VHNA: Sau hai bài của tác giả Bùi Kha đăng trên t/c HồnViệt (NguyễnTrường Tộ và vấn đề chủ hòa - 12/2009,
Nguyễn Trường Tộ và vấn đề làm cho dân giàu nước mạnh - 1/2010) có những nhận định, đánh giá khác, thậm chí trái ngược với các nhận định, đánh giá của giới nghiên cứu lâu nay về Nguyễn Trường Tộ,
tác giả Hoàng Kỳ đã có bài trao đổi lại đăng trên t/c Văn hóa Nghệ An (4/2010). Tác giả BùiKha đã có bài trao đổi lại với tác giả Hoàng Kỳ theo quan điểm riêng của mình. Tôn trọng các ý kiến khác nhau trong nghiên cứu khoa học nhằm hướng tới một nhận thức khách quan, trung thực, chính xác các hiện tượng, vấn đề thuộc về lịch sử, trên tinh thần tôn trọng học thuật, tôn trọng người đối thoại, chúng tôi đăng tải bài viết trao đổi của tác gỉa Bùi Kha và hy vọng sẽ có nhiều ý kiến khác cùng trao đổi, thảo luận để tiếp cận chân lý.
Hôm qua, 30.9.2010, tình cờ có người gởi cho bài của Gs Hoàng Kỳ với tựa đề “Trao đổi ý kiến với tiến sỹ Bùi Kha về Nguyễn Trường Tộ” đăng trên web “Văn hóa Nghệ An ngày 3.4.2010. Dưới đây tôi sẽ lần lượt làm sáng rõ những nhận định thiếu cơ sở của Gs Hoàng Kỳ.
Gs Hoàng Kỳ viết: “…Tất nhiên với trình độ một người từ Hán học chuyển qua Tây học được thời gian có 3 năm (1858-1861) khi qua Singapore, Hồng Kông, Malaixia...,1 năm qua Pháp và ý (từ tháng 1-1867 đến tháng 2-1868) và chỉ là học mót chứ không qua trường lớp chính quy thì tất nhiên là sự hiểu biết còn nông cạn, chắc chắn là chưa đầy đủ, nhưng không vì thế mà ta sổ toẹt tấm lòng ưu dân, ái quốc của NTT và thất bại của triều đình nhà Nguyễn không phải là do nghe lời của NTT vì những bản Điều trần lúc đầu của ông không hề được triều đình để ý gì, các bản về sau có được xem xét nhưng cũng chẳng ăn thua gì”
-Bùi Kha: NTT chưa bao giờ có “tấm lòng ưu dân, ái quốc”như Gs Hoàng Kỳ nhầm.
Chứng minh: Ngày 16/10/1858, Nguyễn Trường Tộ cùng với Gm tình báo Gauthier (Cố Hậu) đến cửa Mành Sơn, Đà Nẵng. Ở đó, đã có
“Các giáo sĩ Pháp tập trung khá đông đảo, đứng đầu là Giám mục Pellerin, đã cùng nhau làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm. Nhưng bộ chỉ huy quân sự Pháp đánh giá là không thể dễ dàng tiến đánh Huế mà phải chuyển hướng về Sài gòn. Do đó trước khi đem quân vào Sài gòn, Đô Đốc Rigault deGenouilly đã tìm cách bắt buộc các giáo sĩ Pháp, hoặc trở về nhiệm sở hoặc đi tạm lánh ở Hồng Kông. Giám mục Gauthier cùng với Nguyễn Trường Tộ và những người tháp tùng đã đi sang Hồng Kông trong những điều kiện như thế vào đầu năm 1859”.
Năm 1861, từ Hồng Kông, NTTcùng với Gm. Gauthier và Phó Đô đốc Léonard Charner, về lại Việt Nam, ông được thuê làm thư ký cho Tổng hành dinh của quân thực dân Pháp để mở rộng vùng chiếm đóng (theo Linh mục Trương Bá Cần trong cuốn Nguyễn Trường Tộ con người và di thảo, tr. 22,23 &24).
