 |
08-Jun-2012 |
Tình cờ trên một
số báo Văn cũ, số Xuân Quý Mùi 2003, tôi được đọc một truyện
ngắn của nhà văn Mai Ninh. Ðoạn văn sau đây trong truyện “Mưa
mùa xa” dậy trong tôi nhiều kỷ niệm xưa, về một thời tuổi trẻ sôi động
năm 1963.
“Rồi tôi, cô bé mười ba bấy giờ biết những chấn động đầu
tiên trong đời qua màn sương phả suốt đêm giới nghiêm, ngập ngụa
những tờ truyền đơn ướt nát, những mảng biểu ngữ rách bươm và gậy
gộc lẫn nhang đèn vung vãi trên vỉa hè sau cuộc biểu tình tuyệt thực
rầm rộ trước nhà, loa phóng thanh rền rĩ niệm kinh suốt buổi chiều.
Lẫn trong tiếng nước dập rồn rã vào cửa liếp và những chậu kiểng
mẹ trồng thay hàng dâm bụt với gốc tầm ruột xanh từng chùm đã đốn
đi, thỉnh thoảng rú lên hụ còi xe quân cảnh tuần tiễu chạy rút giữa
lòng đường...”
Những tờ truyền đơn ướt nát hồi đó mà cô bé Mai Ninh
trông thấy không thể nào tồn tại trên đường phố lâu quá 24 tiếng
đồng hồ. Số phận của chúng là được rải đi để rồi tan biến trong lòng
các ống cống vỉa hè Sài Gòn.
Thế nhưng...
Do một sự hết sức tình
cờ một tờ truyền đơn của thời ấy được tìm thấy trên đất Mỹ 40 năm
sau. Tờ giấy tầm thường ấy bây giờ nằm trong tay tôi không còn mang
bất cứ một ý nghĩa nào cả ngoại trừ nó là chứng tích của một thời
tuổi trẻ. Tuổi trẻ tôi, tuổi trẻ thế hệ chúng tôi, những người mà
giờ đây nếu còn sống hẳn đã hai màu tóc hoặc một màu tóc bạc trên
đầu.
-- o0o --
Tháng 8 năm 2003 tôi nhận được điện thư của một người quen cũ, anh
N. Năm ấy anh N. dự định tổ chức một buổi họp mặt tại nam Cali gồm
những người đã một thời từng là sinh viên và quen nhau tại khuôn viên
các trường đại học Sài Gòn trong bầu không khí sôi sục của năm 1963.
Anh N. đặt tên cho cuộc họp mặt ấy là “bốn mươi năm nhìn lại”.
Gặp
nhau để làm gì? Tôi tự hỏi.
Như thể đọc được ý nghĩ của tôi, anh
viết tiếp: “Gặp nhau không để làm gì cả, ngoài nhìn lại tuổi trẻ
của mình”. Tôi viết thư tính từ chối lấy lý do ở xa. Nhưng nghĩ thế
nào tôi lại lấy vé bay xuống Cali. Chính dòng chữ sau đây của anh
N. đã khiến tôi đổi ý: “Gặp nhau là quý. Gặp nhau khi còn có thể.
Cuộc đời của chúng ta rồi cũng sẽ qua đi... ”. Anh N. không phải
là nhà văn nhưng những dòng chữ ấy khiến lòng tôi se lại.
Trước khi
đi tôi gấp làm tám một tờ giấy đã nhầu nát bỏ trong ví. Ðó là một
tờ truyền đơn quay ronéo có tiêu đề: “Lời kêu gọi của Ủy-ban chỉ-đạo
sinh-viên liên khoa gởi toàn thể anh chị em sinh-viên học-sinh thủ-đô
và toàn quốc” ký tên 5 sinh viên: Nguyễn Hữu Ðống, Nguyễn Thanh Hùng,
Nguyễn Trọng Cảnh, Nguyễn Tường Thiết, Dương Kiền. Ủy ban được thành
lập trong Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hoà vào đêm ngày
1-11-1963, cái đêm chấm dứt nền Ðệ Nhất Cộng hoà của miền Nam Việt
Nam.
Tôi hy vọng trong cuộc họp mặt tại nhà anh N. tôi sẽ được gặp
lại mấy anh đã cùng tôi ký tên trên tờ truyền đơn. Tôi hình dung
trước nét mặt ngạc nhiên của các anh ấy khi tôi đưa ra tờ giấy. Chính
tôi, tôi cũng ngạc nhiên gần như sửng sốt khi tình cờ tìm thấy nó.
Ðiều trớ trêu là trong suốt 40 năm tờ truyền đơn nằm ở ngay sát cạnh
tôi mà tôi không hay biết.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi rời khỏi
Việt Nam tôi đã may mắn mang theo được hai tập bản thảo hai tác phẩm
sau cùng của thân phụ tôi, nhà văn Nhất Linh. Hai tập bản thảo đó
tôi cất giữ bên mình suốt 40 năm trời ở Mỹ nhưng không một lần nào
tôi mở ra xem kỹ từng trang. Cho mãi đến năm 2003 khi cho tái bản
cuốn Giòng sông Thanh Thuỷ, tôi giở
từng trang một để đánh máy và lặng người tìm thấy một tờ truyền đơn
nằm kẹp giữa tập bản thảo.
