 |
25-Mar-2012 |
Mục đích chính của những phê bình chỉ trích là mở
mang trí óc của quần chúng, cập nhật hóa những thông tín chính xác về tôn
giáo để cho quần chúng có một cái nhìn đúng đắn hơn về tôn giáo của mình.
Lời Nói Đầu:
Tôn giáo, hiểu theo nguyên nghĩa Tây phương và được trình hiện
bằng giáo hội, giáo quyền và giáo chế hiện nay, có đáng
cho chúng ta phải kính trọng không? Và có đáng cho xã hội phải hy sinh
quyền tự do ngôn luận mà im lặng đừng phê phánkhông ? Trong bài
viết ngắn nhưng xuất sắc dưới đây, bà Barbara Smoker, chủ tịch Hội
Thế tục Quốc gia tại Anh quốc, đã lấy Thiên Chúa giáo và Hồi giáo như
hai trường hợp nghiên cứu điển hình để phản bác khuynh hướng cực đoan muốn
áp đặt vai trò thượng tôncủa tôn giáo trong đời sống tri thức
của con người. Phật giáo, như một biệt lệ, rõ ràng không nằm trong
định nghĩa nầy. Và lời Đức Phật dạy trong kinh Kalama về Lòng Tin thật
đáng cho Phật tử chúng ta ngẩng đầu, thanh thản và trong sáng mở mắt trí
tuệ mà nhìn đời ...
Trong thế giới văn minh tiến bộ ngày nay, với trí tuệ của con người
tiến hóa và phát triển qua nhiều thời đại, với những tiến bộ của khoa học
và kỹ thuật, đầu óc con người đã mở mang trên mọi địa hạt, không một tôn
giáo nào có thể cho là mình nắm giữ chân lý tuyệt đối, mà không phải qua
sự thử thách của nền học thuật thời đại. Do đó, phê bình và ngay cả việc
chỉ trích những sai trái của tôn giáo không còn là điều cấm kỵ, mà trái
lại còn là bổn phận của những người quan tâm đến sự an sinh của quần chúng.
Điều này chúng ta thấy rõ trong các xã hội tiến bộ Âu Mỹ.
Nhưng phê bình, chỉ trích như thế nào, đó là cả một vấn đề. Nó là vấn
đề vì trong những tôn giáo độc thần, tuyệt đại đa số tín đồ thiếu hiểu
biết, kèm với tâm cảnh cuồng tín đã ăn sâu trong đầu, thường cho rằng tôn
giáo của họ là một cái gì bất khả xâm phạm, có vai trò thượng tôn, đứng
trên xã hội, không ai có quyền đụng tới. Do đó những nhà phê bình, chỉ
trích tôn giáo, và ngay cả những sự kiện khoa học trái với niềm tin tôn
giáo, cũng phải đối diện với những lời mạ lỵ, xuyên tạc, vu khống của
các tín đồ thuộc loại này.
Tuy nhiên, trong tinh thần phê bình lương thiện trí thức, có vài tiêu
chuẩn chúng ta phải tôn trọng. Tôn trọng quyền phát biểu ý kiến cũng như
quyền bất đồng ý kiến đúng đắn; tôn trọng sự thật, nghĩa là phải chấp nhận
sự thật dù sự thật đó có thể trái với niềm tin của mình và có thể làm cho
mình đau lòng; những lời phê bình hay chỉ trích phải có những luận cứ hợp
lý, có cơ sở, để bảo đảm giá trị; và tuyệt đối không được xuyên tạc sự
việc.
Về vấn đề phê bình tôn giáo, có một quan niệm hết sức
sai lầm của một số người là cho rằng bất cứ sự phê bình, chỉ trích tôn
giáo nào cũng bắt nguồn từ lòng hận thù hay ganh ghét tôn giáo đó, hay
để chống đối tôn giáo đó. Những người có đầu óc thiển
cận, chưa theo kịp thời đại như vậy, phần lớn là thuộc các hệ phái Ki
Tô Giáo, đặc biệt là Công Giáo và Tin Lành, không nhận thức được rằng tuyệt
đại đa số những tài liệu mà họ cho là “chống tôn giáo” lại phát xuất từ
những bậc lãnh đạo và các bậc trí thức, học giả trong chính tôn giáo của
họ. Họ cũng không nhận thức được mục đích chính của những phê bình chỉ
trích là mở mang trí óc của quần chúng, cập nhật hóa những
thông tín chính xác về tôn giáo để cho quần chúng có một cái nhìn đúng
đắn hơn về tôn giáo của mình.