Trong lúc đất nước lâm nguy, toàn dân nhất là trai tráng xông pha đánh giặc cứu nước thì hành động của Nguyễn Trường Tộ như thế mà được cho là có
“tấm lòng ưu dân, ái quốc” sao?
Ông biết chữ Nho nhưng tiếng Pháp kém, chỉ đủ để làm Từ hàn (thư ký thường) cho Pháp mà thôi (theo cụ Đào Duy Anh trong Tạp chí Tri Tân số 7, trang 167, xb. 1941.Vai kề vai lòng cạnh lòng với ông tình báo Gauthier gần 20 năm và, có thể, cùng với ông này, viết 58 bài Điều trần gửi đến triều vua Tự Đức đầy hậu ý.
Tôi sẽ chứng minh thêm “tấm lòng” của NTT trong những đoạn sau.
Trong tất cả các bài viết về NTT tôi chưa hề nói rằng Triều đình nhà Nguyễn nghe lời NTT mà còn cho thấy rằng may mà triều đình không nghe!
2. Gs Hoàng Kỳ:“NTT có chủ hoà trong thời gian đầu khi thấy so sánh lực lượng của quân đội triều đình với quân Pháp quá chênh lệch, với mục đích là để có thời gian củng cố lực lượng, xiết chặt hàng ngũ của ta trước một đội quân xâm lược có vũ khí tối tân hơn và ông luôn luôn quan tâm đến việc tu chỉnh võ bị...”
-Bùi Kha: Gs. Hoàng Kỳ sai, NTT chưa bao giờ nhằm “mục đích là để có thời gian cũng cố lực lượng…” Chứng minh. NTT viết:
�“Theo cách ngày nay thì nên để cho quân lính nghỉ ngơi, rồi làm theo chước Hán Cao Tổngày xưa cắt Quan Trungcho hạng Võ (?) để họ giữ bờ cõi cho mình, như có hổ báo trong rừng thì chồn cáo không dám bén mảng tới…”�(Thiên hạ đại thế luận, Trương Bá Cần, tr. 111).
Vẫn biết về sau NTT có đề nghị chỉnh trang võ bị v.v. nhưng viết như thế để làm như mình có lòng yêu nước. Trong thực tế đã cho lính nghỉ ngơi tức là bỏ súng, đầu hàng, lính về nhà để Pháp giữ bờ cỏi cho mình thì lực lượng đâu còn nữa để củng cố, để chỉnh trang võ bị như Gs Hoàng Kỳ nghĩ tốt cho NTT điều mà ông ta không hề có
!
3. Gs Hoàng Kỳ: “Hơn nữa lúc đầu ông hiểu nhầm là bọn Pháp chỉ yêu cầu được tự do giảng đạo, xin mở bến tàu, lập phố xá, thông cửa bể để buôn bán, nhưng về sau thấy rõ dã tâm của chúng cố tình đánh chiếm nước ta thì ông đã có những đề nghị khác như Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (Di thảo số 39) và aBổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định (Di thảo số 40)”.
- Bùi Kha:
NTT tự khoe các gì cũng biết từ cái cao của thiên văn…đến tạp hóa dị nghệ… ông đều học và biết rõ. Thế thì tại sao “ông hiểm nhầm”? Gs Hoàng Kỳ muốn bênh vực NTT và cho rằng ông ta
“hiểu nhầm”. Mà “hiểu nhầm” đến mức dộ không thể chấp nhận được, nhưng NTT có bao giờ viết thư xin lỗi Triều đình và dân chúng không?
Gs Hoàng Kỳ tiếp “…nhưng về sau thấy rõ dã tâm của chúng cố tình đánh chiếm nước ta thì ông đã có những đề nghị khác như Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh Nam Kỳ (Di thảo số 39) và Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định (Di thảo số 40).
