●   Bản rời    

VATICAN:CH05 - Đạo Lý Dân Tộc Và Đạo Lý Ca-Tô: Khác Nhau về Cách Truyền Bá Tư Tưởng

GIÁO HỘI LA MÃ:

LỊCH SỬ VÀ HỒ SƠ TỘI ÁC

- Nguyễn Mạnh Quang -

http://sachhiem.net/NMQ/HOSOTOIAC/CH05a.php

20-Mar-2012

 

CHƯƠNG 5


Sự Khác Biệt Giữa Nền Đạo Lý Cổ Truyền Với
Nền Đạo Lý Ca-Tô (mục 2)


1 2 3 4

II.- Sự Khác Nhau Về Phương Cách Truyền Bá Tư Tưởng

Phương cách truyền bá tư tưởng ở đây được hiểu là chính sách giáo dục và truyền đạo. Phương cách truyền bá tư tưởng của nền đạo lý Đông Phương là giáo dục nhân bản, vị tha, tự do và khai phóng.

Trái lại, Giáo Hội La Mã lại (1) chủ trương thiết lập hẳn một cơ quan tuyên truyền gồm những chuyên viên chuyên nghề sử dụng những xảo ngữ và thuật ngữ với những danh xưng hàm chứa những ý nghĩa cao cả và tốt dẹp để phỉnh gạt và lừa bịp người đời.

A.- Phương cách truyền bá tư tưởng trong nền đạo lý vị tha của Đông Phương:

1.- Với niềm tin là “hữu xạ tư nhiên hương, sự truyền bá những tư tưởng cao đẹp của xã hội Á đông, như tam giáo, có tính cách phổ biến tự do, và cũng không có những xảo ngữ hay thuật ngữ, hoa ngôn để phô trương cái vẻ bề ngoài của một đạo giáo nào cả. Trong 14 điều dạy của Phật, chỉ toàn dạy thực tế cho phúc lợi của người đời, không có câu nào ca ngợi cá nhân ông Phật cả. (xem "Hai Bài Dạy Của Hai Miền Văn Hóa" của Lý Thái Xuân ở http://sachhiem.net/LTX/LythaiTG01.php)

2.- Không có bộ máy tuyên truyền để đảm trách công việc truyền bá tư tưởng, và cũng không cần phải huy động toàn thể đạo hữu tích cực tham gia vào công việc này. Lý do là những nguyên tắc hay quy luật đạo lý Đông Phương có những đặc tính vị tha, vị nhân sinh, không nhằm để phục vụ cho một lớp người đặc biệt nào, nhưng có lợi chung cho tất cả mọi người trong xã hội. Vì lẽ này mà tất cả mọi người đều coi đó như là nếp sống văn hóa tốt đẹp cần phải có, cần phải giữ gìn.

3.- Chính sách giáo dục nhân bản, tự do và  khai phóng: Vì những đặc tính kể trên mà các quốc gia theo văn minh tam giáo luôn luôn:

a.- Chủ trương lấy con người làm đối tượng để rèn luyện thanh thiếu niên phải nhận thức được trách nhiệm hay bổn phận của chính mình đối với (a) mọi người trong gia đình, (b) xóm làng  (c) quốc gia dân tộc, và (d) cộng đồng thế giới.

b.- Tất cả  các quy tắc đạo lý đều có mục đích giúp cho mọi người ý thức được rằng trật tự xã hội bắt nguồn từ sự tu tập bản thân. Phải dứt bỏ mọi thứ tham, sân, si để có thể  hành xử sao cho vừa mắt ta ra mắt người (kỷ sở bất dục, vât thi ư nhân), phải yêu chuộng hoà bình (dĩ hòa vi quý), coi mọi người trong thiên hạ như anh em trong một nhà (tứ hải giai huynh đệ), khiêm nhường, biết rõ sư hiểu biết hay kiến thức của mình  dù cao sâu đến đâu đi nữa cũng có giới hạn (sơn hữu ngoại sơn, thiên hữu ngoại thiên, cao nhân tất hữu cao nhân trịu,và tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư). Do đó, phải luôn luôn học hỏi đón nhận tất cả mọi tư tưởng cao đẹp đến từ bất cứ phương trời hay nền văn hóa nào (nhật tân, nhật nhật tân, hựu nhật tân).

4.- Tôn giáo không hề là "vấn đề" trong hôn nhân.

Dân tộc Đông Phương không bao giờ có vấn đề xâm lấn quyền tự do tôn giáo của người khác. Cũng vậy, trong xã hội tam giáo, không hề có chuyện lợi dụng việc hôn nhân để chèn ép hay cưỡng bách người phối ngẫu phải  từ bỏ tín ngưỡng cổ truyền của gia đình và phải cam kết sống theo nếp sống tam giáo đồng nguyên rồi mới được làm lễ thành hôn. Nhờ vậy mà trong xã hội Đông Phương không hề xẩy ra những việc làm tội ác, phá nát hạnh phúc gia đình do sự khác nhau về tôn giáo gây ra, như Giáo Hội La Mã và  tín hữu Ca-tô đã, đang và sẽ còn tiếp tục làm.

5.- Về chính trị, nền đạo lý Đông Phương chủ trương lấy dân làm gốc.

Ngay từ thời Nho giáo (khoảng thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên) Á Đông đã quan niệm “Ý dân là ý trời”, “dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi. Thử chi vị dân chi phụ mẫu”

Dù là trong thời quân chủ cực thịnh bất kể là trung ương tập quyền hay lập hiến, cách đây hơn 2 ngàn năm, người dân Đông Phương đã có nếp sống văn hoá “dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” rồi, và: ”Nếu ông vua mà áp bức nhân dân thì ông ta không còn xứng đáng được đối xử  như là vua nữa. Cá nhân ông ta không còn thiêng liêng nữa, và trừ khử ông  vua đó không còn là một tội ác. Nổi loạn giết một tên bạo chúa như vậy  không những là một việc làm hợp lý mà còn là một việc làm đáng được ca  tụng, và người đứng ra trừ diệt tên bạo chúa đó xứng đáng được đưa lên nắm  quyền lãnh đạo đất nước, cai trị muôn dân.”  [1]

Sách Triết Học Đông Phương ghi như sau:

"Dục vi quân, tận quân đạo, dục vi thần, tận thần đạo, nhị giả giải pháp,  Nghiêu Thuấn nhi dĩ dĩ hỷ” (Lý Lâu Thượng). [”Làm vua thì phải hết đạo  làm vua, làm tôi thần thì phải hết đạo làm tôi thần”].   

