Vì Sao Chúng Ta Đã Đi Việt Nam ?
Trần Thanh Lưu dịch cuốn
“Viet Nam: Why Did We Go?” Tác giả: Avro Manhattan
bản rời || Mục Lục | 15 tháng 12, 2009
Chương 16
Chủ Nghĩa Bành Trướng Đạo Công Giáo Ở Đông Nam Á Vào Thế Kỷ 19
Bối cảnh lịch sử của chiến tranh Mỹ ở Việt Nam.
► Tầng lớp thượng lưu Công Giáo với một bối cảnh Phật giáo ► Anh em Diệm, đặc ân kế thừa của Công giáo thời trước ► Bàn đạp trong cuộc chinh phục Đông Dương của Công giáo ► Hoàng Đế Thiệu Trị và cuộc nổi dậy năm 1843 ► Pháo hạm của Pháp và sứ thần Công Giáo ► (Hiệp định) "Ái Hữu" 1862 áp đặt lên Việt Nam► Thày dòng, nữ tu, và những kẻ bảo vệ dân sự và quân sự của họ ► Cải đạo Công Giáo hàng loạt vào “giáo hội chân thật” ► Việc Ca-tô hóa của Việt Nam thuộc Pháp trong thế kỷ qua.
Các hành động chính trị hùng hổ kiên trì của
Giáo Hội Công Giáo dưới thời Diệm và sự thất bại quân sự lớn lao của
Mỹ có thể được hiểu rõ tốt nhất bằng cách nghiên cứu những hành động
của Giáo Hội Công Giáo trước khi có cuộc xung đột. Cả hai đều quyết
tâm đánh bại một loại chủ nghĩa cộng sản châu Á hung hãn, nhưng họ
lại có những lý do đối nghịch cho việc can thiệp.
Đối với Mỹ, Việt Nam đã trở thành một cuộc xung
đột quân sự, một phần của một chính sách nhắm vào hai trung tâm ở
châu Á và Âu của chủ nghĩa cộng sản toàn cầu: Bắc Kinh với một ngàn
triệu người Hoa chỉ gần đây đã bị ép vào chủ nghĩa Mác bởi Mao Trạch
Đông, và Moscow là đất thánh Mecca của chủ nghĩa Bôn Xê Vích phương
tây.
Tuy nhiên đối với Giáo Hội Công Giáo, Việt Nam
chỉ là bàn đạp trong cuộc chiến của Mỹ chống lại chủ nghĩa cộng sản
thế giới. Từ lâu Việt Nam đã là “thực sự của nó”. Bởi vì điều này,
Việt Nam phải “được cứu” từ hỗn loạn ý thức hệ đang xảy ra và hỗn
loạn quân sự tiếp theo cuộc rút lui của Pháp sau Đệ nhị thế chiến.
Nhưng như một một thực thể tôn giáo, điều quan
trọng hơn đối với nó chính là giành Việt Nam từ tay Phật giáo mà
Giáo Hội Công Giáo đã chiến đấu cả hàng trăm năm. Động lực này, mặc
dù không bao giờ được đề cập đến trong bất kỳ phe phái nào trong
cuộc xung đột Việt Nam, vậy mà đã trở thành một trong những yếu tố
chính ảnh hưởng đến tiến trình tổng quát của Giáo Hội Công Giáo
trong mối quan hệ của mình với Việt Nam, trước, trong và sau khi chế
độ của Tổng thống Diệm. Việc thất bại trong việc công nhận yếu tố
này đã trở thành một trong những nguyên nhân chính của sự tan rã
chính trị và quân sự rốt ráo của Việt Nam và do đó sự sụp đổ cuối
cùng về nỗ lực quân sự của chính Hoa Kỳ.
Ta có thể hỏi làm thế nào mà Giáo Hội Công Giáo
có thể tranh thủ sự trợ giúp của Tin Lành Mỹ và can thiệp với áp lực
chính trị tích cực trong một nước Việt Nam thấm nhuần đạo Phật, nơi
mà bối cảnh dân tộc, văn hóa và tôn giáo đã biến cả hai Giáo Hội ấy
và Hoa Kỳ trở thành lực lượng ngoại lai. Luận điệu của Nhà thờ đã
dựa trên đề xuất rằng nó đã có một mối quan hệ rất “đặc biệt” với
Việt Nam. Nói gọn lại, đó là điều có thật.
