●   Bản rời    

Tại sao người Mỹ nào cũng cần đọc Truyện Kiều (Trần văn Dĩnh)

Tại sao người Mỹ nào cũng cần đọc Truyện Kiều

Trần văn Dĩnh

Bài đã đăng trên nguyệt san The Washingtonian, tháng 9 năm 1968

[Lý Nguyên Diệu dịch]

16 tháng 7, 2010

Theo tác giả Trần Văn Dĩnh, truyện Kim Vân Kiều thể hiện tâm cảnh, tâm hồn và khát vọng của dân tộc Việt Nam. Vì như vậy nên truyện Kiều có thể giúp ta hiểu được động cơ chiến đấu của quân du kích Việt Nam rõ rệt hơn bất cứ tài liệu nào bắt được trên chiến trường Chỉ cần với lý do nầy, ông Dĩnh đã khuyến cáo tất cả nhân viên dân sự cũng như quân sự Mỹ cần phải đọc, nghiên cứu và phân tích truyện Kim Vân Kiều thay vì dựa trên các con số thống kê để xét đoán cuộc chiến tranh Việt Nam.

Tác giả Trần Văn Dĩnh đã từng nắm những chức vụ cao cấp trong “quân đội giải phóng” (SH: "Vệ Quốc Quân") tại Việt Nam và Lào, ông đã di cư vào Nam sau hiệp định chia đôi đất nước (1954) và làm việc trong Bộ Ngoại Giao của chính phủ miền Nam. Năm 1963, ông giữ chức Tham vụ tại toà Đại sứ Việt Nam Cộng Hoà tại Hoa Thịnh Đốn [dưới thời Ngô Đình Diệm]. Sau đó ông đã từ nhiệm và hiện nay [khi viết bài nầy năm 1968] đang cư ngụ tại Hoa Thịnh Đốn. (The Washingtonian)

 

Thuý Kiều, nhân vật chính của truyện Kim Vân Kiều, là đất nước Việt Nam: xinh đẹp và tài hoa nhưng lại bạc mệnh. Kim Trọng, người tình phong nhã, hào hoa của Kiều, là giấc mơ thống nhất đất nước mà người Việt chưa bao giờ đạt được. Ngay cả khi đạt được, thì thống nhất đó chỉ là một thỏa hiệp nửa vời, không toàn vẹn: Thúy Kiều đã không thành vợ chồng với Kim Trọng, mặc dầu sau đó họ đã tái hồi với nhau. Thúy Vân, em gái của Thúy Kiều, với “khuôn trăng đầy đặn”, là một ngưới con gái tầm thường không lãng mạn, loại đàn bà chỉ biết việc nội trợ. Và đó là giải pháp thống nhất thỏa hiệp trong truyện Kiều.

Nhưng trên tất cả, Kim Vân Kiều là biểu hiện cho tâm hồn và tâm lý của dân tộc Việt. Một người bạn của tôi, vừa là văn sĩ vừa là thi sĩ, từ Việt Nam qua thăm nước Mỹ, đã nói với tôi, khi chúng tôi thảo luận về chính sách của Mỹ đối với Việt Nam: “Nếu Tổng thống Johnson, Ngoại trưởng Rusk, Cố vấn Rostow, Bộ trưởng Quốc phòng Mc Namara, ông Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn và tất cả nhân viên dân sự và quân sự Mỹ đang phục vụ tại Việt Nam mà đọc truyện Kim Vân Kiều, thay vì dựa trên những sự việc và số thống kê vô nghĩa, để xét đơán tình hình Việt Nam, họ sẽ tránh được nhiều lỗi lầm nghiêm trọng và sinh tử. Tình thế cuộc chiến ở Việt Nam sẽ khác nhiều.”

Tôi hỏi: “Nhưng làm sao người Mỹ có thể đọc và hiểu được truyện Kiều?”

