Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?
Trần Thanh Lưu dịch cuốn
“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan
bản rời || Mục Lục | 21 tháng 9, 2010
Chương 20
Hai Tổng Thống Ca-tô Và Một Giáo Hòang Cách Mạng
Sự Sụp đổ của Đại Chiến Lược Hoa Kỳ-Vatican tại Việt Nam.
► Một hồng y, hai anh em và Eisenhower ► Những lời tiên tri của thánh Malachy ► Những kỳ vọng của "Giáo hoàng người Mỹ" đầu tiên ►
Rạn nứt giữa hai Tổng Thống Ca-tô ► Với Kennedy: Chính trị đứng trước tôn giáo ► Điều khó xử của Kennedy ► Việc bầu cử một giáo hoàng cách mạng và cú sốc tại Bộ Ngoại giao ► Sự
đổ vỡ của cuộc thập tự chinh chống cộng Hoa kỳ-Vatican ► Giáo Hoàng John XXIII quở trách Tổng thống Diệm ► Đoàn đại biểu Phật giáo đến Vatican ► Tổng thống Diệm bắt đầu gây nguy hiểm cho các hoạt động chiến tranh Mỹ tại Việt Nam ► Việc xét lại tại Washington ► Từng bước trượt về phía bờ vực Việt Nam ► Tổng thống Kennedy và các đại sứ tuyệt vọng của ông ► Quyết định cuối cùng ► Sự kết thúc của Diệm và em trai.
Không nên đánh giá thấp vai trò của Hồng y
Spellman trong việc củng cố quan hệ đối tác Vatican-Hoa Kỳ. Nếu không có sự thủ
diễn của ông ta như là đại sứ đặc quyền của các anh em nhà Dulles với Giáo
Hoàng, và ngược lại thì mối quan hệ đặc biệt của Hoa Kỳ với Vatican sẽ không bao
giờ được phát triển. Nhờ Spellman, Dulles đã có thể tạo nên một liên kết bán bí
mật với Vatican và bỏ qua các cảnh giác chính thức của Bộ Ngoại giao bao gồm cả
việc phải báo cáo theo luật định cho Tổng thống và các cố vấn của ông ta.
Tướng Eisenhower, về cơ bản là một quân nhân, xem bất kỳ liên minh nào mà không
được yểm trợ bởi các đòan đại quân đều không quan trọng. Do đó ông đã tự thuyết
phục rằng vai trò của một nhà thờ trong chiến dịch chống Cộng là chuyện nhỏ, cho
dù đại diện bởi Vatican hay không. Hai anh em nhà Dulles đã không làm gì nhiều
để ngăn cản niềm tin này vì nó đã cho họ sự tự do đeo đuổi các cuộc thập tự
chinh riêng về ý thức hệ và các đề án chiến lược mà họ đã khởi động.
Spellman, kẻ đã có một chân ở Capitol Hill và một ở tòa thánh St Peter tại Rome,
và với sự dính líu trong hầu hết các vấn đề liên quan đến anh em nhà Dulles và
Giáo Hoàng, đã trở thành không thể thiếu cho cả hai trong việc điều hành Liên
minh Vatican-Hoa Kỳ.
Bên cạnh giá trị của mình trong việc thúc đẩy lợi ích Ca-tô trong mọi lĩnh vực ở
quốc nội, ông là một loại kỳ tài trong hầu hết các lĩnh vực khác như kinh tài
cao cấp. Ngòai việc làm cho tổng giáo phận của mình giàu nhất ở Mỹ, ông đã giúp
giải quyết những khó khăn tài chính nhất định cho chính Vatican. [1] Nhưng
Spellman giỏi nhất trong các vấn đề chính trị, quốc nội, và quốc tế. Những âm
mưu ngoại giao của ông ở đấy đã trở thành phương ngôn mà ai cũng biết.
Được phú cho việc che chở bởi cá nhân Giáo Hoàng và của Bộ trưởng Ngoại giao,
sức mạnh thuyết phục của ông ta nhân danh các chính sách chung của họ đã trở
thành gần như không thể cưỡng lại được trong các giới có ảnh hưởng quyền lực
nhất của Hoa Kỳ. Trong số này bao gồm ngoại giao, tài chính, và chính trị cũng
như thông tin đại chúng. Bởi vì ảnh hưởng rộng lớn này, Spellman đã hành động
rất giống một Giáo hoàng Mỹ. Thật vậy tổng giáo phận của ông đã được gọi là
Vatican nhỏ ở New York.
Để thêm trọng lượng cho sự bảo trợ của ông trong việc can thiệp của Mỹ tại Việt
Nam, sau cùng Spellman được đề cử làm Tổng Tuyên Úy của lực lượng vũ trang Mỹ,
và trở thành một khách viếng thăm thường xuyên - dùng máy bay phản lực quân sự
Mỹ - đến các chiến trường Việt Nam. Khi không duyệt binh lính Mỹ, mà ông gọi là
Lính của Chúa, ông tung hòanh trong môi trường chính trị với vai trò của
mình là một tu sĩ, nhà ngoại giao, và đại sứ chính thức của Mỹ.
