Qua các dẫn chứng bằng sử liệu không thể phủ bác, nhất là các sử liệu mật trong thư khố Pháp, sử liệu của Linh mục Trương Bá Cần, Linh mục Trần Tam Tĩnh và của nhiều đô đốc thực dân Pháp cho thấy tâm chất vọng Pháp và làm tay sai cho ngoại bang của Nguyễn Trường Tộ, và cũng thấy rõ bài viết của ông Trần Hữu Tá hoàn toàn sai sự thực, sai sử liệu, viết theo cảm tính, tùy tiện, cẩu thả vô trách nhiệm và phong thần một cách đại ngôn (Bùi Kha)
Trưa
ngày 31/12/2011, có người tại Hà Nội cho hay ông Trần Hữu Tá có bài đăng
trên “Kiến
Thức Ngày Nay” số Tết. Qua hệ thống tin học toàn cầu tôi không
tìm thấy báo hoặc tạp chí Kiến Thức Ngày Nay. Tôi đoán có lẽ đây là bài“Nguyễn
Trường Tộ (1830 – 1871) – một bi kịch lạc quan”của
ông Trần Hữu Tá đã đăng trên Trang nhà Boxit, 03/12/2011, nay đăng lại
trên KTNN.
Đến
thời buổi nầy mà vẫn có người viết tùy hứng không cần sử liệu.
Sau
đây là những phản biện.
1.
Ông Trần Hữu Tá:
Sau
khi mô tả tình hình thế giới nhất là các nước Á châu như Ấn, Mã Lai,
Indonesia, Việt Nam…bị Âu Châu (Anh Pháp, Bồ, Hà Lan…) xâm chiếm, Ông
Trần Hữu Tá viết:
“…trong
giai đoạn lịch sử đầy biến động này, thế bế tắc của nước ta đâu phải
hết khả năng tháo gỡ, hóa giải! Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898), Bùi Viện
(1835 – 1878), Nguyễn Lộ Trạch (1852 – 1895)… là những con người ưu
tú, có nhân cách đáng trọng, có tư tưởng đổi mới sáng suốt, có sự tiếp
cận sâu sắc với cách mạng khoa học kỹ thuật phương Tây; các vị ấy có
khát vọng và có khả năng phò vua giúp nước vượt qua tình thề nước sôi
lửa bỏng. Điều đau xót là ở chỗ họ không được tin dùng, “đại tài” nhưng
chỉ được “tiểu dụng”, thậm chí không được đoái hoài, đếm xỉa đến. Nguyễn
Trường Tộ nằm trong số những con người xuất sắc nhưng bất hạnh ấy”.
-
Bùi Kha: Đoạn
văn nêu trên chỉ nên để tên hai nhà ái quốc Bùi Viện và Nguyễn Lộ Trạch
mà thôi. Còn ông Trương Vĩnh Ký và Nguyễn Trường Tộ, xin đọc các chứng
liệu sau đây để rõ sự tình:
a. Trương Vĩnh Ký “đại
tài” như thế nào, mời ông Trần Hữu Tá đọc kỹ sử liệu sau đây:
Đô Đốc Charles Rigault De Genouilly
Ngày 1.9.1858, đô đốc thực dân Pháp Rigault de Genouilly đánh Đà Nẵng. Quân
dân Việt Nam nhất tề chống Pháp xâm lược. Với sự phản ứng kiên trì của
Việt Nam cọng thêm khí hậu khắc nghiệt tại Đà Nẵng lúc bấy giờ, quân
Pháp đã phải rút khỏi Đà Nẵng để vào Nam chiếm thành Gia Định ngày 17.
2. 1859. Sau một thời gian ngắn, trung tá hải quân Jean Bernard Jaureguiberry
và 800 lính ở lại giữ thành Gia Định, còn de Genouilly
thì trở ra Đà Nẵng đánh phá lần thứ nhì.
Trước
cảnh nước mất nhà tan, Trương Vĩnh Ký đã không tham gia phong trào đánh
đuổi thực dân như bao nhiêu người khác. Trái lại ông còn viết thư cho
viên trung tá thực dân nói trên, yêu cầu giúp đỡ để tiêu diệt quân dân
Việt Nam mà họ Trương gọi đó là kẻ thù. Thư nói trên viết tay vào
cuối tháng 3.1859, lúc Trương 22 tuổi, trong đó có đoạn như sau:
"...
Nhưng tôi nhân danh là người đại diện cho tín hữu Công giáo kính dâng
lên Ngài lời cầu xin của chúng tôi... nỗi thống khổ mà chúng tôi hằng
gánh chịu dưới bạo quyền của các quan lại triều đình gây ra... Tất cả
chúng tôi chắc sẽ chịu chết nếu Ngài không kịp đánh đuổi kẻ thù* của
chúng ta..." (Văn
khố Hải quân Pháp, Paris: SUM Vincennes. Vũ Ngự Chiêu sưu tập).
Nhằm
giảm số trang, tôi chỉ cắt một đoạn thư viết tay của họ Trương và vài
đoạn tài liệu liêm hệ khác như trên.
[Nguồn:
“Hồ
Chí Minh, con người và huyền thoại’, Chánh Đạo, Tập I (1892-1924), in
lần thứ hai. Văn Hóa, Hoa Kỳ].
Đọc
đến đoạn nầy, có người sẽ nghĩ rằng vì vua quan nhà Nguyễn quá tàn ác
với giáo dân Công Giáo nên Trương Vĩnh Ký phải kêu gọi thực dân giải
cứu. Thực tế không phải như vậy. Sau đây là lời phát biểu của đô đốc
Page, một tên thực dân cao cấp, đã viết thư cho bộ trưởng hải quân Pháp
ngày 15.12.1859 như sau:
"Những
năm đầu mới lên ngôi, vua Tự Đức có một thái độ đối xử khá ân cần với
họ (các
giáo dân, BK).
Nhà vua đã ra lệnh cho các quan lại địa phương có thái độ khoan dung,
rộng rãi với họ trong những chuyện làm trái pháp luật, những vụ phạm
pháp nhỏ. Nhưng rồi các giáo dân, do các giáo sĩ lãnh đạo ngày càng
xấc xược ngạo mạn đến mức độ họ không thèm biết đến cả chính quyền
địa phương. Họ công khai nổi loạn, họ tuyên bố người Công giáo không
thể vâng lời những kẻ theo một tôn giáo khác..." (Nguyễn Xuân Thọ, Bước
Mở Đầu của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp ở Việt Nam - 1858-1897, tác
giả xuất bản Hoa Kỳ 1995, trang 86 (Phần tiếng Pháp có thể tìm thấy trong
thư khố Pháp, tài liệu Hải Quân số hiệu BB4-77).
Giả
sử nếu triều đình có những lúc đối xử cứng rắn với các giáo dân thì đó
là điều dễ hiểu và không thể tránh được. Nếu chúng ta ở vào hoàn cảnh
đó; và muốn cho quốc gia được độc lập và có chủ quyền thì cũng không
thể làm khác hơn. Dưới đây là lời phát biểu của một đô đốc thực dân khác,
người chỉ huy tấn công Đà Nẵng. Thư đề ngày 29.1.1859 (Hai tháng trước
thư của Trương Vĩnh Ký), Genouilly viết:
"Không
một nền cai trị nào, dù là phục vụ đạo Công giáo, lại có thể dung
thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính
trị, dân sự và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền
hạn của họ (các giáo sĩ - BK).