Bạn tôi trả lời với một tiếng thở dài: “Đó mới là vấn đề. Và đó cũng là lý do vì sao dân tộc Việt vẫn còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Không ai có thể thật sự hiểu được truyện Kiều ngoài người dân Việt Nam. Người Do Thái có thể hiểu được lịch sử Việt; người Ái Nhĩ Lan có thể hiểu được tâm hồn lãng mạn của người Việt; người Nga có thể hiểu được tinh thần bi quan của người Việt; người Ý có thể hiểu được chất lạc quan và bi kịch tính của người Việt. Nhưng không ai, không người Mỹ nào, có thể tổng hợp được tất cả tâm tính quốc tế đó để mà (hoàn toàn) hiểu được người Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng thường tuyên bố với quan khách ngoại quốc là “người Việt Nam chúng tôi là những nhà cách mạng lãng mạn và lạc quan.” Thật ra thì hai vị nầy chỉ nói ra một nửa của sự thật.

Một cách căn bản và sâu sắc, đạo đức của dân tộc Việt được kết hợp bởi đạo Phật, cấu trúc hóa bởi luân lý đạo Khổng và thần bí hoá bởi đạo Lão. Đó là ba giòng tôn giáo và triết lý đã du nhập vào Việt Nam cách đây hai ngàn năm. Ba nguồn tư tưởng nầy đã khuôn đúc nên bản tính của người Việt và ngược lại ba nguồn nầy cũng được biến đổi qua ảnh hưởng chính trị và quân sự của vận mạng đất nước Việt. Phật giáo bị Tây phương hình tượng ra một cách sai lầm như là một tôn giáo xuất thế, thụ động, và tin vào định mệnh. Thật ra thì Phật giáo chấp nhận hiện thực cuộc sống là khổ, người Phật tử phải trực diện với và nỗ lực giải thoát khỏi cái khổ đó. Phật giáo chấp nhận tương quan nhân quả và Nghiệp báo.

Người nào sinh ra cũng mang Nghiệp mà người Việt Nam gọi là Số hay Mạng nghĩa là tổng hợp của tất cả việc làm trong qúa khứ và hiện tại. Nói một cách khác, con người gồm những chuyện họ đã làm và đang làm. Nhưng con người cũng không phải là tù nhân muôn đời của cái Nghiệp của mình: Người ta có thể chuyễn Nghiệp bằng cách sống chân chánh (chánh mạng) và làm những việc thiện. Vì vậy, người Phật tử dựa nhiều nhất vào chính mình để giải thoát và vì biết nguyên nhân của khổ, người Phật tử trở nên bao dung và quan tâm hơn đối với những thiếu sót của đồng loại.

Người Việt Nam tin rằng tướng của một người thì không quan trọng bằng số, mà số của một người thì không quan trọng bằng đức. Phật giáo là một tôn giáo năng động một cách đầy sáng tạo, có thể mở ra những chọn lựa đầy hy vọng, và khuyến khích con người đấu tranh để trở thành một người thiện mỹ hơn. Việt Cộng thường hay dùng chữ “đấu tranh” trong các truyền đơn, trong các chương trình (hành động) của họ.

Khổng giáo không phải là một tôn giáo vì lời dạy của Khổng tử chỉ chú trọng đến luân lý xã hội. Mục tiêu của Khổng giáo không phải là sự cứu rỗi mà là trật tự (trong xã hội). Lão giáo chấp nhận một “trật tự của vũ trụ” và sự tham dự của con người trong trật tự của vũ trụ đó. Vì cái khái niệm về trật tự của vũ trụ cao xa đó mà Lão giáo hay bị hiểu nhầm và bị thoái hoá thành những tập tục mê tín - chẳng hạn như than trời để được trời giúp. Vì vậy mà người Việt Nam thường hay than Trời, Phật.

“Đã Mang Lấy Nghiệp Vào Thân”

Thúy Kiều đã phải đối diện với Nghiệp báo là thực tế phũ phàng  của cuộc sống, nhưng vẫn cố đấu tranh để đời sống được tốt đẹp hơn. Nàng đã bán mình để cứu gia đình, hành xử đúng như một Phật tử đầy lòng từ bi với mọi người, và cũng hành xử với tất cả tấm lòng hiếu thảo đúng như lời dạy của đạo Khổng. Trong những ngày tháng tuyệt vọng, tối tăm nhất của đời nàng, Kiều vẫn giữ được lòng tin vào phúc đức mà nàng nghĩ là sẽ cãi được số phận bạc mệnh của nàng.