Quân chi thị thần như thủ túc, tắc thần thị quân như phúc tâm. Quân chi  thị thần như khuyển mã, tắc thần thị quân như quốc nhân. Quân chi thị  thần như thổ giới, tắc thần thị quân như khấu thù” (Lý Lâu Hạ). [“Vua  phải biết coi nhân dân như chân tay thì nhân kính trọng vua như bụng như  lòng, nhưng nếu vua coi nhân dân như chó ngựa thi nhân dân coi vua như  một người dân thường trong nước, và nếu vua coi nhân dân như đất như cỏ,  thì nhân dân sẽ coi vua như giặc như thù.” [2]

Tuy nhiên các tư tưởng vẫn nằm trong thế thụ động, chưa có cơ hội đủ nóng để tạo ra một cơ chế chính quyền thay thế cho hệ thống Vua quan. Mãi đến thế kỷ thứ 17, phong trào Lý Trí ở Âu Châu (do chống lại sự áp đặt tôn giáo của La Mã) được chấp cánh bằng phong trào Cách Mạng Dân Chủ đưa đến Cách Mạng Pháp vào thế lỷ 18. Từ đó một cơ chế dân chủ mới bắt đầu thay đổi các guồng máy chính trị, lan rộng ra nhiều nước trên khắp thế giới.

B.-  Phương cách truyền bá tư tưởng trong nền đạo lý vị  kỷ của Giáo Hội La Mã:

Khác với phương cách truyền bá tư tưởng của nền đạo lý vị tha của các dân tộc Đông Phương, nền đạo lý vị kỷ cúa Giáo Hội La Mã  áp dụng nhiều phương cách, chính sách hay thủ đoạn bất chính và bất nhân để truyền bá tư tưởng Ki-tô hay phỉnh gạt và dụ khị những người thuộc các tôn giáo hay văn hoá khác theo đạo. Dưới đây là một số thủ đoạn hay chính sách mà giáo hội đã và đang áp dụng và vẫn còn tiếp tục tiến hành:

1.- “Nhiệm vụ tông đồ”.

Đây là công tác mở mang nước Chúa. Từ khi ra đời vào đầu thế kỷ 4  [có thể là từ năm 1075 khi ban hành bàn Tuyên Cáo “Dictatus papae” trong thời Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085)], các nhà lãnh đạo Giáo Hội La Mã luôn luôn nhắc nhở và huấn luyện tất cả các người theo đạo sứ mạng mà giáo hội gọi là “nhiệm vụ tông đồ”. Trong bất cứ hoàn cảnh nào có thể, tín hữu luôn luôn phải cố gắng tối đa để dụ khi, lôi cuốn, hoặc cưỡng bách hay chèn ép những người thuộc các tôn giáo hay văn hóa khác theo đạo Chúa, bằng những xảo ngữ, hoa ngôn, cùng với:

a.- những miếng mồi danh, lợi như chức vụ trong giáo hội (được làm ca đoàn trưởng, hội trưởng hội con Đức Mẹ, đạo binh Thánh gá, thày dạy giáo lý, vân vân...) hay trong chính quyền nếu có thể (các linh mục can thiệp cho giáo dân nào ngoan đạo để được miễn quân dịch, được khỏi tội tù, hoặc được làm tỉnh trưởng, quận trưởng, vân vân,... ). Việc này rất thành công với những phường xu thời, tham lợi, háo danh. Từ đó mới có câu: theo đạo lấy gạo mà ăn, và theo đạo để tạo danh đời.

b.- những hứa hẹn về tinh thần như: Chúa trả công vô cùng, được lên nước thiên đường, được hưởng các phép bí tích,... để mê hoặc, phỉnh gạt những người nhẹ dạ.

c.- những hình phạt tinh thần như "rút phép thông công", hoặc hình phạt bịa như "bị sa hỏa  ngục", "Chúa phạt" nếu làm việc gì hay nói gì bất lợi cho giáo hội, đề khủng bố tinh thần hay hù dọa những người yếu bóng vía.

Ngoài ra, giáo hội còn sử dụng nhiều phương cách hay thủ đoạn khác tích cực hơn để cưỡng bách hay dụ khi những người thuộc các tôn giáo khác từ bỏ tín ngưỡng cổ truyền của họ để theo đạo Chúa.

2.- Thánh Bộ Đức Tin

Đây là bộ máy tuyên truyền thiết lập để  (1) củng cố niềm tin mù quáng,  và (2)  bưng bít hay che giấu những chuyện xấu xa và tội ác trong kinh thánh cũng như hành động gian manh bất chính mà giáo hội đã làm trong gần hai ngàn năm qua.

Để cho việc làm này được hữu hiệu, cơ quan này cấy vào đầu óc giáo dân:

a.- những tín lý Ki-tô nặng tính cách nhảm nhí, hoang đưởng, phản khoa học. Những chuyện loạn luân, phi luân, dâm loạn, cướp đoat, gian tham, tàn ngược, trong kinh "thánh" cũng được gọi là chuyện thánh.

b.- tập quán, “phải giấu kín những chuyện tội  lỗi (của giáo hội), dù có thật, xẩy ra trong giáo xứ, không nên để cho người ngoại đạo được biết.” Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr.320., và khi tiếp xúc với những người thuộc các tôn giáo khác hay khi viết lách bất kỳ đề tài nào cũng phải nhớ, “tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại.[3]

http://en.wikipedia.org/wiki/File:Galileo_before_the_Holy_Office.jpg
Một vụ án khoa học (Galileo không được tuyên bố rằng
trái đất tròn và quay quanh mặt trời vì khác với thánh kinh
cho rằng trái đất phẳng và mặt trời quay quanh trên vòm
như cái thau úp lên mặt đất): bức tranh thế kỷ 19 -
Joseph-Nicolas Robert-Fleury vẽ (http://en.wikipedia.org/
wiki/File:Galileo_before_the_Holy_Office.jpg)

Nói cho rõ hơn, nhiệm vụ Thánh Bộ Đức Tin là phải làm cho mọi người tin rằng, (1) tất cả những gì của hay thuộc về giáo hội đều tốt đẹp, đều thánh thiện, đều cao cả và đều tuyệt vời,  bất kể là  trong kinh thánh có đầy dẫy những chuyện cực kỳ ghê tởm và hết sức kinh khủng, bất kể là  trong gần hai ngàn năm qua, giáo  hội đã gây ra hàng chục rặng núi tội ác, và (2) tất cả những gì của hay thuộc về các tôn giáo hay nền văn hóa khác đều tồi tệ, đều xấu xa, đều tội ác và đều phài bị hủy diệt bằng mọi giá để thay thế  bằng nếp sống văn hoá Ca-tô.