Bài của Barbara Smoker sau đây thuộc loại này. Và quý độc giả
sẽ nhận thấy Giao Điểm không làm gì hơn là theo sát chủ trương này.
G.Đ.
Ngày 25 tháng 5, 2006, tôi tham gia cuộc
tranh luận ở đại học Oxford để chống bản kiến nghị “Tự do ngôn
luận nên kiềm chế để tôn trọng tôn giáo.” Thuyết trình
viên chính có cùng quan điểm với tôi là Flemming Rose, chủ biên người
Đan Mạch đã xuất bản những tranh biếm thị gây tranh cãi về Muhammad.
Với tiền thưởng cả triệu đô-la treo trên cái đầu của ông ta, những biện
pháp an ninh cho cuộc tranh luận thật là chặt chẽ. Mọi người đều bị
khám xét trước khi vào phòng họp. Trong những ngày mà tôi còn là Chủ
Tịch Hội Thế Tục Quốc Gia, tôi thường tham dự những cuộc tranh luận ở
đại học (hầu hết trong khoảng 1970-1990). Hầu như bao giờ tôi cũng bị
thua khi bỏ phiếu, nhưng lần này chúng tôi đã thắng với tỷ lệ cao: 129/59.
Nếu từ “tôn giáo” trong bản kiến nghị được thay thế bằng bất cứ từ trừu
tượng nào khác, chúng tôi đã thắng với tỷ lệ 188/0. Giả thử từ đó là
“khoa học” thì bản kiến nghị đó sẽ là “Tự do ngôn luận nên kiềm chế để tôn trọng khoa học.” và
không một người nào có lý trí lại bỏ phiếu cho kiến nghị đó, đừng nói đến
các khoa học gia thứ thiệt. Vậy thì tại sao tôn giáo lại có một địa vị
duy nhất có đặc quyền như vậy. Trong nhiều ngàn năm nó như là một chuẩn
tắc mà không ai nghĩ đến việc nó cần phải chứng minh là đúng.
Như tôi đã vạch rõ trong cuộc tranh luận, giới điều tôn trọng tôn
giáo thì giống như luật của Moses, “Hãy hiếu kính cha mẹ”. Nhưng giả thử
cha mẹ của bạn là những sát nhân? Họ không xứng đáng được bạn tôn trọng,
và hầu hết các tôn giáo cũng không xứng đáng để chúng ta tôn trọng. Vậy
thì chúng ta có nên tôn trọng đức tin tôn giáo không? Chắc chắn là không.
Nhưng chúng ta có nên tôn trọng con người không? Có, chừng nào mà họ không
chống xã hội và không có chủ đích áp đặt những quan điểm tôn giáo của họ
trên những người khác. Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta tôn trọng họ là
những người tốt, chúng ta không thể tôn trọng tín ngưỡng của họ. Đức tin,
có nghĩa là tin chắc vào sự thiếu vắng của chứng cớ, thì phản bội sự thông
minh của con người, phá ngầm kiến thức đặt căn bản trên khoa học, và làm
tổn thương nền luân lý thông thường. Nếu có những chứng cớ chủ quan về
những giáo lý của họ, đó không còn là đức tin; đó là kiến thức.
Chúng ta phải miễn thứ cho những người nghi ngờ Ki Tô Giáo trong
thời Trung Cổ khi họ giả bộ tôn trọng Ki Tô Giáo thay vì phải đối phó với
nguy cơ bị đưa lên giàn hỏa, và cũng giống như những người Hồi giáo bỏ
đạo ngày nay vẫn nói trên đầu môi chót lưỡi về Hồi Giáo trong những quốc
gia theo Hồi giáo rằng bỏ đạo vẫn còn là một sự xúc phạm chính; nhưng chúng
ta là những người sống trong một xã hội tương đối tự do chúng ta không
có quyền miễn thứ như vậy. Thật ra thì tất cả chỉ là phận sự của chúng
ta trong việc ủng hộ những nạn nhân của sự đàn áp tôn giáo ở khắp nơi bằng
cách ra khỏi cái tủ kín đáng kính (sự yên lặng) để nói lên ý nghĩ của chúng
ta.
