 |
29 tháng 3, 2011 |
1 2
3 4
Mục lục
Phụ lục
(tiếp theo)
Chương hai - Tượng và Tính
Đặt lại tính thể ngôn ngữ và tư tưởng
1.
Hölderlin là thi sĩ của thi sĩ, đó là lý do tại sao Heidegger đã chú
trọng đặc biệt đến Hölderlin để làm khởi điểm cho cuộc song thoại giữa thi
ca và triết lý; khởi điểm ấy cũng là đầu đường đi về tính thể của ngôn ngữ
và đồng thời trở về nguyên ngôn để vén mở nguyên tính (Sein).
Triết lý nói Nguyên Tính (das Sein)
Thi ca gọi Linh tánh (das Heilige)
Quan hệ tương giao giữa Nguyên Tính và Linh Tính là quan hệ tương giao giữa
Tính với Bản Tính (das Sein selbst).
2.
Tính (hay tánh)?
Đặt lên câu hỏi ấy là bắt đầu đi tìm mạch nước ngầm mà tư tưởng Trung Hoa đã
được nuôi dưỡng xanh tươi trong những thời đại thơ mộng thuở xưa.
Trong
Trung dung, Tính như thế nào? Thế nào là
xuất tính?
Tại sao Vương Dương Minh gọi Tính là bản thể của Tâm?
Tại sao Lục tổ Huệ Năng gọi Tính là vua (tính thị vương) trong
quyết nghi
phẩm của
Pháp bảo Đàn kinh?
Tại sao Bát nhã học trong Phật giáo gọi
Không là
vô tự tính?
Vô tự tính của Bát nhã học và
tự tính của Thiền học có khác nhau
không?
Huyền (hay
Thái huyền của Dương Hùng là gì?).
Những câu hỏi trên là những câu hỏi về tính (gọi là
tính vấn).
Những câu hỏi trên sẽ là khởi điểm cho cuộc
song thoại giữa tư tưởng Á
Đông và tư tưởng Âu châu và nước Việt Nam là mảnh đất hiện nay có đủ tính kiện
để cho cuộc
song thoại trên được tựu thành. Tựu thành là gì?
Đối thoại tựu thành
song thoại.
Song thoại tựu thành
độc thoại.
Độc thoại tựu thành
vô thoại.
Vô thoại tựu thành
vô ngôn.
Vô ngôn tựu thành
nguyên ngôn.
Nguyên ngôn tựu thành
nguyên tính.
Nguyên tính tựu thành
tính.
Tính tựu thành
vô tính
Vô tính tựu thành
không.
Không tựu thành
Huyền.
Huyền tựu thành
tự tính.
Tôi đã đùa chữ; nhưng đùa chữ là hoạt dụng của tự tính, gọi là hoạt dụng của
Thiền.
Hãy để ý:
- Thiền?
- Thiền là gì?
Câu hỏi thứ nhất là hoạt dụng của Thiền.
Câu hỏi thứ hai là hoạt động của sơ Thiền.
Hoạt dụng của Thiền là:?
Sơ thiền là:
là gì?
? là
dấu hỏi.
Là gì là
biểu tượng cho dấu hỏi.
Biểu tượng và dấu hiệu hoàn toàn khác nhau (tôi đã giải thích sự khác nhau ấy
trong chương nhất).
Huệ Năng là dấu hiệu.
Thần Tú là biểu tượng.
Dấu hiệu và biểu tượng khác nhau thế nào, sau đây tôi sẽ suy tưởng bằng cách lấy
ánh sáng Thiền chiếu rọi vào thơ của Hölderlin.
3.
Trong Mnemosyne (Zweite Fassung, ed. 7, Beissner, Stuttgart, Bd.
II, p. 204). chúng ta thấy Hölderlin viết:
Ein Zeichen sind wir, deutungslos
Schmerzlos sind wir und haben fast
Die Sprache in der Fremde verloren.
dịch là:
Chúng ta là một dấu hiệu, không ý nghĩa.
Chúng ta không là sự đau khổ và gần như đánh mất ngôn ngữ trong cõi lưu
đày.
Heidegger đã nhiều lần giải thích ba câu thơ trên trong tác phẩm triết học
của ông.
Bây giờ tôi muốn giải thích khác Heidegger. Tôi muốn giải thích
vượt lên trên Heidegger; đi lên hay đi xuống cũng chỉ là
một nghĩa. Đi xuống (untergehen) có nghĩa là đi lên (übergehen).
Khi tôi nói vượt lên trên Heidegger thì có nghĩa là vượt lên theo nghĩa
Nietzsche, nghĩa là đi lên xuống (đi xuống hố thẳm Heidegger).
Do đó, vượt lên có nghĩa là tựu thành.
Tựu thành ở đây không có nghĩa là làm xong, không có nghĩa Đức
ngữ là vollenden, ausführen, vollführen v.v.
Tựu thành ở đây có nghĩa là tựu lại cái tinh thành (garder… dans son
essence), tinh thành ở đây là tinh thể của tinh thể, gọi là tinh túy
(essence); do đó, tựu thành có nghĩa là se ménager mà chữ Đức của
Heidegger gọi là schonen.
Con người chờ đợi tính, nghĩa là giữ bốn nghi (thiên, địa,
thánh, nhân) trong tinh thành. Nói như Heidegger là giữ cái hình vuông (le
carré) trong tinh thể (dans son essence) nghĩa là “schonen”.
Như thế, vượt lên trên Heidegger có nghĩa là tựu thành
Heidegger.
Tựu thành Heidegger có nghĩa là giữ Heidegger trong tinh thành. Chỉ có thế.
4.
