của Giáo Hội. Thực lực của Giáo
Hội là tánh đức trong sáng của Tăng già, sự hòa hợp đoàn kết của bốn chúng,
để tự tồn, tự tu, tự chứng mà chuyển hóa nghiệp duyên. Không phải việc gì
cũng bán cái cho quốc tế, để nhờ họ coi nhà giùm mình. Thật là chủ quan,
vọng ngoại .
Ðiều 2 : Không cần phải bàn nhiều, “truyền đạt chủ trương,
đường lối họat động của Giáo Hội trong nước…” không nhiều thì ít, chẳng
lẽ Giáo Hội hoàn toàn không truyền đạt được điều gì đến thế giới ?
Ðiều 3: “Văn phòng II Viện Hóa Đạo trực thuộc sự chỉ đạo và
điều hành của Viện trưởng Viện Hóa Đạo trong nước”. Ðây có phải chủ
trương của kẻ “tiếm danh” HT Quảng Ðộ ? HT Tăng Thống Thích Huyền
Quang ở ngoài Tu Viện Nguyên Thiều xa xôi, kẻ “tiếm danh” không thể
lung lạc được Ngài. Chỉ có HT Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo Thích Quảng Ðộ ở Sài
Gòn, Ngài đặt hết niềm tin vào các cận sự viên của Ngài, vì thế họ muốn tập
trung quyền lực vào một nơi để dễ dàng khuynh loát, độc tài.
GHTN có hai viện: Viện Hóa Ðạo và Viện Tăng Thống. Mỗi viện có một vị
lãnh đạo tối cao là Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo và Tăng Thống của Viện Tăng
Thống. Gọi vắn tắt là Hội Ðồng Lưỡng Viện, gồm nhiều thành viên từ Phó Viện
Trưởng cũng như Phó Tăng Thống trở xuống. Vậy tại sao chỉ có vị Viện Trưởng
Viện Hóa Ðạo được quyền “chỉ đạo” và “điều hành”, còn các nhân sự
trong Hội Ðồng Lưỡng Viện đó để làm gì ? Ngồi chơi xơi nước chăng ? Một là
kẻ “tiếm danh” muốn tập trung quyền lực, hai là không có kiến thức
hành chánh nên làm điều trái khoáy.
Giáo Hội Thống Nhất là của toàn thể Tăng Ni, Phật tử hay là của cá nhân
ai ? mà mọi sự chỉ có Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo mới có quyển chỉ đạo và điều
hành ? Một câu nói đầy hậu ý. Nếu Hội Ðồng Viện có đường hướng điều
hành, chỉ đạo tập thể thì chắc chắn kẻ “tiếm danh” và một số ít những
người khác không thể thao túng lộng quyền được. Vì độc quyền “chỉ đạo, điều
hành của Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo” nên kẻ “tiếm danh” và một số ít người đã
bao vây HT Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo, thực hiện mọi mưu đồ riêng tư để có
Giáo Chỉ Số 9 và Thông Bạch Hướng Dẫn… ra đời. Từ sự chủ mưu độc quyền “chỉ
đạo điều hành” đó đã đưa đến tình trạng “thỉnh tuyển và chỉ định”.
HT Viện Trưởng ở trong nước bị bao vây bởi hàng rào công an cả đêm lẫn
ngày, bị giam lỏng trên lầu của Thanh Minh Thiền Viện – theo Thông Cáo Báo
Chí của ông Ái đưa ra – thì làm sao biết ở hải ngoại có những Thầy nào và
Thầy đó ra sao mà “thỉnh tuyển” mà “chỉ định” ? Phải chăng do ai đó ở hải
ngoại làm thế công việc “thỉnh tuyển” và “chỉ định” cho Hòa Thượng Viện
Trưởng, tùy theo ý thích hoặc phe nhóm ? Không ưa ai thì sa thải, loại trừ.