Đây là nguyên nhân khiến cho giáo hội mắc phải căn bệnh trầm kha là “cưỡng từ đoạt lý.” Dĩ nhiên là những hành động xẫc xược, ngược ngạo này đã làm cho những người bình thường, yêu chuộng chân lý và công bẳng cảm thấy chướng tai gai mắt, và cuối cùng phải lên tiếng. Cũng vì thế mà trong một điện thư trả lời con chiên cuồng tín Vũ Linh Châu, phổ biến trên PhoNang@yahoogroups.com; ngày 29/5/2011, nhả trí thức Ca-tô thức tỉnh Trần Tiên Long đã viết:

“Thông thường, sự kính trọng của thiên hạ là do mình lập công tự tạo, chứ mình không thể đòi hỏi hay bắt buộc thiên hạ phải kính trọng mình theo cách miễn phí. Mình có thể lên tiếng yêu cầu, nhưng mọi người đều có quyền tự do chọn lựa kính trọng theo ý mình hay không, vì sự kính trọng dành cho một người thì tùy thuộc vào nhân cách và những hành xử của con người đó. Một ông thày không thể đòi hỏi học sinh phải kính trọng mình khi mình không có tư cách của một nhà giáo..” [4]

“Cưỡng từ đoạt lý” hay “hiếp dâm ngôn ngữ” và sử dụng những loại ngôn từ thiếu văn hóa là một sở trưởng vô cùng độc đáo trong phương cách hay thủ đoạn truyền bá tư tưởng của Giáo Hội La Mã và là công việc làm của bộ máy tuyền truyền của giáo hội. Học giả Ca-tô Phan Đình Diệm viết:

Hàng ngàn năm, để bưng bít và che dấu 7 chương tội đối ngọai và 1 chương tội đối nội là tám, nghệ thuật tuyên truyền của Giáo Hội Roma phải đạt đến chő cực kỳ ảo diệu, thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời: Giáo Hội là Thánh, Giáo Hội là Mầu Nhiệm, Giáo Hội là Bí Tích, Giáo Hội là Hiền Thê của Đức Giê-su, Giáo Hội là Duy Nhất, Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền, Giáo Hội là Vương Quốc của Thiên Chúa... Giáo Hội tự nhận cho mình hết tất cả những khái niệm cao cả thánh thiện, vừa linh thiêng siêu hình, vừa hữu hình thế tục, chẳng bỏ sót một phạm trù nào! Ngòai nghệ thuật tuyên truyền, Giáo Hội vẫn phải xây "vạn lý trường thành đức tin" và buông bức "màn sắt thần học" lên đầu đoàn chiên. Mỗi tòa giảng là một cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù phép, ảo thuật "núi tội thành con chuột", "kẻ cướp mặc áo thày tu" và "quỷ Satan có diện mạo ông thánh." [5]

3.-Thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ.

Tòa Thánh Vatican biết rõ là tất cả các tín lý Ki-tô cũng như giáo luật và những lời phán dạy của giáo hội chỉ là (a) những chuyện hoang đường, (b) những chuyền loạn luân, phi luân, gian tham, tàn ngườic,  dã man, (c) những lời dạy chuyên chính, võ đoán, trịch thượng,  (d) những thủ đoạn sử dụng xảo thuật cưỡng từ đoạt lý một cách trắng trợn. Những chuyện như thế chỉ có những hạng người ngu dốt đến độ không còn khả năng sử dụng lý trí để “cách vật trí tri” (tìm hiểu sự vật và sử việc) mới tin theo.

Vì biết rõ như vậy, cho nên giáo hội mới đưa ra chủ trương tôn giáo chỉ đạo chính quyền  với ý đồ thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô (papacy) hầu có thể  sử dụng bạo lực của nhà nước để

- (1) thi hành chính sách cưỡng bách nhân dân dưới quyền phải theo đạo. Được quyền chính, giáo hội sẽ hỗ trợ cho luật hôn nhân cưỡng hách những người thuộc các tôn giáo khác phải theo đạo rồi mới được làm lễ thành hôn với tín đồ của giáo hội.

- (2) kiểm soát hết tất cả mọi sinh hoạt và phương tiện sản xuất trong xã hội, bốc hốt vơ vét và tích lũy của cải để có thể chi tiền cho việc mở mang nước Chúa.

- (3) giáo dục nhồi sọ, làm cho tín đồ bị điều kiện hóa giống như con chó trong phòng thí nghiệm của nhà bác học Pavlov hầu dễ bề sai khiến đúng theo phương châm “dân ngu dễ dạy”. Trong mục này, chúng tôi chỉ nói về chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ của giáo hội, còn những vấn đề khác, sẽ được trình bày trong một phần khác ở sau.

Giáo dân hay bất kỳ người nào khác tiếp nhận sở học qua chính sách ngu dân của giáo hội đều sẽ trở thành hạng người dốt nát. Hệ lụy là họ không biết gì về quốc sử, không biết gì về lịch sử thế giới, và càng không biết gì về những việc làm đại gian đại ác của giáo hội trong gần hai ngàn năm qua. Cuối cùng là họ sẽ trờ  thành dị ứng đối với những tài liệu nói về những sự thật lịch sử và những rặng núi tội ác mà giáo hội đã chống lại nhân loại trong gần hai ngàn năm qua.  Có như vậy, thì họ mới không thắc mắc về những điều vô lý, sai quấy, dối trá, phi luân, loạn luân, gian ác, tàn ngược và man rợ trong kinh thánh cũng như trong những lời dạy và những hành động tội ác của giáo hội như đã nói ở trên.

Chính sách ngu dân dạy cho tín đồ Ca-tô "yêu Chúa trên đến hế trí khôn", lúc nào cũng chỉ biết mơ màng tơ tưởng hướng về Nhà Thờ (tức là giáo hội) ban phát cho họ những ân huệ và tất cả những gì họ ước ao, khao khát và cầu mong. Thực trạng này được nhà văn con chiên Nguyễn Ngọc Ngạn ghi nhận như sau:

“Toàn trại này, dường như ai cũng sùng đạo như nhau, và sự sùng đạo ấy được thể hiện qua việc cầu nguyện và đi lễ. Buổi sáng, năm giờ chuông đổ lần thứ nhất, họ đã lục tục đánh thức cả nhà cùng dậy. Việc đầu tiên khi chưa bước chân xuống đất, là phải làm dấu thánh giá và đọc vài kinh nhật tụng. Sau đó, đánh răng rửa mặt, thay quần áo đi lễ. Trên đường đến nhà thờ, họ không bỏ phí thì giờ, lấy tràng hạt ra vừa lần chuỗi vừa cầu xin. Vào nhà thờ đọc kinh chung cả tiếng đồng hồ rồi mời tham dự thánh lễ mà dường như vẫn chưa thấy đủ, họ còn quì nán lại đọc kinh thêm cho đến lúc tới giờ đi làm. Buổi trưa, đúng giờ ngọ, chuông nhà thờ lại cất lên, nhắc họ dù đang làm gì, dù đang ở đâu, cũng phải tạm ngưng tay để làm dấu thánh giá và cầu nguyện. Tối về, cơm nước xong lại vội vã đến nhà thờ. Và khoảng 9 giờ tối, trước khi đi ngủ, mọi gia đình đều tụ tập trước bàn thờ để đọc thêm một loạt kinh nữa trước khi lên giường! Nói chung, một ngày không biết bao nhiêu lần nhớ đến Chúa. Ăn củ khoai cũng làm dấu thánh giá. Nửa đêm mất ngủ cũng ngồi lên lần tràng hạt! Vui cũng cám ơn Chúa, mà buồn cũng coi là thánh giá Chúa trao cho mình gánh vác! Niềm tin mãnh liệt như thế, cho nên chẳng lạ gì….” [6]