Ðúng
như tôi đoán trước, tờ truyền đơn trở thành trọng tâm sự chú ý của
mọi người. Tất cả truyền tay nhau. Không phải để đọc tờ truyền đơn
quay ronéo ấy, vì nội dung của nó nay đã trở thành vô nghĩa, mà chỉ
cốt sờ vào cái tờ giấy nhầu cũ vàng úa để có cảm tưởng mình sờ vào
chính tuổi trẻ thời sinh viên của mình. Ở nhà anh N. hôm đó chỉ có
hai người ký tên trên tờ truyền đơn có mặt là anh Nguyễn Trọng Cảnh
và tôi. Chúng tôi kéo nhau ra phố làm photocopy tờ truyền đơn. Trở
về nhà anh N., anh Cảnh và tôi trao đổi nhau hai tờ phóng ảnh để
lưu niệm. Trên tờ anh Cảnh giao cho tôi, cạnh chữ ký của chính anh
40 năm trước, anh Cảnh ký tên anh với lời chú thích trong dấu ngoặc
(40 năm sau). Anh Cảnh là người thứ ba ký trên tờ truyền đơn. Lúc
ấy anh là sinh viên năm thứ tư kỹ sư điện. Chữ ký của anh 40 năm
sau vẫn y như vậy. Tôi cũng ký tên như thế trên một tờ phóng ảnh
khác và tặng lại anh. Năm đó tôi 23 tuổi và là sinh viên năm thứ
ba của đại học khoa học Sài Gòn.
Buổi chiều hôm đó trời Cali có nắng
nhưng không nóng. Bên chiếc bàn dài đặt ở sau vườn nhà anh N. chúng
tôi, khoảng hơn 10 người, ngồi ôn chuyện cũ. Câu chuyện đến một lúc
trở về với biến cố ngày 1 tháng 11 năm 1963, tôi nhắc lại về trường
hợp hình thành của tờ truyền đơn và những gì năm sinh viên chúng
tôi chứng kiến vào cái đêm không ngủ, cái đêm “lạc đường” vào trong
Bộ Tổng tham mưu QLVNCH. Không muốn làm mất thì giờ của các anh,
vả lại chuyện xẩy ra đã quá lâu tôi hầu như đã quên hết, nên hôm
đó tôi không kể chi tiết. Tôi chỉ hứa là trong tương lai nếu có dịp
tôi sẽ viết lại. Hôm đó tôi không nói ra nhưng trong bụng tôi nghĩ
lý do tôi muốn viết lại bởi vì trong số năm sinh viên ấy tôi tin
rằng mình là người duy nhất lại “lạc đường” vào trong Bộ Tổng tham
mưu QLVNCH một lần thứ hai, đúng vào cái đêm cáo chung nền Ðệ Nhị
Cộng hoà của miền Nam Việt Nam, đêm 29 rạng ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Hai đêm lịch sử ấy, hai đêm cáo chung của hai nền cộng hoà miền
Nam, cách nhau 12 năm. Trong hai “đêm trắng” ấy mặc dù tôi tình cờ
có mặt trong cơ quan đầu não của quân lực miền Nam vào những giờ
phút nghiêm trọng nhất của đất nước, nhưng vì ở một cương vị rất
khiêm tốn (là một sinh viên trong đêm thứ nhất và là sĩ quan cấp
nhỏ trong đêm thứ hai) tôi hoàn toàn không được chứng kiến, không
được biết đến, những gì đã thực sự xẩy ra trong Bộ Tổng tham mưu
ở cấp bực cao. Chính vì vậy tôi chỉ nói là hai đêm đó tôi đã “lạc
đường” vào Bộ Tổng tham mưu mà không dám bảo là mình đã “lạc đường
vào lịch sử”, như lối nói của tác giả Nguyễn Mạnh Côn.
-- o0o --
Chị N. là người đàn bà duy nhất trong buổi họp mặt hôm ấy. Trong cương
vị chủ nhà chị tiếp những người bạn của chồng mình rất niềm nở. Chị
tươi cười nhanh nhẹn mang thức ăn từ trong bếp ra bầy trên chiếc bàn
dài sau vườn nhà. Thấy chị một mình vất vả chúng tôi cũng đứng lên
phụ chị mỗi người một tay. Người xách ghế, kẻ bầy bàn... Biệt thự của
anh chị N. nằm trên một quả đồi trong một khu sang trọng và biệt lập.
Xe chúng tôi lên dốc dừng trước cổng sắt. Tài xế bấm vào intercom liên
lạc với chủ nhà để mở cánh cổng vào trong khu vực.
Ăn cơm xong, trời
ngả chiều. Sau mấy tiếng đồng hồ tranh luận sôi nổi chuyện cũ chuyện
mới, mọi người bây giờ lắng xuống. Tay cầm cốc cà-phê, tay kia điếu
thuốc lá, hai ba người ngả lưng sau ghế, trầm ngâm. Riêng tôi, tôi
cố gắng nhớ lại hai đêm ấy. Tôi tưởng tượng sau này nếu viết, tôi
sẽ viết như thế nào.