Thực tế của những sự việc xảy ra cho Giáo Hội Thống Nhất hôm nay là như
vậy. Ðiều được chứng minh qua thành phần nhân sự của GHTN Úc Ðại Lợi và
Tân Tây Lan. Vì sao HT Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo lại ra quyết định chuẩn y
nhân sự mà loại bỏ TT Quảng Ba, TT Trường Sanh, TT Nhật Tân, TT Tâm Phương,
ÐÐ Nguyên Tạng, ÐÐ Phổ Huân …? Lý do gì ? Bằng chứng nào ?
Lẽ ra trên tinh thần hòa hợp thanh tịnh của bản thể Tăng già, Hòa
Thượng Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo phải dang tay ra ôm tất cả chúng Tăng vào
lòng để cùng lo việc Giáo Hội. Nếu ai có lỗi lầm thì khuyên bảo mà
sám hối, ai không có lỗi thì khuyến tấn, khích lệ để tiếp tục làm việc cho
Giáo Hội, Ðạo pháp mới đúng. Sự sa thải nhân sự của Giáo Hội không nêu lý
do. Không trưng dẫn chứng cứ. Ðây là việc làm của bàn tay thế tục gian xảo,
léo lận, chứ không phải Quyết Ðịnh của Hòa Thượng Quảng Ðộ, tâm lượng của
một vị cao Tăng, đạo cao đức trọng.
Chúng con, Phật tử Úc Ðại Lợi và Tân Tây Lan, kính xin quý Ngài hãy làm
sáng tỏ sự việc này, trực tiếp nói chuyện với Hòa Thượng Viện Trưởng Viện
Hóa Ðạo, để biết rõ sự thật. Ðừng để các phần tử xấu trong GH lợi dụng danh
nghĩa GH, lợi dụng danh nghĩa, “tiếm danh” HT Viện Trưởng, HT Tăng
Thống phá nát GH, phân ly Tăng già, chia rẽ Phật tử, làm lợi cho các thế lực
đỏ đen. Sức mạnh của GH không phải ở trong tay của một hai người mà là ở
trong Tăng đoàn, trong cộng đồng Phật tử, trong hai hàng đệ tử của Phật là
xuất gia và tại gia. Sức mạnh đó là tinh thần tu tập thật đức, được biểu
hiện tứ oai nghi, được thấm nhuần qua cung cách ứng xử với mọi người. Sức
mạnh đó trải dài suốt dòng lịch sử của Phật giáo Việt Nam hơn 2000 năm qua.
Sức mạnh đó có khả năng duy trì bền vững cho ngôi nhà Phật giáo Việt Nam.
Sức mạnh đó đã chứng minh cho sự tồn tại bất diệt của Phật Giáo Việt Nam đối
với các thế lực manh động, có tham vọng bá quyền, độc tôn, chủ nghĩa. Sức
mạnh đó biểu hiện tinh thần bất khuất, khí khái, quật cường qua tinh thần
giáo pháp : Ðại hùng, Ðại lực, Ðại từ bi của tứ chúng. Không ai có thể phá
vỡ tinh thần đó được. Nếu ai đó trong Giáo Hội Thống Nhất có tham vọng độc
tôn “chỉ định”, “thỉnh tuyển” thì hãy tức khắc dừng ngay lại, đừng đi quá xa
mà mang tội với đất nước, dân tộc, đạo Pháp. Ðây là bài học lịch sử, mà mọi
người phải học và phải thấy, đừng để rơi vào hầm lửa đốt cháy đời mình.
Điều 5 : “Văn phòng II Viện Hóa Đạo và các thành viên được thỉnh
cử hoạt động vô thời hạn.”
Ðọc đến điều 5, mọi người không khỏi nín cười với hai nhận xét :
1-. Lập ra Văn phòng làm việc thì phải có nhân sự hoạt động, nào
có phải văn phòng ma đâu mà viết “Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo và các thành
viên”. Trong lúc vội vã, bấn loạn sợ mọi người chống đối, “đảo chánh”
các thành viên này, nên kẻ “tiếm danh” phải chặn trước cho “các thành viên
dính chặt vào Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo bởi chữ “và”, nên bình tĩnh lại để
viết câu này cho hoàn chỉnh hơn.