Ein Zeichen sind wir, deutungslos
Schmerzlos sind wir und haben fast
Die Sprache in der Fremde verloren.
nghĩa là:
Chúng ta là một dấu hiệu không ý nghĩa
Chúng ta không đau khổ
Và chúng ta dường như đánh mất ngôn ngữ nơi cõi lạ.
Heidegger đã giải thích ba câu thơ trên trong tính phận của tính thể; con
người mất trí nhớ, quên tính (Vergessenheit des Seins); do đó, con người gần
như đánh mất ngôn ngữ trong cõi lạ. Do đó mới có sự sụp đổ đau thương của
nhân loại hiện nay. Muốn sống cho ra hồn, con người phải tìm lại tính.
5.
Nếu dùng ánh sáng Thiền tông để chiếu rọi vào lối giải thoát của
Heidegger về câu thơ của Hölderlin thì ta có thể gọi lối giải thích ấy là
lối tri tính tiệm ngộ theo điệu của thiền sư Thần Tú.
Tư tưởng Heidegger rất giống và gần Thần Tú.
Thần Tú là biểu tượng
Mà Huệ Năng lại là dấu hiệu.
Biểu tượng rất có ích lợi và quan trọng. Biểu tượng đưa đến nền văn minh cao
độ của nhân loại hiện nay, nhưng biểu tượng vốn là dấu hiệu, thế mà biểu
tượng đã không kiến tự tính, vì thế mặc dù biểu tượng muốn giải thoát, nhưng
giải thoát khỏi biểu tượng vẫn là biểu tượng. Đó là sự thất bại của
Heidegger. Đó cũng là sự thất bại của Thần Tú.
NHƯNG SỰ THẤT BẠI NÀY RẤT CẦN THIẾT.
Và chính sự thất bại này tựu thành sự xuất hiện của Lục tổ Huệ Năng.
6.
Thần Tú là: “là gì?”
Huệ Năng là: “?”
Trong “là gì”, chúng ta thấy có dấu “?”.
Bốn chữ “là gì” là dấu hiệu thay thế cho dấu hiệu “?”.
Dấu hiệu không thể thay thế cho dấu hiệu.
Bởi thế ta gọi bốn chữ “là gì” là biểu tượng.
Thần Tú là biểu tượng.
Huệ Năng là dấu hiệu.
Không thể cho rằng Thần Tú đã sai.
Bởi vì trong biểu tượng có dấu hiệu rồi, trong “là gì?” đã có dấu “?”.
Thần Tú đã thất bại vì Thần Tú đã dạy đạo quá sáng sủa rõ ràng, chính sự
sáng sủa rõ ràng đã xua đuổi bóng tối, mà khi bóng tối bị xua đuổi, tức là
Huyền đã bị xua đuổi, Huyền tựu thành tự tính, tự tính tựu thành mặt trăng;
giáo thuyết của Thần Tú là ánh đèn; con người thường nhìn ánh đèn mà quên
mặt trăng.
“là gì” là ánh đèn.
“?” là bóng tối.
Trong “là gì”, ánh đèn đứng bên bóng tối. Bóng tối là dấu hiệu báo cho biết
sự có mặt của tính.
Ánh đèn là biểu tượng nói về sự vắng mặt của tính.
7.
Thần Tú là biểu tượng.
Huệ Năng là dấu hiệu.
Trong ngôn ngữ Đức, “dấu hiệu” được gọi là das Zeichen như trong câu
thơ của Hölderlin:
Ein Zeichen sind wir…
nghĩa là
Chúng ta là một dấu hiệu.
Tại sao Hölderlin nói rằng chúng ta là một dấu hiệu?
Dấu hiệu khác biểu tượng chỗ nào?
Ngôn ngữ Đức gọi “biểu tượng” là “das Sinnbild”. “Das Sinnbild” (biểu tượng)
và “das Zeichen” (dấu hiệu) khác nhau rất rõ ràng trong cách cấu tạo chữ
nghĩa.
8.
“Das Sinnbild” (biểu tượng) gồm có chữ “Bild” và chữ “Sinn”.
“Sinn” là ý nghĩa.
“Bild” là hình tượng, hình dung.
Tượng hình ý nghĩa cho dấu hiệu thì gọi là “biểu tượng” (das Sinnbild).
Dấu hiệu không có ý nghĩa; vì dấu hiệu mà có ý nghĩa thì gọi là “biểu
tượng”. Bởi thế tính chất của biểu tượng là có ý nghĩa, còn tính chất của
dấu hiệu là không có ý nghĩa. Do đó, chúng ta thấy Hölderlin viết câu đầu
của bài thơ như vầy:
Ein Zeichen sind wir, deutungslos
nghĩa là:
Chúng ta là một dấu hiệu, không có ý nghĩa.
Không có ý nghĩa tức là không lý do; không lý do tức là không lý trí; không
lý trí là không giải thích (deutungslos cũng có nghĩa là “không có sự
giải thích”).
Hölderlin là bạn thân của Hegel; hai người đã từng sống chung nhau một thời
gian nhưng sau này hai người bất đồng ý nhau và cùng xa lìa nhau.
Câu thơ của Hölderlin:
Ein Zeichen sind wir, deutungslos
(Chúng ta là một dấu hiệu, không có ý nghĩa).
bỗng làm mờ tối sự tương đồng tâm ý giữa Hölderlin và Hegel; bởi vì đối với
Hegel, mọi sự đều có ý nghĩa trong hệ thống suy tưởng của ông.
9.
Schmerzlos sind wir…
có nghĩa là:
Chúng ta không đau khổ, vì chúng ta là một dấu hiệu không ý nghĩa, chúng ta
không đau khổ.
Đau khổ chỉ xuất hiện với ý nghĩa. Con người sống trong ý nghĩa là con người
sống trong đau khổ: mà sống trong đau khổ có nghĩa là sống trong sự tượng hình ý
nghĩa (das Sinnbild), tức là sống trong biểu tượng.