Khi viết về lòng can đảm của người lính Việt Cộng và người lính Bắc Việt trên chiến trường, hay trong những cuộc tấn công cảm tử, các nhà báo Tây phương thường gọi đó là cuồng tín. Nhưng thật ra thì họ không cuồng tín. Họ trực diện với thực tế của cái cộng Nghiệp của đất nước của họ và họ cương quyết cải thiện cái cộng Nghiệp đó. Cộng Nghiệp của dân tộc Việt là sự chia rẽ, là những lần bị xâm lăng, bị thống trị bởi ngoại nhân. Nghiệp qủa đó thật là nặng nề, dân Việt qủa là bạc mệnh và thân phận của người Việt quả là cực khổ.

Một số người Việt có ưu tư lại cho rằng cộng Nghiệp này đến từ những cuộc xâm lăng đẫm máu và tàn nhẫn của dân Việt đối với lân bang. Từ thế kỷ 11 đến đầu thế kỷ 19, chính sách Nam tiến của Việt Nam đã hủy diệt và triệt tiêu nhiều nền văn minh của nhiều dân tộc. Vương quốc Chàm, một quốc gia thịnh vượng, đã biến mất trên bản đồ vào cuối thế kỷ 15. Những cuộc viễn chinh của quân binh Việt Nam vào các nước Lào và Cao Miên thường được miêu tả là đẫm máu và tàn nhẫn. Nhưng hôm nay, Việt Cộng và Bắc Việt vẫn kiên trì: Họ tin rằng cuộc chiến đấu chống quân ngoại xâm sẽ giúp thay đổi Nghiệp chướng đó thành tốt đẹp hơn cho cả nước. Trong khi đó thì người lính Nam Việt Nam, dù cũng là người Việt, lại không chiến đấu dũng cảm được như vậy; họ đứng ở ngoài giòng lịch sử của đất nước. Họ bị kết nối với ngoại nhân đã chia cắt đất nước. Về một phương diện nào đó, họ không còn hoàn toàn là người Việt Nam thuần túy.

Khi nước Mỹ dội bom Bắc Việt, người Việt Nam ở miền Bắc tin là nước Mỹ đang tích luỹ những ác Nghiệp và sẽ có ngày phải chịu qủa báo. Họ tin tưởng chống đối lại áp lực của Mỹ là phục vụ cho một chính nghĩa. Người lính Việt Cộng và người lính Bắc Việt chấp nhận chiến đấu đến chết là để giữ cho sông núi Việt được xanh tươi, và đất nước Việt được trường tồn. Khi Thúy Kiều bán mình để chuộc tội cho cha, nàng đã nói:

Thà rằng liều một thân con,

Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây

Chủ đề của truyện Kim Vân Kiều là cuộc sống và số mạng, là “tương đố” giữa chữ tàichữ tai, là thuyết nhân qủa giữa tài mệnh. Truyện được mở đầu bằng hai câu:

Trăm năm trong cõi người ta

Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau

Và được khép lại bằng một khuyến cáo:

Có tài mà cậy chi tài.

Khổ Hạnh Là Đáng Qúy

Đối với người Việt Nam thì nước Mỹ qủa là có nhiều tài (năng) nhưng cũng mang nhiều tai (ương). Vì vậy mà người Việt ngần ngại không thích thú, không muốn liên hệ với và cũng không muốn đứng gần cái tài của người Mỹ. Trên đất nước Việt, nước Mỹ đã cho thấy họ có đầy tài năng – những căn cứ không quân, những công sự và máy móc của họ - nhưng trong quan điểm Phật giáo, trong luân lý Khổng giáo, trong quan niệm vũ trụ trật tự và hài hoà, những tài năng vật chất, phú cường nầy hoàn toàn bị coi rẻ. Trong giai tầng giá trị của xã hội Việt Nam, người nhà giàu bị coi là trọc phú, và người học trò nghèo được gọi là thanh bần. Giai bậc truyền thống được sắp đặt theo thứ tự: Nhất , nhì nông, tam công, tứ thương và cuối cùng mới là binh. Điều đáng tiếc là sự hiện diện kếch xù của quân đội Mỹ ở Việt Nam càng ngày càng làm cho kẻ sĩ Việt bị nhũng nhiễu và đời sống nhà nông Việt bị tiêu tán đồng thời người Mỹ lại dựa vào thế của lái buônbinh quyền. Chính Thúy Kiều đã là một nạn nhân của tiền tài, của tham quan đòi hối lộ:

Tính bài lót đó luồn đây

Có ba trăm lạng việc nầy mới xuôi

Khi nước Mỹ đổ tiền bạc vào Việt Nam, tạo nên một đoàn quan chức và tướng lãnh tham nhũng, khi những người lính Mỹ cồng kềnh đi giữa những người Việt Nam ốm yếu trong thành phố, ngoài ruộng đồng, họ đã tạo nên những bất mãn và nghi ngại. Chắc chắn là đã có những người con gái bán bar, tự ví mình như những nàng Kiều tân thời, đi tìm Kim Trọng qua hình ảnh xa xôi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngoài Bắc hay, gần hơn nữa, hình ảnh của người cán bộ Việt Cộng đang hoạt động ở nội thành. Vì lý do đó mà một số cô gái bán bar đã đóng góp dồi dào vào ngân qũy của Việt Cộng. Còn những người lấy Mỹ vì tiền thì trở nên kiêu hãnh. Họ được gọi là me mỹ. Ngay cả chữ mỹ (nghĩa là “đẹp”) cũng bị gọi diễu là mẽo (nghĩa là méo mó, xấu xa).

Trong mùa Hè năm 1966, khi chính quyền Sài Gòn sử dụng xe tăng và máy bay của Mỹ để đàn áp phong trào Phật giáo tại thành phố Huế trí thức và khổ hạnh (tượng trưng bởi Hoà thượng tranh đấu Thích Trí Quang, người từ chối đi xe hơi), người Việt Nam đã luận định là người Mỹ đến Việt Nam để tiêu diệt những con người khổ hạnh và đất nước Việt. Tâm tình nầy cũng được nổi dậy khi có những cuộc bắt bớ các giáo sư, sinh viên, những người “thanh bần” của xã hội Việt Nam.

Thái độ khinh thị người nhà binh cũng như những người to xác có thể thấy được qua hình ảnh Từ Hải, kẻ nổi loạn, trong truyện Kim Vân Kiều:

Râu hùm, hàm én, mày ngài

Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao

Mặc dù đơn vị đo lường của Tàu và Việt Nam tương đương vói một phần ba của đơn vị đo lường ngày nay, người ta thấy rõ là tác giả Nguyễn Du đã cố tình thổi phồng thân xác của Từ Hải. Thúy Kiều không yêu Từ Hải, nàng chỉ sử dụng người nầy. Đối với nàng, Từ Hải là một kẻ vũ phu, không phải là một thư sinh nho nhã như Kim Trọng.

Thống Nhất: Một Giấc Mơ Khó Thành

Lịch sử Việt Nam không thiếu những vị tướng lãnh anh hùng đồng thời cũng là những nhà học giả, trí thức. Nguyên soái Trần Hưng Đạo, ba lần thắng quân Mông Cổ trong thế kỷ 13 là tác giả của nhiều sách; Đô đốc Nguyễn Văn Thành, giúp vua Gia Long thống nhất sơn hà năm 1802, đã để lại cho đời một thiên hùng ca trác tuyệt: “Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong”; tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh quân đội Bắc Việt, kiến trúc sư của chiến thắng Điện Biên Phủ, là một giáo sư Sử học.

Khi nước Mỹ nói về một miền Nam độc lập, họ đã xúc phạm sâu xa đến giấc mơ Thống nhất của người Việt, giấc mơ Kim Trọng của Thúy Kiều. Không người Việt Nam nào mà lại cổ võ cho sự phân chia mãi mãi đất nước mình. Ngay cả Điều I của Hiến Pháp năm 1967 của Việt Nam cộng Hòa cũng nói rõ: “Việt Nam là một quốc gia độc lập và một lãnh thổ không thể phân chia.” Điều CVII của Hiến Pháp nầy cũng quy định: “Điều nầy và điều I không thể bị huỷ bỏ hoặc tu chính.” Nhưng cũng như trong truyện Kim Vân Kiều, giấc mơ thống nhất đất nước trong lúc nầy (năm 1968, khi bài nầy được viết) cũng sẽ phải chỉ là một thoả hiệp nửa vời.

