 |
07 tháng 11, 2010
|
Stephen
William Hawking, sinh ngày 8 tháng Giêng năm 1942 là một nhà Vật lý Lý
thuyết người Anh, đồng thời cũng là một nhà Vũ trụ học nổi tiếng nhờ các
tác phẩm khoa học và các lần ông xuất hiện trước
quần chúng.. Ông là Hội viên Danh dự của Hội Nghệ thuật Hoàng gia Anh
(Royal Society of Arts), Hội viên vĩnh viễn của Viện Khoa học Giáo hoàng
(Pontifical Academy of Sciences) và vào năm 2009, được trao tặng Huy
chương Tổng thống về Tự Do là huy chương dân sự cao quý nhất của Mỹ.
Ông Hawking là giáo sư
Toán tại Đại học Cambridge trong 30 năm (1979-2009), ngồi ở ghế
và lấy danh vị giáo sư mà ông Issac Newton đã từng ngồi trước đó.
Ông cũng là Giáo sư Danh dự tại Đại học
Gonville và Caius College ở Cambridge và là Khoa trưởng về Nghiên
cứu Vật lý Lý thuyết tại Viện Perimeter
Institute for Theoretical Physics ở Waterloo, bang 0Ontario, Canada.
Ông được biết đến nhờ
những đóng góp trong lãnh vực Vũ trụ học và về
môn Trọng lực lượng tử (quantum gravity), nhất là trong môi trường Lỗ
đen (black holes). Ông cũng thành công với những tác phẩm khoa học phổ
thông đề cập đến lý thuyết của riêng ông hay của vũ trụ học nói chung.
Ba trong số nhiều tác phẩm nổi tiếng của ông là A Brief History of
Time (Bantam, Press 1988), The Universe In A Nutshell (Bantam
Press, 2001) và mới đây nhất, viết chung với Leonard Mlodinow, là The
Grand Design (Bantam Press, 2010).

Về
cơn bệnh ngặt nghèo và về những phát minh và cống hiến cho tri thức
khoa học nhân loại của ông, xin xem sơ lược trong Wikipedia:
https://en.wikipedia.org/wiki/Stephen_Hawking
Còn về
tôn giáo, nhất
là những tôn giáo tin vào một Chúa Trời độc thần của Tây phương, trong các
tác phẩm đầu
tiên, ông dùng từ “Chúa” theo nghĩa ẫn dụ (metaphorical) nhưng như được
trình bày trong A Brief History of Time, ông cũng cho rằng không
cần thiết phải có sự hiện hữu của Chúa mới giải thích được nguồn gốc của
vũ trụ (the
existence of God was unnecessary to explain the origin of the universe).
Tuy nhiên, trong tác phẩm
mới nhất,
The Grand Design, cũng như trong cuộc
phỏng vấn với báo Telegraph và chương trình “Thiên tài của Anh
quốc” (Genius of Britain) của Kênh truyền hình số 4, ông đã giãi thích
rõ hơn rằng ông “không tin vào một Chúa nhân cách hóa”
("not
believe in a personal God."). Ông viết
rằng
“Câu hỏi là: Cách thế
mà vũ trụ khởi đầu thì do Chúa lựa chọn vì những lý do mà chúng ta không
hiểu nổi, hay vì được xác định bởi các định luật của khoa học ? Tôi tin
là vì các định luật khoa học”.
Ông nói thêm: “Vì có những định luật như định luật về Trong lực nên
Vũ trụ có thể và sẽ tự sinh từ hư không” ("Because
there is a law such as gravity, the Universe can and will create itself
from nothing.").
Trong một
cuộc phỏng vấn của
chương trình truyền hình ABC (Mỹ) vào ngày 7 tháng 6 năm 2010, ông
đã so sánh tôn giáo và khoa học như sau: “Có một sự khác biệt cơ bản
giữa tôn giáo, vốn đặt cơ sở trên quyền lực [áp đặt tín điều, niềm tin],
[đối chọi với] khoa học, đặt cơ sở trên quan sát và lý trí. [Đó là] Khoa
học sẽ thắng vì khoa học làm có kết quả “ (Hawking
compared religion and science in 2010, saying: "There is a fundamental
difference between religion, which is based on authority [imposed dogma,
faith], [as opposed to] science, which is based on observation and
reason. Science will win because it works.”)
Mới
đây nhất, tuần
san TIME của
Mỹ số ra ngày 15 tháng 11 năm 2010 , trong mục “10 Questions”,
một diễn đàn để độc giả khắp thế giới đặt câu hỏi trực tuyến đến các
nhân vật nổi tiếng, đã đăng kết quả độc giả chất
vấn ông Stephen Hawking qua 10 câu hỏi sau đây:
1 -
Nếu Chúa Trời không hiện hữu, tại sao quan niệm về sự hiện hữu [của Chúa
Trời] đó lại trở nên khá
phổ thông ? – Basanta Borah,
Basel, SWTZERLAND.
Tôi không khẳng
định rằng Chúa Trời thì không hiện hữu. Chúa Trời là cái danh xưng mà
người ta đặt cho Lý do vì sao chúng ta ở đây. Nhưng tôi tin rằng lý do
đó là những định luật vật lý chứ không phải một người nào đó mà ta có
thể có những quan hệ riêng tư. Một loại Chúa Trời chung chung (An
impersonal God)
2-
Vũ trụ có biên giới không ? Nếu có, thì ngoài biên giới đó là cái gì ?