Ðiều tôi chắc chắn là không thể viết theo trình
tự thời gian, bởi vì khi tôi tập trung để nhớ lại thì hai đêm đó
hoà chập vào nhau làm một, xuất hiện hầu như cùng một lúc. Ở một
thời điểm này những hình ảnh của một mảnh đời vụt loé. Rồi nhoè đi
chồng lên mảnh khác, thời điểm khác. Rồi lại vụt tắt. Cứ thế chúng
giao thoa chồng chéo đè giẫm lên nhau. Tôi ước ao có một thứ dụng
cụ nào tựa như máy chụp hình hay máy quay phim có thể ghi nhận, chụp
bắt những mảnh thoáng hiện đó trong trí nhớ tôi. Nhưng cố nhiên không
thể được. Tôi đành phải viết ra vậy.
-- o0o --
Ðêm 29 rạng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tổng Cục quân huấn, Bộ Tổng tham
mưu QLVNCH.
Tôi ngồi im trong bóng tối một gian phòng rộng. Tôi ngồi
im như thế lâu lắm. Lúc ấy tôi không có ý niệm về thời gian nhưng
chắc là vào khoảng nửa khuya. Các ngọn đèn trong phòng đều tắt. Ánh
sáng từ một ngọn đèn ở hành lang chiếu qua những khung cửa sổ, soi
mờ mờ gian phòng với dẫy bàn ghế trống vắng. Vài chiếc mũ sĩ quan
đặt trên mặt bàn. Mỏi mệt, tôi chuyển thế ngồi. Lúc đó tôi mới để
ý chiếc giầy trận và bộ quân phục tôi mặc vội chiều nay rộng quá
khổ. Tôi là sĩ quan, cấp bực trung uý, thuộc Tổng cục Chiến tranh
Chính trị. Nhưng vì trước đó không lâu tôi đã được biệt phái giáo
chức nên rất ít khi mặc đồ nhà binh. Chiều nay tôi vội xỏ bộ đồ này
của người khác, vì nhu cầu khẩn cấp theo chân đại tá Nguyễn Tiến
Lộc vào trong Bộ Tổng tham mưu.
Tôi lắng nghe. Từ xa, rất xa, cứ
cách vài phút lại “ục” một cái, vọng về một tiếng nổ trầm. Qua cửa
sổ trong màn đen ở chân trời lâu lâu loé lên một ánh hoả châu. Ánh
vàng toả ra rồi lặng lẽ lụi trong bóng đêm. Trong yên tĩnh tôi nghe
có tiếng lầm rầm rất nhỏ ở góc phòng. Ðúng hơn là một tiếng gì nghe
như tiếng rên rỉ. Tôi nhìn về phía đó. Chỗ ấy tối quá tôi không trông
rõ người, chỉ thấy được lờ mờ cái lưng của một vị sĩ quan. Ngồi cúi
đầu trong bóng tối, ông ta đang rên rỉ hay đang khóc thầm? Tôi không
rõ. Lát sau tôi nhận ra không phải là tiếng rên rỉ mà chính là tiếng
nói của ông ta, nói gằn nhưng cố ghìm giọng xuống cho thật nhỏ. Ðột
nhiên tiếng nói cất cao hơn khiến tôi nhận ra là từ nẫy ông ta đang
nói trên điện thoại. Giọng ông ta có tiếng gắt: “Anh đã bảo rồi mà!
Anh không thể nào về được! Cắm trại một trăm phần trăm! Anh không
về được!”. Rồi tiếng ông ta lại nhỏ xuống, rền rĩ: “Em đi ngay đi!
Ra ngay bến tàu. Còn kịp mà! Mang con đi ngay! Ðừng đợi anh... Nghe
anh đi! Anh van em... Anh lạy em...”.
Một tiếng “kịch”sau đó. Ông
ta gác máy, đầu gục xuống bàn. Cái lưng ông ta bắt đầu rung rung.
Rồi tiếng khóc bật lên, không kìm hãm, nức nở trong gian phòng vắng.
Hồi lâu sau, ông ta đứng dậy, chụp chiếc mũ lên đầu, mở cửa đứng
tần ngần nhìn trời một lát rồi bước hẳn ra ngoài. Ðèn ở hành lang
chiếu rõ nét mặt. Những thớ thịt trên mặt ông căng lại. Nhưng hai
làn môi mím chặt thì lại run lên bần bật. Tôi thoáng thấy hai bông
mai bạc loé trên chiếc mũ trước khi ông biến mất vào bóng đêm.
-- o0o --
Mười hai năm trước. Ðêm 1 rạng ngày 2 tháng 11 năm 1963. Bộ Chỉ
huy, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH.
Tôi bước lên những bực thang cao dẫn
lên Bộ Chỉ huy. Lúc ấy trời tối đen. Trong đại sảnh to lớn những
sĩ quan trong bộ quân phục vàng đi lại vội vã. Không khí nghiêm trọng.
Tôi đứng trân ở đó, ngỡ ngàng. Tại sao tôi lại có mặt ở đây? Trong
bộ đồ dân sự lạc lõng ở nơi này?