2-. Cái hậu ý : Ðộc tài tham vọng của kẻ “tiếm danh”, làm
mọi người ngạc nhiên, một người đấu tranh đòi dân chủ, nhân quyền sao lại
lạc hậu, chậm tiến đến như thế nhỉ ? Ngay như nhiệm kỳ của Tổng Thống Hoa
Kỳ, và một số nước khác, những nước văn minh dân chủ hàng đầu thế giới, cũng
chỉ được tại chức tối đa có HAI nhiệm kỳ, thế mà thành viên của Văn Phòng II
Viện Hóa Ðạo GHTN lại được “thỉnh cử” “vô thời hạn”.
Ðiều 5 năm này, tự nó đã không có giá trị, tính cách căn bản lập quy vì
“Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo và các thành viên” là một chứ không phải là hai.
Hơn nữa nó đã mang quyết định “vô thời hạn” thì Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo
không thể tách rời với 14 thành viên được thỉnh cử, và ngược lại. Khi đề cập
đến 14 thành viên từ Chủ tịch : HT Thích Hộ Giác đến vị cuối cùng thì cũng
có nghĩa là đề cập đến sự hiện hữu của Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo. Ngoài 14
thành viên này ra thì không còn ai là thành viên của Văn Phòng II Viện Hóa
Ðạo nữa, vì “vô thời hạn”. Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo không thể sống độc lập
bởi chính nó, mà Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo phải có mặt của 14 thành viên
này. Ðiều này mọi người tự thấy, chùa Diệu Pháp cho GHTN Hoa Kỳ mượn một
gian phòng, bên ngoài treo tấm bảng hiệu : “Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo”,
không có sự làm việc hành chánh của 14 thành viên đã được thỉnh cử ở điều 6,
thì mọi người có thể gọi căn phòng của chùa Diệu Pháp cho mượn là “Văn Phòng
II Viện Hóa Ðạo đại diện cho Viện Hóa Ðạo tại hải ngoại để truyền đạt chủ
trương, đường lối và hoạt động của Giáo Hội ở trong nước…” được không ? Và
“Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo nối tiếp nhiệm vụ và hoạt động của Giáo Hội gặp
lúc Viện Hóa Ðạo trong nước bị đàn áp…” được không ? Chắc chắn là không
được. Các thành viên được thỉnh cử - 14 vị - làm việc cho Văn Phòng II Viện
Hóa Ðạo, là Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo “sống” có làm việc ; còn nếu chấp nhận
căn phòng của chùa Diệu Pháp cho GHTN Hoa Kỳ mượn chỉ để treo cái bảng “Văn
Phòng II Viện Hóa Ðạo” cho mọi người thấy thì đây là “Văn Phòng II Viện Hóa
Ðạo” “chết”, của ma chứ không phải của người. Do vậy “Văn Phòng II Viện Hóa
Ðạo” và các thành viên được thỉnh cử là một thực thể, chứ không phải hai,
nên không thể có chữ “và” để liên kết hai mệnh đề. Do đó, điều 5 cần phải
viết lại như thế này : “Các thành viên được thỉnh cử cho Văn Phòng II Viện
Hóa Ðạo hoạt động vô thời hạn” mà không thể viết : ““Văn phòng II Viện
Hóa Đạo và các thành viên được thỉnh cử hoạt động vô thời hạn.”