Nếu
cũng vì những yếu tố phạm pháp ấy mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm
quyền Annam trục xuất, thì báo chí của người truyền giáo lại kêu
la om sòm là họ bị bạo hành”.
(Fut-elle
au service de l'intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente
et insolente dans les affairs politiques, civiles et militaires qui se
sont et ne doivent pas être de leur ressorts. Si l'expulsion du Mgr Pellerin
avait été prononcée pour les mêmes chefs d'accusation, par un autorité
Vietnamien, la press des missionnaires aurait crié partout persécution." [(Dépêche
du 29.1.1859, Archives Nationales Fonds Marine BB4, 769, P. 113). CHT, Christianisme
et Colonialisme au Vietnam - 1867-1914].
b. Ông Trần Hữu Tá viết: “Nguyễn
Trường Tộ nằm
trong số những con người xuất sắc nhưng bất hạnh ấy”. Ông
nên đọc một vài trong số rất nhiều hành động của NTT để tránh viết
sai lầm:
b.1. Ngày 16/10/1858 cùng với các linh mục, giám mục Việt và ngoại quốc làm
áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Năm 1861
làm thư ký và thông dịch cho Tổng hành dinh của quân thực dân Pháp để
mở rộng vùng chiếm đóng tại Sài Gòn (Linh mục Trương Bá Cần, “Nguyễn
Trường Tộ con người và di thảo”, TP HCM, 1988, tr. 22),
b.2. Vai kề vai lòng cạnh lòng với tên tình báo Gauthier suốt gần 20 năm,
cùng với tên này, thập thò núp bóng sau bức màn canh tân, và có thể cùng
nhau viết 58 bài chiêu dụ để lừa dối nhân dân và phỉnh gạt triều đình
nhằm phục vụ cho ước vọng của ngoại bang (vui lòng xem mục số 2 tiếp
theo),
b.3. Cố tình nhận định tình hình sai lạc để cứu vãn cảnh lâm nguy của quân
đội Pháp từ 1858 (xem mục số 4),
b.4. Dối trá trong việc mở trường kỹ thuật ở Huế (Bùi Kha, “Nguyễn
Trường Tộ & vấn đề canh tân”. nhà Xuất bàn Văn học, Hà Nội,
30.3.2011” tr. 134, và TBC, sđd. tr.49-50),
b.5. Trong “Tế
cấp bát điều” NTT âm mưu đề nghị đào kênh từ Hải Dương
vào Huế để toàn dân nổi loạn (Xem BK, sđd. tr.127-128),
b.6. Đề nghị thương hiếu với Giáo hoàng để thúc đẩy tiến trình Công giáo hóa
Việt Nam (BK, sđd. tr.104-112).
b.7. Đề nghị dùng các linh mục Việt gian vào việc canh tân đất nước,
và mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ và viện dưỡng lão do các giám mục thực
dân cử người coi sóc. Lúc các ông linh mục và giám mục có mặt khắp
nơi, họ sẽ biến những người Việt hiền hòa thành những kẻ ly khai với
tổ quốc, rồi hô hào một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi
Việt Nam (BK, sđd. tr.150-155),
b.8. Năm 1868, ngăn cản triều đình cử phái bộ đi Pháp khiếu nại để lấy lại
3 tỉnh miền Tây Nam kỳ (BK, sđd. tr. 238),
b.9. Thay vì phải đánh gấp để đuổi giặc về nước vào những tháng cuối năm 1870
và đầu năm 1871. Vì sợ Pháp bại trận, nên Nguyễn Trường Tộ khuyên phải
dùng con đường ngoại giao, thay vì vũ lực. Và nếu sử dụng vũ lực, thì
không nên thực hiện ngay mà phải hai năm sau (BK, sđd. tr.175].
2.
Trần Hữu Tá: “Do
những mối quan hệ tốt đẹp tình cờ, ông được giám mục Gauthier dạy cho
tiếng Pháp và các môn khoa học phổ thông – cơ bản thôi,…”
-
Bùi Kha: Ông
Trần Hữu Tá hớn hở ca tụng Nguyễn Trường Tộ có mối quan hệ tình cờ
với Giám mục Gauthier, nhưng ông không đọc sử liệu để biết ông GM nầy
là một tên tình báo hạng nhì tại Việt Nam thời bấy giờ. Mời ông đọc
6 sử liệu:
2.1
Gauthier theo phe Aubaret:
…Về
phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống, phe bênh. Chúng
ta cũng nên lưu ý rằng, chống hoặc bênh cũng cùng một mục đích là đồng
hóa dân Việt Nam nhưng theo cách này hay theo đường khác mà thôi. Trong
phe ủng hộ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier hai người có liên
hệ đến việc mở trường nói trên. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh
mục Pernot, cho chúng ta thấy điều đó:
Giám mục Gauthier
“Hiệp
ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ có Giám mục Sohier
và Giám mục Gauthier là tán đồng hiệp ước, nhưng đứng trên quan điểm
chính trị thực sự và quyền lợi của hội truyền giáo chúng ta, việc trả
lại 3 tỉnh để lấy tiền thật là một sự ngu ngốc kỳ lạ. Vấn đề bây giờ
là phải lấy luôn 3 tỉnh phía Nam: Đó là ý đồ của chính phủ và của toàn
thể Bộ Tham mưu chúng ta, nhưng cần phải có một nguyên cớ nghe được,
vì cần phải có tôn trọng công lý và tôi không biết từ khi hiệp ước
được ký kết với Bonard, người An Nam có cố tình phá vỡ hiệp ước hay
không; vì không có gì rõ ràng là Triều đình Huế không tôn trọng, dù
có nhiều vi phạm ở địa phương mà họ có thể quy trách nhiệm cho dân
chúng và quan lại, là những người, dĩ nhiên, không mấy sẵn sàng chấp
nhận bất cứ hiệp ước nào với nước ngoài, nhất là ở Bắc Kỳ. Chắc Cha
đã gặp Giám mục Sohier, người theo phe Aubaret, nhưng bất đồng ý kiến
với tôi. Ông Aubaret đã trở lại Xiêm, hết sức xấu hổ về việc thất bại
ngoại giao của ông, sự thất bại tôi đã cho ông thấy trước, khi ông
ghé Sài Gòn”.
Nguyên
văn tiếng Pháp:
“Le
traité Aubaret est enfoncé et ce n'est pas un malheur. Il n'y avait que
Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier qui en paraissaient partisans, mais au vrai
point de vue politique et dans les intérêts de notre Mission,
…"
(Lettre
de Mgr. Lefèbre au Père Pernot, datée du 27/9/1864, citée par Taboulet,
Bulletin de la Société des Études Indochinoise 1943, tom XVIII, N" 4,
4ème trimestre. Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier sont respectivement évêque
de Huế et évêque du Tonkin méridionnal (BK, sđd. tr. 148-139).