Lát sau một quân nhân cấp bậc thiếu
tá (tôi không nhớ có phải là thiếu tá Ðỗ Luận, em của đại tá Ðỗ Mậu
không) lại gần. Một người mặc thường phục đi cạnh viên sĩ quan. Anh
ta dáng người khá cao, to ngang, mặt tròn, đầu hói, giơ bắt tay tôi,
rồi tự giới thiệu bằng giọng Huế: “Nguyễn Hữu Ðống, sinh viên kiến
trúc”. Sau khi viên sĩ quan đi khỏi, anh Ðống dẫn tôi đến góc phòng,
nơi đã có ba người mặc thường phục, ba sinh viên như chúng tôi, chờ
ở đấy. Chúng tôi bắt tay nhau và tự giới thiệu. Trong số bốn sinh
viên có mặt đêm hôm đó tôi chỉ biết mỗi Dương Kiền, vì anh Kiền năm
ấy là luật sư tập sự, phụ tá cho luật sư Ðinh Trịnh Chính, người
mà bốn tháng trước đã thụ lý hồ sơ biện hộ cho cha tôi trong phiên
toà xử ngày 8 tháng 7 (nhưng cha tôi đã tự vẫn vào ngày hôm trước).
Vào khoảng nửa đêm, cửa mở. Trung tướng Dương Văn Minh từ trong
phòng họp bên cạnh bước ra đại sảnh. Oai vệ, cao lớn trong bộ quân
phục vàng thẳng nếp, ba ngôi sao bạc lấp lánh trên cầu vai, tướng
Minh tiến lại phía chúng tôi. Ông bắt tay từng người một và ngỏ ý
cảm ơn các anh em sinh viên đã có mặt ở đây trong đêm lịch sử này
để làm hậu thuẫn cho cuộc cách mạng.
Tôi là người cuối cùng được
tướng Minh bắt tay. Khi ông cúi xuống tôi trông thấy nét mỏi mệt
trĩu nặng trên gương mặt đăm chiêu. Ngay khi ấy, anh Ðống đứng cạnh
tôi giới thiệu tôi với tướng Minh: “Thưa trung tướng, anh Thiết đây
là con của nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam”.
Nghe thế, tướng Minh
nhìn sâu vào mắt tôi, môi ông mím lại. Ông đưa cao cánh tay trái
đặt lên vai tôi trong khi tay kia vẫn cầm tay tôi, nắm chặt. Tôi
cảm thấy trên bả vai mình bàn tay to lớn của ông vừa ấn xuống vừa
bóp khẽ nhè nhẹ. Tôi nói vài câu vắn tắt với tướng Minh, trong đó
tôi nhắc một kỷ niệm năm năm về trước, năm 1958, tướng Minh đã có
lần ghé thăm vườn lan của cha tôi ở Ðà Lạt (tướng Minh và cha tôi
có chung một cái thú đam mê: hoa phong lan), nhưng tôi không biết
những lời tôi nói lúc ấy có lọt vào tai ông không, vì hình như tâm
trí tướng Minh còn đang rối bời về cuộc đảo chánh mà ông cầm đầu
đang diễn tiến chưa ngã ngũ; tôi chỉ biết là môi ông mím chặt lại
như muốn ngăn một sự xúc động. Ông cứ đặt tay lên vai tôi như thế,
khá lâu, không nói với tôi một lời.
Lát sau như chợt tỉnh, tướng
Minh đứng thẳng người lại. Ông bóp mạnh một cái vào bả vai tôi, rồi
buông tay. Day qua bên cạnh, tướng Minh trả lời anh Ðống câu nói
lúc nẫy của anh khuyên tướng Minh nên đi nghỉ vì trông vị tướng này
đã quá mỏi mệt:
“Qua phải chờ một cú điện thoại nữa mới yên tâm mà
đi nghỉ được. Một cú điện thoại nữa..."
Nói xong tướng Minh quay người trở lại phòng
họp. Lúc ấy khoảng nửa đêm rạng sáng ngày mồng 2 tháng 11 năm 1963.
Nội dung của cú điện thoại đó đến nay với tôi vẫn còn mãi là một
dấu hỏi bí ẩn.

Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng và Chính phủ Lâm Thời
ra mắt đồng bào và báo chí ngày 6-11-1963 tại tiền đình Bộ Tổng Tham mưu
(Ảnh trong VNMLQHT, Đỗ Mậu)
-- o0o --
“Cắm trại một trăm phần trăm. Anh không thể nào về được.” Câu nói
của vị trung tá trên điện thoại với vợ khiến tôi nghĩ ngay đến hoàn
cảnh mình. Tôi cũng đang bị kẹt trong Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, cũng
trong tình trạng cắm trại 100%, giống hệt như ông ta. Chỉ khác một
điều là trong khi vợ con của vị trung tá kia còn đang ở Sài Gòn thì
vợ con tôi đã rời Sài Gòn chiều hôm trước trên chiếc máy bay C-130
của không lực Mỹ và giờ này chắc đang có mặt tại đảo Guam.