Mỗi con người đều sống trong hai thế giới:
- thế giới dấu hiệu;
- thế giới biểu tượng.
Sống với dấu hiệu là sống với hình vuông tính học (carré ontologique) gồm có bốn
nghi (trời, đất, thần, người). Sống với dấu hiệu là sống hồn nhiên giữa tiết
điệu thơ mộng của vũ trụ.
Còn thế giới biểu tượng là một thế giới hình ảnh; sống với biểu tượng là sống
với mộng mị ảo tưởng; sống với biểu tượng là xa lìa tự tính.
Sự đau khổ chỉ xuất hiện với ý nghĩa mà khi chúng ta là dấu hiệu không có ý
nghĩa (deutungslos) thì chúng ta không đau khổ:
Schmerzlos sind wir…
Hölderlin lại viết tiếp:
und haben fast
Die Sprache in der Fremde verloren.
Nghĩa là:
Và chúng ta đã gần như đánh mất ngôn ngữ nơi cõi lạ…
Sự đau khổ chỉ xuất hiện với ngôn ngữ nhưng khi chúng ta đánh mất ngôn ngữ nơi
cõi lạ, thì sự đau khổ cũng tiêu ma đi. Nhưng chúng ta hãy để ý mà đọc lại câu
thơ cuối của Hölderlin:
und haben fast
Die Sprache in der Fremde verloren.
Trong câu thơ trên, chữ quan trọng nhất là trạng từ “
fast”; trạng từ “
fast”
có nghĩa là “dường như, hầu như, gần như”.
Chính do chữ
fast này mà tất cả ý nghĩa của ba câu thơ đã đổi khác; bây
giờ chúng ta đọc lại trọn ba câu thơ và nhất là đọc nhấn mạnh nơi chữ
fast
để lắng nghe ý nghĩa đổi khác như thế nào:
Ein Zeichen sind wir, deutungslos
Schmerzlos sind wir und haben fast
Die Sprache in der Fremde verloren.
Nghĩa là:
Chúng là một dấu vết, vô nghĩa.
Chúng ta vô giác trì độn và gần như đã quên mất tiếng nói nơi lưu đày.
Chính chữ FAST đã xoay hẳn ý nghĩa của bài thơ; chữ
fast làm “dấu hiệu”
trở thành “dấu vết” làm “không ý nghĩa” trở thành “vô nghĩa”, “không đau khổ”
trở thành “vô giác trơ trơ trì độn”, làm “đánh mất ngôn ngữ” thành “quên mất
tiếng nói”, làm “nơi cõi lạ” thành ra “nơi lưu đày”. Và chúng ta hiểu tại sao
Hölderlin đặt tên bài thơ là “Mnemosyne” (Trí nhớ, ký ức); chính câu thơ:
und haben fast
Die Sprache in der Fremde verloren. (gần như quên mất tiếng nói nơi cõi
lưu đày).
Chính câu thơ này giải thích nhau đề “Mnemosyne” vì “gần như quên mất tiếng nói”
chính là “gần như quên mất trí nhớ”.
Chính chữ “
fast” đã khiến mọi sự đảo lộn, thế giới dấu hiệu biến thành
thế giới biểu tượng, thế rồi con người bị đi đày giữa cõi sa mạc lớn rộng này
(die Wust wachst).
“Gần như” (FAST) có nghĩa là “chưa trọn” mà “chưa trọn” chỉ có nghĩa là “ở giữa”
(chữ Pháp gọi là “Entre”).
Con người ở giữa thú vật và thần linh; con người ở giữa thời khì “thần linh đi
mất” và thời kỳ “thần linh sắp hiện”.
Ở GIỮA tức là không gian của biểu tượng.
Dấu hiệu không phải Ở GIỮA mà là Ở NƠI.
10.
Ánh sáng Thiền tông xuất hiện.
Con người giải thoát là không còn ở giữa.
Con người giải thoát không “gần như” theo nghĩa “gần như” của chữ “fast”.
Con người giải thoát không sống trong thế giới biểu tượng, nghĩa là không
tạo, không tượng ý nghĩa (das Sinnbild).
Con người giải thoát không ý nghĩa (deutungslos), như vậy không ý nghĩa là
không đau khổ (Schmerzlos); không đau khổ là tiêu diệt đánh mất ngôn ngữ
(haben die Sprache verloren); tiêu diệt đánh mất ngôn ngữ là vì ở cõi xa lạ
(in der Fremde).
Cõi xa lạ (in der Fremde) là Niết bàn là Tây phương Tịnh độ; nhưng chính cõi
xa lạ ấy là ở nơi cõi này, ở nơi cõi trần gian này.
Con người giác ngộ là con người ở mà không ở, trú mà không trú, danh từ nhà
Phật gọi là “VÔ TRÚ”, vô trú là trú ở cõi xa lạ (in der Fremde), tức không
trú nơi cõi mình trú.
Lục tổ Huệ Năng lấy “vô niệm” làm tông, lấy “vô tướng” làm thể, lấy “vô trụ”
làm gốc.
Như thế, nếu bỏ chữ FAST trong ba câu thơ Hölderlin thì con người giác ngộ
là con người dấu hiệu:
Ein Zeichen sind wir, deutungslos
Schmerzlos sind wir und haben
Die Sprache in der Fremde verloren.
tức là:
Chúng ta là một dấu hiệu, không ý nghĩa.
Chúng ta không đau khổ và đánh mất
Ngôn ngữ nơi cõi lạ.
Câu thơ trên không có chữ “FAST” (gần như). Chúng ta hãy để ý rằng chính
chữ FAST đã gạch ra biên giới giữa vô minh và giác ngộ.