 

TRẦN VĂN DĨNH

(Lý Nguyên Diệu phỏng dịch)

 

 

WHY EVERY AMERICAN SHOULD READ KIM VAN KIEU

By TRAN VAN DINH,

adapted from an article in The Wasingtonian, September 1968

Author Tran Van Dinh believes that Kim Van Kieu reflects the mentality, soul, and aspiration of the Vietnamese people and, as such, reveals more of the motivation of Vietnamese guerrillas than any document captured on the battlefield. If only for this reason, Dinh suggests that all U.S. civilian and military officials should read, study, and analyze Kim Van Kieu instead of basing their judgment on statistics.

Author Tran Van Dinh, after serving in high post with the “liberation army” in Vietnam and Laos, came South following partition and joined the South Vietnamese foreign service. He was chargé d’affaires in Washington in 1963 but subsequently left government service and now resides in Washington, D.C. (The Washingtonian)

Thuy Kieu, the heroine and central figure of Kim Van Kieu, is Vietnam: beautiful, talented, condemned by her pale fate. Kim Trong, her chivalrous lover is the Vietnamese dream of thong nhut, of the unity of the Vietnamese nation that somehow the Vietnamese had never attained. Even if it is attained, it would only be by compromise, an imperfect unity: Thuy Kieu did not marry Kim Trong, although they did finally meet again. Her sister, Thuy Van, “a moon-face beauty,” is rather dull and unromantic, a suburban housewife, so to speak. And she was the compromise.

But, above all, Kim Van Kieu is the embodiment of the Vietnamese soul, the Vietnamese psyche. A friend of mine, a poet and writer who visited the United States, said to me when we discussed U.S. policy in Vietnam: “Had President Johnson, Mr. Rusk, Mr. Rostow, Mr. McNamara, the U.S. ambassador in Saigon, and all of the U.S. civilian and military personnel in Vietnam read Kim Van Kieu, instead of basing their judgments on meaningless facts and statistics, they would have avoided many serious and even fatal mistakes. The situation in our country would be different.”

“But how can they read and understand it?” I asked.

“Well, that is the difficulty,” my friend replied. “And that is why we as a nation survive until today. Nobody really could understand Kim Van Kieu but the Vietnamese. Perhaps a Jew can understand Vietnamese history; an Irishman, the Vietnamese romantic mind; the Russian, the Vietnamese pessimism; and the Italian, the Vietnamese sense of optimism and drama. No one, no American, can be a mixture of all these,” he sighted.

President Ho Chi Minh and Premier Pham Van Dong of North Vietnam have often told foreign visitors that “we Vietnamese revolutionaries are romantic and optimistic.” They just told them half of the truth.

The Vietnamese national behavior is basically and deeply formed by Buddhism, structured by the ethics of Confucianism, and mystified by Taoism. These were the three currents of religion and philosophy that penetrated Vietnam two thousand years ago, molded the Vietnamese character, and, in turn, were modified and influenced by the political and military fortunes of the country. Buddhism is erroneously pictured in the West as a religion of renunciation, of passivism, even of fatalism. In fact, Buddhism recognizes the realities of human sufferings, confront them, and tries to solve them. It accepts the intimate relations of cause and effect of the laws of Karma.

Each man is born with a Karma which in Vietnames is so or menh, meaning fate or destiny, which is the sum of not only his past but also his present actions. In other words, man is what he was and what he is. But, at the same time, man is not the eternal prisoner of his Karma: He can change it by correct and right behavior and good deeds. A Buddhist, therefore, relies on himself primarily for his own salvation, and, knowing the causes of man’s sufferings, he is tolerant and attentive to the shortcomings of his fellow man.

The Vietnamese believe that a man tuong (physiognomy) is not as important as his so, and his so is not as important as his duc (good deeds). Buddhism is a creatively active religion that opens hopeful alternatives, and that favors man’s struggle (dau tranh) for his betterment. The Viet Cong often use the word dau tranh in their pamphlets and programs.