- Bùi Kha:
Gs Hoàng Kỳ đã không đọc cẩn thận để biết hai Di thảo 39 và 40 nói gì, cũng như không biết bối cảnh lịch sử trong giai đoạn ấy như thế nào nên viết hoàn toàn sai.
Chứng minh: Thật vậy, như đã nói trên, trước đó 7 năm (1863) ông đề nghị cho lính nghỉ ngơi để thực dân Pháp giữ bờ cõi cho mình. Năm 1868, La Grandière bất chấp lệnh của chính phủ ông là Không được chiếm 3 tỉnh miền TâyNam kỳ, nhưng y vẫn làm. Vua Tự Đức phản đối việc nầy và định cử sứ bộ qua Pháp tố cáo La Grandière đã lạm quyền và đòi trả lại 3 tỉnh mới chiếm. Nếu sứ bộ đi Pháp thì có thể 3 tỉnh ấy đã được trao trả, nhưng NTT viết bài chiêu dụ cản ngăn [Di thảo # 36: “Bải bỏ việc cử phái bộ đi Pháp”]. Đến nay (1870), Pháp thua Phổ nhưng đã cho lính nghỉ ngơi từ lâu lấy ai để đánh? Di thảo số 39 (ngày 1.2.1871) NTT đề nghị dùng phương pháp ngoại giao, chứ không phải quân sự để xin lại các tỉnh bị Pháp chiếm. Sau đó 8 ngày ông lại đề nghị dùng giải pháp quân sự: Di thảo số 40 [“Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia Định”, viết ngày 9.2.1871). Nhưng đề nghị bí mật tuyển người từ Bắc, Trung và một số khác tại địa phương, chứ không hề đề cập đến các phong trào đang kháng Pháp tại Nam Kỳ, như Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực v. v., và kêu gọi họ hợp tác hay ủng hộ để đuổi kẻ thù chung? Vì giới hạn của bài viết nên tôi không phân tích lý do tại sao NTT đổi ý từ NGOẠI GIAO đến QUÂN SỰ chỉ trong vòng 8 ngày.
Nguyễn Trường Tộ lại viết: “Đến đêm khởi sự, một mặt tôi dùng kế (Khoản nầy các câu bẩm trước chưa nói đến) phá đê ngăn nước thì các thuyền Tây ở mặt dưới, không kể lớn nhỏ đều bị chìm hoặc bị vùi dưới bùn, hoặc trôi xuống ngã ba mà tan rã hết”
(T.B. Cần, SĐD, tr.330). Tại Gia Định, và cả miền Lục tỉnh, thời bấygiờ và ngay cả thời bây giờ, làm gì có sông nào, đê nào ngăn nước để phá và thuyền sẽ bị chôn vùi?
Nếu N.T.Tộ đề nghị đánh gấp, thì ông ta quả tình là một người yêu nước không còn phải bàn cãi. Nhưng rất tiếc, ông viết: Kế nầy phải đòi hỏi khoảng hai năm mới thành
(T.B. Cần, SĐD, tr. 331). Thời gian hai năm đã tố cáo cái dã tâm của ông.
Thật vậy, ông Tộ nói đến chuyện đánh nhưng không phải đánh ngay bây giờ; sau tháng 9, 1870, thời cơ đã đến, mà phải hai năm sau, tức là 1873. Tại sao vậy? Vì nếu đánh bây giờ thì ta có nhiều cơ hội thắng mà Pháp chắc chắn thua. Đó là điều mà ông NTT, những người Việt gian và thực dân không bao giờ muốn! Cáo buộc Nguyễn Trường Tộ không muốn Việt Nam thắng Pháp có oan không, chứng minh?