2.2 Gauthier được mời họp mật:
Năm
1872, tàu Bouragne chở Trung tá Hải quân Senez ra Bắc Kỳ để dò xét tin
tức cho một cuộc chiếm cứ vùng nầy. Trong thư báo cáo của Hạm trưởng
Senez gửi cho Đô đốc Dupré chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp
mật với vị Sĩ quan Senez này:
“... Vừa
lên bờ, tôi gởi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách đó lối
mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi sống suốt ngày giữa
đám dân Thiên Chúa giáo, họ rất niềm nở với chúng tôi... Lúc 4 giờ,
chúng tôi thấy một nhà truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với
chúng tôi vì Giám mục đi vắng. Cha xác nhận lại những gì mà chúng tôi
biết lúc sáng do sự tiết lộ của những phái viên: Loạn lạc ngày càng
bành trướng, từ các tỉnh Lạng sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang
lan đến Sơn Tây, Bắc Ninh, Quảng Yên, Hải Dương và những người khởi
nghĩa làm loạn, trộm cướp, đã làm những điều cực kỳ táo bạo.
Cha
xứ vùng Phát Diệm xác nhận các tin tức đó ngoại trừ vấn đề chính thống
và tôn giáo của người dòm ngó ngôi vua, về hai điểm nầy có những ý kiến
mâu thuẫn nhau. Nhưng sự kiện chắc chắn là cầm đầu cuộc nổi loạn nầy
có một người đang dòm ngó ngôi vua Bắc Kỳ, dù thuộc dòng chính thống
hay không”.
Nguyên
văn tiếng Pháp [vui lòng xem bùi Kha, sđd, tr.140].
2.3 Giám mục Gauthier viết: “Triều
đình Huế chỉ nghe tiếng nói của đại bác mà thôi”.
Trong
thư đề ngày 12/02/1873 và ngày 19/02/1873 gửi cho Đô đốc Dupré, Giám
mục Gauthier viết:
“Cuộc
chiến này làm hao mòn tài chánh và giết hại những tinh hoa của dân
tộc (dĩ nhiên là dân tộc Pháp, BK).
Giám mục Gauthier viết như vậy và còn than phiền về những việc sách
nhiễu con chiên. Theo tôi, (Giám mục Gauthier) khi nói đến Triều đình
Huế và quan lại. Các người đó chỉ có nghe theo tiếng nói của đại bác,
còn thì điếc hẳn không nghe gì khác”. (Tức là Giám mục khuyên
không nên nghe Triều đình Huế về một giải pháp ở Bắc Kỳ mà phải chiếm
nhanh, BK).
Nguyên
văn tiếng Pháp (Bui Kha, sđd, tr. 142).
2.4 Gauthier muốn có một chính phủ Ki
Tô tại Bắc Kỳ.
“Bằng
những sự phóng đại đó, các kẻ truyền đạo cố lôi cuốn các viên chỉ huy
quân sự Pháp vào các cuộc chinh chiến và họ tin rằng một khi sự xung
đột tái diễn thì nhất định Pháp sẽ mắc kẹt trong guồng máy chiến tranh.
Tôi
tin rằng, Giám mục Gauthier và Giám mục Puginier, nhất là ông thứ nhì,
không chịu nổi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: Giải pháp
nầy sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng
biệt, chính phủ nầy có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các tín
đồ Công giáo lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục
các linh mục, các người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa
hai chính phủ... Suốt ngày, chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và
các lời yêu cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó”.
Nguyên
văn tiếng Pháp (Bùi Kha, tr. 143).
2.5. Tại
sao giám mục Gauthier muốn có một chính phủ Ki Tô tại Bắc Kỳ?
Trả
lời: Sẽ dễ dàng biến người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô giáo hoàn toàn. Có
ích gì lúc người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô? Giám
mục Puginier trả lời thế
cho chúng ta:
“ Giám mục Puginier
Tôi
xác nhận rằng, khi nào Bắc Kỳ trở thành Ki Tô, thì nó cũng trở thành
một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo Philippines đã thành
một nước Tây Ban Nha nhỏ… Giám mục Puginier viết tiếp:
Nếu
chính phủ hiểu rõ quyền lợi thực sự của nước Pháp mà ủng hộ chúng tôi
một cách thật sự dù che đậy đôi chút để tránh đụng chạm dư luận, tôi
quả quyết rằng, trong sứ mệnh của tôi, mỗi năm chúng ta có thể thu
về cho nước Pháp khoảng 20.000 người bạn bằng cách cải đạo, chắc
chắn tỉ lệ này sẽ gia tăng hằng năm, và có đủ lý do mạnh để hy
vọng rằng, sau 30 năm, gần hết xứ Bắc Kỳ đều trở thành Ki Tô, nghĩa
là trở thành người Pháp hết”.
Nguyên
văn tiếng Pháp (BK, sđd. Tr. 144).
Tất
cả các giám mục, linh mục Pháp đều là những tên thực dân cuồng nhiệt.
Trong số đó, Giám mục Puginier được
xếp hạng nhất, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ đứng hạng
nhì. Là hai kẻ đắc lực và nguy hiểm nhất trong chủ trương biến Bắc Kỳ
thành một nước Pháp nhỏ và độc lập khỏi Triều đình Huế. Giám mục Puginier
đã uổng công đích thân đến Sài Gòn (từ Bắc Kỳ, BK) để bàn trực tiếp với
Đô đốc Dupré, nhưng Dupré vẫn cương quyết không can thiệp vào những vấn
đề của nội bộ Bắc Kỳ.
Biến
Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ sau khi đã đổi đạo dân Bắc, chủ trương
này cũng được Đô đốc Dupré chỉ trích là quá
nguy hiểm. Trong thư gửi cho Bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa
ngày 30/12/1874 cho chúng ta thấy điều đó:
Dupré
viết:
“Những
lần tôi nói chuyện với Giám mục Puginier. Trước khi ông rời Sài Gòn,
lòng tôi vẫn không thay đổi: Vì thế, tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét
mà tôi đã trình bày với ngài, dù vị Giám mục này đã khổ công khuyến
cáo rằng, hãy bỏ cái chính nghĩa đã tạo cho dân chúng (An Nam) có cảm
tình với nước Pháp và theo con đường mà ông Garnier, một anh hùng bị
kết án, đã vạch sẵn, nhưng người ta đã không biết những khó khăn của
tình thế, do viên sĩ quan khốn nạn này để lại mà chúng ta phải gánh
chịu”.
2.6. Giám
mục Gauthier cũng
thuyết phục, nhưng Dupré cũng không thay đổi ý kiến:
“Chắc
chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được,
ông ta quá hăng say và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy thật
sự quá nguy hiểm nếu nhắm mắt nghe lời của ông giám mục này”.
Nguyên
văn tiếng Pháp:
Mgr.
Puginier avait beau venir en personne à Saigon pour discuter directement
avec Dupré, celui-ci restait ferme dans sa position de non-ingérence
dans les affaires intérieures du Tonkin.
….
Mgr.