Chúng tôi
bốn người. Bốn sĩ quan của quân lực VNCH. Hai trung uý là Nguyễn
Ðình Hùng và tôi.Hai người kia là hai anh em ruột, đều là anh rể
của Hùng, đại tá Nguyễn Tiến Lộc và trung tá Nguyễn Văn Lạc. Ðại
tá Lộc là thành viên của Uỷ ban Liên hợp Quân sự Bốn bên. Vào những
ngày chót của cuộc chiến, một chương trình di tản bằng phương tiện
máy bay của không lực Mỹ được thiếp lập dành cho vợ con và thân nhân
của những thành viên Uỷ ban Quân sự.
Một ngày sau khi vợ con của
bốn chúng tôi đã rời khỏi Việt Nam, tình hình chiến sự hết sức nguy
ngập. Cộng quân đã tiến sát vào thủ đô. Bốn chúng tôi dính chùm nhau
ngồi đợi tại tư gia của đại tá Lộc, số 27 đường Trương Quốc Dung,
Phú Nhuận. Tất cả các radio, transistor trong nhà được bật lên nghe
ngóng tin tức chiến sự. Ðại tá Lộc theo dõi đài phát thanh Hoa Kỳ
trên làn sóng FM. Ba chúng tôi hoàn toàn phó thác số mệnh cho con
chim đầu đàn là đại tá Lộc, lúc này đang nghĩ rất lung tìm cách vượt
thoát khỏi Việt Nam, vì tình hình đã tuyệt vọng và vì vợ con của
bốn người đã rời khỏi nước.
Giữa nhà có một cái bàn mạt chược vuông
vức trải vải nhung màu xanh lá cây đậm, bốn chiếc ghế ở bốn cạnh
bàn. Chúng tôi bốn người. Ngồi nghe ngóng tin tức trong mấy tiếng
đồng hồ tinh thần căng thẳng quá, đại tá Lộc đề nghị chúng tôi chơi
mạt chược để giải trí. Tất cả đều là dân mê mạt chược, trừ tôi. Tôi
không biết đánh. Ðại tá thất vọng, nhìn tôi nói: “Tao chán mày quá!”.
Bây giờ nghĩ lại cũng may mà tôi không biết đánh mạt chược. Nếu tôi
biết đánh và nếu bốn chúng tôi mê mải trong bàn mạt chược không theo
dõi sát tình hình, thì cuộc diện có thể thay đổi hẳn, chúng tôi có
thể bị kẹt lại ở Việt Nam và cuộc đời của chúng tôi rẽ hẳn sang một
hướng khác.
Ðêm hôm đó, đêm 29 tháng Tư, không hiểu nghĩ thế nào
– có thể là ông nghĩ Mỹ sẽ bốc những sĩ quan cao cấp trong đó vào
giờ phút chót – đại tá Lộc bất thần ra lệnh Hùng và tôi mặc quân
phục, lên xe jeep, lái vào trong Bộ Tổng tham mưu QLVNCH. Ðây là
một tính toán sai lầm. Ông không hay biết rằng vào đó tức là đâm
đầu “vào rọ”. Những quân nhân trong đó đêm hôm ấy bị cắm trại 100%.
Trong khi nhiều quân nhân khác trong đó có thể đang tìm mọi cách
để ra khỏi rọ mà không được thì bốn chúng tôi lại đâm đầu vào. Trong
Bộ Tổng tham mưu, đại tá Lộc lái đến Tổng Cục quân huấn, nơi trung
tá Lạc làm việc, bỏ ba chúng tôi tại đó, một mình ông lái xe đến
Bộ Chỉ huy, trình diện vị Tổng Tham mưu trưởng sau cùng của quân
lực miền Nam, trung tướng Vĩnh Lộc. Vị tướng này hẳn là rất ngạc
nhiên trước sự hiện diện của đại tá Lộc vào cái thời điểm này.
Suốt
tối hôm đó cho đến nửa đêm, ngồi trong căn phòng tối của Tổng Cục
quân huấn, chúng tôi nghe thấy lẫn trong tiếng pháo kích, tiếng đại
bác ỳ ầm vọng tới từ miền ngoại ô, có lẫn tiếng máy bay rầm rộ từ
hướng phi trường Tân Sơn Nhất sát bên Bộ Tổng tham mưu lướt qua đầu
chúng tôi. Ðó là hàng đoàn những chiếc C-130 của không lực Hoa Kỳ
cất cánh trong nỗ lực tuyệt vọng mang những đợt người di tản sau
cùng rời khỏi Việt Nam.
-- o0o --
Khoảng ba bốn giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963 đèn bật sáng choang
trong đại sảnh Bộ chỉ huy Bộ Tổng tham mưu. Tướng Dương Văn Minh tái
xuất hiện. Ông chỉ thị cho viên sĩ quan tuỳ tùng làm sự vụ lệnh cấp
năm chiếc xe Dodge 4 đưa năm chúng tôi sang bên Nha Chiến tranh Tâm
lý. Tôi ngồi một mình một xe, cạnh tài xế. Chiếc xe lướt đi trong bóng
đêm trên những con đường vắng tiến về phía trung tâm của thành phố
Sài Gòn. Qua sở thú, đến đường Hồng Thập Tự gần cầu Thị Nghè, xe rẽ
vào trong Nha Chiến tranh Tâm lý.
Tại Nha, chúng tôi thảo truyền đơn.