Với một chính sách nhồi sọ như vậy, Giáo Hội đã thành công nhào nặn tín đồ thành những người có bản chất "huớng ngọai", "vọng ngọai" (vong thân và vong bản), lúc nào cũng- hướng về Giáo Hội La Mã tức là Tòa Thánh Vatican "với lòng nhiệt thành dâng hiến" cho Tòa Thánh tất cả những gì họ có và tất cả những gì họ có thể làm được "với lòng thiết tha mong muốn sẽ được" Tòa Thánh "nhậm lời" ban "hồng ân Thiên Chúa" hay "phước lành" cho họ. Đây là nguyên nhân TẠI SAO mà tín đồ Da-tô lại là những kẻ luôn luôn coi nhẹ tình yêu lứa đôi và tình thương yêu gia đình (sẽ nói rõ ở trong một chương ở sau), phản lại tổ quốc và dân tộc của họ (như chúng ta đã thấy), tàn ngược với những thành phần thuộc các tôn giáo với họ (đã được trình bày trong Chương 13, sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương sách này có thể đọc online trên sachhiem.net.) 

Đồng thời, ngay từ thuở mới chào đời, tín đồ đã được các ngài "mang chức thánh" và những "bậc trưởng thượng" trong xã hội "dân Chúa" cấy vào đầu óc niềm tin "Giúp Giáo Hội là giúp Chúa và được Chúa "trả công" cho lên Thiên Đường" (Provide help, create hope). Cái kiến thức phổ quát (tục lệ) này trong xã hội "dân Chúa" không mấy ai là không biết.

Nói là hướng về Thiên Chúa để cầu nguyện, nhưng trong thực tế, việc hướng về Thiên Chúa để cầu nguyện lại nằm dưới quyền kiểm soát  của nhà thờ Vatican  (và phải cầu nguyện theo những câu kinh của chính Vatican đặt ra và do người của Vatican quản lý. Như vậy, rõ ràng là Vatican đã dạy dỗ tín đồ phải hoàn toàn trông cậy vào Vatican để được cứu rỗi và được ban cho những ân sủng của Thiên Chúa. Câu nói  “Ngoài Giáo Hội không thể có cứu rỗi” (hors de l’Église, point se salut.)  nói lên sự thật này. Chính vì thế mà nhà biên khảo Da-tô Charlie Nguyễn mới gọi Đạo Ca-tô là “đạo bịp”, ông viết:

Cho nên người ta gọi đạo Công Giáo là đạo bịp hay đạo dối, thật không sai chút nào. Nếu phải kể cho hết những chuyện bịp của Công Giáo chắc phải viết một tràng thiên tiểu thuyết thì may ra mới tạm đủ. Riêng về chuyện thánh Phêrô là giáo hoàng đầu tiên cũng có hàng chục chuyện bịp…” [7]

Vì những đặc tính xấu xa và láo khóet trong kinh thánh [Chúa Bố Jehovah (toàn năng, toàn thiện, có mặt ở khắp nơi), Adam và Eva là thủy tổ của loài người, tội tổ tông, Jesus  là Chúa Cứu Thế, bà Maria Đồng Trinh, Đức Mẹ hiện ra, các phép bí tích, v.v…] và bàn tay máu của Giáo Hội La Mã trong gần hai ngàn năm qua, cho nên, các bậc thức giả đều cho rằng Thiên Chúa Giáo Ki-tô là đạo vị kỷ, tham lam ích kỷ, lấn lướt, vơ vào, bốc hốt, lừa bịp, bạo ngược, ưa thích khủng bố và bạo hành.

Nhưng nhờ thế mà Vatican mới có thể dễ dàng “biến những giáo dân hiền lành thành những tên sát nhân cuồng nhiệt.[8]

Không phải chí có giáo dân ngu dốt mới hành xử theo phản ứng Pavlov như vậy, mà ngay cả những con chiên tự phong là trí thức hay có học vị đại học từ cử nhân trở lên, cũng có những đặc tính ngu dốt như vậy. Lời tuyên bố dưới đây của con chiên cựu luật sư Nguyễn Văn Chức là một trong những bằng chứng:

Vì vậy, nếu trong công cuộc loại trừ bạo quyền cộng sản, tôn giáo tại Việt Nam là động lực vận hành và thúc đẩy, thì trong công cuộc phục hưng con người sau khi xóa bỏ chế độ cộng sản, tôn giáo tại Việt Nam sẽ là nhân tố chủ đạo, chỉ đạo và quyết định. Riêng về phía Thiên Chúa Giáo, quyển Thánh Kinh sẽ là cẩm nang trong sứ mạng phục hưng con người và đạo lý tại Việt Nam.” [9]

Viết ra lời tuyên bố ngu xuẩn như trên, ông trí thức con chiên Nguyễn Văn Chức đã tự chứng tỏ cho mọi người thấy rằng ông ta quả thật là  dốt đặc cán mai táu về kinh thánh Ki-tô, về lịch sử thế giới và quốc sử. Có một điều hết sức khôi hài là ông con cừu (con chiên) này lại to mồm, khoác lác làm ra vẻ ta đây là một người thông kim bác cổ. Thực ra, trong xã hội Ca-tô, hầu như tất cả những ông bà con chiên tự nhận là trí thức hay có học vị đại học từ cử nhân cho đến tiến sĩ (nếu còn tự nhận là tín đô Ki-tô và trung thành với Vatican)  đều là những người ở vào tình trạng dốt nát về lịch sử và hợm hĩnh như ông con chiên Nguyễn Văn Chức. Đây là một sự thật và được ông Nguyễn Hữu Ba đưa ra nhận xét như sau:

Kính thưa quý vị:

Trước đây có lần tôi đã nói: "Tôi đọc Giao Điểm đã gần 20 năm. Tôi chưa thấy một bài phản biện nào từ phía những người TCG cho ra hồn. Tất cả những bài phản biện của họ đều viết theo cái lối "Không đá banh mà chỉ đá vào chân của đối thủ". Tại sao lại như vậy? Có phải vì phía Công Giáo thiếu nhân tài ??? Thưa không phải như vậy. Mà lý do duy nhất là vì những tài liệu mà Giao Điểm dẫn chứng đều là sự thật, không ai có thể chối bỏ được sự thật”. Cho đến hôm nay tôi vẫn tin chắc chắn 100% như vậy.