Spellman, như đã nói ở nơi khác, đã là một trong những người đở đầu sớm nhất của
nhà lãnh đạo vô danh người Việt lúc đó, Diệm. Từ lúc khởi đầu, khi Diệm đi tìm
kiếm sự bảo trợ của người Mỹ ở Hoa Kỳ, Spellman đã thuyết phục nhiều chính trị
gia có ảnh hưởng, bao gồm Thượng nghị sĩ Kennedy vị Tổng thống tương lai, để hỗ
trợ cho Diệm ưu ái hơn các ứng viên khác. Ông đã ca ngợi tính thật thà, liêm
chính, lòng mộ đạo của Diệm, và trên hết sự quyết tâm chống cộng của ông ta. Đặc
tính cuối này đã làm cho Spellman quí mến che chở với Bộ Ngọai giao, mà cuối
cùng đã quyết định lựa chọn ông ta.
Khi Giáo hoàng Pius XII qua đời vào năm 1958, các hoạt động của Hồng y Spellman
đã gia tăng cùng với việc vận động hành lang của mình trên Capitol Hill. Đã có
tin đồn là ông sẽ trở thành Giáo hoàng người Mỹ đầu tiên.
Spellman đã không hề ngăn chận những tin đồn
ấy vì ông vẫn ngấm ngầm nuôi một tham vọng lâu dài về ngôi giáo hoàng [2]. Thật
vậy, ông tự tin kỳ vọng rằng các hồng y tại Mật Viện Đầu Phiếu sắp tới sẽ chọn
ông là kẻ kế thừa của Pius XII qua việc ghi nhận những nỗ lực ngoại giao chống
Cộng hiệu quả của ông, mà ông đã rất thành công tiến hành thay mặt cho giáo
hoàng quá cố và Bộ Ngoại giao.
Spellman là một người tin tưởng vững chắc vào
những lời tiên tri của thánh Malachy, nhà tiên tri Ái-nhĩ-lan ở thế kỷ 12, và đã
coi rất trọng lời tiên tri ấy về ngôi giáo hoàng. Thánh Malachy, kể từ thời của
mình trở đi, đã gán đặc trưng cho mỗi giáo hoàng, với một thẻ bài Latin cho thấy
những tính cách cơ bản của mỗi giáo hoàng. Ông đã phân biệt kẻ kế thừa cho Pius
XII là "Pastor et Nauta", Shepherd and Navigator: “Kẻ chăn chiên và Người lái
tàu”.
Trong thời Mật Viện Đầu Phiếu vào năm 1958, tham vọng giáo hoàng của Spellman
trở thành lời đàm tiếu ở Rome, gói gọn trong một câu chuyện đùa đương thời. Theo
câu chuyện tiếu lâm thì Spellman đã thuê một chiếc thuyền cho chạy lên và xuống
dòng sông Tiber với niềm tin rằng ông đã giúp thực hiện lời tiên tri.
Kết quả của cuộc bầu cử là điều mà Hồng Y Spellman đã không dự kiến được. Hồng Y
Roncalli, Thượng phụ thành Venice đã trở thành Giáo hoàng John XXIII mới ((LND:
Giáo dân Việt hay gọi là Gioan 1958-1963). Sự tương phản giữa Giáo hoàng Pius
XII và Giáo Hoàng John XXIII càng sâu sắc. [3] Gần như qua đêm, các quan hệ đối
tác giữa Washington và Vatican bị sụp đổ. Hồng y Spellman đã bị xua đuổi khỏi
tiền sảnh điện giáo hoàng hầu như cùng một lúc. Ông không còn là sứ giả được
hoan nghênh và thường xuyên từ hai anh em nhà Dulles chống cộng điên cuồng nhất.

Giáo hoàng John XXIII (1958-1963) đã đảo ngược các chính sách chống Cộng của người tiền nhiệm, Giáo hoàng Pius XII. Ông bắt đầu đối thoại với những người Cộng sản ở châu Âu và báo hiệu với Nga Xô rằng Vatican sẽ sẵn sàng hợp tác với nước ấy. Ông là cha đẻ của Công Đồng Vatican II và chính sách đại đòan kết tôn giáo. Mặc dù ông đã không phản đối chiến tranh Việt Nam, ông đã quở trách Tổng thống Diệm về việc đàn áp Phật giáo đồ bởi vì nó đe dọa chính sách mới của ông về khoan dung đại đòan kết và hợp tác với các tôn giáo khác. Trong khi không từ bỏ sự liên lụy Việt-Mỹ, ông đã bí mật hợp tác với những người Cộng sản trong việc chuẩn bị một tương lai thống nhất Việt Nam theo chủ nghĩa Marx dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh.
Sự bị hất hủi đột ngột của ông khỏi Vatican
là một cú đánh cá nhân vào niềm tự hào nội tâm đến nổi ông không thể phục hồi
được từ đó cho hết phần còn lại của đời ông.
Bộ Ngoại giao cũng bị sốc không kém và lo lắng vào những gì có thể bị kéo theo.