Diệm, như đã thấy, xuất thân từ nền văn hóa
tiêu biểu Công Giáo Việt Nam, một sản phẩm của mối quan hệ đặc biệt
này. Sinh ra trong giới quí tộc, theo truyền thống Công giáo, ông ta
đã thuộc về một tầng lớp thượng lưu đặc biệt có rất nhiều ảnh hưởng
đến số phận của Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Sự khó hiểu về lối xử
thế của ông có thể được giải thích rằng tất cả những hoạt động của
ông về cơ bản đều đã được thúc đẩy bởi niềm tin tôn giáo.
Ông ta là một kẻ cả tin giáo điều, ngoan cố tự
cho rằng mình mang một sứ mệnh. Phẩm chất này đã mang lại sự tiêu ma
cuối cùng của ông, và cả Hoa Kỳ vào trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ông đã tự thuyết phục mình rằng chính sách đàn áp như thế mà ông ta
đã ngoan cố theo đuổi là nhiệm vụ của mình tựa như một truyền thống
Công Giáo Việt Nam. Thượng đế đã đặt ông ta vào đúng vị trí để thúc
đẩy lợi ích của Giáo Hội Công Giáo, như là tổ tiên của ông trước kia
đã từng làm trong quá khứ.
Những yếu tố nào đã giúp tạo ra các cá nhân
Ca-tô hăng say phục vụ như thế tại Việt Nam? Theo lịch sử, Giáo Hội
Công Giáo là giáo hội “Ki-tô” đầu tiên hành hoạt ở bán đảo Đông
Dương dễ đã từng đến ba trăm năm trước đây. Việt Nam là mũi nhọn của
sự thâm nhập của nó ngay từ đầu thế kỷ XVI, khi những cơ sở được
điều động chủ yếu bởi các nhà truyền giáo Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha.
Những khu thương mại mở liền theo sau các giáo
xứ. Theo thời, các quốc gia khác ở châu Âu như Anh, Hà Lan và Pháp
bắt đầu tranh giành sự chú ý của dân bản địa.
Những kẻ rao giảng mạnh mẽ nhất về sự giác ngộ
của Tây phương, mà trong thời ấy có nghĩa là Kitô giáo, là dòng Tên
Jesuits, đang vào lúc cao điểm của sự nhiệt tình thám hiểm của họ.
Các dòng Franciscans, Dominicans, và những dòng khác, tuy nổi bật,
nhưng không bao giờ vượt hơn ảnh hưởng của dòng Tên Jesuits vốn
quyết tâm cấy quyền lực tinh thần và văn hoá của Giáo Hội tại Đông
Nam Á. Đến đấy khoảng năm 1627, họ đã bung toả các hoạt động của họ
trong mọi lĩnh vực. Họ đã cố gắng với mức độ thành công khác nhau để
ảnh hưởng đến các giai cấp thương lưu văn hóa và chính trị của xã
hội, không giống như các nhà truyền giáo khác là những kẻ giới hạn
trong việc cải đạo người khác. Những nỗ lực của họ đã được hổ trợ
bởi việc in ấn cuốn Kinh Thánh đầu tiên năm 1651, và ảnh hưởng gia
tăng của một số cá nhân, những người có học thức, đã được nghênh đón
vào trong các giới cầm quyền nhất định.
Kết quả là theo thời gian, do các mưu đồ chính
trị và tranh chấp thương mại lẫn nhau, ảnh hưởng của châu Âu đã suy
thoái. Tuy vậy Giáo hội Công giáo lại gia tăng tỷ lệ ngược, và trong
thế kỷ sau lại chi phối tầng lớp cầm quyền, chủ yếu nhờ vào lòng dễ
dãi của những kẻ thống trị bản địa, bắt đầu với Hoàng đế Gia Long.
Đúng như thế, chủ yếu là nhờ vào sự bảo vệ của ông mà Giáo Hội Công
Giáo đã sớm được cấp mọi đặc quyền và nó liền mạnh mẽ sử dụng để mở
rộng tầm ảnh hưởng của nó.
