Nhà thơ Hữu Loan,
tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Loan, quê làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga
Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông đậu tú tài nhưng về quê mở trường dạy học và
hoạt động phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1943 , ông gây dựng phong
trào Việt Minh. Cách mạng Tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban
khởi nghĩa huyện Nga Sơn. Sau Cách mạng Tháng Tám, ông được cử làm Uỷ
viên Văn hóa trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách
các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến
chống Pháp, ông thuộc Đại đoàn 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại báo
Văn Nghệ.
Lấy người vợ thứ hai vào
năm 1954, bà Phạm Thị Nhu, ông tiếp tục làm ở báo Văn Nghệ cho đến khi
bị đi tù với nỗi oan nghiệt dính vào nghiệp văn chương. Ra tù, ông trở
về quê đục đá kiếm sống nuôi 10 người con và sống với những ký ức vừa
đẹp đẽ vừa đau thương cho đến ngày hôm nay, bên cạnh người vợ tần tảo,
thủy chung.
Xin thắp một nén hương
thiêng vĩnh biệt linh hồn người thi sĩ đáng kính.
Memoir
Vào một ngày cuối năm 2003, dưới tán lá cây bồ đề trong
vườn nhà ông, dưới chân núi Văn Lỗi của làng Văn Hoan
(xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, cách TP Thanh Hóa chừng 50
km), bên chiếc chõng tre cũ kỹ, nhà thơ Hữu Loan đã kể
cho tôi nghe về mối tình lãng mạn nhưng cũng hết sức bi
thương của ông - mối tìinh đã làm nên bài thơ nổi tiếng
“màu tím hoa sim”.
Hữu Loan sinh năm 1914, trong một gia đinh tá điền. Không
được đến trường, chỉ học bữa được bữa không tại nhà do người
cha dạy dỗ. Bù lại, ông có tư chất rất thông minh. Người
làng Văn Hoan kể rằng vào khoảng năm 1938, Hữu Loan vác lều
chõng ra Hà Nội đua tài. Số đỗ kỳ thi ấy thật hiếm hoi. Cung
đỗ với Hữu Loan còn có Nguyễn Đinh Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh
Văn Xuân, Đỗ Thiện… Năm 24 tuổi. Hữu Loan rời quê nhà lên TP
Thanh Hóa dạy học. Lúc bấy giờ, ở TP Thanh Hóa có cửa hàng
bán vải và sách của bà Tham Kỳ (tên thật là Đại Thị Ngọc
Chất, vợ của ông Lê Đỗ Kỳ - kỹ sư canh nông, có thời làm
Tổng Thanh tra canh nông Đông Dương, sau này là đại biểu
Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
Hữu Loan thường lại xem và mua sách, rồi trở thành gia sư
cho người con trai cùng cô con gái yêu của gia đinh bà là Lê
Đỗ Thị Ninh, lúc ấy mới tám tuổi.
Hữu Loan kể:
Lần đầu tiên tôi tới nhà, bà Chất phải gọi mãi
cô bé Ninh mới chịu ra khoanh tay chào thầy, miệng nói lí
nhí: Con chào thầy ạ!?. Chào xong cô bé bất ngờ mở to mắt
nhin thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như có ánh
chớp ấy đã in sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc
đời. Thế là từ hôm ấy, tôi dạy em đọc, viết. Em là một cô bé
thông minh, it nói và mỗi lần mở miệng là giống y như một bà
cụ. Có lần tôi kể chuyện này cho hai người anh của em nghe.
Không ngờ câu đùa ấy đến tai em. Thế là em dỗi! Suốt một
tuần liền, em nằm lì ở buồng trong, không chịu học hành.
Trước đó, hằng ngày em vẫn chăm sóc tôi một cách rất thầm
kín. Lúc thì đặt vào góc mâm chỗ tôi ngồi ăn một vài quả ớt
đỏ au em vừa hái ở vườn, lúc thì quả chanh mọng nước… Những
buổi trưa hè, khi tôi ngủ trưa, em lén lấy chiếc ao sơ mi
trắng của tôi treo ở góc nhà đem ra giếng giặt”.