Giác ngộ là “nhất thiết vạn pháp bất ly tự tính”; do đó, Thiền tông vượt lên
trên Heidegger vì Heidegger cho rằng con người hiện nay đã “ly tự tính”, (tính
là Sein); đối với Thiền tông, con người “bất ly tự tính”, do đó “Bồ
đề tự tính bản lai thanh tịnh”.
Nếu bỏ chữ “FAST” trong ba câu thơ của Hölderlin thì ta thấy ba câu thơ ấy
nằm dưới ánh sáng Thiền tông như vầy:
Tông → vô niệm: haben die Sprache verloren;
Thể → vô tướng: Schmerzlos; deutungslos;
Gốc → vô trụ: in der Fremde.
Vì thế, con người giác ngộ là dấu hiệu (Zeichen) cho bát nhã, chân tính,
nguyên tính, chân như, v.v.
Bây giờ, ba câu thơ của Hölderlin bỗng loé lên ánh sáng tuyệt vời của nguyệt
bạch:
Ein Zeichen sind wir, deutungslos
Schmerzlos sind wir und haben fast
Die Sprache in der Fremde verloren.
Nghĩa là:
Chúng ta là một dấu vết, vô nghĩa
vô tri vô giác trì độn và gần như
quên mất tiếng nói nơi cõi lưu đày.
Dưới ánh sáng Thiền tông, ba câu thơ trên nói lên bi kịch của con người sống
trong vô minh, “deutungslos” biến nghĩa thành ra “vô nghĩa”, “Schmerzlos” có
nghĩa là “không đau khổ” nhưng biến nghĩa thành ra “vô giác vô tri”; do đó
“không đau khổ” trở thành đau khổ, nỗi khổ của một kẻ không còn biết khổ
(“vô giác”). Nhưng bây giờ, nếu chúng ta bỏ chữ “gần như” (FAST) trong ba
câu thơ trên:
Ein Zeichen sind wir, deutungslos
Schmerzlos sind wir und haben
Die Sprache in der Fremde verloren.
thì ý nghĩa lại đổi khác:
Chúng ta là một dấu hiệu, không có ý nghĩa, chúng ta không đau khổ và đã
đánh mất ngôn ngữ nơi cõi lạ.
“Đánh mất ngôn ngữ” ấy là “vô ngôn”, và cõi lạ ấy là cõi mà mọi người chúng
ta đều muốn quay về để tìm lại mái nhà xưa.
Chương ba - Ái và Tính
Đi về thể tính của siêu hình học và tư tưởng
1.
Những lực lượng vô hình đã tàn phá nước Việt Nam. Đó là những lực lượng
nào? Và tại sao gọi là vô hình? Và thái độ của con người thời đại đối với vô
hình như thế nào? Người ta thường bĩu môi chối bỏ vô hình vì cho rằng
đó là một cái gì trừu tượng, không cụ thể, không thực tiễn. Vậy thì trừu
tượng, không cụ thể, không thực tiễn có phải là xấu không? Và xấu
là gì? Và khi đặt lên câu hỏi “xấu là gì” là tự nhiên chúng ta đã bị
đưa vào thế giới trừu tượng, không cụ thể, không thực tiễn, nói tóm lại là
thế giới vô hình. Tại sao con người thời đại đều quý trọng đến hữu
hình, xác thực, thực tế, cụ thể? Tinh thần ấy là tinh thần gì? Ngay cả
một số Phật tử đã vô tình hiểu sai dụng ý của đức Phật và cứ cố gắng trích
mãi một câu chuyện ngụ ngôn của đức Phật về chuyện một người bị tên, vấn đề
đặt ra không phải là cấp bách cứu người bị tên bắn. Đó là “bon sens”.
Vấn đề cấp bách là phải biết mũi tên đã được bắn từ đâu? Từ cõi nào, từ
hướng nào mà không thấy hình tượng trong hiện cảnh; như vậy cõi ấy ở ngoài
hình ảnh một người bị tên bắn hiện nay, mà trong danh từ triết học thì được
gọi là cõi siêu hình.
[1]
Như thế muốn giải quyết trận chiến tranh hiện nay ở Việt Nam, không thể chỉ
giải quyết bằng bom đạn, bằng vũ lực hoặc bằng cái đối nghịch lại… Phải đặt
lại một nền tảng siêu hình và từ nền tảng ấy mới có thể thiết lập lại cõi
hữu hình, tức là tình cảnh bi đát của nước Việt Nam hiện nay?
Và nền tảng siêu hình ấy là nền tảng nào? Tôi xin nêu ra câu hỏi và chờ đợi
song thoại tính ngôn. Tôi đã có dịp làm sáng tỏ vấn đề trên trong việc tố
cáo sự thao túng của thể điệu tiền tượng – “représentation” (mà Heidegger
gọi là “das Vorstellen”) trong một bài tôi viết bằng Anh ngữ cho tập
Dialogue (nxb LB 1964) nhan đề là “The Ontological Background of the
Present War in Vietnam” và trong một bài khác cũng bằng Anh ngữ đăng
trên tạp chí Tư tưởng xuất bản tại Paris, bài này nhan đề là “Meditation
upon the Vietnamese War”.
2.
Khi đặt tên câu hỏi về sự tác dụng của siêu hình học, v.v., là đã
bị lôi vào một bối cảnh siêu hình đặc biệt nào đó rồi.
Tại sao lại bắt buộc phải hỏi về tác dụng của – thay gì về vô tác
dụng của – tại sao không thể có thứ passion de l’inutile của Jean
Giono hay service inutile của Henry de Montherlant?
3.
