Trong 9 năm (từ 1863-1871) NTT thập thò sau bức màn canh tân, đổi mới, thưc dụng… để dối triều đình và gạt dân ta qua một số trong nhiều hành động được tóm lược sau đây ...
Tem
hình ông Garnier
Trên
web Lam Hồng – Những nẻo đường đức tin có bài của ông Nguyễn Đình
Đầu “Giả
thử kế hoạch đánh úp Gia Định của Nguyễn Trường Tộ được thi hành!”
Nếu
ai đã đọc bài ông Bùi Kha đối luận với Giám mục Nguyễn Thái Hợp, đăng
trên nhiều mạng điện tử toàn cầu, thì sẽ thấy ông Nguyễn Đình Đầu giúp
gở rối cho Giám mục; đúng
hơn là một bài viết mang tính nghiên cứu.
Vấn
đề NTT không phải đã qua rồi vì cách đây 10 năm, năm 1998, ông Trần Chung
Ngọc, nhất là ông Bùi Kha, hai việt kiều, cho ra đời cuốn “Nguyễn
Trường Tộ, thực chất con người và di thảo”. Đây là một cuốn sách
đi ngược dòng nước lội ngược dòng đời. Hai trí thức nầy đã không
theo lối mòn nghiên cứu củ; xưa sao nay vậy. Gần cả trăm năm sống dưới
chế độ thực dân Pháp, hoặc thân Pháp nên nhiều nếp suy tư ít nhiều bị
lệch lạc thiếu cơ sở.
Tháng 3 năm nay, cuốn “Nguyễn Trường Tộ & vấn đề canh tân” của
Tiến sĩ Bùi Khađược chính thức xuất hiện tại Việt Nam donhà Xuất
bản Văn học cấp giấy phép, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học phát hành với
lời giới thiệu của một người, có công với cách mạng, là Giáo sư Trần
Thanh Đạm.
Phải
nói rằng nhà Xuất bản, nhà Phát hành và người giới thiệu đã làm một việc
rất lịch sử, rất hữu ích cho dòng chảy văn hóa dân tộc để, giới thiệu
với dân chúng có cơ hội tiếp cận thêm một nguồn tư liệu mới và một đánh
giá mới về, một nhân vật lịch sử được vinh danh sai lầm qua nhiều thế
hệ. Tâm tình và việc làm của quý vị rất đáng được trân trọng và ghi ơn.
Tôi,
và có lẻ những ai đọc cuốn sách của Bùi Kha đều cảm thấy ngạc nhiên và
thích thú. Đọc sách về sử thường cảm thấy chán vì khô khan, nhưng cuốn “Nguyễn
Trường Tộ & và vấn đề canh tân” là một biệt lệ.
Khác
với Giáo sư Trần Thanh Đạm, tôi hoàn toàn chia sẻ với tác giả Bùi Kha
rằng, lúc những người yêu nước không ngớt ca ngợi NTT vì lầm rằng ông
ta yêu nước và có chương trình canh tân đổi mới, thực dụng...thì Bùi
Kha cũng thế, mang một tâm hồn yêu nước đáng quý, nên cũng thẳng thừng
phê phán NTT và những ai, trực tiếp hoặc gián tiếp, điều khiển hoặc cố
vấn cho NTT để ông đi ra khỏi dòng chảy “ta về ta tắm ao ta, dù trong
dù đục “nước nhà” vẫn hơn”.
Gọi
là bài “Phản biện ông Nguyễn Đình Đầu”, một trí thức Công giáo
có hạng, nhưng thú thật tôi chẳng có tài liệu để viết mà tất cả những
gì trong bài nầy đều sử dụng tài liệu của ông Bùi Kha trong cuốn “Nguyễn
Trường Tộ & vấn đề canh tân”, nhà Xuất bản Văn học, Hà Nội, tháng
3. 2011, và của Linh mục Trương Bá Cần trong cuốn “Nguyễn Trương Tộ
con người và di thảo”, nhà Xuất bản Thành Phố Hồ Chí Minh, năm 1988.
Sự
khác biệt của tiến sĩ Bùi Kha và những nhà nghiên cứu xưa nay là NTT
có yêu nước không? Và chương trình “canh tân, thực dụng, đổi mới’ có
giá trị gì không hay chỉ là một cái bánh vẽ cho một mục tiêu nào đó?
Dưới đây tôi sẽ nêu ra 10 trong số nhiều điều mâu thuẫn trong các bản
văn của NTT để độc giả thấy. Từ đó chúng ta có thể biết được tâm chất
của ông một cách khá chính xác.
1. NTT
đón quân Pháp.
Dẫn: “…Khi
tàu Pháp trở về Trà Sơn, Đà nẵng, thì thấy thuyền Nhà Chung đã ở đó
rồi” (xem Châu
bản Triều Nguyễn CBR 22/47). Các giáo sĩ Pháp tập trung khá
đông đảo tại Đà Nẵng đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm
áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng
bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế
mà phải chuyển hướng về Sài Gòn.. ..Đô
đốc Rigault de Genouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc
trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng
với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi Hồng Kông trong
những điều kiện như thế vào đầu năm 1859” (TBC,
Sđd, tr. 22).
2. NTT
giúp Pháp mở rộng vòng chiếm đóng.
Dẫn: “…Hơn
nữa, nếu Nguyễn Trường Tộ có đi Pháp thì sớm nhất là giữa năm 1859
mới tới nơi và khó có thể có mặt ở Hồng Kông đầu năm 1861 để cùng với
Giám mục Gauthier trở về Sài Gòn, theo yêu cầu của Đô đốc Charner viên
chỉ huy được giao trách nhiệm gom quân để mở rộng vùng chiếm đóng ở
Sài gòn”(TBC,
Sđd, tr. 22).
Léonard
Victor Joseph Charner
3. NTT
cố tình đánh giá sai lực lượng ta:
Lúc
tình hình quân Pháp vô cùng khốn đốn, có thể sẽ rút về nước. NTT khuyên
triều đình cho lính nghỉ ngơi…Dẫn:
NTT
viết:
“Khi
ấy, giả sử ta có 10 vạn quân, cũng không đánh nhau được với họ. Phàm
việc binh cốt ở thần tốc, họ đã biết rõ rằng, quân ta mới nghe thanh
thế họ đã phách lạc hồn xiêu rồi”
(Linh mục Trương Bá Cần, “`TBC. tr.107). NTT tiếp: “Theo cách ngày
nay thì để quân lính nghỉ ngơi…để họ giử bờ cỏi cho mình, như có hổ trong
rừng thì thì chồn cáo không dám bén mảng tới” (TBC, tr.111).