Vatican dưới triều Giáo hoàng John đã hoàn toàn đảo ngược chính sách trước đây
của nó. Chiến lược chống Cộng Vatican-Hoa Kỳ bị tan vở chỉ trong vài ngày. Kết
quả của tai họa bất ngờ như vậy đã không hề được tiên đoán và đã buộc Mỹ thay
đổi đại chiến lược chống Cộng của mình từ trên xuống dưới.
Trong khi Mỹ đang xem xét sách lược thì hai
sự kiện có tầm quan trọng lớn đã diễn ra tại Việt Nam và ở ngay chính nước Mỹ.
Tại Việt Nam nhờ vào những kẻ bảo hộ của mình, Diệm đã trở thành tổng thống và
đã bắt đầu củng cố chế độ của mình với một sự trộn lẫn khả dụng động lực tôn
giáo và các hành vi chính trị bạo tàn. Tại Mỹ, Kennedy, nhà bảo trợ trước đây
của Diệm, đã vào Nhà Trắng như là Tổng thống Ca-tô đầu tiên trong lịch sử Mỹ.
Những kỳ vọng của Hồng y Spellman được làm sống lại một phần và một thời gian
ngắn … Ứớc mơ của ông là một Tổng thống Ca-tô sẽ giúp củng cố tổng thống chế
Ca-tô ở Việt Nam, bỗng biến mất. Trong khi Kennedy đã chơi một trò chơi chờ đợi
về việc phải làm gì với đối tác tổng thống Ca-tô ở Việt Nam thì ông này lại giở
trò làm bực mình công luận quần chúng Mỹ với các chiến dịch đàn áp Phật giáo của
ông ta.
Dù không chống lại nỗi cuộc vận động hành lang quốc hội Hoa Kỳ của Ca-tô giáo và
những luận cứ của Spellman, Kennedy đã kháng cự lại áp lực của họ muốn đặt tất
cả trọng lượng của Mỹ đằng sau chế độ Ca-tô của Diệm. Ông này đã không những chỉ
bị công luận tại Việt Nam căm ghét và tạo ra thù hận với quần chúng Phật giáo,
ông lại bị công luận Mỹ xa lánh ở một mức độ chưa hề biết đến. Các cuộc tự thiêu
của các nhà sư Phật giáo, đã quá rùng rợn và kinh hoàng đã gây ảnh hưởng bất lợi
đến công luận Mỹ chống lại Ca-tô Diệm.
Kennedy là một chính trị gia quá sắc sảo
không dại gì hỗ trợ các thiển cận tôn giáo của một tổng thống Ca-tô và sự im
lặng của Vatican để gây nguy cơ ảnh hưởng đến sự nghiệp tương lai của mình.
Vốn là chính trị gia tỉnh táo ông đã đặt lên
hàng đầu sự nghiệp chính trị của ông tại quốc nội, và thứ yếu các chính sách
không phân minh của giáo hội mình, biểu hiện bởi Diệm. Thái độ của Kennedy làm
Spellman chán nãn, mặc dù Kennedy đã ra lệnh gởi 16 ngàn lính Mỹ vào Việt Nam
như là một sự vuốt ve cho hồng y; bước đầu định mệnh của Hoa Kỳ vào trong vũng
lầy quân sự ở Việt Nam. Việc gởi quân đã làm dịu các thành phần ồn ào nhất trong
bộ phận vận động hành lang Ca-tô tại Hoa Kỳ, đã cho nó như là một bước đi đúng
hướng. Tuy nhiên đến lúc này, mối chính trị của quan hệ đối tác Mỹ-Vatican cũ đã
hoàn toàn thay đổi.
Giáo hoàng John XXIII đã nhanh chóng bắt đầu chỉ đạo giáo hội hướng tới một
"modus vivendi" (lối sống tương nhượng) với chủ nghĩa cộng sản, với mục tiêu
cuối cùng là hòa hỏan với chính Nga Xô. Phương châm của ông, trái ngược với của
Pius XII và các anh em nhà Dulles, là không còn thêm một cuộc đối đấu chống cộng
nữa, mà là hợp tác; không chiến tranh, mà là cảm thông. Trong khi chính sách của
giáo hoàng đã bắt đầu có hiệu lực, Diệm vẫn tiếp tục tăng cường đàn áp chống lại
Phật giáo đồ của Việt Nam với kết quả ngày càng khiếp đãm.
Giáo hoàng John trong khi không bao giờ công khai lên án sự ngược đãi như vậy,
đã riêng tư khuyến cáo Diệm nên thận trọng và chừng mực. Sự bách hại không chỉ
làm xấu hình ảnh của Giáo hội Ca-tô trên thế giới nói chung, và đặc biệt là ở
Mỹ, nhưng ngay chính Giáo hoàng John đã thực lòng tin vào sự hòa giải với các
tôn giáo phi-Ki-tô và những ý thức hệ cách mạng. Kết quả từ lòng tin của giáo
hoàng như thế đã sinh ra một sản phẩm được gọi là chính sách đại đòan kết tôn
giáo, một sáng tạo của giáo hội, hơn bất cứ điều gì khác, đặc trưng của triều
giáo hoàng của ông, kẻ đã gợi hứng ban đầu cho Công Đồng Vatican II, mà từ đó nó
sinh ra.