Confucianism is not a religion, as it is principally concerned with social ethics. Confucianism reaches for order, not for salvation. Taoism admits a “universal order” and the participation of men in this universal order. Because of this concept of a higher order of the universe, Taoism was largely misunderstood and degenerated into all kinds of superstitious practices – ways to implore troi (heaven) to solve man’s problems. The usual exclamation is Troi, Phat (Heaven, Buddha).

Implacable Destiny

Thuy Kieu faces the brutalities of her Karma, the realities of life, and struggled with them to make them beter. She sold herself to save her family, acting in the true Buddhist compassion for the community of man in the true Confucian ethic of filial piety. In the darkest and most desperate moments of her life, she managed to keep her confidence in her good deeds, which she thought would eventually changed her Karma, her bac menh (pale fate).

When they describe the courage of the Viet Cong, and the North Vietnamese on the battlefields or in suicide raids, most Western journalists call them fanatics. But they are not. They face the realities of the Karma of their country (cộng nghiệp), which is the sum of the Karmas of all individuals, and they are determined to change it. The Vietnamese national Karma is marked by division among Vietnamese, by foreign invasions and interventions. That Karma is indeed hard, the Vietnamese national fate is indeed pale, the Vietnamese national destiny is indeed implacable.

Some thoughtful Vietnamese relate this Karma to the past conquest by Vietnam, often carried on with much bloodshed and brutality. From the eleventh century until the early nineteenth century, Vietnam, in her forceful nam tiến (march to the South) destroyed and exterminated peoples and civilizations. The Kingdom of Champa, a flourishing state, disappeared from the map at the end of fifteenth century. The Vietnamese military expeditions into Laos and Cambodia were usually bloody and ruthless. But today, the Viet Cong and the North Vietnamese are not giving up: They are convinced that fighting against foreign armies will change the Karma of their country for better. The South Vietnamese soldier, although Vietnamese, is not fighting as well; he is outside the stream of Vietnamese history, he is associated with the foreigners who divided Vietnam. He is feeling, in a way, less Vietnamese.

When the United States bombs North Vietnam, the North Vietnamese believe that the United States is accumulating wrong deeds that eventually will turn against it. By resisting American pressures, they believe they serve a just cause. The Viet Cong and the North Vietnamese soldiers accept death in order to allow the Vietnamese rivers and mountains to remain green, the Vietnamese earth and water to endure. When Thuy Kieu sold herself to save her family, she said: “It is better that I should sacrifice myself alone, It matters little if a flower falls if the tree could keep its leaves green

The principal themes of Kim Van Kieu are life and fate, the inherent contradiction between tai (talent or know-how) and tai (disaster, misfortune), the cause and effect relationship between tai and menh (fate, Karma). The novel opens with these sentences: “Within the span of a hundred years of human existence, What a bitter struggle is waged between talent and fate,” and concludes with: “When one is endowed with talent, do not rely on it.”

Austerity is Attractive

To the Vietnamese, the United States indeed has tai (the know-how), but it is courting with tai (disaster). So they are reluctant to be near disaster, to be impressed by it, or to be associated with it. In Vietnam, the United States displays plenty of tai – air bases, buildings, and machinery – but the Buddhist concept, the Confucian ethic, and the Taoist concept of universal harmony and universal order totally disregard material wealth. In the Vietnamese hierarchy of values, a rich man is a troc phu (filthy rich), and a poor scholar is thanh ban (immaculate poor). The traditional Vietnamese social order followed this scale: first the si (scholars, men of letters); second, the nong (peasants, farmers); third, the cong (workers); fourth, the thuong (businessmen, merchants); and fifth, and last, the binh (soldiers). It is too bad that the huge American military commitment has increasingly alienated the intellectuals, destroyed the life of the peasantry, and based itself on the mercants and the soldiers. Thuy Kieu herself was a victim of money, of corrupted officials who asked for bribes: “To bribe the officials here and to circumvent the authorities there, Three hundred gold taels are necessary to arrive at a satisfactory settlement.”