NHƯNG
thực tế, tình hình quân viễn chinh Pháp vô cùng nguy khốn. Ngày 21/9/1859,
Đô đốc R. de Genouilly viết:
“Càng
đi sâu vào tình hình vương quốc An Nam, các bức màn càng vén lên,
những lời khẳng định dối trá (của
các giáo sĩ, BK) càng tan biến, không thể không thừa nhận rằng,
cuộc chiến tranh chống lại xứ này còn khó hơn cuộc chiến tranh chống
lại thiên triều...” .
Nguyên
văn tiếng Pháp:
“ “...
À mesure que l'on pénètre dans la situation de l'Emprire annamite, que
les voiles se lèvent, que les assertions mensongères disparaissent, il
est impossible de ne pas reconnaitre qu'une guerre contre ce pays est
plus difficile qu'une guerre contre le Céleste Empire”. (Trích trong
Dépêche de l'Amiral Rigault de Genouilly, Archives Nationals, Fond Marine
# BB4 769, Cao Huy Thuan “Christianisme et Colonialisme au Viet Nam
1857-1914” (Đạo Công giáo và Chủ nghĩa Thực dân Pháp tại Việt
Nam 1857-1914 Paris, France, 1968, ronéo, pp.117-118).
Bonard
cũng lo âu kêu cứu:
“Người
An Nam đã tỏ ra dày dạn chiến đấu, họ đã làm đảo lộn vai trò, giờ
đây họ tấn công chúng ta ngay những vị trí của chúng ta” (Poyen
- Notice sur l'Artillerie de la Marine en Cochinchine - Paris 1893
- tr.81-82. Dẫn theo Thái Hồng trong cuốn Nguyễn Trường Tộ với
vấn đề canh tân đất nước, tr.263).
Trước
tình hình nguy ngập như trên, ngày 8/4/1859, một chỉ thị khác của Bộ
Hải quân và Thuộc Địa gởi cho Đô đốc R. de Genouilly như sau:
“…Vì
thế, Hoàng thượng tin cậy ở kinh nghiệm và sự sáng suốt của Ông trong
mọi quyết định, với lực lượng dưới quyền Ông điều khiển, có nên theo
đuổi việc thiết lập nền bảo hộ trên Vương quốc An Nam không; hay
chỉ nên cưỡng bức Chính phủ họ, nhờ vào việc chiếm đóng Đà nẵng và
nhiều cứ điểm khác mà Ông đã chiếm hay sẽ chiếm được. Cùng với việc
phong tỏa một hay nhiều cảng ở Nam Kỳ để đi đến sự ký kết một hiệp
ước trên nền tảng kế hoạch 25/11/1857; hay cuối cùng là chúng ta
đành bỏ các vị trí mà chúng ta chiếm đóng và từ bỏ hẳn mọi mưu toan
rõ ràng ngoài tầm các phương tiện hoạt động mà Ông có” (Thư
khố Quốc gia, tài sản hải quân, B 84769, sđd, tr. 118&119).
Nguyên
văn tiếng Pháp (Có thể xem, Bùi Kha “Nguyễn Trường Tộ & vấn đề
canh tân”, Nhà xuất bản Văn học, 30.3.2011, tr.52). Hành động của
NTT cố ý hoặc vô tình, chỉ có lợi cho Pháp mà thôi.
4. NTT
cố tình nhận định sai về tôn giáo:
NTT
viết:
“Còn
như các giáo sĩ thì họ chỉ lấy việc mở rộng đạo giáo chống lại gian
tà, làm trách nhiệm, chẳng liên quan gì đến những việc tranh thành
tranh đất cả...” (TBC. tr. 111).
Trong
“Giáo môn luận” NTT viết: “Xét
ra đạo Công giáo vào nước ta từ thời Lê. Đầu tiên, các giáo sĩ Bồ Đào
Nha đến giảng đạo ở tỉnh Hưng Yên, tiếp đến có các giáo sĩ người Pháp,
người Y Pha Nho đến, được nhiều người tin theo. Lúc bấy giờ, giáo dân
và những người trong ba đạo (Phật, Lão, Khổng) tuy tín ngưỡng khác nhau
nhưng vẫn hòa ái tiếp đón nhau, lễ nghĩa đối đãi nhau, năng lui tới với
nhau không có gì hiềm nghi, đều là con dân của nước nhà mà thôi. Từ khi
ban hành lệnh nghiêm cấm thì mới sinh ra ghen ghét kỳ thị nhau, do ghen
ghét kỳ thị nhau mới sinh ra tội lệ. Từ đấy, giáo dân bị phiền nhiễu
đến nỗi phải lưu ly thất sở mà mắc vào vòng hình phạt. Nước vốn trong,
có quấy lên mới bị đục, nếu ngừng thì chốc lát sẽ trong trở lại”(Giáo
môn luận, TBC, Sđd, tr. 116).
NHƯNG
mật thư đề ngày 24/7/1862, Đô đốc Bonard gởi cho Chasseloup Laubat viết
như sau:
“Ai (các
giáo sĩ, BK) cũng ôm ấp lý tưởng trở lại thời kỳ mà Giám mục Bá
Đa Lộc được xem như ông vua thực sự của xứ An Nam, thời kỳ mà mọi việc
chỉ có thể được thực hiện theo lời khuyến cáo của ông giám mục này,
hoặc được ông cho phép. Để đạt mục đích đó, các nhà truyền giáo đã
dùng kế hoạch sau đây: Nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo
ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ tìm cách phủ nhận tính chính thống
của vua này, và khi lật đổ được triều đình hiện tại thì sẽ bầu lên
một ông vua khác theo ý họ”.
Nguyên
văn tiếng Pháp:
(Xem
trong Bùi Kha, sđd, tr.73).
Và một đoạn khác trong thư đó viết về hành động của các giáo sĩ dòng
tu Đô-Mi-Níc người Tây Ban Nha như sau:
“Còn
tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha thường chiếm cứ nhiều vùng miền thượng
du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn: Hăng hái và quá cuồng tín, đa
số trong bọn này phát xuất từ các đoàn du kích và phe Carlistes, họ
rời bỏ Tây Ban Nha và sẵn sàng mang gươm, súng và thánh giá chữ thập,
dốc toàn lực tham dự vào các cuộc nổi loạn gây tai họa cho xứ Bắc Kỳ”.