Những ngày gần đây, tất cả mọi độc giả đều thấy những cây bút từ  phía Ca-Tô Rô-Ma Giáo đã hoàn toàn đuối lý . Cho nên họ toàn móc ra những chuyện râu ria để đánh trống lảng. Họ cố tình dẫn dắt chúng ta sang những đề tài ngoài lề, không cần thiết.

Do đó, tôi xin đề nghị quý vị đừng để ý nhiều đến những chuyện không đáng nói mà họ cố tình moi ra. Chúng ta chỉ nên chú trọng đến những phần tài liệu mà đa số độc giả thầm lặng cần biết mà thôi. “[10]

Bản văn trên đây của ông Nguyễn Hữu Ba cho chúng ta thấy rõ  các ông trí thức con chiên đều không  những dốt nát về lịch sử Giáo Hội La Mã, lịch sử thế giới, ịch sử Việt Nam, mà còn thiếu lương thiện, nếu không muốn nói là lưu manh. Học giả Ca-tô đã phản tỉnh Charlie Nguyễn nói về đặc tính thiếu lưiơng thiện và lưu manh của giới tu sĩ Ca-tô và các chiên trí thức như sau:

Chúng ta nên phân biệt hai loại ngươi đối tượng: Loại thứ nhất lả các tu sĩ công giáo và tập thể chính trị gia, trí thức công giáo lưu manh là bọn người xưa nay chỉ vì tư lợi mà gây ra rất nhiều tội ác chống lại nhân loai và dân tộc. Đối với loại người này, chúng ta phải xác định họ là kẻ thù  nguy hiểm mà chúng ta cần phải đấu tranh diệt trừ không thể khoan nhượng. Đứng đầu bọn này là Hội Đồng Giám Mục, những dòng tu đang biến đức tin công giáo thành một món hàng béo bở để tận dụng khai thác làm giầu như dòng tu Đồng Công ở Missouri chẳng hạn. Kế đến là bọn chính trị lưu manh đang ẩn nấp trong các đoàn thể ở nhà thờ như hiệp sĩ đoàn. Vào một lúc nào đó thuận tiện, chúng sẽ mau chóng biến thành những đoàn quân võ treng hoặc những đoàn quân mật vụ hiếu sát như những đoàn thể của Linh-mục Hoàng Quỳnh. Lê Hữu Từ, Le Roy hoặc Trần Kim Tuyến. Loại người thứ hai là tuyệt đại đa số giáo dân, những người mải lo làm ăn, vô tư, chất phác. Chỉ vì thiếu hiểu biết, (cho nên) họ đã bị các tu sĩ và trí thức lưu manh lừa gạt, kích động, xô đẩy vào những hoạt động phá hoại đất nước mà họ không biết.”[11]  

Hầu hết các tu sĩ là những kẻ đại gian đại ác ngụy trang dưới những lớp áo đen, áo đỏ, áo trắng đóng vai đạo đức giả để phỉnh gạt tín đồ. Bề ngoài, họ làm ra vẻ thuận thảo với nhau, thật sự bên trong nội bộ, họ ganh tị tranh đua nhau và sẵn sàng hạ thủ nhau để tranh quyền đoạt thế. Họ dùng đủ mọi thủ đoạn để bòn rút tiền bạc xương máu của giáo dân để xây nhà thờ nguy nga đồ sộ chỉ cốt được vênh vang với đời. Mái nhà thờ của họ càng lớn rộng bao nhiêu,  thì càng che khuất ánh sáng mặt trời chân lý bấy nhiêu. Các bức tường của nhà thờ càng cao bao nhiêu thì càng ngăn cách con người với nhau bấy nhiêu. Giáo sĩ là những con ký sinh trùng vừa ăn bám, vừa phá hoại xã hội. Họ tội lỗi cùng mình lại nắm quyền tha tội cho đám tín đồ vô tội hoặc ít tội hơn họ. Họ thực sự là một bọn cướp nguy hiểm hơn bọn cướp thường vì những kẻ cướp thường đều bị luật pháp trừng trị. Trái lại, bọn cướp đội lốt giáo sĩ lại được giáo dân tôn kính, tâng bốc là những vị lãnh đạo tinh thần. Tất cả các tệ nạn này đều xuất phát từ sự thiếu hiểu biết của đại đa số giáo dân. Do vậy, việc giáo dục khai sáng tâm linh là việc vô cùng cần thiết để cứu nước và bảo vệ nền văn hóa nhân bản rất cao đẹp của dân tộc ta mà tuyệt đại đa số giáo dân không hề biết tới.[12]

Người ta thường nói, “Có ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Học giả Charlie Nguyễn ở trong cái chăn Giáo Hội La Mã đã  phơi bày cho thiên hạ biết rõ những “con rận quạ đen”  và bọn trí thức con chiên mang đầy tội ác  hà hiếp và bóc lột  những người đồng đạo ít học, ngu dốt, và hay lòe thiên hạy bằng những xảo ngữ với những giọng điệu khoa trương, huênh hoang, khoác lác, làm ra vẻ ta đây là người thông kim bác cổ. Ngoài những căn bệnh ghê tởm như trên, họ ( còn có một loại tội ác trời không dung đất không tha. Tác giả sách “Vấn Đề Thượng Đế: Một Nghi Ngờ Thần Thánh” nói rõ như sau:

 “LINH MỤC BỆNH HOẠN: Một trong những giáo lý của đạo CG là chuyện giao cấu chỉ được có giữa hai vợ chồng với một mục đích duy nhất là sinh con. Ngay cả khi hai vợ chồng giao cấu với nhau vì khoái lạc là thành ra tội rồi (Catechism 2181 & 2353). Đạo thì gắt gao như vậy nhưng trong các giáo hoàng có ông (Alexander VI) có đến 7 đứa con chính thức và 10 không chính thức. Theo báo cáo chính thức của Vatican “Canonical History of Clerical Sexual Abuse”, chuyện dâm loạn của các Linh mục đã có từ 17 thế kỷ trước. Tai họa nầy lan rộng đến nổi Công đồng Treves năm 1227 đã công khai quyết định sẽ rút phép thông công các Linh mục đòi tình dục ngay trong phòng xưng tội. Đó là chuyện đời xưa. Chuyện đời nay cho thấy năm 2007, chỉ một giáo phận Los Angeles đã phải dùng tiền giáo dân để trả 660 triệu Mỹ kim cho 508 nạn nhân bị các Linh mục xâm phạm tình dục. Ngoài nước Mỹ, đại họa nầy cũng diễn ra tại Ái Nhĩ Lan, Hoà Lan, Pháp, Ý, … Đặc biệt tại Đức người ta tìm ra chính đương kim Giáo Hoàng Benedicto XVI, năm 1980 làm Giám mục Munich cũng đã thuyên chuyển một linh mục dâm loạn từ nhà thờ nầy qua nhà thờ khác. Tháng 2/2002, khi những vụ dâm loạn của các Linh mục CG bắt đầu bị tố cáo, chính ông đã tuyên bố “riêng tôi tin chắc rằng đây là một chiến dịch của báo chí để bôi xấu nhà thờ. Tỉ số các Linh mục dâm loạn không cao hơn hoặc có thể thấp hơn tỉ số trong các nghành nghề khác”! Khi Giáo hoàng so sánh Linh mục (người đại diện Chúa) với luật sư, thợ hàn, thợ mộc, bác sĩ, thợ làm nail … thì còn gì để bàn?

Nếu bạn muốn biết thêm mục nầy, xin hãy vào hai websites:

http://en.wikipedia.org/wiki/Roman_Catholic_sex_abuse_cases_by_country

(Dâm loạn trong Giáo hội Công giáo La-Mả xếp theo từng nước trên thế giới)

http://Bishopaccountability.org (Tin tức và thống kê cập nhật tất cả những dâm loạn trong Giáo hội Công giáo La-Mã).”  [13]


Giuseppe Garibaldi

Chính vì họ lưu manh, gian ác và  sống đời tội ác như vậy, cho nên nhà cách mạng lão thành thành người Ý Đại Lợi Giuseppe Garibaldi (1807-1882) mới nói rằng, “Linh-mục là hiện thân của sự sai lầm.” (The priest is the personification of falsehood), Hoàng Đế Napoleon I (1769-1821) của nước cũng tuyên bô rằng, “Ở khắp mọi nơi và mọi thời linh mục đã đưa vào sự gian dối.” (Priests have everywhen and everywhere introduced fraud and falsehood.)  Trần Chung Ngọc, Đức Tin Công Giáo (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2000), tr. 292 và 300., nhân dân Pháp mới gọi họ là “bọn quạ đen” (Les Corbeaux noirs), và từ đầu năm 2002 cho đến nay, tin tức loan truyền qua các cơ quan truyền thông quốc tế cho chúng ta thấy rằng họ (giới tu sĩ Ca-tô) chỉ là một băng đảng dâm tặc áo đen hay “hắc y dâm tặc” với sự đồng lõa, dung dưỡng và  bao che của  cả Giáo Hoàng John Paul II (1978-2005) và đương kim Giáo Hoàng Benedict XVI (2005- ). Xin xem bản văn trích dẫn ở trong  Phần 1, Mục B, Tiểu Muc 3 với tựa đề là “Biệt Đãi Giới Tu Sĩ…” ở trên.

4.- Ban hành giáo luật về hôn nhân:

Một trong những thủ đoạn bất chính, bất nhân và hết sức đê tiện của Giáo Hội La Mã là dựa vào lòng khát vọng yêu đương của những cặp trai gái yêu nhau muốn sống đời với nhau dưới cùng một mái nhà để ban hành luật hôn nhân cưỡng bách những người thuộc các tôn giáo khác muốn lập gia đình với người yêu là  tín đồ Ca-tô thì phải theo đạo rồi mới được làm lế thành hôn.  Chính vì cái luật lưu manh này mà  kho tàng thi ca Việt Nam mới có thêm mấy câu vè dưới đây:

"Lạy Chúa Ba Ngôi, tôi  lấy được vợ, tôi thôi nhà thờ."

5.- Thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô tại các nơi nào mà quyền lực của Vatican vươn tới.

Đây là vấn đề sinh tử của Giáo Hội La Mã vì rằng «cái tôn giáo ác ôn » này chì tổn tại được là (1) nhờ vào  khả năng  mê hoặc, phỉnh gạt và lừa bịp bằng chính sách tuyên truyền và chính sách ngu dân như đã nói trên, và (2) dựa bạo lực của nhà nước đạo phiệt Ca-tô (được gọi là chế độ papacy). Việc thiết lập chế độ đạo phiệt Ca-tô chỉ là việc cụ thể hóa điều mà Giáo Hoàng Léo I (440-461) đòi nằng nặc:


Giáo Hoàng Léo I (440-461)

Quyền hành của Giáo Hoàng phải bao trùm lên tất cả quyền hành của các nhà cầm quyền thế tục.” [14]

Vào giữa thập niên 450, thấy rằng Đế Quốc La Mã đang trên đà suy yếu, Giáo Hoàng Léo I (440-461) tưởng rằng thời cơ có thể giúp cho giáo hội nhẩy lên bàn độc thay thế chính quyền Đế Quốc La Mã để thao túng sân khấu chính trị Âu Châu, cho nên, ông ta mới đưa ra lời tuyên bố ngược ngạo như trên vào năm 451. Nhưng đó chỉ là ảo tưởng vì rằng lúc đô Đế Quốc Byzantine (330-1453), vốn sẵn có quyền lực và vần còn vững mạnh, đã thứa thắng xông lên, lanh tay nhẩy lên chiếm thế thượng phong thay thế  địa vị của Đế Quốc La Mã. Vị vậy mà Giáo Hội La Mã đành phải co vòi lại thúc thủ, không dám trổ mòi  ngang ngược đòi thống trị thiên hạ một cách hung hãn và trắng trợn như Giáo Hoàng Léo I đã tuyên bố như trên.

Sau này vào  hậu bán thế kỷ 11, Đế Quốc Byzantine rơi vào tình trạng suy yếu; đồng thời các thế lực Đức, Ý và Pháp cũng suy yếu, không còn khă năng quân sự và chính trị để ngoi lên nắm quyền bá chủ Âu Châu. Nhờ vậy mà năm 1075, Giáo Hoàng Gregory VII (1073-1085) mới chụp lấy cơ hội này để đưa ra bản Tuyên Cáo "Dictatus papae" với dã tâm nhẩy lên bàn độc làm bá chủ Âu Châu. Bản tuyến cao này gồm 27 cái mà giáo hội gọi là 27 nguyên tắc. Tất  cả những nguyên tắc này chỉ là phó sản của cái đòi hỏi ngược ngạo do Giáo Hoàng Léo I (440-461) đã lớn tiếng tuyên bối vào năm 451. Tất cả những nguyên tắc này đều nhằm vào một mục đích duy nhất là cướp đoạt quyền lực chính trị để tiến lên biến Giáo Hội La Mã thành một đế quốc thực dân xâm lược trong mưu đồ làm bá chủ Âu Châu và vùng ven biển Địa Trung Hải. Vấn đề này đã được trình bày khá đầy đủ trong Chương  13 có tựa đề là “Những Hành  Đông Cưỡng Đoạt Và Vơ Vét Quyền Lực  của Vatican”,  sách Tâm Thư Gửi Nhà Nước Việt Nam. Chương sách này có thể đọc onlỉne trên sachhiem.net.