Sau đó bản thảo được đưa cho một hạ sĩ quan đánh máy trên giấy stencil
để quay ronéo. Ở cuối tờ truyền đơn đề tên năm sinh viên. Khi được
hỏi về phân khoa nào và học năm thứ mấy, tôi phân vân. Các ngành
luật, kiến trúc, kỹ sư... có chia rõ sinh viên năm thứ mấy, còn các
ngành khác như khoa học, văn khoa... người ta chỉ nói sinh viên chứng
chỉ này, chứng chỉ nọ. Cuối cùng tôi cũng cứ đề đại sinh viên năm
thứ ba, tính từ năm tôi đậu tú tài II.
Khi mấy ngàn tờ truyền đơn
được in xong thì trời đã sáng hẳn. Chúng tôi ngồi trên năm chiếc
Dodge 4 rời Nha Chiến tranh Tâm lý đi về năm hướng khác nhau của
thành phố Sài Gòn. Mỗi người được trang bị một thùng truyền đơn và
một cái haut parleur cầm tay.
Chiếc Dodge 4 chạy về hướng trung tâm
thành phố.
-- o0o --
Từ nửa khuya cho đến rạng sáng, cứ cách một tiếng đồng hồ lại có tiếng
xe jeep đậu trước Tổng Cục quân huấn. Ðại tá Lộc bước vào phòng. Trong
bóng tối tôi thấy ông rầm rì nói chuyện với người em trai. Ông nói
vắn tắt rồi vội vã đi ngay. Lúc này không còn tiếng C130 rầm rộ bay
qua đầu. Tôi nghe rõ hơn tiếng súng. Xen lẫn những tiếng đại bác nổ
còn lẫn tiếng súng nhỏ từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất.
Khoảng tờ
mờ sáng đại tá Lộc bảo ba chúng tôi lên xe, lái thẳng ra cổng trại.
Ðêm trước sau khi trình diện vị Tổng Tham mưu trưởng, đại tá Lộc
được tướng Vĩnh Lộc giao phó trách nhiệm kiểm soát hệ thống phòng
thủ toàn thể khu vực Bộ Tổng tham mưu. Với chức vụ mới này đại tá
Lộc suốt đêm hôm đó đã lái xe đi kiểm soát tất cả các trạm gác, các
cửa ngõ ra vô trại, và mỗi lần đi thanh tra một vòng như thế đại
tá lại ghé qua Tổng Cục quân huấn trao đổi vài câu ngắn ngủi với
trung tá Lạc. Gần sáng đại tá xin tướng Vĩnh Lộc về nhà để lấy một
số vật dụng tuỳ thân. Tuy được phép ra khỏi trại nhưng chúng tôi
cũng rất lo, bởi vì vòng đai phòng thủ bên ngoài của trại thuộc lực
lượng Dù, và lính dù có thể bắn vào tất cả những quân nhân nào toan
tính vượt thoát ra khỏi doanh trại Bộ Tổng tham mưu.
Chiếc jeep ngừng
lại trước cổng. Ðại tá Lộc xuống xe, tiến về phía trạm gác. Thiếu
tá trưởng trạm nhấc điện thoại gọi vào trong Bộ Chỉ huy xin xác nhận.
Rồi cổng mở. Chiếc xe mang bốn chúng tôi vọt ra.
Như một khúc phim
câm đen trắng được quay lại rất chậm, chiếc xe jeep lặng êm chạy
qua cổng trại của Bộ Tổng tham mưu. Lúc đó khoảng năm giờ sáng ngày
30 tháng 4 năm 1975. Lúc xe vượt qua cổng ấy tôi có cảm giác như
có nhiều mũi súng đang hướng từ phía sau. Bên ngoài vắng hoe. Lực
lượng dù đông đảo trấn giữ ở đây đêm trước đã bất ngờ rút.
Chiếc
jeep lăn trên đường Công Lý. Trời còn mờ tối. Phố xá vắng. Chốc chốc
vọng tiếng nổ ỳ ầm ở xa. Có xen lẫn những tiếng súng nhỏ. Chân trời
loé sáng từng chập. Chiếc jeep chạy về hướng trung tâm thành phố.
-- o0o --
Trung tâm thành phố Sài Gòn bừng bừng khí thế cách mạng buổi sáng ngày
2 tháng 11 năm 1963. Ðại lộ Thống Nhất dẫn đến Dinh Ðộc Lập đông nghẹt
người xuống đường. Chiếc Dodge 4 khó khăn lách qua đoàn người biểu
tình đi nghênh ngang giữa lộ.
Phía trước Dinh Ðộc Lập đối diện Vương
Cung Thánh Ðường rừng người và biểu ngữ tràn ngập đường phố; đám
đông trèo lên những chiếc xe thiết giáp đậu dọc con đường Công Lý.
Trong công viên dưới hàng cây sao những người lính dù trong bộ quân
phục rằn ri ngồi dựa gốc cây nghỉ, nón sắt bỏ bên cạnh, yên lặng
hút thuốc. Chung quanh họ dân chúng bu quanh hỏi chuyện. Nhiều người
đem bánh mì và nước uống cung cấp cho binh sĩ.