Nguyên
văn tiếng Pháp:
“Quant
aux Dominicains espagnols qui occupent généralement le haut Tonkin ils
sont beaucoup plus ingouvernables: ardents et fanatiques au dernier degré,
un assez grand nombre d'entre eux sortant des bandes de guérillas et
de carlistes ayant abandonné l'Espagne portent assez volontiers le sabre
et le mousquet avec la croix et sont mêlés, et de coeur et le corps,
aux révoltes qui affligent le Tonkin” (CHT, Sđd, p.152).
Để
cho vấn đề được vô tư, rõ ràng và chính xác hơn, tại sao Triều đình nhà
Nguyễn cấm đạo Công giáo, tôi xin trích dẫn ý kiến của Đô đốc Page trong
văn thư đề ngày 14/12/1859 và 25/12/1859 sau đây:
“Thật
vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến
và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000 tín đồ Công giáo
đi theo Pháp và xin được đưa vô Sài Gòn là nơi mà Page đã dựng lên
một thị trấn. Tôi ngạc nhiên biết bao khi hôm sau các nhà truyền
giáo đến nói với tôi rằng các con chiên An Nam không tuân theo một
quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Sao! Họ cũng không muốn có cảnh
sát để chận đứng trộm cướp du đãng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất
hổ thẹn khi thú nhận với Ngài rằng Giáo Hội Công giáo tại An Nam
đã ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lý đó: Ngoài ra không người
An Nam theo Công giáo nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ
Pháp, ông vua An Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc
bây giờ ngài đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo
là kẻ thù?” Phần tiếng Pháp, vui lòng xem: Bùi Kha, sđd,
tr. 170&171).
5. NTT
dối trá về Trường kỷ thuật:
Trong
việc mở trường (huấn nghệ, kỹ nghệ) yếu tố quan trọng hàng đầu sau
trường sở, dụng cụ ... là phải có quyết tâm, thứ hai giáo chức phải
có bằng cấp hoặc kiến thức chuyên môn về ngành mà mình được mời dạy.
Theo tờ phúc trình của Giám mục Gauthier và NTT, ngày 23/2/1868 gởi
cho vua Tự Đức thì các vị giáo chức có bằng cấp chuyên môn để dạy
huấn nghệ, kỹ nghệ.
NHƯNG
theo Hội truyền giáo Paris thì mấy vị này không có các bằng cấp hoặc
khả năng mà tờ trình mô tả. Nguyên văn:
“Theo
một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức
21 (23/02/1868):
-
Linh mục Thông (tức Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước thiên
hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất
thứ đá ấy thì có những giống chi.
Nhưng theo
ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi
nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 01/5/1867 đã đậu cử nhân văn chương.
- Linh
mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời
mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu
viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các
nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ.
Nhưng cũng
theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện,
Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền Giáo Paris 14/10/1866 và theo
học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên
đường sang Việt Nam.
- Giáo
sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một
nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tô cũng được gọi
là giáo sĩ, thì không dạy học trò được
vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ
kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc. Nhưng tới
Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ này do bệnh cũ tái phát đã xin
về Pháp trở lại.
- Còn
Ca Xanh (nguyên tên là Ca Sa Nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp
việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài gòn đem về giới thiệu
với triều đình, nhưng Ca Xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính
ra tiền là 1.760) và đòi hỏi nhiều điều
kiện, nên không dung” (TBC,
Sđd, tr. 49-50).
Các
đối chiếu nên trên chứng tỏ vua quan triều Tự Đức bị thầy trò Nguyễn
Trường Tộ dối trá lừa bịp có hậu ý.
6. NTT
kế sách viện dục anh và trại tế bần?
Ngày
nay thì khác, nhưng thời NTT Việt Nam bị Pháp đô hộ, không có chủ quyền.
Người nước ngoài ngay cả thường dân họ cũng được trị ngoại pháp quyền.
Còn các linh mục, giám mục lại có quyền đặc biệt hơn nữa. Nhất là núp
dưới chiếc áo chùng thâm, chúng ta thấy các linh mục, giám mục ngoại
quốc đến Việt Nam với các nhiệm vụ tình báo, và muốn biến Việt Nam trở
thành nước Pháp.
Do
đó, nếu mỗi tỉnh có một viện dục anh do giám mục tình báo Gauthier cử
người điều khiển thì sẽ tạo một màng lưới gián điệp và phản loạn toàn
cõi Việt Nam:
Thí
dụ 1:
Vụ Xuân Hòa của Linh mục Ân (người Việt Nam) đã dựa vào chức linh mục
và thế người Pháp cho phép những kẻ mới theo đạo ở làng Xuân Hòa (Huế)
thuê giáo dân các làng bên cạnh tự tiện gặt các thửa ruộng đang tranh
chấp.
Vài
ngày sau bữa gặt lúa, gần 1.000 dân không đạo, võ trang gậy gộc đến giật
lại lúa hiện đang chứa ở đình; bị giáo dân chống cự, sau một trận ẩu
đả họ đã chạy trốn, bỏ lại 20 người bị bắt (Cao Huy Thuần, bản dịch tiếng
Việt Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam. Hương
Quê xuất bản, Hoa Kỳ, 1988, tr. 325).
Theo
luật pháp của Việt Nam thời bấy giờ, Linh mục Ân sẽ bị đánh bằng roi
hoặc bằng gậy nhưng Pháp che chở.
Thí
dụ 2: Thiên
Tân giáo án
Năm
1869, một số bà sơ người Pháp lập một cô nhi viện cạnh nhà thờ tại Thiên
Tân - Trung Hoa, nhưng không có bao nhiêu người chịu đem trẻ mồ côi đến.
Vì vậy, mấy bà sơ thưởng tiền cho những ai đem trẻ em đến. Hành động
này làm cho dân chúng nghi là có việc mua bán trẻ con.
Ngày
21/6/1870, quan địa phương Trung Hoa đem kẻ tình nghi đến cô nhi viện
để đối chất. Sự việc chỉ có thế, nhưng viên lãnh sự Pháp tại Thiên Tân
là Henri Fontanier cùng với người bí thư là Tây Mông đến gặp quan đại
thần Trung Hoa là Sùng Hậu, với thái độ xấc xược bắn súng dọa nạt và
hạch sách Sùng Hậu.