Nhận xét thứ 2 :
-. Ðộc tài tham vọng : Kinh qua cuộc sống thế nhân, có biết
bao người làm vương làm tướng, danh nổi như cồn, tiếng tăm bốn phương chấn
động. Bao nhiêu anh hùng tướng giỏi. Bao nhiêu tài phiệt, trâm anh. Bao
nhiêu kẻ gian hùng mưu thần chước quỷ, những tưởng gồm thâu thiên hạ để bá
tánh tôn vinh, nhưng tất cả rồi có cái gì là “vô thời hạn”. Vương không còn,
mà tướng cũng mất. Anh hùng hào kiệt trâm anh cũng mục nát với cỏ cây, vùi
chôn theo năm tháng. Trường thành vạn dăm, khí phách ngút trời, những tưởng
ngàn năm ngạo nghễ để giữ vững ngai vàng, quyền uy tột đỉnh mà hưởng mà nhàn
mà thong dong thanh thản, nào ngờ gió cuốn mây tan, cờ gãy, dinh tiêu, thành
quách thất thủ, rồi cũng chỉ là ô hô ! ai tai ! thì có gì mà “vô thời hạn”.
Ðây là tham vọng của kẻ vô minh. Tâm tư bị phủ dày bởi bao lớp bụi trần, hỷ,
nộ, ái, ố. Có thời hạn hay “vô thời hạn” là tại lòng mình: cách ăn, cách
nói, cách sống, cách cư xử giao tiếp. Cái tư cách dung nghi, có nhân thường
lễ nghĩa, có lòng thương, lòng nhân với xã hội làng nước hay không, với Thầy
Tổ, huynh đệ, Tông môn, với pháp lữ tín đồ đạo hữu hay không ? Nếu có được
như thế thì dầu cho có thời hạn cũng trở thành “vô thời hạn” sống mãi ngàn
năm. Bằng ngược lại, đạo làm người chẳng tỏ, hách dịch điêu ngoa, tham vọng
cuồng si tạo thành lẽ sống. Tâm tính bất thiện, ý tính chẳng lành, đập đầu
bẻ răng, hung hăng như sói thì dù có “vô thời hạn” đi nữa, cũng được xem như
đã chết rồi. Chỉ cần một điểm tốt có giá trị vượt thời gian, vượt tuổi thọ
con người thì không có thời gian nào không gian nào có thể giới hạn được.
-. Lạc hậu chậm tiến : Thời buổi văn minh, sự tiến bộ của
con người trên thế giới hôm nay, được thay đổi từng giờ, từng phút các ngành
khoa học kỹ thuật, điện toán, mạng lưới toàn cầu… kể cả tâm lượng con người.
Kỹ thuật điện toán, mạng lưới toàn cầu được cập nhật liên tục. Một máy vi
tính của một vài tháng trước giờ đây đã có thể lỗi thời, chỉ cần thay thế
một bộ phận mới, máy sẽ hoạt động tốt hơn. Tất cả văn minh kỹ thuật là như
vậy. Từ nhu yếu phẩm, từ vật dụng dùng hàng ngày cho đến những ngành khoa
học thám hiểm đại dương, trong lòng trái đất cho đến các tinh cầu không
gian... đều được cải tiến thường xuyên để đáp ứng với mọi nhu cầu đời sống,
phục vụ nhân loại và phát triển tâm linh. Cũng vậy, xoay vào thế giới của
tâm hồn, tư duy cũng được cải thiện. Nếu tâm hồn đó không được trong sáng
thì phải gọt rửa cho trong sáng. Nếu tâm hồn đó chậm lụt, ù lì thì phải sửa
đổi cho nhanh nhẹn hoạt bát. Nếu tâm hồn đó gian ác, bất thiện thì phải tu
tập để chuyển hóa thánh thiện, thánh nhân. Ðó là điều cần và đủ để cải thiện
con người từ thể chất đến tinh thần, thì làm sao hôm nay Giáo Chỉ viết :
“hoạt động vô thời hạn” ? Giả như một lớp người trì trệ, già nua, mất khả
năng, ì ạch mà quản lý, điều hành một công ty, thì công việc của công ty đó
có hoạt động hữu hiệu không ? Có đáp ứng nhu cầu của khách hàng không ?
Ngoài ra còn nhiều yếu tố khác nữa. “Hoạt động vô thời hạn” làm sao được khi
mà đợt sóng sau đùa đợt sóng trước và cứ như thế, thế hệ trẻ thay thế hệ
già, thế hệ văn minh tiến bộ đẩy thế hệ lạc hậu chậm tiến, đó là định luật
đào thải tự nhiên, muôn đời. Cái cũ phải được thay đổi bằng cái mới, cái hư
phải được thay đổi bằng cái nên. Cái xấu phải được thay đổi bằng cái tốt.