Tự do ngôn luận thì quan trọng hơn là sự tôn trọng.
Hoài nghi thật là cực kỳ quan trọng vì đó là cửa ngõ đi vào kiến thức;
nhưng trừ phi những ý tưởng hoài nghi được bàn cãi tự do, chúng không thể
bị đánh giá, cũng như những kiến thức sau đó không thể truyền bá trong
xã hội.
Những nhà độc tài cực đoan, thuộc bất cứ tôn giáo hay hệ phái nào,
luôn luôn đặt đức tin lên trước hết và không có chỗ cho tự do. Sự kiểm
duyệt, kể cả sự tự kiểm âm thầm, đã là chuyện hàng ngày, theo sát sau là
sự tàn bạo. Trong một xã hội mà chế độ chính thống tôn giáo ngự trị thì
không có tự do tôn giáo. Thật vậy, sự hung dữ kích động bởi những hình
biếm thị Đan Mạch đã bị những bài báo cực đoan Hồi giáo cố ý phóng đại
câu chuyện để khuấy động những quốc gia Hồi giáo, cho tới 4 tháng sau những
hình đó lên báo.
Tôi đã thảo luận điều này với một số tín đồ Hồi giáo ôn hòa, và
trong khi họ thường lên án những sự trả thù tàn bạo, họ thường thêm câu
“Nhưng chúng ta không được mạ lỵ tôn giáo”. Tại sao không? Không ai tố
cáo sự chế riễu những quan điểm chính trị, được mở rộng để tranh luận tự
do. Thật ra là, sự tôn trọng tôn giáo một cách chân thực là để cho tôn
giáo đó cũng được mở rộng như vậy, đặt niềm tin vào sự thật nẩy nở ra từ
đó. Nhưng ngày nay nó bị che dấu trước những sự nghiên cứu sâu xa lương
thiện. Điều này chứng tỏ rằng tập đoàn những người có đức tin ý thức được
là họ không thể đối phó với những sự nghiên cứu như vậy. Chúng ta được
các chính trị gia và các viên chức miệng lúng búng đầy bột bảo rằng không
đúng với chính trị khi gọi những thủ phạm cuộc đặt bom ở Luân Đôn ngày
7 tháng 7, 2005, là những tên khủng bố Hồi giáo – nhưng, dĩ nhiên, ai cũng
biết chúng là những tín đồ Hồi giáo, và là nhưng kẻ nhiệt tình nhất. Niềm
tin của họ về một đời sau hạnh phúc của các “thánh tử đạo” là một mặt khác
của vấn đề, và, vì cái niềm tin về một đời sau này không thể lay chuyển,
điều mà chúng ta cần có là một ông Ayatollah đáng kính, với hậu thuẫn của
Kinh Qur’an, tuyên bố rằng những kẻ ôm bom tự sát thực sự sẽ đi xuống địa
ngục (hoặc, ít nhất là, thiên đường đó đã hết trinh nữ).
Tuy rằng chúng ta phải cẩn thận tránh một kẽ hở địa phương để chống
cộng đồng Hồi giáo hiền hòa ở Anh, nhiều chính quyền tiếp nối nhau đã giảm
tội quá mức cho những tên Hồi giáo côn đồ hung ác trong quá khứ. Thí
dụ, ngay từ 1989, khi các lãnh tụ Hồi giáo treo giải thưởng trên đài truyền
hình BBC để lấy đầu Salman Rushdie, họ chưa bao giờ bị kết án là đã xách
động để giết người. Những kẻ đặt bom ngày 7 tháng 7 là những thanh niên
Hồi giáo sinh ở Anh, có ba tên chết, đã được nhanh chóng nhận diện lý lịch.
Ít nhất là một trong số này thường tới Mosque của Hồi giáo ở Finsbury Park,
ở đó Abu Hamza được biết và để yên cho rao giảng sự bạo hành vì thù hận
và xách động giới trẻ đi giết người trong suốt 8 năm, trước khi Cơ Quan
Truy Tố Crown bắt đầu đưa tội ác của hắn ra ánh sáng năm 2004 – và chỉ
sau khi Hoa Kỳ yêu cầu dẫn độ hắn để xét xử những tội ác của hắn chống
Hoa Kỳ.