Gauthier ne pouvait non plus changer les idées de Dupré:
“Il
me sera certainement impossible de donner une entière satisfaction à
Mgr. Gauthier; son ardeur est extrême, et en maintes circonstances, j'ai
pu reconnaitre combien il serait dangereux d'accepter sans réserves les
appréciations de ce prélat” (Dupré au ministre de la Marine et des Colonies,
26/7/1876, Archives du ministère de la F.O.M. A 30 (26) carton 14. CHT,
Sđd, p. 367).
Qua
sáu dẫn chứng nêu trên, ông Trần Hữu Tá có thấy Giám mục Gauthier là
một tên tình báo không? Và người “yêu nước” Nguyễn Trường Tộ mà ông THT
ca tụng đã vai kề vai với ông tình báo gần 20 năm!
3.
Nguyễn Hữu Tá viết:
“Với
tiềm lực chất xám rất quí như thế, nếu ông được tin dùng, được tạo
điều kiện để hoạt động, tình thế có thể sẽ rất khác. Bi kịch của Nguyễn
Trường Tộ, ngẫm ra là một nghịch lý khó tin nhưng có thật. Yêu nước
nhưng không được giúp nước vượt qua đại họa ngoại xâm; thực sự có tài
năng xuất chúng nhưng vấp phải vật cản quá lớn…”.
- Bùi Kha: Về
Kiến thức và tâm huyết của NTT, có lẽ chúng ta nên đọc lời tự khoe
của chính ông:
“Về
việc học không môn nào tôi không để ý tới, cái cao của thiên văn, cái
sâu của địa lý, cái phiền toái của nhân sự, cho đến luật lịch, binh
quyền, tạp giáo, dị nghệ, các môn cách trí, thuật số, không môn nào
tôi không khảo cứu, nhất là để nghiên cứu về sự thế dọc ngang, tan
hợp trong thiên hạ” (Di
thảo số 3).
Nhưng
thực tế, tất cả 58 bản Di thảo của Nguyễn Trường Tộ mà chúng ta hiện
có được, Nguyễn Trường Tộ dẫn chứng điển tích hầu hết là của Trung Hoa.
Không có bao nhiêu điển tích về Tây Âu, ngoại trừ về Tân Thế Giới (Hoa
Kỳ), “Năm xứ Ấn Độ”, và tình hình giữa Anh và Pháp…, nhưng lại dẫn sai
sự kiện lịch sử có hậu ý mà tôi đã chứng minh trong phần nhận định về
bản Di thảo Lục
lợi từ (BK, sđd. tr.76-112). Về Thánh
Kinh và sách lược của đạo Ki Tô La Mã thì Nguyễn Trường Tộ sai
lầm hoàn toàn vì cuồng tín thiếu trí tuệ, yêu Vatican và làm lợi cho
Pháp chứ không phải cho quê hương Việt Nam. Đã thế, Nguyễn Trường Tộ
còn có những câu đả kích nặng nề những người dùng điển cố Trung Hoa như
sau:
“…
Ngày đêm
luôn miệng kêu réo những người từ bên Tàu, chết đã mấy ngàn năm, như
Tiêu Hà, Hàn Tín! Phải chăng chúng ta ngày nay còn mang ơn họ? Phải
chăng người thời nay không bì kịp người thời xưa? Hay muốn kêu cho
họ sống lại? Như vậy mà cứ học cho đến bạc tóc, thật là quái gở,
không thể nào hiểu nổi!” (Di Thảo số 27: Tế
cấp bát điều).
Nhưng hầu hết trong 58 bản Điều trần, Nguyễn Trường
Tộ lại dùng rất nhiều điển cố Trung Hoa!
Ngay
cả về võ bị, Nguyễn Trường Tộ cũng không có những sáng kiến nào về cách
bày binh bố trận theo lối hiện đại của phương Tây thời bấy giờ, mà toàn
là lặp lại những mưu lược trong cuốn Tôn
Ngô binh pháp, là một cuốn về sách lược binh bị của Trung Hoa
cổ, mà hầu như các người cầm quân ai ai cũng đều có đọc qua, ngay cả
các học sinh trung học như tôi lúc trước (6 chứng minh NTT lấy ý trong Tôn
Ngô Binh Pháp, nhưng không đề xuất xứ, Bùi Kha, sđd. tr.116-118).
4.
Trần Hữu Tá viết:
(“Thiên hạ phân hợp đại thế luận, 1863) và đề xuất Kế
ly gián giữa Anh và Pháp (1866); không hề ảo tưởng về dã tâm
của thực dân Pháp, nhưng ông rất sáng suốt chủ trương tạm hòa hoãn
với Pháp…”
-
Bùi Kha: Về
kế ly gián giữa Anh và Pháp, ông THT nên xem Bùi Kha, sđd. tr. 92.
Trong “Thiên
hạ phân hợp đại
thế luận” ông
THT có biết NTT viết gì mà ông dám hăm hở ca tụng, nhất là kế sách
“hòa hoãn” với Pháp. Nếu có đọc, chắc ông có thể nhớ vài đoạn sau đây:
“Mới
đây, người Pháp thừa thế đánh xong tỉnh Quảng Đông, đã đưa quân tinh
nhuệ xuống phía Nam, làm Đà Nẵng thất thủ. Khi ấy, giả sử ta có 10
vạn quân, cũng không đánh nhau được với họ. Phàm việc binh cốt ở
thần tốc, họ đã biết rõ rằng, quân ta mới nghe thanh thế họ đã phách
lạc hồn xiêu rồi”.
Nguyễn
Trường Tộ lại viết:
“Nay
các nước phương Tây, đã bao chiếm từ Tây Nam cho đến Đông Bắc,... ở
đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa, ai hòa với
họ thì được yên,...”.
Nguyễn
Trường Tộ dõng dạc khuyên dân Việt Nam:
“Huống
hồ nước Việt Nam ta là một nước nhỏ bé, tại sao lại muốn trái đạo
trời mà làm những việc thiên hạ khó làm được”.
Nguyễn
Trường Tộ đánh giá quân đội Việt Nam rất thấp lúc viết:
"...Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì
quân ta chưa xáp trận mà gươm giáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì
dùng lưỡi lê xung phong một người đương được cả 100 người, xông lên
như nước chảy xiết. Lúc ngừng lại thì như núi dựng, xông vào chẳng
qua cũng như chuồn chuồn lay cột đá mà thôi”.
Nhưng
trong thực tế, tình hình quân viễn chân Pháp vô cùng nguy biến, chúng
có thể rút về nước nếu chúng ta không hòa với chúng. Mời ông Trần Hữu
Tá tìm hiểu ý kiến của các đô đốc Pháp để tránh việc nhắm mắt ca tụng
NTT vô tội vạ.
a. Ngày
4/01/1859, Đô đốc Rigault de Genouilly gửi cho viên Thượng thư Bộ Hải
quân một văn thư bi thảm như sau:
“… Quả
thật, tôi thấy cần thiết và hết sức đau đớn xác nhận với ngài về tình
trạng tồi tệ về sức khỏe chung. Thiếu tá Levêque, Đại úy Hải quân Virot,
phó kỹ sư Delautel đều đã đi Ma cao và chắc phải đưa về Pháp. Tôi không
biết phải đối phó thế nào với các lỗ trống đó. Mỗi ngày lại có nhiều
người chết, và thời tiết xấu mà các nhà truyền giáo bảo là sẽ chấm
dứt vào đầu tháng 12 vẫn tiếp tục với những trận mưa dầm dề không tưởng
tượng nổi. Chỉ nội sự kiện đó, ngài cũng có thể đánh giá về các tin
tức đang đến với tôi về mặt nầy và lòng tin tưởng của tôi đối những
cuộc hành quân phải thực hiện.