Tình yêu ban đầu có thể coi –
phải được coi như là việc sáng tạo ý
nghĩa (danh từ triết Đức gọi là
Sinn); lần đầu tiên, người con trai (hay
con gái) yêu đương là lần đầu tiên họ bắt đầu bị đánh lạc vào
thế giới ý
nghĩa (S.I. Hayakawa gọi thế giới này là “the verbal world”) một cách mãnh
liệt và bi đát nhất. Hắn tự tạo ra một
ý nghĩa và hắn đặt sự
tương
quan “thiên nhiên” giữa
ý nghĩa (tức là lời) và người yêu (tức là
thực thể hay thực tính; nói một cách khác, người
yêu ý nghĩa, chứ không
phải yêu người yêu; nói một cách khác nữa, người con trai yêu
thực tính thể
(yêu lời – nói theo Heidegger thì có nghĩa là bị rơi vào
bavardage, mà
chữ Đức gọi là Gerede).
Hai người yêu đi đến với nhau không phải bằng “Tính ngôn” hay “Nguyên ngôn”
(Ursprache) mà bằng “hình ngôn” hay “thể ngôn” (Sprache). Do đó sự tính cảm đã
bị đánh mất. Đó cũng là lý do để cắt nghĩa tại sao tất cả những mối tình đầu đều
đổ vỡ từ Tính nguyên – fondement (Grund), vì không có sự Nối liền (Fugen giữa
Ngôn ngữ và Tính – Mất fondement, Heidegger gọi là
Bodenlosigkeit.
Sự nối liền ấy, Heidegger gọi là
Fugen đứng trên bình diện Sein; còn
Jaspers gọi là
Verbindlichkeit, đó cũng là vai trò cốt yếu của Lý tính (
Vernunft)
theo nghĩa của Jaspers (cf. K. Jaspers (
Von der Wahrheit, Piper 1947, pp.
113, 114, 115, 131) hay (cf. K. Jaspers,
Philosophie 2e ed. Springer,
1948, p. 275).
Chất tính của Tình yêu là đợi. Tình yêu có hai loại: tình yêu
mong đợi và
tình yêu
chờ đợi. Tình yêu chờ đợi là tình yêu nối liền, còn tình yêu
mong đợi là tình yêu mất sự nối liền. Tình yêu chờ đợi là tình yêu về Tính (tức
tính ái); còn tình yêu mong đợi là tình yêu về thể (tức là
thể ái).
Chờ đợi là không chờ đợi cái gì cả; còn mong đợi là mong đợi một cái gì rõ ràng
hay mơ hồ; mong đợi có đối tượng; còn chờ đợi không có đối tượng, vì chính đối
tượng của nó đã là sự chờ đợi rồi. Tình yêu mong đợi mất tính nguyên; còn tình
yêu chờ đợi nằm trên tính nguyên (
Grund). Nhưng vượt lên trên cả hai thứ
tình yêu này là tình yêu không
chờ không
mong; tình yêu này là
tình yêu giải thoát hay giải thoát tình yêu: tình yêu này hủy diệt
Éros
và
Agapê; tình yêu không
mong không
chờ là tình yêu vượt
lên trên
thể ái và
tính ái.
- thể ái: quên mất tính nguyên.
- tính ái: tìm lại tính nguyên (Grund).
Còn tình yêu vượt lên trên
thể ái và
tính ái thì gọi là
vô ái.
Vô ái phái hủy
Tính nguyên và nhảy vào
Uyên nguyên. Nói
theo danh từ triết học Đức thì phá hủy
Grund để nhảy vào
Abgrund.
Triết lý của Heidegger đánh dấu sự tìm về
Tính nguyên; Heidegger tiêu
diệt hai ngàn năm triết lý Tây phương để chuẩn bị cho ngày mai xuất hiện.
NGÀY MAI ẤY SẼ KHÔNG BAO GIỜ XUẤT HIỆN.
Do đó, triết lý của chúng ta phải là
Triết lý về Hố thẳm.
Hố thẳm tiêu diệt Tính và Thời.
Hay nói khác đi thì Hố thẳm (
Abgrund) tiêu diệt
Sein und Zeit của
Heidegger.
Vô ái sẽ xuất hiện cùng lúc với
Vô ưu và
Vô ưu cùng lúc với
Vô tâm cùng lúc với
Vô trước; đồng loạt,
Vô trước cũng có
nghĩa là
Vô ngôn.
Và bởi vì
Vô ngôn cho nên những tư tưởng siêu hình học chấm dứt nơi
chương này, và phương trời của Vô ngôn sẽ chỉ còn là Thơ và Hoạ.
Chương tư - Thơ và Tính
Nhìn lại tính thể của thi ca và tư tưởng
Hôm nay, khi anh muốn hỏi tôi: “Ai là thi sĩ vĩ đại nhất của Việt Nam hiện
giờ?”. Tôi trả lời: “Quách Tấn là thi sĩ vĩ đại nhất của Việt Nam hiện giờ;
Quách Tấn là người đã đánh dấu thi ca tiền chiến và thành tựu thi ca hậu chiến
qua hai tập thơ Đọng bóng chiều và Mộng ngân sơn”. Nói như thế hãy
còn chưa nói được gì hết, tôi muốn nói thêm xem anh có phản ứng thế nào: “Quách
Tấn là một thi sĩ duy nhất của Việt Nam, đã thành tựu tất cả những gì mà Nguyễn
Du còn để dở dang; còn tất cả những thi sĩ khác, kể cả Hàn Mặc Tử, kể cả Xuân
Diệu, Huy Cận, v.v. đều là những thi sĩ thiên tài, nhưng không có đủ tất cả tính
kiện hay kiện tính trong thơ họ để tính dưỡng và thành tựu thi
cuộc mà Nguyễn Du đã mở đầu cho thi ca Việt Nam”.
Anh hiểu tôi muốn nói gì không, hỡi người thơ trẻ tuổi của nước Việt Nam hiện
nay?