Một hôm, em nằng nặc đòi tôi đưa em lên khu rừng thông. Tôi
sợ em lại dỗi nên đành liều xin với ông bà Tổng Thanh tra
cho đưa em lên núi chơi. Xe kéo chạy chừng một giờ mới tới
được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc. Tôi đuổi
theo em đến đứt cả hơi. Lên tới đỉnh đồi, em ngồi xuống và
bảo tôi: Thầy ngồi xuống đi!. Tôi ngồi xuống bên em. Chúng
tôi cứ ngồi thế và chẳng nói gì. Bất chợt em nhìn tôi, rồi
ngước mắt nhìn ra tít tận chân trời. Không hiểu lúc đó em
nghĩ gì. Bỗng em hỏi tôi: Thầy có thích ăn sim không??. Tôi
nhìn xuống sườn đồi: tím ngắt một màu sim. Em đứng lên và đi
xuống sườn đồi. Tôi mệt quá và nằm thiếp đi trên thảm cỏ.
Khi tỉnh dậy, tôi thấy em đang ngồi bên tôi với chiếc nón
đầy ắp sim. Những quả sim đen nhánh, chín mọng. Thầy ăn đi!.
Tôi cầm quả sim từ tay em đưa lên miệng. Ngọt quá!- Tôi trầm
trồ. Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân. Quả sim đối
với tôi chẳng lạ lẫm gì nhưng thú thật chưa bao giờ tôi được
ăn những quả sim ngọt đến thế. Cứ thế, chúng tôi ăn hết quả
này tới quả khác. Tôi ngước nhìn em, em cười. Hai hàm răng
em đỏ tím, đôi môi, hai bên má tím đỏ một màu… sim. Tôi cười
phá lên, em cũng cười …
Cuối mùa đông năm ấy, tôi lên đường đi kháng chiến. Hôm tiễn
tôi, em cứ theo ra mãi tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn
theo. Tôi đi… Lên đến bờ đê, nhìn xuống đầu làng, em vẫn
đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ xíu như
chiếc lá sim vẫy tôi. Tôi đi… Tôi quay đầu nhìn lại… Tôi lại
đi và nhìn lại cho tới khi không còn thấy em nữa.
Những năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi có nhận được
tin tức từ quê lên, tôi biết em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Tám
năm sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở
đầu làng, tôi hỏi em, hỏi rất nhiều nhưng em không nói, chỉ
bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây không còn là cô học trò
Ninh bướng bỉnh nữa rồi. Em đã 16 tuổi, đã là một cô gái
xinh đẹp. Một tuần sau đó, chúng tôi kết hôn. Đám cưới thật
đơn sơ:
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bụi đất hành quân
nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo?.
Khỏi phải nói chúng tôi hạnh phúc như thế nào. Hai tuần phép
của tôi trôi đi nhanh quá. Hôm tiễn tôi lên đường, em vẫn
đứng ở đầu làng, nơi tám năm về trước em đã đứng. Chỉ có
điều giờ đây em không còn là cô bé Ninh nữa mà đã là người
bạn đời yêu quý của tôi. Tôi đi, tôi lại quay đầu nhin lại…
Nếu như tám năm về trước tôi đi, tôi nhin lại và chỉ cảm
thấy một nỗi buồn man mác thì lần này tôi thực sự đau buồn.
Đôi chân tôi như quỵ xuống… Em cũng như quỵ xuống…
Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: Vợ tôi qua đời. Em chết
thật thảm thương! Hôm đó là ngày 29-5 âm lịch năm 1948. Em
đưa quần áo ra giặt ở sông Chuông (thuộc ấp Thị Long, Nông
Cống). Đang giặt em trượt chân. Con nước lớn đã cuốn em vào
lòng nó, cướp đi của tôi người bạn đời tri kỷ, để lại cho
tôi nỗi đau không gì có thể bù đắp nổi. Nỗi đau ấy, hơn 60
năm qua, vẫn nằm sau thẳm trong trái tim tôi…
Nỗi đau ấy tôi phải giấu kín trong lòng. Tôi như một cái xác
không hồn. Dường như nỗi đau càng bị kìm nén thì càng dữ dội
hơn. May sao sau đó có đợt chỉnh huấn. Cấp trên bảo ai có
tâm tư gì thì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn
đau trong tôi được dịp bung ra. Chẳng cần phải suy nghĩ gì,
những chuyện mộc mạc cứ trao ra:
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
có em chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh…
Tôi về
không gặp nàng…?.