Trên
đường về, bọn Fontanier lại dùng súng bắn vào đám đông người Hoa và viên
tri huyện Thiên Tân là Lưu Kiệt, khiến một người tùy tùng của viên tri
huyện chết.
Đám
quần chúng uất hận nên đánh chết Fontainier, Tây Mông và đồng bọn 20
người, đồng thời đốt nhà thờ và lãnh sự quán của Pháp. Sau đó, Pháp,
Anh, Mỹ, Nga, Đức, Bỉ và Tây Ban Nha, liên hiệp với nhau đem quân vây
Thiên Tân, dọa gây chiến. Triều đình nhà Thanh phải chịu xin lỗi, bồi
thường tiền cho nước Pháp, cách chức và giáng viên tri phủ và tri huyện
Thiên Tân xuống làm lính, đồng thời phạt 20 người và phải xử tử 20 người
Hoa khác để làm vừa lòng Pháp và các nước (theo The New Encyclopedia
Britannica, Helen Hemingway Benten, Publisher 1973-1974. Cuốn 7,
tr. 770. Bách khoa đại tự điển bằng chữ Nho.
Thí
dụ 3: Năm
1850 ở Trung Quốc có loạn Thái Bình Thiên Quốc với đạo quân Giê Su,
Hồng Tú Toàn chỉ huy con chiên đánh chiếm nhiều tỉnh.
Thí
dụ 4:
Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt, chiếm toàn tỉnh Gia Định năm
1835. Giáo sĩ Marchand (cố Du) đóng
vai cố vấn và yểm trợ với âm mưu thiết lập một Vương quốc Công giáo
ly khai.
Thí
dụ 5:
Cùng thời (khoảng 1872), tại Bắc Kỳ, Tạ Văn Phụng được các giáo sĩ
đổi tên thành Lê Duy Phụng rồi cùng với giáo dân nổi loạn chống lại
Triều đình núp dưới chiêu bài “Khôi phục nhà Lê”.
Thí
dụ 6:
Ngay cả sau khi Nguyễn Trường Tộ chết, Linh
mục Trần Lục, quản xứ Phát Diệm, năm 1886 nhận phép “lành” của Giám
mục Puginier rồi tiếp viện cho quân Pháp 5.000 giáo dân. Vì vậy,
chiến lũy Ba Đình của Đinh Công Tráng bị thất thủ (...père
Tran Luc, curé de Phát Diệm Celui-ci
avec la bénédiction de Mgr. Puginier vint à la rescousse des Francais
avec 5000 chrétiens. Et Ba Dinh fut pris (Linh mục Trần Tam Tĩnh
trong cuốn Thập giá và lưỡi gươm (Dieu et Casar)),
Paris 10. 1978, pp. 41-42).
Hiện
tượng núp bóng tôn giáo cho mục tiêu chính trị và quân sự cũng được công
sứ Bonnal cho biết: “Khi một giáo sĩ đã thiết lập được một
xứ đạo trong một làng rồi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Người bản xứ từ chối
không đóng thuế, và tuyên bố không thừa nhận chính quyền nào ngoài chính
quyền của ông giáo sĩ, là người đích thân dạy cho giáo dân không thừa
nhận chính quyền nào ngoài chính quyền của giám mục...”(Nguyễn Xuân
Thọ, Sđd, tr. 360-361).
Giám
mục Puginier cũng nói thẳng:
“Không
có các giáo sĩ và giáo dân thì người Pháp cũng giống như cua
bị bẻ gãy hết càng”(Sans les missionnaires et les chrétiens, écrit
Mgr. Puginier, les Francais seraient comme les crabes auxquels on aurait
cassé toutes les pattes).
Hành
động của giáo sĩ người Tây và giáo dân như thế mà Nguyễn Trường Tộ lại
đề nghị mỗi tỉnh mở một viện mồ côi và nhà dưỡng lão, rồi lại nhờ ông
tình báo Gauthier cử tu sĩ đến cai quản. Tu sĩ sẽ đổi đạo dân trong vùng,
sau đó hô hào con chiên tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt Nam
thì Triều đình vô phương đối phó.
7. NTT
ngăn chận việc cử phái bộ đi Pháp:
Di thảo số 36, ngày 7/4/1868, NTT khuyên triều đình nên bãi bỏ việc
cử phái bộ đi Pháp để có lợi cho Đô
đốc La Grandière.
Dẫn:“Tình
hình Âu châu lúc này rất bất lợi, không cho phép Pháp tiến hành một
cuộc chiến tranh mới. Đô đốc La Grandière nhận được lệnh phải từ bỏ mọi
dự định chiếm đóng 3 tỉnh miền Tây Nam kỳ...
Chính
phủ Pháp phản đối mọi biện pháp vũ lực có thể làm nước Pháp lâm vào
một cuộc chiến lâu dài với Triều đình Huế. Nhưng Đô đốc La Grandière
trông đợi ở sự thành công của hành động của ông để đặt chính phủ Pháp
trước một sự việc đã rồi. Tân Bộ Trưởng Hàng Hải, Rigault de Genouilly,
luôn luôn khuyến cáo La Grandière phải tránh tất cả những gì có thể
làm cho Triều đình Huế lo ngại. Ngày 10/6/1867, ông còn viết cho La
Grandière là: Mặc dầu tình trạng (chính
trị Âu châu) bớt căng thẳng hơn, nhưng cho tới khi có lệnh mới,
ông đừng nghĩ tới chuyện biểu dương lực lượng đối với 3 tỉnh. Cho nên,
phản ứng đầu tiên của Rigault de Genouilly khi được tin quân Pháp chiếm
3 tỉnh miền Tây là bất mãn đối với La Grandière... Điều quan trọng
đối với ông (La Grandière, BK) là làm sao khiến triều đình Huế
chấp nhận sự việc đã xảy ra (đã chiếm 3 tỉnh miền Tây, BK);
ngày 30/ 6/1867, ông gởi thư cho vua Tự Đức để đề nghị thương lượng,
nhưng vua Tự Đức bằng một văn thư lời lẽ cứng rắn, trách cứ La Grandière
đã lạm dụng sức mạnh mà xâm phạm quyền lợi của chính phủ Việt Nam...