Tuy nhiên, giống như trong rất nhiều trường hợp
khác, quyền ưu đãi rất nhanh chóng dẫn đến việc lạm dụng. Lập tức
các xứ đạo Công Giáo thi hành một sự chi phối tôn giáo và văn hóa
không cân xứng dĩ nhiên đã gây nên phản ứng khắp mọi miền đất nước.
Phản ứng biến thành sự đày ãi, và cuối cùng dẫn đến thật sự đàn áp
bất cứ điều gì liên hệ đến châu Âu, mà thường là chẳng có dính líu
gì đến Công Giáo.
Các giáo xứ Công giáo đã lần lượt phản ứng. Từ
đối kháng thụ động họ đã trở nên hung hãn chủ động. Cuối cùng các
cuộc nổi dậy hầu như đã được tổ chức trên toàn Nam kỳ. Các cuộc rối
loạn đã được xúi giục và rất thường dưới sự chỉ đạo bởi các nhà
truyền đạo Ca-tô, được hỗ trợ bởi các lợi ích quốc gia và thương mại
của Pháp. Sự xâm nhập liên tục của đạo Công giáo La-Mã, mũi nhọn
của nền văn hóa châu Âu và xâm lược thực dân vào đất nước, về lâu về
dài đã gây lòng ác cảm của Hoàng đế Thiệu Trị, trị vì từ 1841 đến
1847. Vào thời kỳ này, các mưu đồ của Pháp với các nhà truyền giáo
Ca-tô xen lẫn nhau cuối cùng đã trở thành giống hệt nhau. Những cuộc
truyền giáo Ca-tô bị tẩy chay, pháp luật hạn chế đã được thi hành,
và các hoạt động Công Giáo đã bị cấm ở khắp mọi nơi.
Phản ứng tại châu Âu đã ngay lập tức than vãn
về việc đàn áp tôn giáo. Đây là điển hình của Chủ nghĩa Đế quốc châu
Âu vào thời kỳ này. Năm 1843, 1845, và 1847, tàu chiến Pháp xông vào
các cảng biển Việt Nam, lấy cớ yêu cầu phóng thích các nhà truyền
giáo. Đáp lại, nhà cầm quyền Việt Nam tăng cường phản đối sự can
thiệp việc truyền đạo và thương mại của Châu Âu tại đất nước của họ.
Sự chống trả mạnh mẻ này của người Việt đã cho Pháp và Tây Ban Nha
thêm cớ để can thiệp.
Năm 1858 một lực lượng Pháp-Tây Ban Nha xâm
lược Đà Nẵng. Sài Gòn bị chiếm đóng trong tháng hai năm 1859, tiếp
theo là ba tỉnh lân cận. Tháng 6 năm 1862, một hiệp ước đã được áp
đặt lên Việt Nam. Hiệp ước công nhận cuộc chinh phục của người Pháp
và chịu trao các tỉnh cho Pháp. Một trong những điều khoản của nó là
cho Giáo Hội Công Giáo toàn quyền tự do tôn giáo.
Trong vòng một vài năm, Pháp đã thâu tóm hầu
hết đất nước. Hà Nội, ở phía Bắc, đã bị chiếm vào năm 1873. Tháng
Tám 1873, “hiệp ước" sau cùng được ký kết. Sự độc lập của Việt Nam
đã chấm dứt. Toàn bộ Đông Dương: Việt Nam, Lào, và Campuchia, đã trở
thành những thuộc địa của Pháp. Các cuộc chinh phục đã được dẫn đầu
và có thể thực hiện được chủ yếu là do các hoạt động của các nhà
truyền giáo Giáo Hội Công giáo La Mã, và Giáo Hội này đã gửi họ lần
đầu đến đó.