Được khuyến khích bởi chính sách đại đòan kết tôn giáo của Giáo hoàng John, các
Phật tử bị bách hại đã kêu gọi ông nên can thiệp với Diệm. Một phái đoàn Phật
giáo đã trực tiếp đến Vatican và đã được Giáo Hoàng tiếp. John đã cho họ lời bảo
đảm và nói với họ rằng ông sẽ cố gắng thuyết phục Diệm để trở nên nhân từ và
công bằng với tôn giáo của họ. Đoàn đại biểu Phật giáo đã trở về Việt Nam, nhưng
chính sách khủng bố, thay vì dịu lại, bạo lực lại gia tăng. Phật tử đã bị bắt
giữ, đánh đập và bị bỏ tù. Cả thế giới đều rúng động. Công luận Mỹ cũng thế.
Tổng thống Kennedy cũng thế, ông đã đe dọa sẽ cắt đứt mọi viện trợ cho Việt Nam
và cho Tổng thống Diệm. Nhưng một lần nữa chẳng đi đến đâu.
Dù chúng tôi đã bàn đến trong các chương trước đó, nó có thể đáng được quan tâm
ở đây để mô tả một số chi tiết các chuỗi sự kiện mà những nhân vật chính bị đẩy
về phía bờ vực. Nó sẽ cho thấy làm sao mà nhiệt tình tôn giáo và các giáo điều
ngoan cố của hai anh em, Diệm và thủ lãnh ngành mật vụ, thúc đẩy họ xem thường
dư luận của người Mỹ và thế giới, khueýen cáo của Kennedy, và sự chống đối gia
tăng của các Phật giáo đồ. Cái cảm quan làm nhiệm vụ nhân danh Ca-tô giáo gây
hứng cho họ bỏ qua những cảnh báo đáng ngại về sự sụp đổ sắp xảy ra, rồi kết
thúc bằng họ bị ám sát.
Trong khi đó Tổng thống Kennedy áp lực với Giáo hoàng John thông qua Hồng y
Spellman cố gắng kềm chế Diệm. Không có kết quả rõ ràng. Để chứng tõ rằng ông có
trách nhiệm phải làm, Kennedy đã bước một bước quyết lịêt và thay đổi Đại sứ Hoa
Kỳ ở Việt Nam. Sau đó, trong tháng bảy năm 1963, ông đã gửi cho Diệm một tin
nhắn cá nhân thông qua đại sứ Nolting trong một nỗ lực tuyệt vọng để thuyết phục
Diệm và các anh em Ca-tô của mình, thủ lãnh ngành mật vụ, tổng giám mục thay đổi
chính sách đàn áp của họ.
Những nỗ lực của Kennedy lại một lần nữa tỏ ra vô hiệu. Ngược lại, thủ lãnh của
ngành mật vụ lấy lý do là những phần tử cộng sản đã được khám phá trong hàng ngủ
Phật tử, đã biến chiến dịch kỳ thị khắc nghiệt thành đàn áp tôn giáo. Hàng ngàn
tăng ni và các nhà lãnh đạo Phật giáo đã bị bắt. Chùa chiền đã bị đóng cửa và bị
bao vây. Phật tử đã bị tra tấn bởi cảnh sát. Một ngày một nhà sư khác đã tự
thiêu trước công chúng để thu hút sự chú ý của thế giới về chính sách khủng bố
của người Ca-tô. Tổng thống Diệm, không nao núng, tiếp tục chính sách của ông.
Mật vụ nhồi nhét thêm nhiều sư sãi vào nhà tù. Một nhà sư thứ ba tự thiêu, và
tiếp theo là vị khác. Trong một thời gian ngắn, bảy vị đã tự thiêu ở nơi công
cộng. Việt Nam đã bị đặt dưới thiết quân luật. Bây giờ quân đội chiếm đóng nhiều
chùa chiền và xua đuổi tất cả tăng ni kháng cự. Nhiều tăng ni đã bị bắt và đưa
đi trong xe tải, bao gồm một số lượng lớn người bị thương. Nhiều người đã thiệt
mạng. Lực lượng đặc biệt của Nhu, bất cứ khi nào có cơ hội, đã ồ ạt tấn công vào
các tự viện với súng tiểu liên và lựu đạn để thi hành thiết quân luật.
Mười ngàn Phật tử tham gia một cuộc tuyệt thực tại Sài Gòn bị phong tỏa, trong
khi một tiếng chuông ngân dài từ tháp chính của chùa Xá Lợi để phản đối sự đàn
áp. Tại Huế, ở phía Bắc (của miền Nam Việt Nam), các tăng ni chống cự mãnh liệt
tại chùa tỉnh hội Từ Đàm, hầu như bị phá hủy, trong khi 11học sinh Phật tử tự
thiêu bên trong.