Chế độ đạo phiệt Ca-tô  này của Giáo Hội La Mã được các ông tu sĩ áo đen người Việt ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1963 tóm gọn bằng một cụm từ “Nhất Chúa, nhì cha, thứ ba Ngô Tổng Thống.” Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr. 18. Theo chủ trương phản tiến hóa này (tôn giáo chỉ đạo chính quyền), người dân không có quyền vùng lên làm cách mạng để thay đổi chính quyền dù rằng người cầm quyền đã trở thành một thứ bạo chúa tàn hại nhân dân. Sự kiện đều được sách sử ghi lại rõ ràng.  Sách Triết Lý Quốc Trị Đông Phương ghi rõ sự kiện này như sau:

“… một triết gia Âu Châu khác là thánh Aquinas (1225-1274) chủ trương rằng nhà vua được thượng đế chọn lựa cho nên nhân dân phải dùng các phương tiện hợp pháp để trục xuất một vị vua gian ác; nhân dân KHÔNG THỂ LÀM CÁCH MẠNG  giết vua để thay đổi cơ chế chính quyền. Theo Aquinas, nhấn dân thà có một ông vua gian ác còn hơn là phải đối đầu với hiểm họa đất nước bị phấn chia. Sự cai trị độc ác của một lãnh tụ có thể phản ảnh ý định trừng phạt người dân của Thượng Đế; và nếu các phương tiện hợp pháp không thể trục xuất vị lãnh tụ gian ác,  người dân chỉ còn cách duy nhất là cầu nguyện Thượng Đế. Nếu Thượng Đế (tức là nhà thờ) không đáp lời để bắt buộc vị lãnh tụ quốc gia đó thóai vị,  thì nhân dân phải chấp nhận vị lãnh tụ gian ác này bởi vì đó là ý của Thượng Đế (nhà thờ).”[15]

C.- Kết luân:

Các phần trình bày trên đây cho chúng ta thấy rằng: ở Đông Phương không có cái gọi là tôn giáo như bên Tây Phưng, mà chỉ là tín ngưỡng của tam giáo đồng nguyên, kết thành một nền đạo lý và văn hóa. Đó là một nền đạo lý vị tha, vị nhân sinh. Đạo lý Đông Phương không có giáo chủ nào đòi tôn thờ hay phục vụ chính mình. Họ đều lấy con người làm đối tượng để phục vụ, giáo hóa con người trở nên hiền lương, chân chất. Đạo lý Đông Phương không hề trịch thượng, đối xử với nhau sao cho vừa mắt ta ra mắt người (kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân). Nhờ vậy mà trong xã hội Đông Phương,

(1) chưa hề xẩy ra chuyện cưỡng bách những người khác phải từ bỏ tín ngưỡng cổ truyền của người ta để theo tôn giáo của mình vì hôn nhân, vì việc làm hay vì vấn đề an ninh của cá nhân và gia đình,

(2) chưa hề có một  người nào bị  một cá nhân cuồng tín về tôn giáo mưu đồ hãm hại người khác đạo, và

(3) chưa hề xẩy ra chiến tranh tôn giáo.

Vì những lẽ này,  ta có thể ví  nền đạo lý vị tha  của các dân tộc Đông Phương như những bông hoa có đầy đủ cả hương và sắc, tự nó lan tỏa nhẹ nhàng, chứ không cần có những tổ chức hay những đạo binh đặc nhiệm để mở mang.

Trái lại,  xã hội Ki-tô là một xã hội vị tôn giáo, coi con người là  nô lệ cho tôn giáo, mà thực ra là làm nô lệ cho Giáo Hội La Mã, đúng như người ki-tô hữu thường tự nhận là “tôi tớ hèn mọn” của giáo hội, và giáo hội thì coi tín đồ như một loài thú vật  mà họ gọi là “con chiên” (cừu non, một thứ cừu chưa trưởng thành). Nền đạo lý này được xây dựng trên sự dối trá, phỉnh gạt, lừa bịp và bạo lực.  

Ngoài ra, hầu hết những tín lý Ki-tô, những giáo luật và những lời phán dạy của giáo hội đều nặng tính cách hoang đường, nghịch lý, loạn luân, xảo quyệt, bất nhân, và trịch thượng, cho nên Giáo Hội La Mã phải theo đuổi chủ trương “tôn giáo phải chỉ đạo chính quyền” hầu có thể: 

1.- Dùng miếng mồi vật chất và các chức vụ trong chính quyền để dụ khị và câu nhử những phường tham lợi, háo danh, thèm khát quyền lực và bọn xu thời chạy theo bắt mồi rồi theo đạo. Dùng bạo lực của chính quyền để cưỡng ép nhân dân dưới quyền phải theo đạo, nếu không thì có thể sẽ bị thủ tiêu, hoặc là an ninh về việc làm và sinh mạng sẽ bị đe dọa trầm trọng. Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978), tr. 130.

2.- Thi hành chính sách ngu dân và giáo dục nhồi sọ để làm cho tín đồ và người dân dưới quyền mất hết khả năng sử dụng lý trỉ để tìm hiểu sự vật và sự việc. Dân chúng dưới quyền trở thành ngu dốt, chấp nhận thế lực của đạo Ki-tô như một "nền văn minh" trong lúc họ không cần biết gì về (a) lịch sử thế giới, và (b) sự thật lịch sử Việt Nam cận và hiện đại. Có như vậy thì họ mới không biết gì về bộ mặt thật vô cùng ghê tởm.

3.- Mở các cơ quan kinh tài, chen lấn vào các cơ quan đầu não để kiểm soát hết tất cả mọi phạm vi sinh hoạt trong xã hội: các nhà thương, trường học, viện dục anh, tế bần, các phưng tiện truyền thông,.. để có thể hỗ trợ và vơ vét và tích lũy cho đầy kho Nhà Chung hay Nhà Chúa các linh hồn và tài sản của các linh hồn đó, lại vừa được tiếng là bác ái, xã hội!

4.- Dùng bạo lực  để tàn phá và huỷ diệt các di sản văn hóa và các công trình kiến trúc của các tôn giáo và văn minh khác. Lý do thứ nhất là triệt để tuân hành lời phán dạy trong kinh thánh mà sách Leviticus đã nói rõ nơi Chương 26 (1-18). Lý do thư hai là truyền thống trịch thượng.