Anh khoảng từ 16 đến 20 hay 30 tuổi, anh nuôi trong tim anh hào khí nhân loại,
anh làm thơ vì anh là thi sĩ hay nói ngược lại cũng được. Tôi đã đọc thơ các anh
làm trong những tạp chí văn nghệ ở Sài Gòn như Bách Khoa, Văn, Sáng Tạo Văn
Nghệ, v.v. Anh có thể khiêm nhường, anh có thể kiêu ngạo vênh váo: điều ấy
không quan trọng đối với tôi. Chỉ có một điều vô cùng quan trọng đối với tôi là
đọc những bài thơ của anh làm và đăng trong những tạp chí ấy, tôi thấy ngay sự
nghèo nàn của tâm hồn anh, sự quờ quạng lúng túng, sự lặp đi lặp lại vô ý thức
hay có ý thức, lòng sợ hãi rụt rè, một đám tình cảm sướt mướt lải nhải, niềm mơn
trớn vuốt ve đau khổ chung hay riêng, trí thức mười lăm xu, ái quốc nhân đạo ba
mươi lăm xu, triết lý tôn giáo bốn mươi lăm xu.
Văn nghệ đã chết.
Ngay cả Rimbaud, người đã giết văn nghệ, ngay cả Rimbaud cũng đã chết. Anh hay
tôi phải yêu Rimbaud, phải đọc Rimbaud, hãy đồng hoá với Rimbaud, phượng thờ
Rimbaud và hãy chôn vùi Rimbaud xuống năm chục tấc đất.
Rimbaud đã chết từ lâu; mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây, tôi phải giết
Rimbaud, Dostoievsky, Nietzsche trong mỗi một lời mỗi một cử chỉ, mỗi một cái
nhìn, mỗi một hơi thở, mỗi một bước đi, mỗi một cái búng tay.
Tôi biết rằng anh đã sợ hãi, anh sợ hãi vì anh chỉ muốn bắt chước thiên tài, chứ
không muốn làm thiên tài; anh sợ hãi vì anh làm thiên tài, chứ không là thiên
tài: anh sợ hãi vì anh tầm thường, chứ không chịu sâu sắc: anh sợ hãi vì anh
chịu sâu sắc, chứ không chịu im lặng; anh sợ hãi vì anh chịu im lặng, chứ không
dám ồn ào; anh sợ hãi vì anh chỉ dám ồn ào; chứ không dám làm thơ; anh sợ hãi vì
anh làm thơ, chứ không để thơ làm anh; anh sợ hãi vì anh để lời làm anh, chứ anh
không làm lời. Lời đi từ Ngôn; Ngôn đi từ Vô ngôn; Vô ngôn đi từ Huyền, mà Huyền
thì “huyền chi hựu huyền”.
Thi ca đã chết.
Giở ra những tập thơ của Lưu Trọng Lưu, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan
Viên, v.v. tôi có cảm giác là phải bị đem nhốt trong một xà lim để chờ ngày tử
hình và những thi sĩ ấy là những ông cố đạo, họ bước vào xà lim tôi, họ ba hoa
rủ tôi vào đạo, rủ rê tôi phải chịu rửa tội. Tôi muốn mửa máu độc vào người họ.
Đó là chưa nói đến những nhà thơ cách mạng, tôi muốn để họ yên, vì họ cũng bị
nhốt trong xà lim, họ khác tôi là họ bị nhốt, mà không phản đối hay đã phản đối,
họ khác tôi là họ bị nhốt mà không biết bị nhốt, họ là Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi,
Pablo Neruda, Paul Eluard, Aragon, v.v.
Hỡi các anh làm cách mạng, anh phá một xã hội định thể để rồi bị nhốt vào
một xã hội định thể khác. Tôi đã bị nhốt trong xà lim, tôi không phá, tôi
không hy vọng, tôi không chịu rửa tội vì tôi hoàn toàn vô tội; tôi đã bị nhốt
trong xà lim, nhưng tôi có thể nhốt xà lim lại, xà lim sẽ bị tôi nhốt tù.
Như một ông thánh vô tội, tôi quì xuống trong xà lim và ca một bài ca mới; bài
ca mới ấy là bài ca không lời, bài ca ấy là số 1, số 2, số 3, số 4. Số một là
Thái cực hay Đạo, số hai là Lưỡng nghi, số ba là Tam tính và số bốn là Tứ tượng.
Cứ thế rồi tôi lại tiếp tục ca hát lại từ số 1 cho đến số 4; cái khoảng Chuyển
thời từ số 4 đến số 1 là Phi thời, gọi là Vô cực.
Tôi quì xuống trong nhà ngục xà lim đen tối, tôi để cho số 1 đi vào lỗ mũi, cho
số 2 đi ra hai lỗ mũi, cho số 3 đi vào hai lỗ mũi, cho số 4 đi ra hai lỗ mũi.
Tôi cứ để cho bốn số ấy đi vòng vũ trụ cho đến khi nào tiếng đập tim tôi đi
thành 1, thành 2, thành 3, thành 4 và bốn số ấy là 4 tiếng đập tim của tôi.
Tôi quì xuống xà lim đen tối và tịch nhiên bất động: Tôi bình thản chờ đợi 4 số
chuyển động theo đồng loạt với 4 tiếng đập tim. Một tiếng sét sẽ đánh mạnh vào
đầu tôi, đi xuống tim tôi và sẽ nổ tung lên và sẽ phá tan cả ba trăm ba chục
ngàn vũ trụ. Vô cực xuất hiện!
Lúc bấy giờ, các anh là những thi sĩ ở Việt Nam, các anh sẽ chạy tìm thi sĩ
Quách Tấn, các anh muốn quì lạy trước thiên tài Quách Tấn, thi tài bị bỏ quên
của Việt Nam, nhưng một tấn bi kịch Hy Lạp lại tái diễn; lúc ấy, Quách Tấn đã
chết rồi, vì lúc ấy có lẽ là 2.000 năm sau Thiên Chúa giáng sinh.