When the United States pours money into Vietnam, creating in the process hordes of corrupted officials and generals, when the big Americans walk among the frail and slender Vietnamese in the cities and in the countryside, they create a feeling of resentment and suspicion. There are no doubt, among the thousands of Vietnamese bar girls in Saigon, those who think of themselves as modern, mini-Thuy Kieu, longing for Kim Trong, who may be the distant image of President Ho Chi Minh in the North, or, more likely, the Viet Cong agitation cadre in the town. Some bar girls contribute generously to the “Viet Cong” funds for that reason. Those who marry the rich GI for money have to put on airs. They are called me my (mother of the American). Even the word my (which means “beautiful”) has been distorted to meo (deformed, ugly).

When, in the summer of 1966, the Saigon regime used American tanks and planes to suppress the Buddhists in the austere and intellectual city of Hue (as represented by the militant monk Thich Tri Quang, who refuses to ride in a motor car), a great number of Vietnamese concluded that the materialistic Americans are in Vietnam to destroy the ascetic good men of the country. The same feeling was aroused with the arrest and imprisonment of teachers and students, the “immaculate poors” of the Vietnamese society.

The disdain for soldiers, as well as for physically big persons, can be seen in the description of Tu Hai, the rebel in Kim Van Kieu. He was “an imposing man with a tiger mustache [ Vietnamese, especially old people, grow beards, not mustaches], a swallow jaw [very strong], a pair of eyebrows like silkworms; he was five decimeters broad-shouldered and ten meters high.” Although the old Chinese and Vietnamese meter is about one-third of the modern one, it is obvious that Nguyen Du purposedly exaggerated Tu Hai’s physical stature. Thuy Kieu did not love him; she used him. To her she was a vu phu (a man who uses force, a rude man) and he was not the scholar Kim Trong was.

Reunification: Difficult Dream

Vietnam has had a good crop of military heroes, but they have all been intellectuals and scholars. Marshall Tran Hung Dao who defeated the Mongolians three time in the thirteen century, wrote books; Marshall Nguyen Van Thanh, who helped Emperor Gia Long to unify Vietnam in 1802, has left the mot beautiful “funeral oration to the dead soldiers” in Vietnamese epic literature; General Vo Nguyen Giap, commander in chief of the North Vietnamese army and the architect of victory at Dien Bien Phu, was a professor of history.

When the United States talks about an independent South Vietnam it deeply hurts the Vietnamese dream of Thong Nhat, of unity, the Kim Trong dream. No one in Vietnam could advocate the permanent division of the country. Article I of the 1967 Constitution of South Vietnam says: “Vietnam is an independent country and territorially indivisible.” Article CVII of the same constitution stipulates that “This article and Article I can not be nullified or amended.” But, as in KimVan Kieu, the dream of unity will have to be satisfied with a compromise.

[Source: The Washingtonian - September 1968]

Trang Văn Học Xã Hội




Đó đây


2025-09-19 - Vụ xây nhà trên đất người khác: Quyết định "Nóng" của UBND phường -

2025-09-19 - Rõ ràng ngay trước khuôn viên Nhà Trắng nhé. - Ngày 2/9/2025, các bạn rter thật tuyệt vời!

2025-09-19 - Sốc thật…! Ngày 2 tháng 9 năm 2025… trước Nhà Trắng… xuất hiện… hát vang - Nhưng tới giờ mới hay!!

2025-09-17 - Ông Putin chính thức “bấm nút” hạt nhân, Mỹ khẩn cấp gọi 27 nước hành động nóng -

2025-09-17 - Góc nhìn sự thật: Vạch mặt các loại tà đạo khiến bao gia đình tan cửa, nát nhà | -

2025-09-13 - Quốc Hội California thông qua dự luật cấm nhân viên công lực che mặt - Ở California, dự luật này được Quốc Hội tiểu bang do đảng Dân Chủ nắm thế đa số thông qua hôm Thứ Năm. Đây là một trong hàng loạt dự luật mà Quốc Hội California đang cân nhắc năm nay để phản ứng với những vụ bố ráp người nhập cư không giấy tờ.

2025-09-13 - Ông Charlie Kirk là ai mà nước Mỹ phải treo cờ rủ toàn Liên bang? -

2025-09-13 - Tỷ phú Phạm Nhật Vượng tăng thêm 1 tỷ USD, bà Hằng quay xe chửi người hâm mộ -

2025-09-10 - VTV4 - Kiều Bào Hướng Về Lá Cờ Tổ Quốc - nhân lễ kỷ niệm 80 năm Ngày Quốc Khánh 2/9.