Chính quyền Diệm, thay vì cố gắng xoa dịu đối thủ khuấy động của mình với một
chính sách thỏa hiệp, đã từ chối xem xét những điềm báo trước. Nó đã dấn thân
vào sự trơ tráo tự diệt và tự cho mình chính đáng. Không nhượng bộ, nó kêu gọi
cả giáo chức và học sinh giữ bình tĩnh và sáng suốt để có thể “nhìn ra sự thật"
liên quan đến "vụ Phật giáo." Tổng thống Diệm lại bồi thêm xúc phạm vào tổn
thương bằng cách bảo rằng giải pháp phải là giải pháp của ông ta. "Tôi dứt
khóat," ông nói lúc đó, "rằng các chính sách của chính phủ... không thể đảo
ngược được." [4]
Nhưng, trong khi thái độ của Tổng thống Diệm
đã không linh hoạt với tình hình càng xấu đi nhanh chóng, phản ứng của các cộng
sự thân cận lại thản nhiên mù quáng đến khó hiểu. Điều này có lẽ, tốt nhất có
thể được tóm tắt bằng một nhận xét của Phó Tổng Thống khi trả lời một cho một
phóng viên nêu lên vấn đề tự thiêu của các nhà sư Phật giáo và những nỗ lực của
một nữ học sinh trẻ đã cố chặt cánh tay của cô tại chùa Xá Lợi lúc 10:00 tối
ngày 12 Tháng 8, l963. Phó Tổng Thống trả lời "Tôi rất buồn khi nhìn thấy rằng
các trường hợp tự thiêu và tự hủy diệt chỉ làm phí phạm nhân lực." [5]
Phó tổng thống Thơ còn đi xa hơn. "Hành vi như vậy," ông tuyên bố, "không phải
là rất cần thiết tại lúc này." [6] Tiếp sau đó ông lại nói thêm điều dối trá lớn
nhất của thế kỷ: "Họ có thể làm cho công chúng tin rằng," ông nói, "Phật tử đang
gây áp lực lên chính phủ.” [7] Chẳng bao lâu sau Hoa Kỳ áp lực thậm chí còn mạnh
mẽ hơn và đe dọa cắt tất cả các viện trợ cho Tổng thống Diệm. Một lần nữa, lại
vô hiệu. Đại sứ của miền Nam Việt Nam tại Washington, một Phật tử, từ chức để
phản đối. Em trai và em dâu của Tổng thống Diệm, bà Nhu, chế giễu công khai việc
các nhà sư Phật giáo đã tự thiêu, tuyên bố rằng họ đã sử dụng "xăng dầu nhập
khẩu" để " nướng thịt " chính mình.
Đến lúc này nhà lãnh đạo Phật giáo, Thích Tri
Quang, đã phải thóat thân xin tị nạn trong tòa đại sứ Mỹ. [8] Chính phủ Mỹ đã
trở nên công khai thiếu kiên nhẫn. Bộ Ngoại giao Mỹ đã ra tuyên bố chính thức
lên án các hành động đàn áp mà chính quyền Nam Việt Nam chống lại Phật giáo đồ.
"Dựa trên các thông tin nhận được từ Sài Gòn rõ ràng là chính phủ của nước Cộng
hòa Việt Nam đã thiết lập các biện pháp đàn áp nghiêm trọng đối với các nhà lãnh
đạo Phật giáo Việt Nam," nó viết rõ. "Hành động này biểu lộ sự vi phạm trực tiếp
của chính phủ Việt Nam về việc bảo đảm rằng nó đang theo đuổi một chính sách hòa
giải với Phật giáo đồ. Hoa Kỳ lên án hành động đàn áp lọai này." [9]
Việt Nam bị chia rẽ. Quân đội đã trở thành
công khai bất kham và tỏ bày đề kháng thụ động, không chống Cộng sản, mà chống
lại chính phủ của mình. Kết quả: Cuộc chiến chống lại Cộng sản Bắc Việt đã nhanh
chóng bị thua thiệt, vì tòan khối dân chúng mà cuộc chiến đấu dựa vào sự hỗ trợ,
cuối cùng đã dừng lại, từ chối hợp tác.
Mãi sau Hoa Kỳ đã ra tay khi nhận ra rằng chiến lược của nó trong phần ấy của
châu Á đang bị nguy hiểm nghiêm trọng. Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ, phối hợp
với các thành phần Phật tử Việt, thiết kế thành công một cuộc đảo chính. Các
cánh cực hữu người Ca-tô ở Mỹ đã không còn ở trung tâm của sự kiện như họ đã
từng có dưới chính quyền Eisenhower, trớ trêu là mặc dù họ đang ở trong một
chính quyền của Mỹ được điều hành bởi Tổng thống Ca-tô đầu tiên. Tuy nhiên, họ
vẫn còn quan hệ tốt với một số thành phần cao cấp của CIA. Biết được những gì
đang tiến hành, họ đã thực hiện một nỗ lực tuyệt vọng cuối để huy động công luận
Mỹ ủng hộ Diệm. Họ tài trợ một chiến dịch để chống lại kế họach đã được Bộ Ngoại
giao và những người khác đã quyết định số phận của Diệm tiến hành. Bà Nhu, vợ
của thủ lãnh mật vụ, được mời qua và "giải thích" tình hình trung thực với người
Mỹ.
Bà Nhu đã đến và liền gọi điện thọai cho
người bảo trợ chính của chế độ Diệm, Hồng y Spellman. Bộ máy Ca-tô giáo rộng lớn
tức thì họat động để làm cho chiến dịch thành công. Báo chí Ca-tô, những cá
nhân, tổ chức, tất cả các dây mơ rễ má rộng lớn có thực hay không của Ca-tô liền
được chuyển động để gây áp lực lên phương tiện truyền thông đại chúng của Mỹ.