Còn tôi, các anh không thể tìm ra tôi nữa, vì tôi đã xuất tính rồi: tôi
biến thành lửa của những vũ trụ mới.
Thơ đã chết.
Ngày 10 tháng 8 năm 1966, tôi đã gặp Henry Miller tại California ở Mỹ quốc. Tôi
có hai người bạn vong niên trong đời: một người tên là Quách Tấn, người Việt
Nam; còn người kia là Henry Miller, người Mỹ. Quách Tấn gần 60 tuổi. Henry
Miller gần 80 tuổi. Tôi đã quen hai người gần 10 năm rồi; năm nay tôi gần đúng
25 tuổi; tôi đã quen họ từ lúc khoảng 15 tuổi. Hồi còn ở Việt Nam, tôi thường
gặp Quách Tấn, nhưng đối với Henry Miller, mãi đến lúc tôi xuất ngoại, tôi mới
gặp lại. Tôi đã chuẩn bị 10 năm trời để gặp Henry Miller và tôi đã gặp Henry
Miller tại Pacific Palisades ở California.
Giấc mộng đã thành tựu, tôi liền lang thang ở Greenwich Village tại New York để
gặp một thi sĩ rất trẻ, một người em kiếp trước của tôi, tên là Eduardo Zalamea,
quê ở xứ Colombie thuộc Mỹ châu La Tinh, người mà Henry Miller cho rằng “đã nếm
Vô cực”; gặp xong Eduardo Zalamea rồi; hai đứa tôi rủ rê nhau lang thang qua Hà
Lan để rồi trở về Paris vào mùa xuân; thế rồi lúc đó, tôi thấy mỗi đứa nên tìm
cách đi riêng, một người bạn Do Thái ở Los Angeles cho tiền máy bay và ngày hôm
sau tôi ngồi uống cà phê đen tại quán Flore và Les Deux Magots ở Saint Germain
des Prés để ngửi cho tận cùng những thứ triết lý ba chục xu của Jean Paul Sartre
và Simone de Beauvoir; khi ngồi uống cà phê ở Flore và nhìn mưa rơi trên đường
phố Saint Germain des Prés, tôi đã thấy hết mọi lý luận rẻ tiền của triết lý
hiện sinh, tôi muốn mửa máu đen trên những người làm văn nghệ ở Paris như Jean
Paul Sartre, André Malraux, Simone de Beauvoir, François Mauriac, Michel Butor,
Samuel Beckett, Ionesco, Nathalie Sarraute, André Breton, Jacques Prévert, Paul
Eluard, Henry Michaux, René Char, Jean Genet, Roger Caillois.
Ngồi tại quán cà phê ở Flore ở Paris vào lúc mùa thu, ngày cuối thu mưa rơi,
ngày 16 tháng 11 năm 1966, ngồi đó như một người hành khách ngồi trong nhà đợi
tại một ga hẻo lánh nào trong miền thôn quê của cõi chết, tôi sực nghĩ ngợi tìm
thử coi có một con người nào ở nước Pháp này mà tôi muốn gặp không; khi tự hỏi
như vậy, tôi mới biết rằng chỉ có hai người: Blaise Cendrars và Simone Weil:
nhưng vui sướng biết bao là Blaise Cendrars và Simone Weil đã chết rồi, như thế
thì chẳng còn ai để đáng được gặp. Còn về Jean Paul Sartre và Simone de
Beauvoir, nếu họ muốn xin gặp tôi, tôi sẽ không cho gặp mà có lẽ sẽ chửi vào mặt
họ.
Tư tưởng đã chết.
Có một lần tôi định qua Đức và có một anh bạn hỏi tôi có muốn gặp Heidegger
không, tôi trả lời: “Không muốn gặp”. Heidegger đã biết rằng Tư tưởng đã chết;
Heidegger nói chuyện rù rì với Hölderlin, Rilke, Van Gogh, George Tralk.
Heidegger cũng sẽ nói chuyện rù rì với tôi trên con đường của “tịch nhiên bất
động”; tôi đã nói chuyện rù rì với tôi quá nhiều rồi; như thế cũng đủ rồi, tôi
không muốn sang Đức để gặp Heidegger, tôi để Heidegger tự đào mộ chôn Heidegger;
và mười năm sau, từ Ấn Độ và Tây Tạng, tôi sẽ đi qua tân Đức quốc để đặt
Heidegger một vòng hoa phương Đông mà tôi để cho đoá hoa “suất tính” (Seinlassen)
và lúc đó dù đã chết, Heidegger cũng sẽ mỉm cười toại nguyện.
Ngồi uống cà phê tại quán Flore ở Saint Germain de Prés, tôi lo nghĩ vớ vẩn mà
quên Quách Tấn, tôi đã nghĩ đến cuộc song thoại giữa thơ và tính, giữa
thi ca và tư tưởng, rồi sau đó tôi lặng hồn, chìm hồn, du hồn té ngửa vào
trận mưa cuối thu ở Paris và nhìn những chiếc lá long bong theo đường mưa. Một
câu văn của Céline bỗng giáng trần và đập mạnh vào đầu tôi như một nhát búa: “Je
boudrais que le printemps revienne jamais”. Tôi cũng muốn hét theo Céline:
“TÔI MONG RẰNG MÙA XUÂN KHÔNG TRỞ VỀ, KHÔNG BAO GIỜ TRỞ VỀ NỮA”. Tôi vừa đọc
xong của Céline thì bỗng nhiên tôi ứa nước mắt; nước mắt làm ướt cả bầu trời
Paris: “Tôi mong rằng mùa xuân không bao giờ trở về nữa”.