Cái què quặt phải được thay đổi bằng cái lành mạnh.
Một thời gian nào đó, thế hệ Tăng Ni trẻ có học vấn, có kiến thức, ngôn
ngữ, có bằng cấp khả năng, tu hành đức hạnh và có ý nguyện phụng sự GH, thì
chẳng lẽ 14 vị trong Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo cứ chễm chệ ngồi đó “vô thời
hạn” mà không tiếp nhận nhân tài, người có thiện tâm, đạo hạnh để làm việc
đạo hay sao ?
-. Không dân chủ, nhân quyền : Kể từ thời Ðức Phật còn tại
thế, Ðức Thế Tôn chưa một lần nói với chúng tỳ kheo là Ðức Phật quản lý hàng
Tăng đoàn, và Tăng đoàn phải chịu sự quản lý – lãnh đạo của Ðức Phật. Thời
Ðức Phật không có thành lập GH để quản trị chúng Tăng và tín đồ. Cũng chẳng
có sự “chỉ đạo” và “điều hành”, chẳng có “thỉnh tuyển” và “chỉ định”.
Tất cả những ngôn ngữ này là của thế tục, của người làm chính trị bá đạo đem
áp dụng vào nếp sinh hoạt của chúng Tăng, gây xáo trộn nếp sống Tăng già.
Ðọc kinh Phật, chúng ta chưa bao giờ thấy những từ ngữ đó, mà Ðức Phật
luôn luôn có lời hỏi thăm, giáo huấn, dạy dỗ nhẹ nhàng, từ tốn : “Này các
tỳ kheo, các con hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên nơi chánh pháp,
đừng thắp lên bất cứ nơi nào.” .
Hay “Các con hãy là hải đảo của riêng mình. Như Lai không bao giờ nghĩ
là quản lý các con, và các con phải lệ thuộc Như Lai. Các con hãy lấy giới
luật làm Thầy. Như Lai chỉ là người chỉ đường.”
Ðức Phật tôn trọng sự tự do của chúng tỳ kheo, không ràng buộc, không
khống chế hay dẫn dụ bất cứ một ai. Vì thế Ðức Phật được tôn xưng là nhà Dân
Chủ lỗi lạc nhất trên thế gian này. Thế mà hôm nay, được tôn xưng là Trưởng
tử Như Lai.
Ðược gọi là Phật tử mà lại ban hành Giáo Chỉ Số 9, ở mục “Nay Quyết Ðịnh.
Ðiều 3 : Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo trực thuộc sự chỉ đạo và điều hành của
Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo trong nước. Thành viên Văn Phòng II Viện Hóa Ðạo do
Viện Trưởng Viện Hóa Ðạo thỉnh tuyển và chỉ định”. Có đi ngược lại lời Phật
dạy. Có phản bội Phật pháp. Có tiếp tay với các thế lực ngoại đạo để đánh
phá Phật pháp hay không ?
