Một cõi đi về cho Trịnh Công Sơn?
Hoàng Nguyên Nhuận
https://sachhiem.net/HOANGNN/Hoang11.php
22 tháng 3, 2008
LTS: Bài viết cách đây hai năm, sachhiem.net đăng lại để kỷ niệm 7 năm ngày qua đời của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (SH)
Tin từ quê hương cho biết tin vui cuối cùng nguyên văn,
“các vị lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và Thành phố Huế đã hứa cấp...
khoảng một ngàn mét vuông đất để xây dựng Khu lưu niệm” Trịnh Công Sơn.
Tin cũng cho biết Nhà Nước, cũng như thân nhân Trịnh
Công Sơn, không dính líu gì đến việc xây dựng và nội dung trưng bày khu lưu
niệm này. Đất chỉ được cấp theo yêu cầu của “những người bạn và những người
mến mộ âm nhạc Trịnh Công Sơn” thôi. Không nghe nói cả nước và cả thế giới
có được mấy người mến mộ âm nhạc Trịnh Công Sơn?
Ơn trả nghĩa đền cho Trịnh Công Sơn đã có công gây ra số
người mến mộ đó, và cũng là mến mộ đất nước Việt Nam, là một ngàn mét vuông
đất.
Một ngàn mét vuông? Nếu diện tích đất này mà nằm lọt
giữa Hà Nội hay TP HCM nơi mà đất đai được tính bằng số cây vàng cho từng
mét vuông thì quả tình một ngàn mét vuông chính quyền ban cho kể cũng nhiều
vô kể. Chỉ có một điều là khoảnh đất này nằm lọt thỏm giữa núi rừng trong
khu vực Dòng Thiên An cách trung tâm thành phố khá xa. Chọn nơi này làm cõi
đi về cho Sơn để Sơn vui với tiếng khỉ ho cò gáy, tiếng chim chóc hay tiếng
heo bò gà vịt từ khu chăn nuôi của Dòng Thiên An ngày xưa vọng sang thì cũng
được thôi. Có còn hơn không.
Nhưng một ngàn mét vuông để xây “... một khu nhà lưu
niệm với phòng trưng bày hình ảnh tư liệu hiện vật, phòng hội họp, nghe nhạc
tối thiểu vài trăm người, thư viện, quầy giải khát, điểm tâm, sân vườn có
thể chứa được 500 người ...” như ước nguyện của những bạn bè và người ái mộ
Sơn thì có được không? Bởi lý, một miếng đất giả dụ một bề 20 mét và một bề
50 mét, thì quả là dư thừa để xây một ngôi mộ, một bảo tháp hay kim tỉnh,
hoặc đủ để cất một quán cà phê bún bò bèo ram ít ướt, hoặc một dãy chuồng
gà, chuồng thỏ, chuồng heo hay một chuồng bò chuồng trâu chứa mươi mười lăm
con như khu nhà bếp và chăn nuôi ngày trước của Dòng Thiên An gần đó là
nhiều.
Nghe kỷ lại những bài như Cát Bụi, Một Cõi Đi Về, hay
ngay cả Cho Một Người Vừa Nằm Xuống... hẳn thấy Sơn không ham chuyện trăm
năm bia đá. Nhà lưu niệm nào có thể làm nơi an trú cho một một hạt bụi? Nhà
lưu niệm nào bằng con tim của những Việt còn biết yêu nước yêu người?
Nguyễn Du từng băn khoăn ba trăm năm sau còn ai nhớ mình
chăng? Trịnh Công Sơn không hỏi câu đó, và thực tình Sơn cũng không cần hỏi
câu đó, bởi còn Việt Nam, còn lịch sử Việt Nam, còn ngôn từ Việt Nam, còn
nhạc Việt Nam thì còn Trịnh Công Sơn.
Sơn sẽ sống mãi qua những người biết nói với người ngay
cả khi yêu thương ngất trời, ngay cả khi hy vọng chứa chan, ngay cả khi
cuồng nộ đắng cay tuyệt vọng phẫn hận nhưng chẳng thù đời hay xuôi tay bỏ
cuộc, mà vẫn còn muốn nói với nhau những lời êm dịu nên thơ.
Sơn sẽ sống mãi như những câu ca dao, những bài đồng dao, những bài quan
họ, những câu hò, câu vè vô danh, không cần tao đàn, nhạc việ, không cần quốc tử giám, không cần hàn lâm viện. Trong thế giới
nghệ thuật Việt Nam hiện đại, đặc biệt là âm nhạc và thơ văn, không có một
người Việt Nam nào được biết đến, được mến mộ, được yêu thương như Trịnh
Công sơn.