Từ ngữ “Thỏa hiệp vô nguyên tắc” rất hiếm khi được dùng trừ trong
ngữ cảnh về cuộc thương thuyết của Neville Chamberlain với Hitler năm 1938,
nhưng về sự thỏa hiệp vô nguyên tắc với những người Hồi giáo ngày nay ở
Anh thì sao? Điều hiển nhiên là chúng ta không thể thành thực tôn trọng
một ý thức hệ mà lý trí của chúng ta bác bỏ nó như là mê tín, khoan nói
đến sự mê tín nguy hiểm; vậy thì cái kiến nghị muốn chúng ta phải tôn
trọng nó thực sự chỉ có nghĩa là chúng ta nên giả bộ tôn trọng tôn giáo
vì đó là thái độ chính trị đúng. Do đó, ít nhất là, cái kiến nghị mà tôi
tranh luận ở Oxford đòi hỏi sự đạo đức giả. Nhưng đạo đức giả không phải
là điều tệ nhất.
Khi mà những ý thức hệ mà chúng ta giả bộ tôn trọng được để cho tự
do nhồi sọ trẻ con, một số có thể lớn lên thành những kẻ ôm bom tự sát
vì sự nhồi sọ này, đạo đức giả trở thành đồng lõa trong sự lạm dụng đầu
óc của trẻ con, sự đàn áp phái nữ, và ngay cả sự xách động khủng bố. Điều
này đã bị các đại diện chính trị của chúng ta làm trầm trọng thêm, để kiếm
phiếu, để dựng lên những trường học do chính phủ tài trợ để thúc đẩy sự
nhồi sọ trẻ con vào một đức tin đặc biệt, tuy rằng chính họ có thể đã ở
trong một tập hợp mê tín bất khả phù hợp khác.
Người ta bảo rằng không thể quy trách cho Hồi giáo về những vụ khủng
bố ở New York, Madrid, và Luân Đôn, và tiếp theo là những cuộc tàn sát
sâu rộng để trả thù vì vài bức hình vô hại trên báo chí. Như vậy cũng
như là nói rằng những sự khủng khiếp của những Tòa Án Xử Dị Giáo thì chẳng
liên quan gì đến Ki Tô Giáo.
Trong các Phúc Âm, Giê-su nhất quán coi những người tin ông ta là những
kẻ công chính; và trong thời đại của đức tin, tuyên ngôn của Thomas Aquinas
rằng: “Không tin là một tội lớn nhất trong các tội ” thì đã rõ rành rành.
Do đó, những Tòa Ác Xử Dị Giáo, những cuộc Thập Ác Chinh, và người Ki Tô
thiêu sống phù thủy, những kẻ lạc đạo, và Do Thái – những ngọn lửa này
được quạt lên bởi đức tin Ki Tô Giáo. Sự dùng những cực hình tra tấn này
không phải là trường hợp của những kẻ xấu làm đồi bại một tôn giáo tốt;
sự bạo hành những kẻ hoài nghi là sự tiếp nối lô-gic của Ki Tô Giáo về
sự tương quan giữa đức tin và cứu rỗi, khoan kể đến khái niệm đáng sợ là
Thượng đế có thể trừng phạt toàn thể xã hội vì sự bất tín của một vài người.
Muhammad theo sau Giê-su, và Kinh Qur’an chứa những tố giác sự bất
tín nhiều hơn là ở trong Tân Ước. Hơn nữa, Hồi Giáo đã không kiềm chế
những thực hành độc ác của mình như là Ki Tô Giáo đã làm được trong vài
thế kỷ qua.
Lực lượng Taliban, Al Qaeda, và quân đoàn Iraq của Badr (chỉ huy bởi Hội
Đồng Tối Cao về Cách Mạng Hồi Giáo của Iraq) chắc chắn là những tổ chức
cực đoan, nhưng tất cả đều chính thống dẫn xuất một cách lô-gic từ Kinh
Qur’an, Kinh này coi thường phỉ báng phái nữ và dạy các tín đồ phát động
thánh chiến chống những kẻ lạc đạo và không tin. Những người Hồi giáo
ôn hòa có thể giải thích điều này như là vì hiểu sai Kinh Qur’an – nhưng
vậy thì tại sao Allah hay tiên tri của ông ta lại sa vào vòng mơ hồ, không
rõ ràng. Ngay cả hai hệ phái Hồi giáo chính, Shii và Sunni, cũng đang
giết nhau ở Iraq và nơi khác.