Trong khi lực lượng yểm trợ tàng ẩn Ca-tô giáo làm việc đằng sau hậu trường, các
giáo dân Ca-tô có ảnh hưởng đứng hàng đầu để tài trợ, ủng hộ, và đẩy mạnh tuyên
truyền cho bà Nhu trong việc vận động cho chế độ Diệm. Clare Booth Luce, người
đã cải sang đạo Ca-tô được biết khi làm đại sứ tại Rome, lại còn Ca-tô hơn cả
chính Giáo Hoàng, đã nhận làm tùy viên báo chí, nhà quản lý chiến dịch và tài
trợ chung cho Bà Nhu.
Việc đón tiếp em dâu của Tổng thống Diệm tõ
rõ giới Ca-tô ở Mỹ, đã không hề lên án những sự đàn áp tôn giáo, lại mặc nhiên
chấp thuận hoặc công khai hỗ trợ chúng như thế nào. Mặt khác giới Tin Lành và
phóng khoáng người Mỹ nói với Bà Nhu một cách cứng rắn rằng những sự đàn áp tiến
hành bởi chồng và anh rễ của Bà đều bị người dân Mỹ ghê tỡm. Chẳng hạn trong một
chuyến thăm Đại học Columbia

Bà Nhu, vợ của người thủ lãnh ngành mật vụ, đã bôi bác các vụ tự thiêu như sử dụng "xăng dầu nhập khẩu" để tự "nướng thịt" họ. Bà đã quyết liệt thúc đẩy Ca-tô-hóa miền Nam Việt Nam ngay cả sau khi rõ ràng là sự ủng hộ của Mỹ đang bị đe dọa. Bà ta liền thực hiện một vòng vận động ở Mỹ để "giải thích" tình hình đích thực với người Mỹ. Người đầu tiên mà bà ta gọi điện thọai là Hồng y Spellman, nhà bảo trợ chính của chế độ Diệm. Bộ máy rộng lớn của Ca-tô giáo ở Mỹ liền họat động để làm cho chiến dịch của bà thành công. Báo chí Ca-tô liên hợp với các cá nhân và các tổ chức có ảnh hưởng đứng đầu để tài trợ, hỗ trợ và vận động sự biện hộ của bà Nhu đối với chế độ Diệm. Sau vụ thảm sát Tổng thống Diệm và chồng của bà ta, Ngô Đình Nhu, bà đã rút lui về Rome vào năm 1964.
bà Nhu đã bị sinh viên la ó chế nhạo. Tuy
nhiên tại Đại học Fordham, bà lại được "nhiệt tình" tiếp đón bởi 5 ngàn sinh
viên Ca-tô tại trường dòng Tên. Sự khác biệt nổi bật trong việc tiếp đón bà bởi
hai thành phần khác nhau của giới trẻ Mỹ thực đáng kể, đặc biệt trong quan điểm
nếu thực tế là 5.000 sinh viên với thầy giáo dòng Tên của họ thường tự hào là
luôn tin vào sự tự do tôn giáo. Việc đón tiếp của dòng Tên còn gây sửng sốt hơn
nữa bởi vì Vatican, kể từ khi Giáo hoàng John XXIII lên ngôi, đã không hề khuyến
khích sự nhiệt thành tôn giáo của anh em Diệm, như chúng tôi đã đề cập, mà lại
còn lạnh nhạt với họ nữa. [10] Đã có nhiều dịp Vatican thậm chí đã yêu cầu ông
tổng giám mục ngừng ban "hướng linh" cho tổng thống và người đứng đầu ngành mật
vụ. Ông tổng giám mục hoàn toàn bỏ qua những sự khiển trách này, ngoan cố từ
chối tin rằng xu thế ý thức hệ không còn được phát huy bởi John Foster Dulles và
Giáo hoàng Pius Xll.
Nhưng trong khi đó sự thật là chính sách của
Pius XII đã được sửa đổi rất nhiều, sự thật cũng không kém rằng Giáo Hoàng John
và Tổng thống Kennedy đã phải rất thận trọng dò dẫm tình hình. Mặc dù mỗi người
do lý do đặc biệt riêng của mình đều mong muốn giảm giọng điệu siêu-Ca-tô của
triều Diệm, vẫn không thể làm như vậy một cách quá lộ liểu. Điều này chủ yếu là
bởi chính sách Á-Mỹ-Vatican quyện vào nhau do chính quyền Mỹ trước đó, qua Hồng
Y Spellman và giáo hoàng Pius XII. Sự đảo ngược công khai đại chiến lược của
Dulles-Pius có thể gây nên những nghi ngờ thân cộng và vuốt ve chủ nghĩa cộng
sản quá khích tại Châu Á – điều nên tránh, nhất là khi những lời buộc tội lọai
này được thực hiện bởi bộ phận vận động hành lang châu Á mạnh mẽ ở Washington
hoặc bộ phận vận động hành lang người Mỹ tại Vatican, chưa kể đến ngay cả miền
Nam Việt Nam.