Tiếng hoan hô, đả
đảo vang động trong đám đông. Khích động bởi không khí cuồng nhiệt
tôi như người sôi máu. Tôi mở cửa hông xe, đứng hẳn dậy, thò đầu
ra ngoài xe, tay tôi vung lên cao tung từng xấp truyền đơn bay lả
tả trên đầu trên vai đám người dưới đường tranh nhau bắt lấy. Ðưa
chiếc máy phóng thanh cầm tay lên miệng, tôi đọc lớn lời kêu gọi
của Uỷ-ban chỉ-đạo sinh-viên liên khoa gửi toàn thể anh chị em sinh-viên
học-sinh thủ đô và toàn quốc:
“Quân đội đã đứng lên lật đổ chế độ
độc tài thối nát vào 2 giờ chiều ngày hôm nay 1-11-1963 để làm cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc... bổn phận của chúng ta là phải làm
hậu thuẫn cho cuộc cách mạng...”
Ngay khi tờ truyền đơn vừa được
đọc xong, một thanh niên trong đám đông đu người lên xe đứng nghiêng
người cạnh tôi. Anh ta giằng lấy máy phóng thanh trong tay tôi, hô
lớn: “Ðả đảo độc tài gia đình trị!”. Lập tức cả trăm tiếng hô vang
dậy: “Ðả đảo! Ðả đảo!”. “Hoan hô cách
mạng thành công!”... “Hoan hô!”...

Thanh niên và sinh viên thủ đô hân hoan chào mừng
Trung tướng Trần Văn Đôn trên đại lộ Thống Nhất, Sài Gòn
(Ảnh trong VNMLQHT, Đỗ Mậu)

Dinh Gia Long: Đông đảo dân chúng thủ đô ào ạt đến xem
để khích lệ và hoan nghênh anh em quân đội ngày 2-11-1963
(Ảnh trong VNMLQHT, Đỗ Mậu)
-- o0o --
Trời đã tỏ rạng hơn sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ðường phố im
vắng. Không một bóng xe. Sài Gòn như ngưng tiếng thở. Hai bên đường
đám đông người đi bộ gương mặt thất thần. Họ đi... đi thất thểu đi
xuôi đi ngược đi vất vưởng đi không định hướng như những thân xác
không hồn.
Ngồi sau chiếc xe jeep cảm giác của tôi lúc đó thật lạ.
Không lo âu. Không sợ hãi. Không kinh hoảng. Chỉ thuần một sự mê
lịm.
Xe đi qua đường Trần Quốc Toản rẽ vào trong sân rất rộng của
trụ sở Uỷ ban Liên hợp Quân sự. Trong sân một đám đông người đã tụ
ở đó. Ai nấy đứng ngửa cổ ngóng lên trời cao, nhìn vài chiếc phi
cơ cuối cùng rời khỏi thành phố bay về hướng biển. Trong đám đông
có vài ánh loé nhấp nháy tuyệt vọng của những chiếc gương làm hiệu
lên bầu trời. Sau khoảng 15 phút đứng chờ ở đó tôi nghe tiếng đại
tá Lộc nói: “Không xong rồi!”. Ðại tá ra lệnh chúng tôi thay lại
đồ dân sự. Chúng tôi vứt bỏ đồ trận và súng ống ở trong sân của trụ
sở rồi nhẩy lên jeep. Phía trước tôi nghe mẩu đối thoại khẽ, ngắn.
Trung tá Lạc: “Mình đi đâu?”. Ðại tá Lộc: “Tôi
tìm đường xuống Gò Công”. Trung tá Lạc: “Không
nên. Không kịp. Tụi nó đã vào sát Sài Gòn. Ði Nhà Bè. Gần nhất”.
Xe chạy qua đường Thống Nhất. Tôi nhìn
lại lần cuối Tổng Cục CTCT, đơn vị cuối cùng tôi phục vụ. Bên cạnh
Tổng Cục tôi chứng kiến cảnh dân chúng trèo tường vào trong Toà Ðại
sứ Mỹ. Trên hè rộng trước Toà Ðại sứ la liệt đồ đạc do dân chúng
tràn vào hôi của bỏ lại. Xe qua Khánh Hội. Một cảnh tương tự xẩy
ra ở Kho 5. Dân chúng tràn vào kho hôi của hoặc tìm đường ra tàu
thoát thân. Ðu trên hàng rào mắt cáo của Kho 5, bầy người đông nghẹt
chen nhau hỗn loạn. Trên đường Trịnh Minh Thế dẫn đến Nhà Bè có rất
nhiều vòng kẽm gai chắn ngang đường. Trung tá Lạc chốc chốc lại xuống
xe kéo vòng gai để chiếc jeep lách qua chạy tiếp. Gần đến Nhà Bè,
một cảnh tượng tôi không bao giờ quên được. Một toán lính Ðịa phương
quân khoảng vài chục người đi nghêng ngang giữa lộ. Ðám lính không
súng ống, không giầy trận, tơi tả đi về hướng Sài Gòn. Vừa đi vừa
lột vứt áo trận xuống đường.