Những người trong GHTN hôm nay, nhân danh đòi hỏi dân chủ, nhân quyền, mà
lại ban hành Giáo Chỉ Số 9, Thông Bạch Hướng Dẫn… đưa đến kết quả các GHTN
hải ngoại đổ bể tan hoang. “Trực thuộc”, “chỉ đạo”, “điều hành” và “vô thời
hạn” theo tâm tánh phàm tục, đảng phái chính trị ? Ðời sống Tăng già là đời
sống rộng mở, phóng khoáng, bao dung, vị tha, rộng lượng… Nếu hàng hậu học
vì tánh khí còn thô tháo, oai nghi tế hạnh chưa nhuyễn, tương chao chưa
thấm, chuông mõ chưa nhuần thì có thể khiển trách, chứ như Ðức Tăng Thống,
Ngài Viện Trưởng là Thạch Trụ Thiền Gia, là bậc Long Tượng Thạc Ðức, là
rường cột GH mà có đâu không biết Phật pháp cao rộng như thế nào, siêu việt
như thế nào, giải thoát như thế nào, và đời sống chúng Tăng ra sao, giới
luật ra sao mà lại ban hành bao nhiêu Giáo Chỉ bao nhiêu Nhận Ðịnh và Quyết
Ðịnh không hợp với Giáo Pháp, không hợp với nếp sống Tăng già. Không hợp với
tinh thần lục hòa Phật dạy ? Nếu nói rằng : “Các thành viên được thỉnh cử
hoạt động vô thời hạn.” thì có đúng nghĩa của giáo pháp lục hòa không ? Lục
hòa chỉ có 14 người đó thôi – nhưng hãy chờ xem lục hòa hay lục đục, tranh
quyền tiếm ngôi. Ðức Tăng Thống, HT Quảng Ðộ thừa biết việc làm của GH chỉ
là phương tiện để thích ứng với thời đại, chứ không phải là cứu cánh, rốt
ráo của người tu hành, mà nói đến sự việc của thời đại, thế nhân thì có
thăng có trầm, có thành có bại, nên hư được mất như bóng như hình… thì có gì
mà gọi là “vô thời hạn”. Thời đại nào, chế độ nào rồi cũng trôi qua và bị
thời gian đào thải, thì có gì mà “vô thời hạn”. Kiếp sống con người, nay còn
mai mất, lo chưa xong sinh tử vô thường nhanh như nước dốc, thì sao gọi là
“vô thời hạn” ? Người viết Giáo Chỉ này có hiểu Phật pháp không ? Tự tánh
của sự vật là vô thường, con người là vô ngã, có gì bền vững, tồn tại đâu ?
Hỏi như vậy, để biết rằng người viết Giáo Chỉ Số 9 không phải là Ðức Tăng
Thống viết, mà Ðức Tăng Thống bị “tiếm danh”, bị phỉnh gạt. Còn nếu
là Ðức Tăng Thống có thấy được tình cảnh hôm nay của GH, mà cần phải ban
hành Giáo Chỉ thì nội dung lời lẽ có khác, lời lẽ của bậc chân tu, của người
nhiều kinh nghiệm làm việc trong GHTN trải qua bao nhiêu thập niên, qua bao
lần pháp nạn mà Ðức Tăng Thống vẫn còn đứng vững như hôm nay. Không vì lý do
gì mà Ðức Tăng Thống ban hành Giáo Chỉ để làm phân hóa nội bộ, tan rã GH,
mất niềm tin của Phật tử và để cho kẻ ngoại đạo lợi dụng. Ðó là sự khẳng
định, dứt khoát qua bao nhiêu dẫn chứng, trình bày để thấy được rằng Giáo
Chỉ Số 9 không phải của Ðức Tăng Thống viết và ban hành.
Ðể thấy thêm sự thật về Giáo Chỉ Số 9, xin được trích bài Trái Ðắng Bộc
Phá của Giang Mặc Tử, 27-03-08 :
“…Do đó, dứt khoát một cách khẳng quyết, bất di bất dịch bằng
Trái Đắng Bộc Phá là Cuộc Họp Bất Thường ngày 22-8-2007 tự nó hủy hoại, đốt
cháy chính nó !
Dứt khoát một cách khẳng quyết bất di bất dịch bằng Trái Đắng Bộc
Phá là Giáo Chỉ số 09, chiếu theo điểm chính yếu số 7 : “Chiếu biên bản cuộc
họp bất thường … ngày 22-8-2007”, trong khi Cuộc Họp Bất Thường tự nó loạn
tưởng, lẩm cẩm, không thể nào biện giải thuyết phục, thì Giáo Chỉ số 09 cũng
tự nó bị hủy hoại, đốt cháy chính nó !