Chúng ta được bảo rằng những người Hồi giáo nhạy cảm và thực sự bị
xúc phạm khi tôn giáo của họ bị chế nhạo. Nhưng họ có công nhận cái mà
họ cho là thượng đế sáng tạo của họ cũng có chút đầu óc hài hước không?
Có thật là ông ta đã phát minh những chuyện cười hay không? Và có phải
là ông ta quá yếu kém đến độ không chịu nổi một chuyện tiếu lâm nếu không
có vài thầy tu không biết cười phải xông ra để chống đỡ cho ông ta. Hãy
để cho họ lưu ý điều đối đáp cũ kỹ trên sân chơi: “Gậy và đá có thể làm
gẫy xương của tôi, nhưng những lời lẽ thì không bao giờ làm tôi đau.”
Cho rằng vì quá nhạy cảm và thực sự bị xúc phạm bởi từ ngữ hay tranh
ảnh dĩ nhiên là để chiếm đặc quyền. Tất cả mọi người khác đều phải ăn
nói nhẹ nhàng để khỏi làm đau lòng anh/chị. Người ta lấy lý lẽ là, vì
đạo luật thông thường về xúc phạm và báng bổ còn hiệu lực ở Anh Quốc, tuy
rằng luật đó chỉ là để bảo vệ giáo hội Anh, để cho giống nhau, đạo luật
đó phải được mở rộng để bảo vệ các tôn giáo khác. Nhưng ngày nay, trên
thực tế, đạo luật đó là một văn bản chết, và giải pháp tốt nhất rõ ràng
là phải hủy bỏ nó đi, vì thật ra, Ủy Ban Luật Pháp đã nhiều lần đề nghị
như vậy với nhiều chính phủ tiếp nối nhau, nhưng tai của họ còn điếc hơn
là tai ở cái tuổi của tôi. Nhưng ngày nay quan niệm báng bổ đã được gọi
lại là “không tôn trọng những tình cảm tôn giáo”
Chính phủ của chúng ta ngày nay đã đi đến
độ năng nổ quy tội ác cho sự không tôn trọng với một sự thay đổi khác về
danh từ, “kích động sự thù hận tôn giáo”; nhưng, may thay, những tu chính
để cho bản dự luật khá hơn được đưa ra thượng viện và sau cùng được hạ
viện chấp thuận – bởi đúng có một phiếu, khi thủ tướng Blair vắng mặt –
ngày 31 tháng 1 năm nay. Và dự luật đã được giảm bớt đi nay đã thành luật.
Lẽ dĩ nhiên, đạo luật phải bảo vệ người dân. Thật vậy, đó là căn bản
của luật pháp, và chúng ta có khá nhiều luật đại cương để bảo vệ người
dân, không cần đến những luật đặc biệt để bảo vệ những ý tưởng về một loại
đặc biệt nào đó.
Ngày 20 tháng 2, giáo hoàng Benedict XVI kêu gọi sự tương kính giữa
mọi tôn giáo trên thế giới và những biểu tượng của các tôn giáo [Điều
này cho thấy bộ mặt đạo đức giả của Benedict XVI nếu chúng ta nhớ ông đã
từng phê bình Phật Giáo như thế nào và đã tung ra bản văn Dominus Jesus
ra sao] – tuy rằng ông ta không nói gì đến, lẽ dĩ nhiên, sự tương
kính song song đối với chủ nghĩa vô thần. Dù sao thì, làm sao mà giáo
hoàng thành thực kính trọng Hồi giáo khi đạo này dạy rằng những kẻ tin
vào cái thuyết “báng bổ” Chúa Ba Ngôi [của Công giáo] thì sẽ đi xuống hỏa
ngục vĩnh hằng? Khoan nói đến chuyện, cho đến ngày nay, hình phạt tử hình
vẫn thường được thông qua trong những quốc gia Hồi giáo đối với những tín
đồ Hồi giáo cải đạo sang Ki Tô Giáo. Phán quyết về luật Hồi giáo của Shia
Grand Ayatollah Ali al-Sistani gần đây nói rằng những người đồng giống
luyến ái không chỉ bị giết mà còn phải giết bằng cách khốc liệt nhất.
Để so sánh, thành kiến chống đồng giống luyến ái của giáo hoàng Benedict
thì khá kiềm chế.