Paul Pearson,
Hull, ENGLAND
Những quan sát xác
nhận rằng vũ trụ giãn nở với một tốc độ càng lúc càng gia tăng. Vũ trụ
sẽ giãn nở mãi mãi, trống rỗng hơn và tối tăm hơn. Tuy vũ trụ không có
một tận cùng nhưng nó lại có một khởi đầu tại Big Bang. Người ta có thể
hỏi vậy thì trước đó là gì, câu trả lời là trước Big Bang thì không có
gì cả, giống như không có gì ở phía Nam của Nam Cực vậy.
3-
Ông có nghĩ rằng nền văn minh của chúng ta tồn tại đủ lâu để lan vào
được trong không gian xa vời không ?
Harvey Bethea, Stone Mountain, bang GEORGIA
Tôi nghĩ rằng chúng
ta có nhiều hy vọng tồn tại đủ lâu để chinh phục Thái Dương hệ. Tuy
nhiên, trong hệ nầy, không đâu phù hợp với chúng ta hơn Trái Đất, do đó,
tôi không rõ là liệu chúng ta còn hiện hữu không khi mà trái đất không
còn phù hợp cho cuộc sống của chúng ta nữa. Để bảo đảm sự sống sót lâu
dài, chúng ta phải lên những ngôi sao. Hãy hy vọng rằng chúng ta còn
sống sót cho đến ngày đó.
4-
Nếu ông có thể nói chuyện với ông Albert Einstein, ông sẽ nói gì ?
Ju Huang, Stamford, bang CONNECTICUT
Tôi sẽ hỏi tại sao
ông đã không tin vào sự hiện hữu của các lỗ đen (black holes). Những
phương trình trường (field equations) của thuyết tương đối hàm uẫn rằng
một ngôi sao lớn hay một đám mây khí lớn sẽ sụp đổ vào trong chính nó và
tạo ra lỗ đen. Ông Einstein đã biết điều nầy nhưng không hiểu tại sao
lại tự cho rằng một điều gì đó như một sư nỗ tung sẽ luôn luôn xãy ra để
tạo ra khối lượng và ngăn ngừa lỗ đen thành hình. Vậy nếu không có sư nỗ
tung nầy thì điều gì xãy ra ?
5-
Khám phá hay tiến bộ khoa học nào ông muốn thấy trong cuộc đời của ông ?
Luca Zanzi, Allston, bang MASSACHUSSETT
Tôi muốn thấy sự
hỗn hợp hạt nhân (nuclear fusion) trở thành một nguồn năng lượng thực
tiễn. Nguồn nầy sẽ cung cấp năng lượng vô tận, không bị ô nhiểm hay hâm
nóng địa cầu.
6-
Ông nghĩ chuyện gì sẽ xãy ra cho ý thức (consciousness) của chúng ta sau
khi chết ? Elliot Giberson,
Seattle, bang WASHINGTON
Tôi nghĩ rằng bộ óc
chúng ta giống như một máy vi tính, và ý thức thì giống như một chương
trình điện toán. Chương trình nầy se ngưng chạy khi máy vi tính bị tắt
đi. Một cách lý thuyết, ý thức có thể tái tạo trên một hệ thống thần
kinh (neural network), nhưng chắc là khó lắm vì nó sẽ đòi thu nhập tất
cả ký ức/bộ nhớ của mỗi người.
7-
Ông nổi tiếng như là một Vật lý gia kiệt xuất, ông có những quan tâm
bình thường nào làm người ta ngạc nhiên không ?
Carol Gilmore, Jefferson City, bang MISSOURI
Tôi thưởng thức
được tất cả mọi loại nhạc – dân ca, cổ điễn và opera. Tôi cũng chia sẽ
thú vui với Tim, con trai của tôi, về cuộc đua xe hơi Formula One.
8- Ông nghĩ
rằng những giới hạn thể chất của ông thì đã giúp thêm hay cản trở công
việc nghiên cứu của ông ? Marianne
Vikkula, Espoo, FINLAND
Mặc dù tôi đã bất
hạnh bị bệnh về cơ vận động thần kinh (neuron motor), nhưng tôi lại rất
có phúc trên hầu hết những điều khác. Tôi may mắn được làm việc trong
lãnh vực Vật lý Lý thuyết, một trong vài lãnh vực hiếm hoi mà tình trạng
tàn tật không phải là một bất lợi trầm trọng, và may mắn được trúng số
to nhờ mấy cuốn sách bán khá chạy.
9-
Ông có cảm thấy một trách nhiệm to lớn đè lên mình khi có người mong chờ
ông trả lời được bí mật của đời sống không ? Susan Leslie,
Boston, bang MASSACHUSSETT
Chắc chắn là tôi không có giãi đáp cho
tất cả mọi vấn nạn về cuộc sống. Trong khi Toán học và Vật lý học có thể
cho chúng ta biết vũ trụ đã khởi đầu như thế nào, hai môn nầy lại rất ít
công dụng giúp chúng ta tiên đoán được ứng xử của con người vì (tìm hiểu
con người thì) có quá nhiều phương trình phải giải. Tôi không giỏi hơn
ai cả khi tìm hiểu điều gì làm cho người ta nổi quạu, nhất là đàn bà.
10- Ông có nghĩ rằng đến một lúc
nào đó, nhân loại sẽ hiểu được tất cả những gì cần hiểu về Vật lý không?
Karsten Kurze, Bad Honnef, GERMANY
Tôi hy vọng là không bao giờ có thời
điểm đó cả. [Tại vì nếu có] Tôi sẽ thất nghiệp mất.
Trí
Tánh ĐHT dịch
California 11/2010
Source https://www.time.com/time/magazine/article/0,9171,2029483,00.html