Nhà vua còn tỏ ý là sẽ phái sứ giả sang Paris để thương lượng thẳng
với chính phủ Pháp” (Nguyễn
Thế Anh, Việt Nam thời Pháp đô hộ, Lửa thiêng, Sài gòn tr. 54,
58-60).
Vua
Tự Đức nhất quyết không chịu thương thuyết với La Grandière, nên tên
thực dân này đã sử dụng đường lối chính trị khác.
Như
vậy, nếu triều đình Huế cử sứ bộ đi Pháp thì La Grandière sẽ bị thượng
cấp khiển trách hoặc bãi nhiệm và Việt Nam có thể đã lấy lại được 3 tỉnh
miền Tây Nam Kỳ. Nguyễn Trường Tộ viết thư khuyên triều đình Bãi bỏ
việc cử sứ bộ đi Pháp vào năm 1868.
8. NTT
đề nghị đào kênh từ Hải dương đến Huế.
Từ
Hải dương (gần Hải phòng) đến Huế là khoảng 300 km, với dân số, kỷ thuật
máy móc và tài chánh hiện nay, nhà nước chúng ta có thể đủ sức để đào
một con kênh vượt núi vượt đèo như thế không? Hơn nữa, thời bấy giờ có
nạn vua nhà Nguyễn bắt dân lao dịch việc xây lăng tẩm quá khổ sở. Thợ
nổi dậy, biến cố nầy có tên là nạn “Chày vôi” với hai câu thơ còn lưu
truyền:
“Vạn
niên là vạn niên nào,
Thành xây xương lính, hào đào máu dân.”
Như
thế, việc NTT đề nghị đào kênh từ Hải dương vào Huế là quá không tưởng,
không bao giờ có thể thực hiện đươc, ngay cả nền kinh tế và kỷ thuật
tân tiến ngày nay. Đó là chưa nói, phải chăng việc tổ chức đào kinh là
một âm mưu để dân chúng có lý do thêm để nổi loạn quy mô rộng lớn gấp
cả triệu lần nạn Chày vôi. Ngoài giặc Pháp tấn công.
9. NTT
sát cánh với tình báo.
Giám
mục Sohier, nhất là Giám mục Gauthier, thầy đỡ đầu và sát cánh với
Nguyễn Trường Tộ suốt gần 20 năm là một tên tình báo. Dưới đây là sáu
sử liệu:
Sau
khi hiệp ước 1862 ký giữa Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha, Triều đình vua
Tự Đức kiếm cách chuộc lại 3 tỉnh đã mất. Trong chiều hướng này, một
người Ki Tô cuồng nhiệt là Trung Tá hải quân Aubaret vận động, được bộ
ngoại giao Pháp và vua Napoléon III đồng ý. Vì thế, một hiệp ước mới
(thế hiệp ước cũ 1862) được bộ ngoại giao và bộ hải quân soạn thảo theo
quan điểm của vua Napoléon III, và được ký tại Huế ngày 15/01/1864.
Theo
hiệp ước này, 3 tỉnh bị chiếm trong năm 1862 được trả lại cho Việt Nam,
ngoại trừ thành phố Sài Gòn, Mỹ Tho, Vũng Tàu và Côn Đảo. Để đổi lại
việc trả 3 tỉnh này, Pháp có quyền bảo hộ 6 tỉnh Nam bộ, 3 hải cảng
Đà nẵng, Ba Lạt và Quảng Nam...
Theo
Hiệp ước 1864, Aubaret chủ trương chiếm Nam Kỳ bằng con đường tôn giáo
và thương mại
a.
Gauthier theo phe Aubaret:
Về
phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống, phe bênh. Trong
phe ủng hộ có Giám mục Gauthier hai người có liên hệ đến việc mở trường
nói trên. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh mục Pernot, cho chúng
ta thấy điều đó:
“Hiệp
ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ có Giám mục Sohier
và Giám mục Gauthier là tán đồng hiệp ước, nhưng đứng trên quan điểm
chính trị thực sự và quyền lợi của hội truyền giáo chúng ta, việc trả
lại 3 tỉnh để lấy tiền thật là một sự ngu ngốc kỳ lạ.”
Năm
1872, tàu Bouragne chở Trung tá Hải quân Senez ra Bắc Kỳ để dò xét tin
tức cho một cuộc chiếm cứ vùng nầy. Trong thư báo cáo của Hạm trưởng
Senez gửi cho Đô đốc Dupré chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp
mật với vị Sĩ quan Senez này:
“... Vừa
lên bờ, tôi gởi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách đó lối
mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi sống suốt ngày giữa
đám dân Thiên Chúa giáo, họ rất niềm nở với chúng tôi... Lúc 4 giờ,
chúng tôi thấy một nhà truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với
chúng tôi vì Giám mục đi vắng. Cha xác nhận lại những gì mà chúng tôi
biết lúc sáng do sự tiết lộ của những phái viên: Loạn lạc ngày càng
bành trướng, từ các tỉnh Lạng sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang
lan đến Sơn Tây, Bắc Ninh, Quảng Yên, Hải Dương và những người khởi
nghĩa làm loạn, trộm cướp, đã làm những điều cực kỳ táo bạo…
Nguyên
văn tiếng Pháp (có thể xem Bùi Kha, tr. 140).
c.
Giám mục Gauthier viết: “Triều
đình Huế chỉ nghe tiếng nói của đại bác mà thôi”.
Trong
thư đề ngày 12/02/1873 và ngày 19/02/1873 gửi cho Đô đốc Dupré, Giám
mục Gauthier viết:
“Cuộc
chiến này làm hao mòn tài chánh và giết hại những tinh hoa của dân
tộc (dĩ nhiên là dân tộc Pháp, BK). Giám mục Gauthier viết như
vậy và còn than phiền về những việc sách nhiễu con chiên. Theo tôi,
(Giám mục Gauthier) khi nói đến Triều đình Huế và quan lại. Các người
đó chỉ có nghe theo tiếng nói của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe
gì khác”.
Nguyên
văn tiếng Pháp (BK. tr. 142).
d.
Gauthier muốn có một chính phủ Ki Tô tại Bắc Kỳ.