Bi áp lực của các nhà lãnh đạo tôn giáo dìm sâu những khác biệt để
tranh đấu cho mục tiêu chung là quyền độc đoán, Cộng Đồng Âu Châu đang
toan tính đưa vào Quốc Hội Âu Châu, cùng với ngay cả Hoa Kỳ, luật bắt buộc
phải “tôn trọng tình cảm tôn giáo” quốc tế. Gài vào từ “tình cảm” làm
cho mục tiêu này giống như là sự đồng cảm với nhân loại. Nhưng với tất
cả lương tri con người, tôn giáo không thể được tôn trọng một cách trí
thức nếu sự lương thiện phải đặt đàng sau sự đạo đức giả - và tôn trọng
sai lầm không những chỉ là nhu nhược và không lương thiện, mà thực sự còn
cho phép những sự mê tín của thời Trung Cổ thắng thê, hủy diệt toàn thề
những sự tự do cá nhân và xã hội đạt được trong vài thế kỷ qua.
Do đó, vì tự do cũng như vì sự thật, chúng ta phải chống lại cái chiêu
bài không thể biện minh được về sự tôn trọng đạo đức giả.
Thay vì sẵn sàng kiềm chế tự do ngôn luận để tôn trọng tôn giáo, chúng
ta nên kiềm chế sự trôn trọng tôn giáo để cho được tự do ngôn luận.


Should We Respect Religion ?
by Barbara Smoker
(https://www.secularhumanism.org/index.php?section=library&page=smoker_26_6)
[Barbara Smoker was president of Britain's National Secular
Society. She was recently honored with a lifetime achievement award for
Distinguished Services to Humanism].
On May 25, 2006, I took part in the Oxford University Union Debate,
opposing the motion that "Free speech should be moderated by
respect for religion." The chief speaker on my side was Flemming
Rose, the Danish editor who published the controversial Muhammad cartoons.
As there is a seven-figure bounty on his head, the security arrangements
for the debate were heavy. Everyone was searched on the way in. In the
days when, as president of the National Secular Society, I frequently
took part in university debates (mainly during the 1970s through the
1990s). I was almost invariably on the losing side when it came to the
vote, but this time we won by a good margin 129-59. If the word “religion”
in the motion were replaced by any other abstract noun, we would have
won by 188 to nil. Suppose the word was “science”, the motion would then
have read "Free speech should be moderated by respect for science";
and no reasonable person would vote for that, least of all, a genuine
scientist. So why is religion given its uniquely privileged status? After
thousands of years, it is the norm-so no one ever thinks it needs justifying.
As I pointed out in the debate, the precept to respect religion is similar
to the Mosaic commandment, "Honor thy Father and thy Mother." But
suppose your father and mother happened to be murderers? They wouldn't
deserve your respect, and most religions don't either. Should we, then,
respect religious faith? Certainly not. But should we respect religious
people? Yes, as long as they are not antisocial and do not aim to impose
their religious views on others.
However, even if we respect them as good-living people, we cannot respect
their beliefs. Faith, which means firm belief in the absence of evidence,
betrays human intelligence, undermines science-based knowledge, and compromises
ordinary morality. If there were objective evidence for its doctrines,
it would no longer be faith; it would be knowledge.
We have to excuse the medieval skeptics who pretended to respect Christianity
rather than risk being burned at the stake, and likewise the apostate
Muslims of today who pay lip-service to Islam in those Islamic countries
where apostasy is still a capital offense; but we who live in a comparatively
liberal society have no such excuse. In fact, it is all the more incumbent
upon us to give our support to victims of religious oppression everywhere
by coming out of the respectful closet and speaking our minds. Freedom
of speech is more important than respect.
Skepticism is of paramount importance, because it is the gateway to knowledge;
but unless the skeptical ideas are freely argued over, they cannot be
assessed, nor can the ensuing knowledge spread through society.
Totalitarian extremists, of whatever religion or sect, invariably put
faith first and freedom nowhere. Censorship, including insidious self-censorship,
is then the order of the day, followed closely by violence. In a society
where religious orthodoxy rules, there is no freedom of religion. Incidentally,
the violence provoked by the Danish cartoons was deliberately stirred
up by Islamic extremists publishing exaggerated versions of them in Muslim
countries, up to four months after the originals were published.