Điều này được chứng tõ ngay sau đó khi các nhà
truyền giáo Ca-tô được quyền ưu đãi đặc biệt trên khắp vùng đất nước
Việt mới. Các nhà truyền giáo không những chỉ có quyền lực tối cao
trong các vấn đề tôn giáo và văn hóa, mà còn trong các lĩnh vực xã
hội, kinh tế và chính trị. Và vì sức mạnh quân sự và dân sự của
chính quyền Pháp đã luôn luôn đứng sau họ, họ không bao giờ do dự để
sử dụng lưỡi lê Pháp áp đặt cái thập giá lên người bản xứ miễn
cưỡng.
Các thày dòng, dòng Tên, các tu sĩ, nữ tu, giám
mục và các thống đốc quân sự và dân sự Pháp ra tay làm việc để cấy
ghép đạo Ca-tô lên khắp Việt Nam. Dân Ca-tô gốc đã được tập hợp lại
thành những làng đặc biệt (xứ đạo). Sự cải đạo sang Công giáo hàng
loạt khẩn trương được thực hiện ở khắp mọi nơi. Nhiều làng toàn bộ
được thuyết phục "tìm thấy ánh sáng" hoặc do việc cải đạo đã mang
thực phẩm và giúp đỡ của các nhà truyền giáo, hoặc do tiền, địa vị
hoặc quyền ưu đãi trong ngạch trật giáo dục hoặc cai trị thuộc địa
đã vượt ra ngoài tầm với của bất cứ ai từ chối.
Thông thường những sự dụ dỗ như vậy làm cho
những kẻ đầy tham vọng, hiếu động hay xem thường các truyền thống
của cha ông mình khó có thể cưỡng lại. Những cám dỗ rất là lớn vì
chỉ những kẻ cải đạo mới được phép đi học, hoặc có một cơ hội để
theo đuổi học hành cao hơn. Chức vụ trong các cấp chính quyền địa
phương và tỉnh đã được dành riêng cho người Công giáo, trong khi
quyền sở hữu đất đai chỉ được phép duy nhất cho ai chấp nhận đức tin
Công giáo. Trong nạn đói thường xuyên, hàng ngàn nông dân đói đã
được dẫn dụ rửa tội, hoặc trong các nhóm gia đình hoặc thậm chí toàn
bộ làng mạc, trước khi được trao lương thực từ các phái bộ truyền
giáo Ca-tô.
Việc La-tinh hóa Việt Nam một cách có phương
pháp không chỉ tiến hành bởi bộ máy của Giáo Hội, nó đã được thi
hành bởi một luật pháp thực dân ngày càng áp bức của Pháp đã được
xúi giục đằng sau chủ yếu là do chính các nhà truyền giáo. Kết quả
của một áp lực tăng cường gấp đôi vừa thuộc địa vừa tôn giáo, không
mấy chốc chính quyền thuộc địa Pháp đã biến thành một công cụ cải
đạo tàn nhẫn của Giáo Hội Công Giáo, cho dù có các cuộc phản đối gia
tăng của những thành phần tôn giáo và chính trị tiến bộ của chính
quốc Pháp. Sau hơn nửa thế kỷ thuộc địa truyền giáo và văn hoá hàng
loạt như vậy, những người Công giáo Pháp và bản địa thực sự nắm độc
quyền toàn bộ chính quyền dân sự và quân sự. Từ đó nẩy ra một tầng
lớp thượng lưu Công giáo ngoan cố cam kết Ca-tô hóa cả nước. Tầng
lớp này trao truyền ngọn đuốc của Giáo Hội từ thế hệ này sang thế hệ
khác xuống đến Tổng thống Diệm và anh em của mình. Hành động của họ
là thật lòng với truyền thống xưa của họ.
Tổn thất là nó đã làm cho họ mất mạng, sự tách
rời Giáo Hội Công giáo ra khỏi toàn thể chính quyền Việt Nam, và
cuối cùng là sự can thiệp quân sự của Mỹ, với tất cả các sự kinh hải
trước và sau khi sự nhục nhã và thất bại cuối cùng của nó (Giáo Hội
Ca-tô).
xem phiên bản Anh ngữ
Tác giả: Avro Manhattan
Người
Dịch: Trần Thanh
Lưu
Còn nữa: Chương 17 - Lịch sử Trước Đây Về Quyền Lực Công giáo tại Xiêm và Trung Quốc
Các bài cùng tác giả
Trang Sách Nước Ngoài