“Bằng
những sự phóng đại đó, các kẻ truyền đạo cố lôi cuốn các viên chỉ huy
quân sự Pháp vào các cuộc chinh chiến và họ tin rằng một khi sự xung
đột tái diễn thì nhất định Pháp sẽ mắc kẹt trong guồng máy chiến tranh.
Tôi
tin rằng, Giám mục Gauthier và Giám mục Puginier, nhất là ông thứ nhì,
không chịu nổi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: Giải pháp
nầy sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt,
chính phủ nầy có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các tín đồ Công
giáo lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục các linh
mục, các người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính
phủ... Suốt ngày, chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các lời yêu
cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó”.
Nguyên
văn tiếng Pháp (BK, tr.143).
e.
Tại sao giám mục Gauthier muốn có một chính phủ Ki Tô tại Bắc Kỳ?
Trả
lời: Sẽ dễ dàng biến người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô giáo hoàn toàn. Có
ích gì lúc người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô? Giám mục Puginier trả lời thế
cho chúng ta:
“Tôi
xác nhận rằng, khi nào Bắc Kỳ trở thành Công giáo, thì nó cũng trở
thành một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo Philippines đã
thành một nước Tây Ban Nha nhỏ…
Tất cả các giám mục, linh mục Pháp đều là những tên thực dân cuồng
nhiệt. Trong số đó, Giám mục
Puginier được xếp hạng nhất, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường
Tộ đứng hạng nhì. Là hai kẻ đắc lực và nguy hiểm nhất trong chủ trương
biến Bắc Kỳ thành một nước Pháp nhỏ và độc lập khỏi Triều đình Huế. Giám
mục Puginier đã uổng công đích thân đến Sài Gòn (từ Bắc Kỳ, BK) để bàn
trực tiếp với Đô đốc Dupré, nhưng Dupré vẫn cương quyết không can thiệp
vào những vấn đề của nội bộ Bắc Kỳ.
Biến
Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ sau khi đã đổi đạo dân Bắc, Đô đốc
Dupré chỉ trích là quá nguy hiểm. Trong thư gửi cho Bộ trưởng
Hải quân và Thuộc địa ngày 30/12/1874 cho chúng ta thấy điều đó:
Dupré
viết: “Những lần tôi nói chuyện với
Giám mục Puginier. Trước khi ông rời Sài Gòn, lòng tôi vẫn không thay
đổi: Vì thế, tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét mà tôi đã trình bày với
ngài, dù vị Giám mục này đã khổ công khuyến cáo rằng, hãy bỏ cái chính
nghĩa đã tạo cho dân chúng (An Nam) có cảm tình với nước Pháp và theo
con đường mà ông Garnier, một anh hùng bị kết án, đã vạch sẵn, nhưng
người ta đã không biết những khó khăn của tình thế, do viên sĩ quan khốn
nạn này để lại mà chúng ta phải gánh chịu”.
f. Giám
mục Gauthier thuyết phục,
nhưng Dupré cũng không thay đổi ý kiến:
“Chắc
chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được, ông
ta quá hăng say và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy thật sự quá
nguy hiểm nếu nhắm mắt nghe lời của ông giám mục này”.
Nguyên
văn tiếng Pháp (BK. tr. 146-147).
10. NTT
với kế hoạch đánh úp Giađịnh
NTT
với kế hoạch đánh úp Giađịnh được viết
ngày 9/2/1871. Vì tình yêu tổ quốc và tự ái dân tộc, nên cụm từ Bổ
túc kế hoạch đánh úp Gia Định dễ khiến chúng ta có nhiều thiện
cảm với Nguyễn Trường Tộ.
Trước
đó 7 năm (1863), ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực dân Pháp giữ
bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandière bất chấp lệnh của chính phủ ông
là Không được chiếm 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ, nhưng y vẫn
làm. Vua Tự Đức phản đối việc này và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La
Grandière đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi
Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy có thể đã được trao trả, nhưng NTT viết bài
chiêu dụ cản ngăn. Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã cho lính nghỉ
ngơi từ lâu lấy ai để đánh? Ông lại bày mưu đánh. Nhưng đề nghị bí mật
tuyển người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương, chứ không hề
đề cập đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam Kỳ, như Thiên Hộ Dương,
Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực v.v…, và kêu gọi họ hợp tác hay ủng
hộ để đuổi kẻ thù chung? Nguyễn Trường Tộ còn nói ông cũng vào Gia Định
để chỉ huy nhưng ngụy trang đi giảng đạo, và đồng thời báo tin cho ông
Giám mục tình báo Ngô Gia Hậu (Gauthier) biết. Trong bài chiêu dụ này,
có thêm vài chi tiết rất quan trọng khác chúng ta cần lưu ý:
(a) Ông Tộ tiết lộ: “Như lần trước, lúc tôi ở Gia Định, nguyên soái Gia
Định đã nhiều lần muốn đem công việc bộ Công giao hết cho tôi”(TBC,
Sđd, tr. 327). Điều này cho thấy ông ta được đô Đốc La Grandière tin
dùng đến mức đem công việc bộ Công giao hết cho y.
(b) Nguyễn Trường Tộ viết: “Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (Khoản
này các câu bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền
Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc
trôi xuống ngã ba mà tan rã hết” (TBC, Sđd, tr. 330). Tại Gia Định,
và cả miền lục tỉnh, thời bấy giờ và ngay thời bây giờ
làm gì có sông nào, đê nào ngăn nước để phá để thuyền Pháp sẽ bị chôn
vùi? Và NTT tự phá một mình hay có ai phụ? (giả thiết có đê)? Và dụng
cụ để phá đê có bao nhiêu cái cuốc cán tre, hay phá bằng tay?
Và
dưới đây là một đề nghị rất quan trọng:
(c) Nếu Nguyễn Trường Tộ đề nghị đánh gấp, thì ông ta quả tình là một người
yêu nước không còn phải bàn cãi. Nhưng rất tiếc, ông viết: “Kế này
phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành”(TBC, Sđd, tr. 331). Thời gian
hai năm đã tố cáo cái dã tâm của ông.
Thật
vậy, NTT nói đến chuyện đánh nhưng không phải đánh ngay bây giờ; sau
tháng 9/1870, thời cơ đã đến, mà phải hai năm sau, tức là 1873. Tại sao
vậy? Vì nếu đánh bây giờ thì ta nhất định thắng mà Pháp chắc chắn thua.
Đó là điều mà ông Tộ không bao giờ muốn! Chứng minh?