Dứt khoát một cách khẳng quyết bất di bất dịch bằng Trái Đắng
Bộc Phá là Giáo Chỉ số 09 tự nó hủy hoại, đốt cháy thì Thông Bạch số 09
hướng dẫn thi hành cũng tự đốt cháy, thiêu hủy !”
Và bài viết thứ hai là “Giáo Chỉ Số 9, Một Văn Bản Trí Trá, Phá Nát, Đập
Tan GHPGVNTN Hải Ngoại của Lê Nguyên - 6.04.2008 :
“Như vậy, phải chăng Giáo chỉ số : 09/VTT/GC/TT do đức Tăng
thống Thích Huyền Quang ký ngày 8.09.2007 cốt để đánh phá, tận diệt GHPGVNTN
từ trong đến ngoài nước ? ... Và, phải chăng, chỉ có những ai xem Phật giáo
là kẻ thù mới đủ ác tâm làm được những việc ác đức như thế này mà thôi ?”
Thượng Tọa Quảng Ba viết : “…Ðừng ai xúi dục, bày biểu, gài bẫy,
có tính cách làm hại Phật giáo bằng cách cho các vị lãnh đạo Phật giáo nếm
mùi vị quyền hạn theo loại hình dân chủ, công ty, người đứng đầu quyết định
tất cả sẽ làm hư đạo pháp vì nó là mầm mống của sự tan hàng, phân hóa, tan
rã, không ai nói ai nghe, không ai làm gương cho nhau nữa. Giáo Chỉ chỉ là
miếng giấy, không thể dựng lại niềm tin đã sụp đổ, không thể cưỡng bức đòi
hỏi sự kính trọng của ai. Ðược sự tâm phục hài hòa, mới là nguồn mạch của
đạo pháp” (Canberra, 6/4/2008. Một buổi sáng giữa Thu Australia)
Là người học Phật, tu Phật như kẻ nương ngón tay để thấy mặt trăng. Là
người có chút ít hiểu biết kinh điển thì pháp cũng buông bỏ huống chi là phi
pháp, chớ có cơ tâm xảo thuật mà làm hư Phật tánh của mình. Hãy biết hồi tâm
hướng thiện để thấy con đường giác ngộ giải thoát rộng thênh thang.
Ngón tay là phương tiện, chiếc bè là phương tiện, giáo pháp là phương
tiện, để đạt được mục đích tối hậu. Nếu lấy phương tiện làm cứu cánh thì
muôn đời sẽ không đạt được cứu cánh, mà còn bị trầm mịch, phiêu lưu trong
biển đời sinh tử. Chỉ có tự mình mới cứu lấy mình, vì chẳng có ai thanh tịnh
cho ai. Rỉ sắt ăn mòn thân sắt. Tâm ác của con người dẫn dắt con người vào
chốn địa ngục tối tăm.
Úc Ðại Lợi và Tân Tây Lan,
ngày 2 tháng 5 năm 2008
Nhóm Phật tử quyết tâm hộ pháp.
Nhuận Thành - Nhuận Đạt- Minh
Hải
Nguyên Châu- Quảng Từ-Huệ Hạnh
Tâm Như Thật- Hạnh Viên -Chân
Tịnh
(1).- Mục đích của bài viết này là để minh định : “Giáo Chỉ
Số 9 không phải do Ðức đệ Tứ Tăng Thống, đại lão Hòa thượng Thích Huyền
Quang viết và ban hành” để Hòa thượng hoàn toàn không chịu trách nhiệm trước
sự phán xét của lịch sử, trước sự đổ nát, phân ly của các GHTN hải ngoại,
trước sự phân hóa nội bộ của Tăng tín đồ, mà tất cả hậu quả này đều do kẻ
“tiếm danh” gây nên, và kẻ “tiếm danh” đó phải chịu trách nhiệm trả lời với
lịch sử.
Các bài viết cùng đề tài
Ngụy Quân Tử - Hồi I
Ngụy Quân Tử - Hồi II
Ngày Tàn Cuả Ngụy Quân tử
Trang Thời Sự