Dù
thế nào đi nữa, thưa ngài Thượng thư, chúng ta đang nhanh chóng tuột
dốc đến kiệt quệ và đến lúc phải bất động tại Đà Nẵng. Mọi phương
cách để cải thiện tình trạng quân sĩ đều đã được sử dụng hết và
không kết quả. Các y sĩ trước tình trạng bệnh tật đã kết luận là
người Âu không nên làm việc gì trong khí hậu này, nhưng làm sao
được khi ở đây, phải làm những việc cần thiết cho sự phòng vệ,
xây cất bệnh viện, lều trại... Đó là một cái vòng luẩn quẩn khiến
chúng ta phải điên đầu” (Thư
khố Quốc gia, tài sản hải quân, B 84769, dẫn theo luận án tiến sĩ của
Cao Huy Thuần Christianisme
et Colonialisme au Viet Nam 1857-1914 (Đạo
Công giáo và Chủ nghĩa Thực dân Pháp tại Việt Nam1857-1914 Paris,
France, 1968, bản ronéo, tr. 108).
Nguyên
văn tiếng Pháp:
“...
Je dois en effet et bien malheureusement confirmer à Votre Excellence
l'état déplorable de la santé générale. M. le Commandant Lévêque, M.
le Lieutenant de Vaisseau Virot, M. le S. Ingénieur Delautel vont à Macao
et devront être probablement renvoyés en France. Je ne sais plus comment
faire face à tous ces vides. Chaque jour amène de nombreux décès et les
mauvais temps, qui d'après les missionnaires, devaient finir avec le
décembre, continuent avec une abondance de pluies qui dépasse toute idée.
Par ce seul fait, Votre Excellence peut juger de la valeur des renseignements
qui me viennent de ce côté, et de la foi que je puis leur accorder, pour
les opérations à entreprendre avec la division. Mais quoiqu'il en soit,
Monsieur le Ministre, nous descendons par une pente rapide vers l'impuissance
radicale et le moment où il faudra demeurer immobile à Tourane. Tous
les moyens d'améliorer la situation des troupes et des équipages ont
été épuisés et sans succès. Les médecins vaincus par la maladie, arrivent
à cette conclusion que les Européens ne doivent faire dans ce climat
aucun travail, mais alors comment s'y établir, pourvoir aux nécessités
de la défense, des constructions d'hôpiteaux, de baraques etc... C'est
un cercle vicieux contre lequel on viendrait se briser la tête” (Archives
Nationales (Fonds marine) BB4769 CHT, Sđd, tr. 108).
b. Trước
tình hình nguy ngập như trên, ngày 8/4/1859, một chỉ thị khác của Bộ
Hải quân và Thuộc Địa gởi cho Đô đốc R. de Genouilly như sau:
“Vì
thế, Hoàng thượng tin cậy ở kinh nghiệm và sự sáng suốt của Ông trong
mọi quyết định, với lực lượng dưới quyền Ông điều khiển, có nên theo
đuổi việc thiết lập nền bảo hộ trên Vương quốc An Nam không; hay chỉ
nên cưỡng bức Chính phủ họ, nhờ vào việc chiếm đóng Đà nẵng và nhiều
cứ điểm khác mà Ông đã chiếm hay sẽ chiếm được. Cùng với việc phong
tỏa một hay nhiều cảng ở Nam Kỳ để đi đến sự ký kết một hiệp ước trên
nền tảng kế hoạch 25/11/1857; hay cuối cùng là chúng ta đành bỏ các
vị trí mà chúng ta chiếm đóng và từ bỏ hẳn mọi mưu toan rõ ràng ngoài
tầm các phương tiện hoạt động mà Ông có” (Chỉ
thị của Thượng thư Bộ Hải quân và Thuộc địa 8/4/1859, Thư khố Quốc
gia, tài sản hải quân, BB4 1045. CHT, Sđd, tr. 118-119).
Nguyên
văn tiếng Pháp (xem Bùi Kha. Sđd. Tr.52).
c. Sau
khi Phan Thanh Giản và Lê Duy Hiệp đại diện Triều đình Huế ký Hòa ước
Nhâm Tuất 1862 với Pháp
thì bị dân chúng lên án là hai kẻ phản quốc.
Như thế, Triều đình Huế đã bỏ rơi phong trào kháng Pháp. Nhưng toàn
dân Nam Kỳ đã kháng cự kịch liệt dưới sự điều khiển của Nguyễn Trung
Trực, Võ Duy Dương, Thủ Khoa Huân... đã làm cho quân Pháp vô cùng khốn
đốn. Sau đây là một đoạn trong bản báo cáo của Bonard đề ngày 18/12/1862
như sau:
“Các
tàu tôi hiện có, trừ hai chiếc Forbin và Cosmao, đều không thể ra khơi...
Đoàn quân viễn chinh bị bệnh tật, chết chóc, sự giảm quân làm cho yếu
kém, đang bị sử dụng quá sức: Tôi hoàn toàn bị tê liệt về các phương
tiện hành động; tàu bè thì thiếu và bị hư... Tình trạng thảm hại đó
nếu không sửa chữa sẽ đưa thẳng chúng ta đến một tai họa không xa!
Tôi thấy có bổn phận phải báo cho ngài biết... Thật là đau đớn, sau
bao cố gắng quá sức con người mà tôi đã làm từ 15 tháng nay, bây giờ
thì mọi thứ đều phải xem xét lại, do sự bỏ rơi các vấn đề của Nam Kỳ...
các cuộc khởi nghĩa đồng loạt nổi lên khắp nơi... Tôi bị đẩy vào thế
tự vệ, không có phương tiện để lập một đoàn quân chỉ 200 người... Tôi
yêu cầu Đô đốc Jaurès gởi ngay cho một số viện quân. Nếu lực lượng
tăng viện đến ngay, tôi có thể làm chủ được tình hình, nếu không
thì đành bất lực”).
Nguyên
văn tiếng Pháp (BK, sđd. tr. 54).
d. Ngày
27/01/1863 Bonard cũng than thở:
“Lực
lượng chúng ta giảm dần vì chết, vì bệnh, vì rút quân, đang bị đuối
sức từng ngày, rõ ràng không thể tiếp tục trong sáu tháng một chiến
trận như thế này. Chúng ta thiếu Bộ binh, thiếu Hải quân, thợ máy,
phương tiện chuyên chở, tất cả trang bị Hải quân chúng ta hoàn toàn
cũ mèm mà không có phương tiện sửa chữa; sự vận tải trên đất cũng thành
vô hiệu, vì thiếu tài xế cho xe bộ binh, thiếu xe cứu thương, thiếu
thực phẩm v.v...” Nguyên
văn tiếng Pháp (BK, sđd. tr. 55).