Trong suốt chiều dài lịch sử từ những năm đầu thời Trung Cổ cho đến ngày nay,  Giáo Hội La Mã đã liên tục sử dụng chính sách giáo dục được gọi là “rèn luyện họ theo tinh thần công giáo” để họ  chỉ có thể  sống theo “đức tin Ki-tô” hay sống theo “lương tâm công giáo”.

Quan niệm của  Giáo Hội La Mã về con người Ki-tô hữu sống theo “đưc tin Ki-tô” hay “lương tâm công giáo” rất nghịch thường và khóa chấp nhận. Nhận xét này có thể chứng minh qua những hành động của các nhân vật tiêu biểu bên đạo Chúa từ lúc truyền đạo qua Việt Nam cho đến nay: (1) các giáo sĩ đến Việt Nam truyền đao như Alexandre de Rhodes, Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), Joseph Marchand (cố Du), Pelleirin, Lergrand de Laraye, Huc, Puginier, Gauthier (Ngô Gia Hậu), Sohier, v.v…, (2) các tu sĩ Ca-tô người Việt  như  Trần Lục, Nguyễn Bá Tòng, Ngô Đình Thục, Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi, Ngô Quang Kiệt, Hoàng Quỳnh, Vũ Đức Khâm, Nguyễn Kim Điện, Lương Huy Hân, Mai Đức Tín, Vũ Đức Luật, Nguyễn Quang Ân, Mai Ngọc Khuê, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Lạc Hóa, Đinh Xuân Hải, Nguyễn Bá Lộc, Trần Đình Vận, Hoàng Quỳnh, Tô Đình Sơn, Cao Văn Luận, Vũ Thạch Nghị, Trần Dzu, Nguyễn Quang lãm, Trần Công Nghị, Đào Quang Chính, Cao Đăng Minh, Việt Châu, Nguyễn Hữu Du, Nguyễn Hữu Lễ, Phan Văn Lợi, Nguyễn Văn Lý và tất cả các ngài đại diện Chúa được Linh-mục Nguyễn Thanh Sơn nêu đích danh nơi trang 27 trong tờ Tận Thế Số Ra Mắt, ngày 15/6/2002 (Toà Soạn: P.O. Box 8394, Fountain Valley, CA 92728. USA), và (3) một số đông giáo dân có địa vị cao ở Việt Nam trong những năm 1858-1975  như Trần Bá Lôc, Lê Hoan, Ngô Đình Khả, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Trường Tộ, Petrus Trương Vĩnh Ký, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn, Trần Kim Tuyến, Nguyễn Văn Thiệu, Đặng Văn Quang, Lâm Văn Phát, Hoàng Văn Lạc, Lý Tòng Bá, Huỳnh Văn Cao, Lê Quang Tung, v.v…, Tất cả đều  có những ác tính cực kỳ ghê tởm, đều là những  tên tội đồ chống lại tổ quốc và dân tộc Việt Nam,  đều mất hết nhân tính và phản ảnh đúng bản chất của loài súc sinh mà Giáo Hội La Mã gọi chúng là “bày cừu non”.

Khác với nền đạo lý Á Đông lấy con người làm căn bản, Ki-tô giáo chỉ xây dựng trên những chuyện hoang đường xa thực tế, ngày càng lạc hậu với kiến thức nhân loại ngày nay, lại thêm bản chất tham lam của Giáo Hội La Mã (luôn xưng là Vua của các Vua), nên việc truyền đạo của họ luôn kết chặt với những thủ đoạn quỷ quyệt về chính trị. Do đó, tất cả những tổ chức liên quan đến việc truyền đạo trong lịch sử của Vatican đều nhúng tay vào tội ác. Nỗ lực che đậy tội ác của Vatican lại càng gia tăng cường lực của tội ác. Nhưng không may cho GHLM, văn minh nhân loại ngày càng tiến lên, đã đến lúc GHLM khó có thể khóa chặt những cánh cửa trong các căn hầm bí mật chứa đầy hồ sơ tội ác của họ. 

(còn tiếp)

1 2 3 4

 


Chú thích:

[3] Bùi Hoàng Thư. ”Bạn Đọc Góp Ý.” Văn Nghệ Tiền Phong Số 548, tháng 11/1198.

[4] Trần Tiên Long. “Phiếm Luận Danh Xưng Công Giáo” diễn đàn thư tín ngày 30/5/2011.

[5] Phan Đinh Diệm. "Mea Culpa Bài 3 – Giáo Hội Công Giáo Roma La Tinh Cáo Thú Tội Lỗi Ngàn Năm." http:// www.kitohoc.com/Bai/Net066.html. Ngày 19/9/2000.

[6] Nguyễn Ngọc Ngạn, Xóm Đạo (Đông Kinh, Nhật Bản: Tân Văn, 2003), tr 148.

[7] Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr. 272.

[8] Trần Tam Tỉnh, Thập Giá Và Lưỡi Gươm (Paris: Nhà Xuất Bản Trẻ, 1978), tr. 104.

[9] Chu Văn Trình, Thái Vân & Trần Quang Anh, Việt Nam Với Cuộc Dấy Loạn Hòa Bình của Giáo Chủ John Paul II - Tập 1 (Mt.  Dora, FL: Ban Tu Thư Tự Lực, 1994,  tr. 10.

[10] Ba Nguyen <hbnguyen2005@yahoo.com.au> Ngày 23/5/2011, phổ biến qua các diễn đàn ChinhNghiaViet@yahoogroups.com; Nuoc_Viet@yahoogroups.com; DienDanCongLuan@yahoogroups.com; PhoNang@yahoogroups.com.”

[11] Charlie Nguyễn, Công Giáo Trên Bờ Vực Thẳm (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 2001), tr 29-30.

[12] Charlie Nguyễn, Sđd., tr.  63-64.

[13] Vincent Bugliosi, Vấn Đề Thượng Đế: Một Nghi Ngờ Thần Thánh, (Lý Nguyên Diệu dich). Nguyên tác Divinity of Doubt: The God Question (Nhà Xuất Bản: Vangurd Press, 2011). Bài viết này được ông Trần Tiên Long  qtran@ec.rr.com phổ biến trên các diễn đàn điện tử PhoNang@yahoogroups.com, chinhnghiaviet@yahoogroups.com, goidan@yahoogroups.com, ngày 31/5/2011.

[14] Malachi Martin, The Decline and Fall Of The Roman Church (New York: G.P. Putnam’s Sons, 1982), p. 64.Nguyên văn :« … But more than that, he has declared the authority of the Roman bishop over all temporal rulers as well.”

[15] Dương Thành Lợi, Triết Lý Quốc Trị Đông Phương (Toronto, Canada: Làng Văn, 1997), tr. 93.

© sachhiem.net