nguồn:
https://my.opera.com/izic.net/blog/nha-tho-huu-loan-va-moi-tinh-mang-mau-tim-hoa-sim
Nhà thơ Hữu Loan: "Thơ tôi, dấu ấn đời tôi"
Hơn một năm sau ngày Hữu Loan chuyển nhượng quyền sử dụng bài thơ
Màu tím hoa sim cho Công ty điện tử Vitek, tôi quay lại thôn
Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn (Thanh Hoá) và có cuộc trò chuyện
với lão nhà thơ vừa bước sang tuổi 87.
Cuộc đời ông trải qua quá nhiều thăng trầm. Tham gia
khởi nghĩa giành chính quyền, là Ủy viên Thông tin tuyên truyền của Ủy
ban lâm thời tỉnh Thanh Hoá, sau đó về công tác tại Hội Nhà văn Việt
Nam... Nhưng rồi sau thời kỳ "nhân văn giai phẩm", ông đã về sống ẩn đến
tận bây giờ.
Nhà thơ Hữu Loan cho biết, kể từ sau ngày "bán" bài thơ
Màu tím hoa sim (100 triệu đồng) đến nay đã có một số tổ chức,
cá nhân khác ở trong và ngoài nước đến đặt vấn đề muốn được khai thác
toàn bộ những tác phẩm thi ca do ông sáng tác. Song ông không đồng ý bởi
nhiều lý do.
Cái lý do cơ bản nhất là: "Thơ tôi làm ra không phải để
bán. Tôi làm thơ chủ yếu là để phục vụ cho phong trào cách mạng đấu
tranh chống giặc ngoại xâm của quân và dân ta. Để ca ngợi tình con người
với con người và để chép lại những câu thiên tình sử đẹp nhất mà tôi đã
gặp, đã chứng kiến. Những bài thơ đó, giờ nó đã trở thành tài sản chung
của mọi người rồi". Ông cũng cho biết, những bài thơ do ông sáng tác đến
giờ phút này đã bị thất lạc rất nhiều, do ông không có thói quen ghi
chép và lưu trữ.
Tuy nhiên, những tác phẩm thi ca của nhà thơ Hữu Loan
khó có thể lẫn đi đâu được vì nó có một bút pháp riêng, tạo nên một
phong cách đặc biệt, mà Tình thủ đô của ông do Dương Tường và
Mạc Lân nhớ lại vào cuối năm 2004 là một ví dụ rất cụ thể. Hiện Hữu Loan
đã giao toàn quyền việc sưu tầm, lưu trữ các tác phẩm thơ do ông sáng
tác cho người con trai thứ 8.
Đó là anh Nguyễn Hữu Đán - cán bộ Cty Tu bổ di tích và
Thiết bị văn hoá trung ương thuộc Bộ VH-TT. Anh Đán cho hay, đến nay anh
đã "tìm thấy" được cả thảy 60 bài thơ của ông sáng tác. Có những bài anh
chỉ sưu tầm được 4-5 câu, nhưng cũng có những "trường ca" dài tới 60
trang.
Anh Đán cho biết việc sưu tầm tuy rất khó khăn, nhưng
vì trân trọng những giá trị trong thơ, đã có những người tự mang thơ đến
đưa lại ông sau nhiều năm thất lạc. Mới đây nhất, bà Nguyễn Thị Thanh ở
đường Trần Hưng Đạo (Hà Nội) đã gửi lại cho nhà thơ Hữu Loan một bài thơ
vô đề.
Bài thơ ca ngợi những y, bác sĩ đã hết lòng chăm sóc
cho các thương binh trở về sau trận chiến chống lại kẻ thù xâm lược bảo
vệ tổ quốc. Bài thơ có đoạn. "... Áo quần loang bết mủ/ Vết thương
nhày hôi tanh/ Em đem về giặt giũ/ Chong đèn vá thâu canh/ Mai những
người vui được áo lành...". Vào một thời điểm nào đó thích hợp anh
Nguyễn Hữu Đán sẽ cho ra mắt Toàn tập Hữu Loan.