Một, như
trên đã nói, ông Tộ đề nghị sử dụng những thường dân (không phải lính)
chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại địa phương,
người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và có kinh nghiệm…,
thì làm sao thắng được?
Hai, lịch
sử cho thấy nếu đánh vào giai đoạn sau tháng 9/1870 Việt Nam nhất định
thắng. Dưới đây là sử liệu:
“Ở
Âu châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19/7/1870,
nhưng mãi tới ngày 5/8/1870 tin ấy mới tới Sài Gòn. Cornulier-Lucinere
vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng triều đình Huế
thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho lục tỉnh
Nam Kỳ nổi loạn. Song cả cho đến ngày 25/9/ 1870 là khi tin quân
Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, triều đình Huế vẫn án binh bất
động. Quốc triều chánh biên toát yếu chép là: Năm Canh Ngọ tháng
9, nước Đại Pháp đánh với Phổ Lỗ Sĩ, quan Pháp soái thương cho ta
biết, ngài khiến quan thương bạc hỏi thăm. Thái độ của triều đình
Huế còn kỳ quặc hơn khi triều đình tỏ lòng mong muốn quân Pháp sẽ
rút khỏi Nam Kỳ để trở về Pháp cứu vãn tổ quốc lâm nguy. Triều đình
đã hoàn toàn không lợi dụng những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ
nhị thể chế sụp đổ thay thế bởi một chính thể cộng hòa, và khi mà
quân Pháp bị cô lập ở Nam Kỳ” (Nguyễn
Thế Anh, Sđd, tr. 66).
Mấy
hàng đầu của bài Kế hoạch thu hồi 6 tỉnh (viết trước bài Bổ
túc kế hoạch đánh úp Gia Định 8 ngày), ông Tộ nói: “Đại
phàm việc thiên hạ, để thời cơ trôi qua mà hối tiếc... gặp thời làm được
thì gấp rút ra tay, không bỏ lỡ cơ hội”.
Nói
một đường làm một nẻo, một người mâu thuẫn dối trá không biết ngượng,
thế mà cũng được ông Nguyễn Đình Đầu và Giám mục Nguyễn Thái Hợp nhắm
mắt ca tụng.
Giả
sử triều đình bị mắc lừa bởi kế hoạch của ông Tộ, hai năm sau mới đánh,
thì kết quả sẽ thế nào? Hai năm sau tức là năm 1873. Lúc này Việt Nam
ở vào thế rất yếu nhưng Pháp rất mạnh, khó lòng thắng. Vì tại chính quốc,
tình hình chính trị đã được ổn định, chính phủ mới đã được thành lập.
Tại thuộc địa, Pháp đã bình định 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ được 11 năm,
và 3 tỉnh miền Tây được 6 năm. Họ rất rảnh tay. Còn tại Bắc Kỳ, chính
phủ Pháp ngăn cấm Đô đốc Dupré về một cuộc phiêu lưu mới tại Bắc Kỳ,
nhưng cũng giống như La Grandière, ông ta không tuân lệnh thượng cấp.
Và các viên chức trong tòa lãnh sự Pháp tại Trung Hoa cũng muốn chính
phủ họ chiếm Bắc Kỳ như Dupré. Sử liệu cho thấy:
Vào
năm 1873, lãnh sự Pháp ở Quảng Đông, Bá tước Chappedelaine, báo cáo về
Paris như sau: Ở Bắc Kỳ, quan lại An Nam bị thù ghét dữ dội. Không phải
dùng đến 2000 người và 4 tuần dương hạm, mà chỉ cần phái một tuần dương
hạm cùng vài pháo hạm và một đại đội thủy quân lục chiến tới cửa sông
Hồng Hà là đủ làm xứ Bắc kỳ trở thành một thuộc địa Pháp (J. Dupis, Le
Tonkin de 1872 à 1886, Histoire et Politique. Paris, 1910, p. 125.
Dẫn theo Nguyễn Thế Anh, Sđd, tr. 81). Nguyễn Trường Tộ, một người yêu
nước, cao kiến, sáng kiến lớn là thế đấy!
Nếu
nhìn kế sách này dưới khía cạnh tình báo, gián điệp và phản gián, chúng
ta sẽ biết thêm một số dụng tâm khác của Nguyễn Trường Tộ lúc đề nghị
phải hai năm nữa mới đánh chứ không phải bây giờ. Mời độc giả đọc tiếp,
để hiểu rõ thêm cái dụng tâm của ông.
Kế
hoạch thu hồi 6 tỉnh: viết ngày 01/02/1871, và Kế hoạch đánh úp Gia Định
viết ngày 9/02/1871. Hai bài này viết cách nhau chỉ có 8 ngày, mâu thuẫn
với nhau và cũng được viết theo kiểu nước rút. Tại sao vậy? Vì tình hình
chính trị và quân sự của Pháp quá nguy khốn như sử liệu dẫn trên cho
thấy. Tại chính quốc, Pháp bị tang gia bối rối vì thua Phổ. Triều đình
Napoleon III bị giải tán, chính phủ mới chưa thành lập, một quốc gia
vô chủ. Đó chính là thời điểm nghìn năm một thuở để đuổi thực dân Pháp
ra khỏi đất nước bằng võ lực, nhưng triều đình vua Tự Đức lại quá ngây
thơ không chịu đánh. Dẫu vậy, quân đội Pháp tại Nam Kỳ dĩ nhiên là thấp
thỏm đứng ngồi không yên vì run sợ một trận đánh úp của quân đội Việt
Nam có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Do đó, ông Tộ hẳn được lệnh quan thầy
phải gấp rút viết các bài chiêu dụ, để kẻ thù của Pháp sử dụng con đường
ngoại giao thay vì quân sự. Trong đó có việc cử phái đoàn đi Pháp, đi
Anh và Y Pha Nho để vận động xin lại phần lãnh thổ bị chiếm, chứ không
dùng võ trang. Đó là kế đẩy đối phương (Việt Nam) về hướng khác, hướng
ngoại giao.
Tuy
vậy, khuyên theo kế sách ngoại giao trông lộ liễu và phi lý quá đáng!