Qua
vài chứng liệu của các viên chức cao cấp trong Bộ Hải Quân và Thuộc địa,
chúng ta thấy rõ Triều đình Huế đã không nắm vững tình hình của Pháp,
bằng không, thì Pháp đã bị bại trận từ đầu.
Trong
lúc số phận của quân thực dân Pháp sắp cáo chung đến nơi, như chúng ta
thấy ở trên, thì Nguyễn Trường Tộ còn viết tiếp:
“Nay
các nước phương Tây, đã bao chiếm từ Tây Nam cho đến Đông Bắc,... ở
đâu thuận với họ thì phúc, chỗ nào trái với họ thì họa, ai hòa với
họ thì được yên,... ”.
Từ
đó, Nguyễn Trường Tộ dõng dạc khuyên triều đình nhà Nguyễn “cho
lính nghĩ ngơi để Pháp giữ bờ cỏi cho mình…”
“Huống
hồ nước Việt Nam ta là một nước nhỏ bé, tại sao lại muốn trái đạo trời
mà làm những việc thiên hạ khó làm được”.
Nói
cách khác, theo Nguyễn Trường Tộ, thuận với đạo trời (Thượng đế, BK)
thì nên dâng tổ quốc cho giặc Pháp, chống làm gì cho thêm họa. Nguyễn
Trường Tộ còn viết tiếp: Con giao long (người Pháp, BK) khi thấy đầm
vực (Việt Nam) thì nghĩ cách đầm mình chứ không thể nào chịu bỏ mà đi.
Câu quả quyết chắc nịch này của ông có một giá trị nào không? Qua vài
dẫn chứng ở trên và sau đây, chúng ta đã thấy và sẽ thấy thêm câu trả
lời.
Lính
Việt Nam hèn nhát, chưa đánh đã chạy (?)
Nguyễn
Trường Tộ đánh giá quân đội Việt Nam rất thấp lúc viết:
“Quân
ta mới nghe thân thế họ đã phách lạc hồn xiêu...
...
Nếu họ dùng súng trường từ xa bắn suốt tới, thì quân ta chưa xáp trận
mà gươm giáo đã tan tành. Khi họ đến gần thì dùng lưỡi lê xung phong
một người đương được cả 100 người, xông lên như nước chảy xiết. Lúc ngừng
lại thì như núi dựng, xông vào chẳng qua cũng như chuồn chuồn lay cột
đá mà thôi”.
Không
biết Nguyễn Trường Tộ căn cứ vào đâu mà đánh giá quân đội ta một cách
tồi tệ bi thảm hóa tình hình và quá sai lạc như thế. Sau đây là bằng
chứng sự đánh gía sai lầm của NTT.
Văn
thư đề ngày 21/9/1859, Đô đốc R. de Genouilly viết:
“Càng
đi sâu vào tình hình vương quốc An Nam, các bức màn càng vén lên, những
lời khẳng định dối trá (của các giáo sĩ, BK)
càng tan biến, không thể không thừa nhận rằng, cuộc chiến tranh chống
lại xứ này còn khó hơn cuộc chiến tranh chống lại thiên triều...” .
Nguyên
văn tiếng Pháp:
“...
À mesure que l'on pénètre dans la situation de l'Emprire annamite, que
les voiles se lèvent, que les assertions mensongères disparaissent, il
est impossible de ne pas reconnaitre qu'une guerre contre ce pays est
plus difficile qu'une guerre contre le Céleste Empire”. (Trích trong
Dépêche de l'Amiral Rigault de Genouilly, Archives Nationals, Fond Marine
# BB4 769: Cité by CHT, pp.117-118).
Bonard
cũng lo âu kêu cứu:
“Người
An Nam đã tỏ ra dày dạn chiến đấu, họ đã làm đảo lộn vai trò, giờ đây
họ tấn công chúng ta ngay những vị trí của chúng ta”
(Poyen - Notice sur l'Artillerie de la Marine en Cochinchine - Paris
1893 - tr.81-82. Dẫn theo Thái Hồng trong cuốn Nguyễn
Trường Tộ với vấn đề canh tân đất nước, Sđd, tr.263).
Hai dẫn
chứng vừa nêu, cho thấy sự đánh giá tệ mạt của Nguyễn Trường Tộ về
tình hình chiến đấu của dân Việt Nam là hoàn toàn sai, và hình như
có mục đích nhằm cứu vãn tình thế nguy ngập của quân đội Pháp.
5.
Trần Hữu Tá: Giáo Môn Luận của NTT.
-
Bùi Kha: Ông
THT không đọc và đối chiếu với sử liệu để biết hậu ý của Nguyễn Trường
Tộ trong Giáo Môn Luận là gì. Ông nên đọc vài đoạn trong sau đây để tránh
nhắm mắt ca tụng tùy tiện.
Không
đọc Thánh
Kinh, không biết sách lược của thực dân nên Nguyễn Trường Tộ cuồng
tín đi theo họ, rồi đưa ra những nhận định sai lầm về Thượng đế (Tạo
vật, Chúa Trời) như sau:
“Không
thấy Thượng đế là Chúa tể cai trị các nước cũng như vua là chúa tể
trị vì một nước đó sao? Các nước khác nhau rất xa về ngôn ngữ... nhưng
Thượng đế cũng lấy một lẽ mà đối chung cả vạn vật khiến tất cả đều
thỏa ý nguyện... có thế mới sáng tỏ cái tài năng lớn... và cái độ lượng
rộng rãi... Vua đảm đang công việc giúp Thượng đế không phải là vua
có thể biệt lập một trời đất mà một mình cầm quyền được, chẳng qua
chỉ là nhân các dân vật đã được Thượng đế tạo thành an bài đó mà thương
yêu làm cho an ổn...” (Giáo
môn luận, Trương Bá Cần, “Nguyễn
Trường Tộ con người và di thảo”, Sài gòn 1988 tr. 116-117).
So
sánh đoạn văn trên của Nguyễn Trường Tộ với sắc lệnh của Giáo hoàng Martin
V (1417-1431), sau đây chúng ta thấy có những ý tứ trùng hợp:
Giáo hoàng Martin V
“Sắc
lệnh phát xuất từ nguyên lý là tất cả đất đai đều thuộc về Chúa Ki
Tô và người đại diện Chúa Ki Tô (tức là Giáo hoàng, BK)
có quyền sử dụng tất cả các đất đai của người không theo đạo Ki Tô,
những kẻ ngoại đạo không có quyền sở hữu một mảnh đất nào. Nếu những
người phi Ki Tô được cấp phát đất đai thì họ phải theo đạo Ki Tô dù
tự ý hay bị cưỡng bách.
Năm
1493, Giáo hoàng Alexandre VI cũng ký sắc lệnh chia thế giới cho Bồ
Đào Nha và Tây Ban Nha, và buộc họ phải truyền đạo để giải thích
lý do việc chiếm thuộc địa”.
Nguyên
văn tiếng Pháp (Xem Bui Kha, sđd, tr.164).