+ Chắc bác vẫn còn nhớ cảm xúc của mình khi viết nên
bài Màu tím hoa sim được nhiều người coi là một "kiệt tác" của
thi ca VN thế kỷ 20?
- Làm sao tôi có thể quên được điều đó. Màu tím hoa sim
là màu tang thương của một tình yêu định mệnh, tình vợ chồng ngắn ngủi
mà giờ đây nó chỉ còn lại trong ký ức của riêng tôi. Đó là một mối tình
ly kỳ nhất và tôi là người may mắn nhất được tạo hoá ban tặng. Ngày tôi
đặt chân đến gia đình ông Lê Đỗ Kỳ (sau này là nhạc phụ) làm gia sư cho
ba người con trai của ông, cũng là ngày vợ ông ấy sinh hạ một bé gái
xinh xắn.
Nhưng có một điều khác thường ở chỗ là cô bé không cất
tiếng khóc chào đời như mọi đứa trẻ khác. Gia đình họ mang cô bé đặt lên
trên nắp một cái thùng phuy để cầu nguyện một điều gì đó, tôi tò mò lại
ngắm nhìn thì cô bé nhoẻn miệng cười với tôi. Lớn lên, tôi đi đâu cô bé
ấy cũng đòi đi theo.
Và còn một điều kỳ lạ nữa là khi tôi quay trở lại làm
gia sư dạy học cho chính cô bé sau này là vợ mình, nhà ông tham Kỳ lúc
nào cũng có vài ba mươi người ăn, kẻ ở hầu hạ thế nhưng cô ta luôn giữ
vali và không cho bất kỳ ai giặt quần áo của tôi, mà tự tay cô ấy giặt,
là lấy rồi gấp xếp vào vali cho tôi.
Cô bé càng lớn càng đẹp, một vẻ đẹp thánh thiện. Chúng
tôi cưới nhau ngày 16-2-1949 thì đến ngày 29-5 cùng năm đó, vợ tôi tên
là Lê Đỗ Ninh mất do chết đuối, khi tôi đang hoạt động cách mạng ở Nưa
(huyện Triệu Sơn, Thanh Hoá). Đau thương này kéo dài lắm. Và cũng chính
vì lẽ đó nên sau khi cô ấy mất, tôi có ý định không lấy vợ nữa. Mỗi lần
nhớ tới cô ấy là tôi lại "khóc" ra một quãng của bài thơ Màu tím hoa sim
hoàn chỉnh bây giờ.
+ Nhưng rồi định mệnh lại dắt bác đến với một người
phụ nữ khác, sống cùng bác đến ngày hôm nay và đã sinh cho bác tới 10
người con.
- Người vợ thứ hai là bà Phạm Thị Nhu, sống với tôi hơn
50 năm rồi. Bà ấy cũng là một người phụ nữ sâu sắc. Tôi vẫn chưa thể nào
quên được hình ảnh của một cô bé vào mỗi buổi chiều lại lén lút đứng bên
ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp
nhau, cô bé ấy mới nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nên nhiều hôm để trâu
ăn lúa, nên bị bắt phạt. Thì ra cô ta cũng là người có tâm hồn. Khiến
tôi vẫn phải suy nghĩ rất nhiều mới có quyết định này. Rất may là sự
quyết định của tôi đã không nhầm.
+ Với bác, điều tâm đắc nhất trong những tác phẩm
của mình là gì, có thể định nghĩa được không?
- Trong thơ tôi có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất
nước được tự do, cho dân tộc được giải phóng khỏi ách đô hộ, đó là niềm
lớn nhất. Còn nhớ, ngày đó có một viên trung tướng phục vụ cho thực dân
Pháp được giao nhiệm vụ theo dõi để ám sát tôi. Vì lý do gì thì tôi
không biết, nhưng ông ấy đã tìm gặp và nói với tôi rằng, khi ông ta đọc
xong bài thơ Yên Mô thì ông ấy đã từ bỏ ý định ám sát tôi. Ông
ấy rất yêu bài thơ Yên Mô của tôi viết về quê hương ông.
Viên trung tướng nói, mỗi một lúc ông nhớ quê là lại
đọc bài thơ Yên Mô. Mỗi lúc định giết tôi, viên tướng lại nhớ
đến quê mình nên lại thôi. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Đặng Thai
Mai cũng đã từng nói rằng, ông rất thích câu thơ cuối cùng trong bài Yên
Mô: "Canh làng du kích Yên Mô/ Nửa đêm trăng mọc đỏ như cháy đồi".