Trong khung cảnh văn hóa Tam giáo, Nguyễn Du đã nâng
ngôn từ Việt mà đặc thù là tiếng Nôm, đã nâng thi ca Việt mà đặc thù là Lục
Bát, lên hàng phổ biến, đã chứng tỏ không có ý nghĩ nào hay tư tưởng nào dù
cao siêu uyên áo thâm diệu đến đâu mà tiếng Việt không diễn đạt được, mà chữ
Nôm không viết được. Trịnh Công Sơn là người tiếp nối con đường hoàn thiện
ngôn từ Việt đó của Nguyễn Du, không chỉ bằng lời mà còn bằng nhạc. Không
những hoàn thiện mà còn, nói theo ngôn từ thời thượng, hiện đại hóa hay đổi
mới tiếng Việt nữa.
Cũng buồn cũng vui, cũng thất tình lục dục nhưng tiếng
nói của Trịnh Công Sơn là tiếng nói của thế hệ suy tư ở ngoài đường, thế hệ
đem tâm tình viết lịch sử, thế hệ xuống đường và đem cả bàn thờ xuống đường
để đặt lại vấn đề về ý nghĩa lịch sử, về lý tưởng đời người, lý tưởng quốc
gia và tình nhân loại. Đây là thế hệ nhìn thẳng vào mắt những người công an
cảnh sát dẹp biểu tình, những người lính ra trận, những thanh niên trốn quân
dịch, những con ông cháu cha êm ấm nhờ phúc nhà, những người lính đồng minh
đang tưởng mình là kẻ thế thiên hành đạo... để thầm nói với họ rằng: Tôi nổi
loạn và chúng ta hiện hữu. Thế hệ của Quảng Đức, Quách Thị Trang, Mai Tuyết
An, Nhất Chi Mai... Cái thế hệ chỉ sáu tháng vùng lên là đủ làm nghiên ngửa
một chính quyền đã thoát hiểm và đứng vững suốt chín năm sóng gió. Đó là một
sự thật, hiển nhiên như quê hương Việt Nam, như cuộc chiến cam go dành tự
chủ tự quyết, như ước vọng thanh bình đòi đoạn mong manh dai dẳng trong lòng
người Việt suốt bao thế hệ.
Cho nên, có làm gì cho Sơn, có nghĩ đến gì cho Sơn, thì
cũng là làm cho và nghĩ đến những người còn sống. Khu nhà lưu niệm Trịnh
Công Sơn là một cách làm, cách nghĩ đó. Vì tâm tình những thế hệ quá khứ, vì
tâm tư của thế hệ hiện tại và vì tiền đồ của những thế hệ tương lai.
Vấn đề còn lại là quyết tâm và vận dụng phương tiện.
Liệu cơm gắp mắm, với một ngàn mét vuông và không được một tài trợ chính
thức nào, bạn bè và người mến mộ Sơn có thể làm một kim tỉnh, một bảo tháp
theo mô hình Chùa Một Cột, một tượng đồng lớn theo mô hình Le Penseur của
Rodin, một tháp bút, một tháp hoa sen như ở quảng trường Duy Tân hay một bức
tường hoa cương như bia mộ đen ở Washington...bạn bè và những người mến mộ
Sơn không thiếu nhân tài để sáng tạo một mô hình độc sáng, không chỉ để
tưởng niệm Sơn mà để cho tất cả những người làm thơ, văn, họa, nhạc hiện đại
nổi tiếng của Huế, của miền Trung, của Việt Nam... Cho Sơn khỏi “nằm” trơ
trọi trên non một mình giữa nơi sơn lâm. Không sao cả. Bởi thiên tài nào mà
chẳng cô đơn. Ngày nào đây, có duyên may được cấp phát thêm mặt bằng thì lúc
đó hãy tính mở rộng thành một khu lưu niệm đúng nghĩa. Không ai xây Roma
xong một ngày. Chùa Một Cột hay tháp Thiên Mụ tự những ngày đầu có lẽ cũng
chơ vơ lạc lõng và cũng chẳng mấy ai nghĩ một ngày nào đây đã trở thành
những ngọn hải đăng tâm linh của Việt Nam như hôm nay.
Bạn bè và những người mến mộ Sơn cũng có thể xung phong
xin lại khu vườn chơi hoang phế dưới chân núi Ngự Bình và biến nơi đó thành
Lâm Viên Trịnh Công Sơn hay Đạo Tràng Trịnh Công Sơn, còn hơn là để làm nơi
xả rác cho người và trâu bò.
Gia đình thân nhân Trịnh Công Sơn hình như không đến nỗi
nào, bạn bè và những người mến mộ Sơn cũng có thể gây quỹ bằng cách thương
thuyết với họ để khai thác bản quyền của tất cả tác phẩm của Sơn còn giữ
được. Hoàn thành trung tâm còn dư thì dùng tiền đó tổ chức những giải
thưởng, những học bổng Trịnh Công Sơn. Phạm Duy, Hữu Loan làm được, Trịnh
Công Sơn tại sao không?
