 |
02 tháng 9, 2007 |
Bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, sau khi giành độc
lập từ thực dân Pháp và Nhật, đã được
Hồ Chí Minh soạn thảo, và
đọc trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là
quảng trường Ba Đình)
ngày 2 tháng 9 năm 1945.

Lịch sử

Lễ tuyên ngôn độc lập tuyên bố thành
lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tại quảng trường Ba Đình
Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp từ giữa thế kỷ 19. Trong
Đệ nhị thế chiến,
Nhật Bản đã thay Pháp chiếm
đóng Việt Nam từ năm 1940. Khi Nhật Bản thua quân
Đồng Minh giữa năm 1945, Việt
Nam có cơ hội lớn lấy lại độc lập. Cơ hội này đã được Việt Minh tận dụng.
Sáng ngày 26 tháng 8 năm
1945, tại ngôi nhà số 48 Hàng
Ngang, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
triệu tập và chủ trì cuộc họp của Thường vụ Trung ương
Đảng Cộng Sản Việt
Nam. Trong số các quyết định của cuộc họp này, Thường vụ nhất trí chuẩn
bị Tuyên ngôn độc lập và tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để
Chính phủ Lâm thời ra mắt nhân dân,
cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập
chính thể dân chủ cộng hòa.
Ngày 30 tháng 8 năm
1945, Hồ Chí Minh mời một số đồng
chí đến góp ý cho bản Tuyên ngôn độc lập do ông soạn thảo.
Ngày 31 tháng 8 năm
1945, Hồ Chí Minh bổ sung thêm cho
dự thảo Tuyên ngôn độc lập.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên
ngôn độc lập trong cuộc mít tinh trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đô, tại
vườn hoa Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.
Nguyên văn
Hỡi đồng bào
cả nước,
Tất cả mọi
người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có
thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy
trong bản Tuyên ngôn Độc
lập năm
1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là:
tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có
quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Bản
Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
của Cách mạng Pháp năm
1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự
do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về
quyền lợi.
Đó là những lẽ
phải không ai chối cãi được.
Thế mà hơn 80
năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp
đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo
và chính nghĩa.
Về chính trị,
chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.
Chúng thi hành
những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để
ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.
Chúng lập ra
nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước
thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.
Chúng ràng
buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.
Chúng dùng
thuốc phiện,
rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy
nhược.
Về kinh tế,
chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn,
nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.
Chúng giữ độc
quyền in giấy bạc, xuất cảng và
nhập cảng.
Chúng đặt ra
hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất
là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng.
Chúng không
cho các nhà
tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột
công nhân ta một cách vô cùng tàn
nhẫn.
Mùa thu năm
1940, phát xít Nhật đến xâm lăng
Đông Dương để mở thêm căn cứ
đánh Đồng Minh, thì bọn thực dân
Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng
xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. Kết quả là
cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng Trị đến
Bắc kỳ, hơn hai triệu đồng bào
ta bị chết đói.
Ngày 9 tháng 3
năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ
chạy, hoặc là đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta,
trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.
Trước ngày 9
tháng 3, biết bao lần Việt Minh đã kêu gọi người
Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng lại thẳng
tay khủng bố Việt Minh hơn nữa. Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn
tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng.
Tuy vậy, đối
với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau
cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy
qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật và bảo vệ
tính mạng và tài sản cho họ.
Sự thật là từ
mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc
địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy
giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Sự thật là dân
ta lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.
Pháp chạy,
Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã
đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt
Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên
chế độ Dân chủ Cộng hòa.
Bởi thế cho
nên, chúng tôi, lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn
dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp
ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp
trên đất nước Việt Nam.
Toàn dân Việt
Nam, trên dưới một lòng kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.
Chúng tôi tin
rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở
các Hội nghị Têhêrăng và
Cựu Kim Sơn,
quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.
Một dân tộc đã
gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng
về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân
tộc đó phải được độc lập!
Vì những lẽ
trên, chúng tôi, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,
trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:
Nước Việt Nam
có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập.
Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.
Liên kết ngoài
Wikisource có văn bản gốc có liên quan với bài này:
Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam
Bài đọc thêm:
Cuộc Thương Lượng Bí Mật