Ông Đặng Thai Mai nhận xét rằng, câu thơ đã đốt cháy
rực cả bài thơ lên. Nửa đêm trăng mọc, nhưng người ta cứ tưởng là du
kích đánh cháy đồn địch. Cái sức sống mạnh mẽ trong mỗi tác phẩm thi ca
là ở chỗ phải ghi được dấu ấn trong một thời khắc đặc biệt.
Bài thơ Tình thủ đô cũng là một minh chứng xác
thực cho niềm tâm đắc mà tôi vừa nói ở trên. Vào những năm 50 của thế kỷ
trước, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn trước kẻ thù xâm lược là thực
dân Pháp. Một bộ phận trí thức chán nản, muốn quay lại nội thành Hà Nội.
Nhưng bài thơ Tình thủ đô đã kêu gọi được tầng lớp trí thức là
giáo viên, bác sĩ vững tin ở lại với kháng chiến, phục vụ cho kháng
chiến.
+ Cháu xin tò mò một chút! Khoản tiền 100 triệu đồng
thu về từ việc "bán" bài thơ Màu tím hoa sim đến nay bác sử
dụng thế nào rồi?
- Sự thật tôi không có ý định "bán" Màu tím hoa sim,
nhưng thấy họ giải thích thuyết phục nên mới xuôi lòng. Khoản tiền 100
triệu đồng, trừ thuế còn 90 triệu, chia "lộc" cho 10 người con hết 60
triệu đồng. Tôi giữ lại 30 triệu, phòng ốm đau lúc tuổi già.
- Xin cảm ơn bác và chúc bác một năm mới dồi dào sức
khoẻ!
Theo Lao Động
Dữ kiện theo Wilkipedia ngày 20 tháng 3 2010:0:
Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh tại quê ở
làng
Vân Hoàn, xã
Nga Lĩnh, huyện
Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa. Ông học
thành chung ở Thanh Hóa sau đó đi
dạy học và tham gia
Mặt trận bình dân năm
1936, tham gia
Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là
thành phố Thanh Hóa). Năm
1943, ông về gây dựng phong trào Việt Minh ở quê và khi cuộc
Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông làm Phó chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa
huyện Nga Sơn. Trước năm
1945, ông đã từng là cộng tác viên trên các tập san Văn Học, xuất
bản tại
Hà Nội[cần dẫn nguồn].
Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Uỷ viên Văn hóa trong Uỷ ban
hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách các ty: Giáo dục, Thông
tin, Thương chính và Công chính. Kháng chiến chống Pháp, Hữu Loan tham
gia
quân đội Nhân dân Việt nam, phục vụ trong
Đại đoàn 304. Sau năm 1954, ông làm việc tại Báo Văn nghệ trong một
thời gian. Trong thời gian
1956-1957,
ông tham gia
Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm do nhà văn
Phan Khôi chủ trương. Ông sáng tác những tác phẩm lên án thẳng thắn
và quyết liệt đến những tiêu cực của các cán bộ cộng sản nịnh hót, đố
kỵ, ám hại nhau v.v... như tác phẩm Cũng những thằng nịnh hót và
truyện ngắn Lộn sòng. Trong tác phẩm của mình, ông coi mình là
nạn nhân của xã hội cộng sản và phê phán xã hội này một cách kịch liệt.
Sau khi phong trào
Nhân Văn Giai Phẩm bị dập tắt vào năm
1958, nhà thơ Hữu Loan phải vào trại cải tạo vài năm, tiếp đó bị
giam lỏng tại địa phương[cần dẫn nguồn].
Cuối đời ông đang sống tại quê nhà.
Ông nổi tiếng với bài thơ
Màu tím hoa sim do ông sáng tác trong thời gian tham gia
kháng chiến chống Pháp và được lưu hành rộng rãi trong vùng kháng
chiến. Có thông tin cho rằng, do nội dung bài thơ nặng nề tình cảm và
ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý quân dân, nên ông bị giải ngũ [cần dẫn nguồn].
Ông từ trần vào lúc 19h00 ngày 18/3/2010, hưởng thọ 95 tuổi