Có thể ngoại giao với chính quyền cho phép đấu thầu một
hai kỳ xổ số để gây quỹ không? Rồi các chùa, nhất là chùa Huế. Các chùa làm
sao quên được một người mà lời nhạc nhiều khi đã trở thành pháp khí, trở
thành những tiếng chuông tiếng mõ có tác dụng khai ngộ an tâm không kém gì
kinh kệ đúng nghĩa. Có thể vận động các chùa tiếp tay xây dựng trung tâm
Trịnh Công Sơn không? Tạo điều kiện cho sinh viên học sinh và các nhóm ái mộ
Trịnh Công Sơn tham gia việc gây quỹ xây dựng trung tâm tưởng niệm này. Mỗi
người một viên gạch, người yêu thương Sơn, nhớ Sơn trong nước ngoài nước,
không ít đâu.
Trịnh Công Sơn chết đã năm năm rồi, ngoài cái vườn chơi
Bình Qưới ở ngoại ô TP HCM, hình như chưa có một tượng đá, một công viên,
một tên đường, một khu bảo tàng... nào chính thức dành cho Sơn. Đặc biệt là
nơi chính quê hương chôn nhau cắt rốn của Sơn. Trong khi đó, tên tuổi của
những người như Trương vĩnh Ký, Alexandre de Rhodes, Nguyễn trường Tộ,
Paulus Của... xuất hiện khắp nơi, được tưởng niệm thường xuyên. Biết đâu mai
đây lại sẽ có cả Trần Lục, Nguyễn Thân tham dự nữa. Điều đó có công bằng hợp
lý cho một người như Sơn không?
Tưởng niệm Sơn không phải vì Sơn là người Huế, mà vì Sơn
là người Việt Nam. Không phải Sơn là người Việt Nam mà vì Sơn là người Á
châu. Không phải Sơn là người Á châu mà vì Sơn là người. Không “Ngụy”, không
“cách mạng”, mà cũng chẳng “cách mạng 30”, dù Bùi Giáng đã dạy cho Sơn một
bài học thực tế, thực tế như con cá sống vì nước. Bài học còn hai con mắt
khóc người một con. Khóc một con mắt thôi vì dù thương yêu mấy đi nữa, khổ
đau vì chia lìa mất mát mấy đi nữa thì cũng chỉ thương bằng một mắt, cũng
chỉ khóc bằng một mắt thôi, phải để dành con mắt kia mà sống, ngay cả sống
còn, sống sót. Con mắt còn lại đó lỡ kẹt phải bỏ nước ra đi thì để nhìn ghe
vượt biên, không ra đi mà ở lại thì để nhìn công an khu vực, để đọc hộ khẩu
và bảng hiệu cửa hàng nhu yếu phẩm. Trước, trong và sau cuộc đổi đời, Sơn đã
khóc, đã cười và đã sống, sống như một người, sống ra người. Hay nói như
Nietzsche, ecce homo! Chừng đó cũng đủ để nhớ Sơn rồi, không phải nhớ cho
Sơn mà nhớ cho chính mình, những người còn đang trả nợ đời.
Và đã nhớ thì gắng cho ra nhớ, đã tưởng niệm thì gắng
cho ra tưởng niệm, bất cứ nơi đâu, trong tâm, nơi tượng đài, công viên,
đường phố, trường ốc, quảng trường, nhịp cầu... đâu đâu cũng có thể mang tên
Sơn, nhắc nhớ Sơn, như Sơn đã và đang ở trong lòng nhân thế từ gần nửa thế
kỷ qua...
Đời mắc nợ hạt bụi Trịnh Công Sơn nhiều hơn là Sơn mắc
nợ cuộc đời.
HOÀNG NGUYÊN NHUẬN
Trại Đỗ Quyên 14/6/2006
nguồn: https://www.hopluu.net/HL90/HoangNguyenNhuan.htm
Một vài bài liên hệ xin hoan hỉ đọc thêm:
-40 Năm Hành Trình Âm Nhạc -Trịnh Công Sơn, Thái
Hòa và Tôi của Trần Tuyết Hoa [chuyenluan online số tháng 04/06]
-Trịnh Công Sơn và Tôi của Nguyễn Tú A
[chuyenluan online số tháng 04/06]
-Giã Từ Nguyễn Du Thế Kỷ 20 của Hoàng
Nguyên Nhuận [ Hoàng Nguyên Nhuận - Phồn Hoa Kinh, Văn Mới, Ca. 2003]
Trang Thời Sự