2025-09-08 - CẢNH GIÁC- 1 trường tiểu học treo nhiều tranh nói về luật nhân quả để dạy học sinh - Phòng Văn hóa - xã hội, phường Phú Mỹ, TP.HCM đã đi kiểm tra và yêu cầu trường tiểu học tháo gỡ các bức tranh dạy về nhân quả dán trên tường vì không đúng quy định của Luật Giáo dục.



▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 >>>




Thư, ý kiến ngắn
● 2025-09-18 - Thánh Kinh Dạy MÊ TÍN _ Luật SOTAH - Những người từ bỏ niềm tin thiên chúa -

● 2025-09-14 - TIN NÓNG - HÀNG NGHÌN NGƯỜI DÂN HÀ NỘI ĐÃ XUỐNG ĐƯỜNG !!!! - FB Đức Tin -

● 2025-09-10 - Cùng nhau ch ư ở i th ằng cám ơn thực dân Pháp! - Cộng đồng mạng -

● 2025-08-22 - TGM Ngô Quang Kiệt xem làm kim chỉ nam câu "Thà mất nước chứ không chịu mất Chúa" của Linh mục Hoàng Quỳnh! - Lý Thái Xuân -

● 2025-08-13 - Nhận Thư Người Bạn Trở Thành Mục Sư và Ghi Chú - Lý Thái Xuân -

● 2025-08-07 - NHỮNG KẺ TIÊU THỤ TÀI SẢN DO PHẠM TỘI MÀ CÓ - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-07 - Khởi kiện các cán bộ tòa án có dấu hiệu xâm phạm tư pháp trên vụ kiện của tôi. - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-07 - Thánh giá trên nhẫn bạc, gậy cầm trên tay và dấu ấn quyền lực trên ghế là dấu chỉ nhận biết ai là giám m - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-07 - NHỮNG CON ỐC SÊN MẶC PHẨM PHỤC - Miệng Ốc Sên chỉ để ăn và ị, chứ không dành để nói - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-07 - Những linh mục và những đứa trẻ giống như 2 giọt nước! - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-07 - Bệnh ko được chữa, ăn không được ăn mà người béo đến mức người ta gọi là "Nam heo" - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-07 - Cặp phạm trù đối ngẫu là “Nhân từ và công lý” - Công lý là trói buộc còn từ tâm là tháo cỡi! - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-06 - Vài Thủ Thuật Giữ Số Đông Cho Nhà Thờ - FB Hien Tran -

● 2025-08-04 - Chúa tạo ra kich bản, rồi trừng phạt toàn bộ diễn viên đã hoàn thành kịch bản - Nguyễn Thiện Thanh/Những người từ bỏ -

● 2025-08-04 - Tại sao lại là Châu Âu chứ không phải là ai khác đi xâm chiếm mọi ngóc ngách trên trái đất? - FB Võ Hiền -

● 2025-08-01 - Dẹp “m.ẹ” nó cái cơ quan Thanh tra trong Giáo hội đi - có tai mà như điếc, có miệng mà như câm, có mắt mà nh - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-01 - Đức cha Hai “Vừa ăn c.ướp vừa la làng” - Tại sao tôi giúp gia đình bà Quí? - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-01 - Chiếm Đất Của Bà Già 100 Tuổi, Xây Nhà Mục Vụ, Rồi Nói Láo "Người Chết Hiến Đất" Trong Sách "Lịch Sử H - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-01 - Lễ Mở Tay - Truyền Chức Cho Các Tân Linh Mục - Thoa Kim Phan -

● 2025-08-01 - Học Cao Hơn Linh Mục - Không nên đóng tiền để xây học viện Công Giáo - Thoa Kim Phan -


▪ 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102 103 104 105 106 107 108 109 110 111 112 113 114 115 116 117 118 119 120 121 122 123 124 125 126 127 128 129 130 131 132 133 134 135 136 137 138 139 140 141 142 143 144 145 146 147 148 149 150 151 152 153 154 155 156 157 158 159 160 161 162 163 164 165 166 167 168 169 170 171 172 173 174 175 176 177 178 179 180 181 182 183 184 185 186 187 188 189 190 191 >>>