Người duy nhất trong đời tôi muốn gặp là Henry Miller, người duy nhất trong đời
tôi thờ phượng là Henry Miller, Henry Miller mà Lawrence Durrell đã đặt ngang
hàng với Whitman và William Blake, mà nhóm Beat Generation gọi là “ông Phật
sống”, mà thi sĩ Karl Shapiro gọi là “nhà văn vĩ đại nhất của nhân loại, mà đang
còn sống”, tôi muốn đặt Henry Miller ngang hàng với Milarepa (mà Henry Miller
bái phục), ngang hàng Lão Tử (mà Henry Miller thần phục), tôi muốn đặt Henry
Miller vượt lên trên Whitman (mà Henry Miller kính phục), vượt lên trên Elie
Faure (mà Henry Miller mến phục), vượt lên trên Nietzsche (mà Henry Miller quí
phục).
Tôi đã gặp Henry Miller và Henry Miller đã ôm tôi, ghì ôm lấy tôi khi tôi nói:
“Tôi sẽ giết Henry Miller”, sau khi tôi đã ghi lên vách phòng Henry Miller mấy
câu này: “Gặp Phật, giết Phật! Phùng Phật sát Phật!”. Henry Miller đã nhờ tôi
viết lên vách câu ấy và khi tôi viết xong, tôi nhìn thẳng vào mắt Henry Miller
mà nói: “Tôi sẽ giết anh, hỡi Henry Miller!”. Anh cảm động muốn khóc và ôm lấy
tôi, ghì ôm tôi thực chặt; lúc ấy trong vũ trụ có người thấy hai ngôi sao nhập
nhau làm một, và một làm ra hai, hai làm ra ba, rồi ba làm ra bốn, và cả muôn
triệu tỉ vũ trụ thành hình xoay chuyển chung quanh chữ A, chữ B và chữ C, viết
bằng mẫu tự La tinh, nhưng suất tính theo mẫu tự Phạn ngữ và mẫu tự Tàu
thời Phục Hy và mẫu tự Hy Lạp thời Anaximandre.
Người mà Henry Miller phục nhất đời là Arthur Rimbaud; Henry Miller nói rằng mỗi
khi đọc Arthur Rimbaud thì Henry Miller “run lên như chiếc lá”; trong
buổi gặp gỡ lạ lùng tại California ấy, Henry Miller gọi tôi là Arthur Rimbaud,
là hậu kiếp của Arthur Rimbaud, là Rimbaud đầu thai ở thế kỷ XX; Henry Miller có
viết những câu đại loại như vậy khi đề tặng quyển The Time of the Assassins
cho tôi (tôi đã gửi quyển ấy về cho Hoài Khanh ở Biên Hoà do nhà Bưu điện của
trường đại học Columbia chuyển đi).
Văn nghệ đã chết
Thi ca đã chết.
Thơ đã chết.
Tư Tưởng đã chết.
Heidegger đang tự đào mộ để tự chôn.
Arthur Rimbaud cũng đã chết.
Henry Miller thấy rằng Arthur Rimbaud đã đầu thai trong tôi.
Tôi giựt mình và nói: “Tôi sẽ giết ông”.
Tôi đòi giết luôn cả Henry Miller.
Và Henry Miller tặng tôi một quyển sách nhan đề “Thời giết người” (The
Time of Assassins).
Và Céline đòi giết luôn cả mùa xuân: “Tôi mong rằng mùa xuân sẽ không bao giờ
trở lại”.
KHI TẤT CẢ ĐỀU BỊ GIẾT HẾT RỒI, CHÚNG TA CÒN GÌ?
Chúng ta còn tiếng gọi đò.
Tiếng gọi đò của Quách Tấn, tiếng kêu đò của một thi hào vĩ đại nhất hiện nay
của Việt Nam, người đã thành tựu thi cuộc “quải thu phong” của Nguyễn Du.
Quách Tấn sống trong im lặng, trong tịch nhiên bất động giữa những huyên náo của
thời đại, người đã cô đơn độc đạo một mình ôm hết cả trời Đông để bình tâm nhìn
vào những tàn phá của giây kẽm gai, của máy phát thanh, của tàu bay, của đèn nê
ông, của muôn ngàn hệ lụy ly tính trong lòng đời.
Đời nửa khói mây chìm bóng mộng
Gọi đò một tiếng lạnh hư không.
Hai câu thơ của Quách Tấn là điểm đầu, đỉnh núi đầu để từ đó tôi tìm về thể tính
của Thi Ca và Tư Tưởng, của Thơ và Tính, của Vô cực trong Uyên Nguyên Bát Bất.
(còn tiếp)
[1] “Siêu hình” và “Siêu hình học” là những tiếng đã bị bôi
nhọ. Hơn nữa dịch “métaphysique” là “siêu hình” hay “siêu hình học” là dịch
ép, vì chính chữ “hình” đã là “siêu hình”, vì “hình” là siêu thực (danh từ
Đức gọi là
Bild. Xin đọc cuốn
Holzwege của Heidegger, chương
Die Zeit des Weltbildes). Tôi xin đề nghị dịch chữ “Métaphysique” là
“Siêu thể học”, nghĩa là vượt lên trên thể và tính thể để trở về Tính (Sein)
của Heidegger hay Chân Ngôn (Logos) của Hécralite (mà Heidegger gọi là
Ontologie: theo nghĩa uyên nguyên là nối liền đồng hoá Sein với Logos, vì
thế ontologique nên dịch là tính ngôn; chữ Hy Lạp to on: tính,
logos:
ngôn).
Nguồn: Phạm Công Thiện. Hố thẳm của tư tưởng - Đặt lại căn
nguyên tư tưởng hôm nay-Thể và Tính. Tái bản lần thứ ba (Có thêm bớt đôi
chút). Phạm Hoàng xuất bản, Sài Gòn 1970. Bản điện tử do talawas thực hiện.