Hơn nữa, để cầm chắc triều đình Việt Nam theo con đường đi xin chứ không
dùng võ lực, nên 8 ngày sau, ông Tộ lại viết bài chiêu dụ Kế hoạch
đánh úp Gia Định nhằm nhận diện xem ai xuất hiện đề nghị đánh, thì
Pháp sẽ tiêu diệt ngay từ đầu. Và nhóm nào muốn đánh nhưng không thể
bắt hoặc cản ngăn được thì dùng kế hoãn binh, khuyên không nên đánh bây
giờ mà phải hai năm sau!
Nói
gọn, thời vua Tự Đức có hai cơ hội tốt nhất để đuổi thực dân Pháp ra
khỏi bờ cõi.
Cơ
hội một là
từ 1858 đến 1863. Nếu toàn dân và triều đình một lòng quyết chiến
chứ không hòa thì Pháp đã rút khỏi Việt Nam như thư mật của các Đô
đốc Pháp cho thấy ở phần trước. Nhưng NTT khuyên nên cho lính nghỉ
ngơi, hợp tác và để Pháp giữ bờ cõi cho mình!
Cơ
hội hai là
từ tháng 9 năm 1870 đến nửa năm 1871, Pháp thua Phổ, tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội Pháp bị rối loạn. Đó là một cơ may hiếm có,
nếu đánh thì tất thắng, nhưng ông Tộ khuyên nên theo đường lối ngoại
giao. Tuy vậy, vẫn sợ quân đội Việt Nam có thể đánh, nên ông cũng
bày ra chuyện đánh, nhưng không đánh bây giờ, mà phải hai năm sau.
Rõ
hơn, 7 bài viết của ông Tộ từ tháng 2 đến tháng 5/1871, chỉ xoáy vào
một trọng điểm mang tính sinh tử cho số phận, chiến lược và chính sách
thuộc địa của Pháp là tránh, đừng để Việt nam sử dụng vũ lực đối với
quân Pháp tại Nam Kỳ. Và nếu để ý thêm, chúng ta sẽ thấy rằng, hầu hết
58 bài chiêu dụ của Nguyễn Trường Tộ cũng chỉ nhắm vào hai điểm then
chốt.
Một, bằng
mọi cách, phải kêu gọi hòa và hợp tác chứ đừng bao giờ để quân dân Việt
Nam sử dụng võ lực đối với thực dân Pháp.
Hai, sử
dụng tất cả các thủ đoạn chính trị lươn lẹo để đưa các ông giám mục,
linh mục lọt vào hầu hết các cơ quan công quyền nhằm Công giáo hóa rồi
Pháp hóa dân tộc ta. Để che đậy các âm mưu ấy, NTT phải giả vờ nguyền
rủa Pháp, phải sử dụng những danh từ hoa mỹ, phải bày ra chương trình
này, kế hoạch nọ để đánh lạc hướng và đẩy triều đình theo con đường mà
thực dân Pháp và Vatican mong muốn.
Cũng
thế, hành động của NTT giống như ông Huỳnh Văn Trọng, một điệp viên tình
báo cao cấp của miền Bắc, được gài vào chức cố vấn cho cựu Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu ở miền Nam trước năm 1975 tại Sài Gòn. Ông Trọng phải
giả bộ phê bình Bác và Đảng, phải chê bai các nước Cộng sản thậm tệ,
phải năng nổ bày ra kế hoạch này chính sách nọ…, mới có thể che được
mắt cơ quan tình báo của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa, để hoàn thành nhiệm
vụ mà đảng và nhà nước đã tin tưởng giao phó.
Tóm lại, muốn đánh giặc, phải có ít nhất các điều kiện sau đây:
Số
lượng và quân ngũ đã được huấn luyện.
Ước
lượng thành phần của địch,
Khí
giới, quân nhu, quân dụng, lương thực của ta và ước lượng của địch,
Đồng
minh với các lực lượng địa phương nếu có,
Quân
trừ bị, lực lượng vận tải lương thực và khí giới,
Y
tế, cứu thương,
Nghiên
cứu khí hậu, địa hình, đồ trận của ta và địch,
Tiên
đoán sự thành công và thất bại…
Do đó, nên đọc lại 8 điều tối thiểu cần có cho một trận đánh (nêu trên),
và để tránh việc tự mình làm mất thêm uy tín, Giám mục Nguyễn Thái Hợp
và ông Nguyễn Đình Đầu nên
thận trọng lúc viết câu thiếu cơ sở, lập lờ và lưỡng nghĩa: “Giả
thử kế hoạch đánh úp Gia Định của Nguyễn Trường Tộ được thi hành!”
KẾT LUẬN
Trong
9 năm (từ 1863-1871) NTT thập thò sau bức màn canh tân, đổi mới, thưc
dụng… để dối triều đình và gạt dân ta qua một số trong nhiều hành động được tóm lược sau đây:
Đến
đón quân Pháp tại cửa Mành sơn Đà Nẳng,
Giúp
phó Đô đốc Charner mở rộng vòng chiếm đóng tại Sài gòn,
Khuyên
triều đình cho lính nghỉ ngơi để cứu nguy cho quân Pháp đang hấp hối,
Canh
tân Võ bị thì đã có trong cuốn Tôn Ngô binh pháp,
Canh
tân đất nước thì có 4 ông linh mục việt gian, “lưng mềm dể uốn chạy
theo chủ mới”: Nguyễn Hoằng, Nguyễn Điều, Nguyễn Lâu và Nguyễn Trường
Tộ,
Mở
trường kỷ thuật thì có 3 ông linh mục mới học hết chương trình chủng
viện; một ông thì điếc không nghe được,
Mở
viện dục anh do giám mục tình báo cử người coi sóc,
Đề
nghị đào kênh từ Hải dương đến Huế để có thể dân nổi loạn,
Cản
ngăn triều đình đi Pháp khiếu nại để đòi lại 3 tỉnh,
Cố vấn thì có Giám mục tình báo Gauthier và liên hệ với ông tình báo
nầy đến gần 20 năm,
Mười hành động không thể chấp nhận của NTT nêu trên và kế sách PHẢI HÒA, nên
Pháp chiếm từ 3 tỉnh, rồi 6 tỉnh, cuối cùng chiếm toàn vẹn lãnh thổ.
Có bao giờ ông NTT xin lỗi quốc dân và triều đình về những ý kiến rất
sai trái của mình?
Một
người như thế, mong Giám mục Nguyễn Thái
Hợp và ông Nguyễn Đình Đầu cho độc giả biết quan điểm của hai ông.