Đối
với tín hữu Công giáo, thì Giáo hoàng là người đại diện duy nhất cho
Chúa. Từ đó, chúng ta mới thấy cái thâm ý của Nguyễn Trường Tộ: Không
thấy Thượng đế là Chúa tể cai trị các nước ...mà
Giáo hoàng là đại diện cho Thượng đế. Vậy Giáo hoàng có quyền cai trị
các nước! Và vua đảm đang công việc giúp Thượng đế... mà Giáo hoàng là
đại diện cho Thượng đế. Như vậy, vua chỉ là người
giúp việc cho Giáo hoàng mà thôi! Thế thì Giáo hoàng có thể cách chức vua bất cứ lúc nào!
Con người “thông thái” như Nguyễn Trường Tộ trình bày có khác!
Với
những lý sự cuồng tín về tôn giáo, hiểu sai vai trò và sự có thật của
Thượng đế, Nguyễn Trường Tộ lặp đi lặp lại nhiều lần trong bài trần tình
về Giáo
môn luận này và rải rác hầu hết 58 bài trần tình của ông, đã
làm cho ông có một cái nhìn sai lầm về lịch sử và cổ
xúy cho việc hợp tác với thực dân Pháp mà tôi đã chứng minh và sẽ chứng minh đó là giải
pháp rất tai hại.
Trong Giáo
môn luận, Nguyễn Trường Tộ viết tiếp:
“Xét
ra đạo Công giáo vào nước ta từ thời Lê. Đầu tiên, các giáo sĩ Bồ Đào
Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp,
người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ, giáo dân
và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác
nhau nhưng vẫn hòa ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui
tới với nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà
thôi. Từ khi ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ
thị nhau, do ghen ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy, giáo
dân bị phiền nhiễu đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào vòng hình
phạt. Nước vốn trong, có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng thì chốc lát
sẽ trong trở lại”(Giáo
môn luận, TBC, Sđd, tr. 116).
Đoạn
trên Nguyễn Trường Tộ cho rằng, vì lệnh cấm đạo nên mới sinh ra ghen
ghét, kỳ thị, tội lệ, giáo dân bị lưu đày và bị hình phạt, là những ý
tưởng rất sai lầm và chắc chắn nếu ai có lòng yêu Tổ quốc thì cũng không
thể chịu được các kế hoạch thực dân xâm lược của các ông cố đạo sau đây:
a. Linh
mục Legrand De La Liraye viết:
“Theo
thần, chiến tranh là cách duy nhất để đạt kết quả nghiêm chỉnh tại
nước đó. Cần phải chấp nhận chiến tranh như là cách tốt nhất, phải
đánh gấp ở Bắc Kỳ, Huế và Đà Nẵng cùng lúc, nếu được thì lật đổ chính
phủ, bàn chuyện giải phóng cho hai dân tộc thua trận ở Cochinchine
và đặt lên ngôi ở Bắc Kỳ một kẻ giả danh là con cháu nhà Lê”.
Nguyên
văn tiếng Pháp (xem BK, sđd).
b. Giám
mục Retort (viết thư cho M. Kleckowski):
“Nước
Pháp cần phải làm cái gì lớn lao quan trọng lâu dài, xứng với nó và
Hoàng đế của nó. Nếu nước Pháp chinh phục xứ này (có lẽ việc này
không khó) và cai trị trực tiếp, người dân Bắc Kỳ sẽ bằng lòng, nhưng
họ thích sống dưới sự bảo hộ và ảnh hưởng của Pháp với một ông vua
riêng”(đưa
ra ảo tưởng để thuyết phục triều đình Pháp, BK).
c. Linh
Mục Huc:
Nên chiếm cả nước Việt Nam. Ông trình bày trước Ủy
ban Nam Kỳ:
“Có
một gia đình cho rằng, mình thuộc dòng vua chính thống và có lẽ chúng
ta có thể sử dụng nó để lật đổ Triều đình hiện nay ... Ngay từ đầu,
nên lập chế độ bảo hộ mà giữ nước của vua này lại nghiên cứu tổ chức
trong nước giống với tổ chức của chúng ta và cuối cùng sẽ tuyên bố
chúng ta là chủ của xứ đó”.
Nguyên
văn tiếng Pháp (BK, tr.168:
d. Giám
mục Pellerin:
“Việc
lập một hiệp ước có chữ ký của vua, việc có mặt của một lãnh sự, việc
mở các cảng, việc xuất hiện của Hải quân bảo đảm được trong một thời
gian mọi quyền lợi của chúng ta, nhưng một sự chiếm đóng hay một nền
bảo hộ thì tốt hơn nhiều”.
Nguyên
văn tiếng Pháp:
“La
conclusion d'un traité signé par le roi, la présence d'un consul, l'ouverture
des ports, l'apparition des forces navales garantiraient pour un temps
tous nos intérêts mais une occupation ou un protectorat serait de beaucoup
préférable” (Géséance, Commission de Cochinchine, CHT. Sđd, p. 81).
Sài gòn bị chiếm ngày 17/2/1859
Để
cho vấn đề được vô tư, rõ ràng và chính xác hơn, tại sao Triều đình
nhà Nguyễn cấm đạo Công giáo, tôi xin trích dẫn ý kiến của Đô
đốc Page trong văn thư đề ngày 14/12/1859 và 25/12/1859 sau đây:
“Thật
vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến
và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000 tín đồ Công giáo
đi theo Pháp và xin được đưa vô Sài Gòn là nơi mà Page đã dựng lên
một thị trấn. Tôi ngạc nhiên biết bao khi hôm sau các nhà truyền giáo
đến nói với tôi rằng các con chiên An Nam không tuân theo một quyền
lực vô đạo, họ nói như thế. Sao! Họ cũng không muốn có cảnh sát để
chận đứng trộm cướp du đãng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ thẹn
khi thú nhận với Ngài rằng Giáo Công giáo tại An Nam đã ngạo nghễ đi
rao giảng các nguyên lý đó: Ngoài ra không người An Nam theo Công giáo
nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua An Nam không
theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài đã hiểu tại sao
vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?”
Xem
thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng, cũng không thể chịu nổi
những hành động của các giáo sĩ chứ trách gì các vua quan triều Nguyễn.
Nguyên
Văn tiếng Pháp (BK. Tr.170).
Thâm
ý của Nguyễn Trường Tộ về Viện dục anh và trại tế bần (điều
số 8 trong Tám điều, TBC, sđd. tr. 276)
NTT đề nghị: Nếu mỗi tỉnh có một viện dục anh
do các giám mục người Tây phương điều khiển sẽ tạo nên một màng lưới
gián điệp toàn cõi Việt Nam.
Các bà sơ chỉ điểm cho Pháp
Các linh mục, giám mục hay bà sơ điều khiển các
viện dục anh họ sẽ dựa vào thế lực của Pháp để phản loạn qua một số dẫn
chứng dưới đây:
Thí
dụ 1: Vụ
Xuân Hòa của Linh mục Ân (người Việt Nam) đã dựa vào chức linh
mục và dựa thế người Pháp cho phép những kẻ mới theo đạo ở làng Xuân
Hòa (Huế) thuê giáo dân các làng bên cạnh tự tiện gặt các thửa ruộng
đang tranh chấp.