I have discussed this with several moderate Muslims, and while they roundly
condemned the violent reprisals, they generally added, "But people
ought not to insult religion." Why not? No one would denounce the
ridiculing of political views, which are open to free debate. In fact,
true respect for religion would allow it to be opened up in the same
way, relying on the truth emerging. But at present it is shielded from
honest scrutiny. This suggests that the faithful realize it could not
stand up to it. We are told by politicians and mealy-mouthed functionaries
that it is politically incorrect to call the perpetrators of the July
7, 2005, bombings in London Muslim terrorists - but, of course, everyone
knows they were Muslims, of the most zealous kind. Their belief in a
blissful afterlife for martyrs is another aspect of the problem, and,
since this afterlife belief is unshakable, what we need perhaps is a
revered ayatollah to proclaim, with Qur'anic support, that suicide bombers
will actually go to hell (or, at least, that paradise has run out of
virgins).
Though we must take care to avoid a native backlash against the mostly
peaceable British Muslim community, succeeding governments have carried
the exoneration of Muslim villains too far in the past. For instance,
as long ago as 1989, when imams were offering bribes on BBC television
for the murder of Salman Rushdie, they were never charged with incitement
to murder.
The July 7 suicide bombers were British-born Muslim youths, three of
whom-all found dead - were quickly identified. At least one of them used
to attend the Finsbury Park Mosque, where Abu Hamza was knowingly allowed,
for eight years, to preach violent hatred and incite young men to murder,
before the Crown Prosecution Service started criminal proceedings against
him in 2004-and only then because the United States was demanding his
extradition to their country to be tried for crimes against it.
The word appeasement is rarely used except in the context of Neville
Chamberlain's deal with Hitler in 1938, but what about the present appeasement
of Muslims in Britain? It is obviously impossible to genuinely respect
an ideology that our reason rejects as superstition, let alone dangerous
superstition; so what the motion that we should respect it actually means
is that we should pretend to respect religion for the sake of political
correctness. Thus, at the very least, the motion that I was debating
in Oxford demands hypocrisy.
But hypocrisy is not the worst of it.
When the ideologies that we pretend to respect are allowed to indoctrinate
children, some of whom may even grow up to be suicide bombers because
of it, hypocrisy becomes complicity in the mental abuse of children,
the oppression of women, and even incitement to terrorism. This has been
exacerbated by our political representatives, for the sake of votes,
setting up state-supported schools to promote indoctrination in a particular
faith, though they themselves probably accept a different, incompatible
set of superstitions.
We are told that Islam itself cannot be blamed for the terrorists' attacks
on New York, Madrid, and London, followed by widespread carnage in retaliation
for the publication of a few innocuous drawings. That is like saying
that the horrors of the Inquisition had nothing to do with Christianity.
In the Gospels, Jesus consistently identifies righteousness with believing
in him; and in the ages of faith the statement by Thomas Aquinas that "Unbelief
is the greatest of sins" was incontrovertible. Hence, the Inquisition,
the Crusades, and the Christian burning of witches, heretics, and Jews-the
flames being fanned by Christian faith. This use of torture was not a
case of bad people perverting a good religion; the persecution of skeptics
follows logically from the Christian correlation of faith with salvation,
not to mention the scary notion that God could punish the whole of society
for the disbelief of a few.
Muhammad followed on from Jesus, and the Qur'an contains even more manic
denunciations of disbelief than the New Testament. Moreover, Islam has
failed to moderate its cruel practices to the extent that mainstream
Christianity has done in the past couple of centuries.
The Taliban, Al Qaeda, and Iraq's Badr Corps (commanded by that country's
Supreme Council for Islamic Revolution) are certainly extremist, but
they are orthodox-deriving logically from the Qur'an, which denigrates
women and tells believers to wage jihad against heretics and infidels.
Moderate Muslims may explain it away as misinterpretation - but why,
then, did Allah or his Prophet lapse into ambiguity? Even the two major
Islamic sects, Shia and Sunni, are at each other's throats in Iraq and
elsewhere.
Muslims, we are told, are sensitive and are really hurt when their religion
is joked about. Don't they credit their supposed creator god with any
sense of humor? Didn't he actually invent laughter? And is he too weak
to withstand a joke without some humorless cleric rushing to his defense?
Or is their own faith so weak that they fear its contamination? Let them
heed the old playground retort: "Sticks and stones may break my
bones, but words can never hurt me."