Một sự kiện lớn bên ngoài miền Nam Việt Nam đã giúp kết thúc các vấn đề. Giáo
hoàng John qua đời. Một vài ngày trước khi sự suy sụp của Tổng thống Diệm, nhà
sư thứ bảy đã tự thiêu chỉ một trăm mét cách nhà thờ Ca-tô La Mã tại Sài Gòn với
một phái đòan Liên Hiệp Quốc tìm kiếm sự kiện ở gần đó.
Tổng thống Diệm và thủ lãnh ngành mật vụ, đến giờ này vẫn hoàn toàn mù lòa bởi
tấm che tôn giáo của họ, tự cô lập mình khỏi mọi chuyện ở Nam Việt Nam, cũng như
họ đã làm trước đây đối với bên ngoài của nó.
Hơn bao giờ hết Diệm thiếu năng lực thỏa hiệp. Giống như người em của ông ta,
ông không có lòng nhân. Đại sứ của ông tại Washington, trước khi từ chức để phản
đối sự đàn áp Phật giáo đồ đã gán kết Diệm và người em của ông ta: "Họ rất giống
như án quan thời Trung cổ," ông nói, "những kẻ tự cho mình công chính và rằng họ
sẽ đốt chết kẻ khác vì lợi ích riêng của họ, và vì lợi ích của nhân loại, để cứu
họ khỏi mọi tội lỗi.” [11]
Đó là đúng những gì đã thúc đẩy Tổng thống Ca-tô Diệm suy nghĩ và hành động như
ông ta đã từng làm. "Chúng tôi phải tiếp tục tìm kiếm Nước Chúa và công lý", ông
viết, vài năm trước khi ông trở thành tổng thống, từ một chủng viện, trong đó
ông đã từng sống (trớ trêu là ở Mỹ), "Mọi việc khác sẽ tự nó theo sau." [12]
Nó đã đến. Nhưng với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Kennedy và các cố vấn quân sự của
ông đã trở nên ngày càng lo lắng về hiệu quả quân sự mà chính sách đối đầu cuồng
tín của Diệm với Phật giáo đồ có thể gây ra trong việc chỉ huy tổng quát các
cuộc hành quân của Mỹ và Nam Việt Nam. Trừ phi chấm dứt tức thì, Diệm đã trở
thành một trở ngại nghiêm trọng nhất cho việc tiến hành hiệu quả cuộc chiến
tranh chống lại Cộng sản miền Bắc. Chiến dịch của ông chống Phật giáo, cộng thêm
vào sự đối đầu rộng rãi của giáo dân Ca-tô miền Bắc gây ra sau cuộc thóat chạy
của họ từ miền Bắc, bắt đầu cản trở các kế hoạch của Mỹ.
Sau sự đánh giá kéo dài và đau đớn, Kennedy và các cộng sự thân cận cuối cùng đã
đi đến kết luận rằng cách duy nhất để lọai chế độ Diệm là lọai bỏ chính Tổng
thống Diệm. Đã có báo cáo mâu thuẫn nhau về cách thức quyết định cuối cùng đã
đạt được và bởi ai. Mặc dù sách báo đã mô tả các bước của quá trình, cuối cùng
nó lộ ra một cuộc ám sát Diệm lạnh lùng đã được lên kế hoạch. [13]
Trong khi đó Diệm và các anh em của ông ta,
vẫn tự tin vào tính công chính của hành động của họ như cũ, tiếp tục họat động
như không hề có điều gì xảy ra, dù những hành vi đáng ngờ của một số quan chức
Mỹ. Chiều ngày 01 Tháng 11 1963, Tổng thống Diệm đã đãi trà với Đô đốc Harry
Felt, tổng tư lệnh lực lượng Mỹ tại Thái Bình Dương, và với Henry Cabot Lodge,
đại sứ Mỹ, người đã đánh điện về Washington mấy giờ trước đó rằng giờ cuối cùng
của Tổng thống Diệm đã đến. Không lâu sau đó các người âm mưu lật đổ đã ra tay.
Vào lúc bình minh ngày hôm sau quân đội của họ chiếm dinh tổng thống.
Tổng thống và người em trai, thủ lãnh ngành
mật vụ đáng sợ, đã trốn mất. Tuy nhiên một vài giờ sau đó, họ dự lễ trong Nhà
thờ St Francis Xavier (LND: Nhà thờ Cha Tam) tại Sài Gòn và sốt sắng rước thánh
thể. Khi bị phát hiện họ liền bị bắt và bị bắn. Đó là ngày 2 tháng 11, ngày Cầu
Hồn (the Feast of All Souls). Cơ thể của họ đã
được đặt tại bệnh viện St Joseph, chỉ có vài trăm mét cách chùa Xá Lợi, nơi mà
cuộc kháng chiến Phật giáo đã bật tia lửa nổi dậy đầu tiên mà cuối cùng đã tạo
ra một kết thúc bi thảm cho chính sách độc tài Ca-tô của Tổng thống Diệm. Từ đó
hai đứa con trai mộ đạo nhất của Giáo Hội Mẹ đã chết.