Vài
ngày sau bữa gặt lúa, gần 1.000 dân không đạo, võ trang gậy gộc đến giật
lại lúa hiện đang chứa ở đình; bị giáo dân chống cự, sau một trận ẩu
đả họ đã chạy trốn, bỏ lại 20 người bị bắt (xin xem luận án của Cao Huy
Thuần, bản dịch tiếng Việt Đạo
Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam. Hương Quê xuất
bản, Hoa Kỳ, 1988, tr. 325).
Theo
luật pháp của Việt Nam thời bấy giờ, Linh mục Ân sẽ bị đánh bằng roi
hoặc bằng gậy vì có lỗi nhưng ông được sự che chở của Pháp.
(CHT,
Sđd, tr. 330).
Thí
dụ 2: Thiên
Tân giáo án
Năm
1869, một số bà sơ người Pháp lập một cô nhi viện cạnh nhà thờ tại Thiên
Tân - Trung Hoa, nhưng không có bao nhiêu người chịu đem trẻ mồ côi giao
cho cô nhi viện của người nước ngoài. Vì vậy, mấy bà sơ thưởng tiền cho
những ai đem trẻ em đến. Hành động này làm cho dân chúng nghi là có
việc mua bán trẻ con.
Ngày
21/6/1870, quan địa phương Trung Hoa đem kẻ tình nghi đến cô nhi viện
để đối chất cho rõ sự tình. Trên đường về, bọn Fontanier lại dùng súng
bắn vào đám đông người Hoa và viên tri huyện Thiên Tân là Lưu Kiệt, khiến
một người tùy tùng của viên tri huyện chết.
Đám
quần chúng uất hận không dằn được nên đánh chết Fontainier, Tây Mông
và đồng bọn 20 người, đồng thời đốt nhà thờ và lãnh sự quán của Pháp.
Sau đó, Pháp, Anh, Mỹ, Nga, Đức, Bỉ và Tây Ban Nha, tất cả bảy nước liên
hiệp với nhau đem quân vây Thiên Tân, dọa gây chiến. (theo The
New Encyclopedia Britannica, Helen Hemingway Benten, Publisher 1973-1974.
Cuốn 7, tr. 770. Đây là cuốn Bách
khoa đại tự điển bằng chữ Nho.
Thí
dụ 3: Năm
1850 ở Trung Quốc có loạn Thái Bình Thiên Quốc với đạo quân Giê Su,
Hồng Tú Toàn chỉ huy con chiên đánh chiếm nhiều tỉnh.
Thí
dụ 4: Lê
Văn Khôi,
con nuôi Lê Văn Duyệt, chiếm toàn tỉnh Gia Định năm 1835. Giáo sĩ
Marchand (cố Du) đóng vai cố vấn và yểm trợ với âm mưu thiết lập
một Vương quốc Công giáo ly khai. Về sau triều đình dẹp yên.
Thí dụ 5: Cùng
thời (khoảng 1872), tại Bắc Kỳ, Tạ
Văn Phụng được các giáo sĩ đổi tên thành Lê Duy Phụng rồi
cùng với giáo dân nổi loạn chống lại Triều đình núp dưới chiêu bài
“Khôi phục nhà Lê”.
Thí dụ 6: Ngay
cả sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, Linh
mục Trần Lục, quản xứ Phát Diệm, năm 1886 nhận phép “lành”
của Giám mục Puginier rồi tiếp viện cho quân Pháp 5.000 giáo dân.
Vì vậy, chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất thủ (...père
Tran Luc, curé de Phát Diệm Celui-ci
avec la bénédiction de Mgr. Puginier vint à la rescousse des Francais
avec 5000 chrétiens. Et Ba Dinh fut pris (Linh
mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn Thập
giá và lưỡi gươm (Dieu
et Casar)), Paris 10. 1978, pp. 41-42).
Hiện
tượng núp bóng tôn giáo cho mục tiêu chính trị và quân sự cũng được công
sứ Bonnal cho biết: “Khi một
giáo sĩ đã thiết lập được một xứ đạo trong một làng rồi thì chuyện
gì sẽ xảy ra? Người bản xứ từ chối không đóng thuế, và tuyên bố không
thừa nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của ông giáo sĩ, là người
đích thân dạy cho giáo dân không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính
quyền của giám mục...”(Nguyễn
Xuân Thọ, Sđd, tr. 360-361).
Giám
mục Puginier cũng nói thẳng:
“Không
có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp cũng giống
như cua bị bẻ gãy hết càng” (Sans
les missionnaires et les chrétiens, écrit Mgr. Puginier, les Francais
seraient comme les crabes auxquels on aurait cassé toutes les pattes).
Các
thí dụ và dẫn chứng trên cho thấy, hoặc vô tình hay cố ý, nhà “thông
thái” Nguyễn Trường Tộ đề nghị mỗi tỉnh lập một nhà nuôi trẻ do Giám
mục tình báo Gauthier cử người điều khiển, là một kế hoạch vô cùng nguy
hiểm. Không những tạo thế hợp pháp cho các giáo sĩ nước ngoài, mà còn
trải rộng mạng lưới tình báo khắp toàn quốc để cho Pháp và Vatican dễ
dàng và nhanh chóng thống trị và đồng hóa dân tộc ta.
Kết luận
Qua
các dẫn chứng bằng sử liệu không thể phủ bác, nhất là các sử liệu mật
trong thư khố Pháp, sử liệu của Linh mục Trương Bá Cần, Linh mục Trần
Tam Tĩnh và của nhiều đô đốc thực dân Pháp cho
thấy tâm chất vọng Pháp và làm tay sai cho ngoại bang của Nguyễn Trường
Tộ, và cũng thấy rõ bài viết của ông Trần Hữu Tá hoàn toàn sai sự thực,
sai sử liệu, viết theo cảm tính, tùy tiện, cẩu thả vô trách nhiệm và
phong thần một cách đại ngôn: “Có
thể nói tập Điều
trần này giúp các thế hệ hậu sinh thấu hiểu tài năng toàn diện,
kiệt xuất và nhân phẩm cao quí của Nguyễn Trường Tộ”.
Tôi,
Bùi Kha, đoan chắc, sau khi đọc bài đối luận trên và đọc cuốn sách của
Bùi Kha do nhà Xuất bản Văn học cấp giấy phép*, thì thế hệ hậu sinh không
bao giờ thiếu trí tuệ về Nguyễn Trường Tộ và vọng ngôn như ông Trần Hữu
Tá đâu
Bùi
Kha,
Chiều
31/12/2011
* Bùi Kha, “Nguyễn Trường Tộ & vấn đề canh tân”, Nhà Xuất bản
Văn học, Hà Nội, 30.3.2011. Trung Tâm Nghiên cứu Quốc học phát hành,
sách dày 285 trang, bìa cứng, in rất đẹp. Giá 75.000đ có bán tại các
nhà sách, hoặc liên hệ Nguyệt san Hồn Việt, 72 Trần Quốc Thảo, P. 7,
Q. 3 TP. HCM. Phone (086) 290-7430