Claiming to be ultrasensitive and really hurt by mere words or pictures
is, of course, a way of gaining privilege. Everyone else has to speak
softly so as not to hurt you. It is argued that, since the common-law
offense of blasphemy survives in Britain, though only for the protection
of the doctrines of the Church of England, parity demands that the law
be extended to protect other religions. But it is now practically a dead
letter, and the best solution would clearly be to abolish it altogether,
as, in fact, the Law Commission has recommended several times to succeeding
governments, the ears of which are more deaf even than those of a person
my age. But now the concept of blasphemy has been given an independent
lease of life by renaming it "disrespect for religious feelings."
Our present government has even endeavored to criminalize such disrespect
with another change of name, "incitement to religious hatred";
but, fortunately, ameliorating amendments to the relevant bill introduced
in the House of Lords were finally accepted in the Commons-by just a
single vote, when Blair himself was absent-on January 31 this year. But
the attenuated bill then became law.
Of course, the law should protect people. In fact, that is basically
what law is all about, and we have plenty of general laws for the protection
of people, without special laws for the protection of ideas of a particular
kind.
On February 20, Pope Benedict XVI called for mutual respect for all the
world religions and their symbols - though he failed to mention, of
course, parallel respect for atheism.
Anyway, how can the pope sincerely respect Islam when it teaches that
believers in the "blasphemous" Christian Trinity are destined
to spend eternity in hell? Not to mention that the death sentence is
often passed in Muslim countries, to this day, on anyone who converts
from Islam to Christianity. The fatwa recently issued by Shia Grand Ayatollah
Ali al-Sistani states not only that all homosexuals should be killed
but that they should be killed in the "most severe way" possible.
By comparison, Pope Benedict's homophobia is quite restrained.
Pressured by religious leaders sinking their differences in the common
cause of authoritarianism, the Council of Europe is currently considering
the introduction of legislation in the European Parliament and even the
United Nations to enforce "respect for religious feelings" internationally.
Insertion of the word “feelings” lends this tendentious goal a semblance
of humane empathy. But religion cannot, in all conscience, be intellectually
respected if honesty is to prevail over hypocrisy - and giving it false
respect would not just be obsequious and dishonest, but it would actually
allow superstitions of the Dark Ages to triumph, destroying the whole
range of social and individual freedoms courageously won over the past
few centuries.
So, for the sake of liberty as well as truth, we must resist the indefensible
furtherance of hypocritical respect.
Far from being willing to moderate free speech by respect for religion,
we should moderate respect for religion in favor of free speech.
https://www.secularhumanism.org/index.php?section=library&page=smoker_26_6&back=http%3A%2F%2Fwww.secularhumanism.org%2Flib%2Flist.php%3Fpublication%3Dfi
Các bài tôn giáo cùng tác giả
▪
“Ngày Tận Thế” của Ki Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cây Thập Giá Trong Kitô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪
Cải đạo á châu ? Một ảo tưởng ! -
Trần Chung Ngọc
▪
Di Hại Của “Nền Đạo Lý Thiên-La Đắc-Lộ” -
Trần Chung Ngọc
▪
Giê-su Ki-tô - Cuộc Đánh Cá Của Người Vô Thần -
Trần Chung Ngọc dịch
▪
Hình Ảnh Suy Thoái Của Ki Tô Giáo Trên Thế Giới -
Trần Chung Ngọc
▪
Huyền Thoại Cứu Rỗi -
Trần Chung Ngọc
▪
Lịch Sử các Giáo Hoàng -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Lời Châu Ngọc Về Ki-tô giáo - Robert G. Ingersoll -
Trần Chung Ngọc
▪
Những Yếu Tố Chính Đưa Đến Sự Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 3 -
Trần Chung Ngọc
▪
Nhân Vật Mary Trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma - 4 -
Trần Chung Ngọc
▪
TÔI ĐỌC CUỐN: “Hai Ngàn Năm Một Thuở: Chứng Từ Của Một S -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 1 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tìm Hiểu Vấn Nạn Linh Mục Loạn Dâm - 2 -
Trần Chung Ngọc
▪
Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Suy Thoái -
Trần Chung Ngọc
▪
Tản Mạn Về Thần Học Ki-Tô Giáo -
Trần Chung Ngọc
▪ 1
2 3 4 5 6 ▪
>>>