Ðến Nhà Bè ngang một bến tàu là kịch
đường. Tuyệt lộ. Chiếc jeep đỗ khựng. Chúng tôi nhìn quanh. Bến tàu
vắng hoe. Giữa lòng sông Sài Gòn những chiếc tàu đủ loại lướt qua
mang theo những đợt người di tản sau cùng của thành phố.
Bốn chúng
tôi nhìn đoàn tàu hối hả đi ngang trên lòng sông rộng, nghĩ tới vợ
con tất cả đã rời khỏi nước bằng máy bay của cơ quan DAO từ hôm trước
mà lòng não nùng tuyệt vọng. Ðúng vào lúc ấy một người đàn ông không
biết từ đâu chạy tới nói nhỏ: “Các ông di tản?”. Chúng tôi gật đầu.
Ông ta bèn “mách nước”: “Ở mé kia có một cái xuồng máy vừa cập bến.
Họ đang lấy xăng. Các ông có thể xin quá giang qua tàu lớn đậu ở
ngoài sông”. Mách xong ông ta ngửa tay xin đại tá Lộc cái chìa khoá
xe jeep. Cầm chìa khoá trong tay ông ta lại xin thêm thẻ chủ quyền
xe rồi ông ta biến mất. Trong cơn mê hoảng và nỗi tuyệt vọng chúng
tôi lúc ấy không ai nghĩ đến việc ông ta có thể lừa chúng tôi để
lấy xe. Chúng tôi chạy vội đến chỗ ông ta chỉ thì quả nhiên có chiếc
xuồng máy đậu. Trên xuồng có dăm ba người lính. May mắn tột cùng
làm sao một người lính trên xuồng vừa mới vượt thoát từ Ðà Nẵng về
nhận ra ngay đại tá Lộc khi ông còn phục vụ ngoài Quân đoàn I mấy
năm trước và cho chúng tôi xuống xuồng. Bốn chúng tôi sau đó được
chuyển qua một con tàu lớn đi ra cửa biển. Con tàu này mang tên Tourane
3.
Cùng thời gian ấy cách 10 cây số về hướng tây nơi trung tâm thành
phố bây giờ mang tên Hồ Chí Minh, chiếc xe tăng đầu tiên của phía
bên kia từ hướng Thị Nghè đang tiến trên đường Thống Nhất hướng về
Dinh Ðộc Lập.
Tàu Tourane 3 đi ngang khúc sông Lòng Tảo. Có tiếng
súng lớn nổ từ hai bên bờ sông nhắm vào đoàn tàu chạy ở giữa dòng.
Trong số người di tản có một người chết: nhà văn Chu Tử.
Trong lúc
tàu tiến về phía cửa biển tôi nghe từ một chiếc radio của đám người
tị nạn giọng nói của Tổng thống Dương Văn Minh, vị Tổng thống sau
cùng của VNCH, tuyên bố đầu hàng.
Trí tôi thoáng hiện hình ảnh mười
hai năm trước trong đêm cáo chung của nền Ðệ nhất
Cộng hoà. Ðó là hình ảnh của tướng Dương Văn Minh ngay sau khi ông
được giới thiệu tôi là con của cha tôi, đôi môi ông mím chặt lại
như muốn ngăn một sự xúc động, bàn tay to lớn của ông đặt lên bả
vai tôi vừa ấn xuống vừa bóp khẽ nhè nhẹ. Rồi tôi nghe bài “Nối vòng
tay lớn” trôi đi trên cùng làn sóng của chiếc radio ấy, giọng hát
thiếu tiếng đàn đệm của người nhạc sĩ họ Trịnh...
-- o0o --
Phía trước tôi con sông mở rộng. Ðoàn tàu di tản mấy chục chiếc nối
nhau tiến về cửa biển Cần Giờ. Cách sáu dặm về hướng đông những chiếc
chiến hạm Hoa Kỳ thuộc Ðệ thất Hạm đội nằm chờ sẵn ở ngoài khơi.
Ðoàn
người di tản trên chiếc Tourane 3 được chuyển qua một chiến hạm của
hải quân Việt Nam, chiếc HQ16, trực chỉ hướng đông đến Phi Luật Tân.
Nơi đây, trước khi trao trả chiếc chiến hạm này cho hải quân Mỹ,
một buổi lễ hạ kỳ được tổ chức đơn giản trên boong chiếc HQ16.
Mấy
trăm người di tản gồm cả quân nhân lẫn dân chúng, cả nam lẫn nữ thuộc
đủ mọi lứa tuổi nhìn chiếc cờ ba sọc đỏ từ từ hạ xuống trong buổi
chiều vàng của vịnh Subic Bay. Buổi hạ cờ chấm dứt chóng vánh và
trong sự lặng lẽ. Không tiếng kèn. Không quốc ca. Chỉ có những tiếng
nức nở.
Tôi nhìn mặt biển phẳng lỳ trải mênh mông trước mặt, nghĩ
đến tương lai vô định của mình và có cảm tưởng như cả một thời tuổi
trẻ phía sau lưng tôi vừa mới khép lại. Tuổi trẻ ấy mở ra cùng với
tờ truyền đơn của một đêm nào. Một tuổi trẻ quá ngắn. Mới mười hai
năm. 
Nguyễn Tường Thiết
(nguồn https://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=9857&rb=0307)