Và với họ cũng chết theo chế độ chính trị mà họ đã cố gắng áp đặt, vì lợi ích
của Giáo Hội mình lên trên một kẻ phi-Ca-tô không khứng chịu, thậm chí quốc gia
phi-Ca-tô. [14]
Ghi chú cuối chương:
1. Để biết thêm chi tiết xem cuốn “VATICAN Hàng tỷ đô la”, của cùng tác giả,
Chick Publications, 1983.
2. Xem thêm cuốn “Liên Minh VATICAN MOSCOW WASHINGTON” của cùng tác giả, Chick
Publications, 1983.
3. Chi tiết, xem “VATICAN TRONG NỀN CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI” hoặc “CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
VATICAN TRONG THẾ KỶ 20” hoặc “ĐÔ LA VÀ VATICAN” của cùng tác giả.
4. Tổng thống Diệm trong một cuộc phỏng vấn dành cho Marguerite Highness,
phóng viên của tờ The New York Herald Tribune, 14 tháng 8 năm 1963. Xem thêm
"Vấn Nạn Phật giáo" - Tài liệu Cơ bản, Volume 11, từ 22 tháng tám năm 1963, đến
02 tháng 9 năm 1963.
5. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ, tại một cuộc họp báo tại Điện Diên Hồng, 13
Tháng Tám năm 1963. Xem tài liệu chính thức của Chính phủ miền Nam Việt Nam,
"Vấn Nạn Phật giáo", "Vị trí của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa." Tài liệu Cơ bản,
Tập 1, từ ngày 6 tháng 5 năm 1963, đến ngày 21 Tháng Tám 1962, p. 34.
6. Đã dẫn. p. 35.
7. Như trên.
8. Ngày 2 tháng 9 1963.
9. Ngày 21 tháng tám năm 1963, The New York Times. Ngày 22 tháng chín năm 1963,
The Times, London.
10. Mặc dù Tổng giám mục Thục đã có mặt tại Rome để dự Công Đồng Vatican II. Năm
1964 ông đã bị Giáo hoàng Paul VI làm bẽ mặt, đã từ chối tiếp ông ta. Vì thế sau
đó Tổng giám mục Thục, đã đến gặp Hồng Y Spellman, tỏ vẽ đòan kết.
11. Trần Văn Chương, Đại sứ của Nam Việt Nam tại Washington và cha của bà Nhu.
Xem thêm “Nho gia cuối cùng” The Last Confucian,
bởi Dennis Warner.
12. Xem “Nho gia cuối cùng”, bởi Warner Dennis
13. Để biết chi tiết của quyết định, xem báo cáo đặc biệt của US News & World
Report, 10 tháng 10 năm 1983. Còn có, Time, Ngày 14 tháng 11 năm 1983.
14. Sau sự sụp đổ của Diệm, vận mệnh của Ca-tô cũng bị tổn thương theo. Nhưng
sau đó giáo dân Ca-tô tự tái tập hợp lại, nhờ vào sự bảo trợ của các đồng đạo
người Mỹ của họ và do Vatican. Khi cuộc chiến tái tục ở mức độ rộng hơn và Hoa
Kỳ đã gửi sang hàng trăm ngàn quân, Vatican và Hoa Kỳ tái tổ chức đạo Ca-tô ở
miền Nam Việt Nam như là một vũ khí chính trị.
Sau đây là chuỗi các quá trình:
Ngày 27 tháng 2 năm 1965, Giáo hoàng Phaolô (Paul) kêu gọi hòa bình ở Nam Việt
Nam.
Cùng ngày, ông gửi một bức thư gửi cho tất cả các giám mục Ca-tô của Nam Việt
Nam.
Giữa tháng Tư giáo dân Ca-tô bắt đầu các cuộc biểu tình chống lại Thủ tướng Phật
giáo (LND: Thủ tướng Phan Huy Quát)
vì ông có khuynh hướng trung lập.
Ngày 2 tháng 5, Henry Cabot Lodge đã có một chuyến thăm bí mật với Giáo Hoàng
Phaolô tại Vatican.
Ngày 10 tháng 5, một Đảng Ca-tô được chính thức thành lập ở Nam Việt Nam. Tháng
sau, các Giám mục miền Nam Việt Nam kêu gọi tất cả giáo dân Ca-tô tuân đức vâng
lời.
Sau lời kêu gọi, có những cuộc biểu tình Ca-tô lớn chống lại Thủ tướng Phật
giáo. Những vụ này phát triển thành các cuộc bạo động cho đến khi Thủ tướng Phật
giáo bị buộc phải từ chức (ngày 18 tháng sáu năm 1965).
Các cuộc biểu dương sức mạnh tiếp theo của giáo dân Ca-tô giáo, Vatican và Hoa
Kỳ đã được nói đến trong một cuốn sách khác của tác giả.
Tác giả: Avro Manhattan
Người Dịch: Trần Thanh-Lưu
xem phiên bản Anh ngữ
Kỳ tới:
Chương 21 - Sự Giao Dịch Ám Muội
Giữa Giáo Hòang và Cộng Sản Bắc Việt.
Những bài về Ngô Đình Diệm:
Các bài cùng tác giả
Trang Sách Nước Ngoài