● Một,
như trên đã nói, ông Tộ đề nghị xử dụng những thường dân (không phải lính) chiêu mộ từ Bắc, Trung, Nam chứ không kêu gọi nghĩa quân tại địa phương, người vừa có tinh thần chiến đấu vừa đã được huấn luyện và có kinh nghiệm v.v., thì làm sao thắng được? Hơn nữa thời bấy giờ muốn mộ binh từ Bắc và Trung vào Nam phải đi bộ hoặc đi xe ngựa mất khoảng 6 tháng, thời gian, lương thực đâu, làm sao thực hiện việc mộ binh kiểu đó?
●
Hai, lịch sử cho thấy nếu đánh vào giai đọan sau tháng 9.1870 Việt Nam nhất định thắng. Dưới đây là sử liệu:
“Ở Âu-châu, chiến tranh bùng nổ giữa nước Pháp và nước Phổ ngày 19. 7. 1870, nhưng mãi tới ngày 5 .8. 1870 tin ấy mới tới Sài Gòn. Cornulier-Lucinere vội cho tổ chức sự phòng thủ sông Sài Gòn vì sợ rằng Triều đình Huế thừa cơ hội mà tiến quân xuống miền Nam hay ra lệnh cho Lục-tỉnh Nam kỳ nổi loạn. Song cả cho đến ngày 25. 9. 1870 là khi tin quân Pháp đại bại ở Sedan tới Sài Gòn, Triều-đình Huế vẫn án binh bất động. Quốc triều chánh biên toát yếu chép là: Năm Canh Ngọ tháng 9, nước Đại Pháp đánh với Phổ-lỗ-sĩ, quan Pháp soái thương cho ta biết, ngài khiến quan thương bạc hỏi thăm. Thái độ của Triều-đình Huế còn kỳ quặc hơn khi triều đình tỏ lòng mong muốn quân Pháp sẽ rút khỏi Nam kỳ để trở về Pháp cứu vãn tổ quốc lâm nguy. Triều đình đã hoàn toàn không lợi dụng những nỗi khó khăn của Pháp khi nền đệ nhị thế chế sụp đổ thay thế bởi một chính thể cộng hòa, và khi mà quân Pháp bị cô lập ở Nam kỳ” (Nguyễn Thế Anh, Việt Nam Dưới Thời Pháp Đô Hộ, Sài gòn, Lữa thiêng 1970, tr. 66).
Tình hình chín muồi như vậy, nếu không đánh ngay thì mấy tháng sau đó phải đánh, nhưng NTT khuyên phải hai năm sau. Ông ta yêu nước nào mà lạ đến thế?
Mấy hàng đầu của bài “Kế hoạch thu hồi sáu tỉnh (viết trước bài Bổ túc kế hoạch đánh úp Gia-định chỉ có 8 ngày) ông Tộ nói Đại phàm việc thiên hạ, để thời cơ trôi qua mà hối tiếc...gặp thời làm được thì gấp rút ra tay, không bỏ lỡ cơ hội”.
Nói một đường làm một nẻo, một người mâu thuẫn không biết ngượng, thế mà một số người cứ cặm cụi ca tụng một người đã lao tâm khổ tứ lo cho dân cho nước!
Giả sử triều đình bị mắc lừa bởi kế hoạch của NTT, hai năm sau mới đánh, thì kết quả sẽ thế nào? Hai năm sau tức là năm 1873. Lúc nầy Việt Nam ở vào thế rất yếu nhưng Pháp rất mạnh, khó lòng thắng. Vì tại chính quốc, tình hình chính trị đã được ổn định, chính phủ mới đã được thành lập. Tại thuộc địa, Pháp đã bình định 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ được 11 năm, và 3 tỉnh miền Tây được 6 năm. Họ rất rảnh tay. Còn tại Bắc Kỳ, chính phủ Pháp ngăn cấm Đô-đốc Dupré về một cuộc phiêu lưu mới tại Bắc kỳ, nhưng cũng giống như La Grandière, ông ta không tuân lệnh thượng cấp. Và các viên chức trong tòa lãnh sự Pháp tại Trung Hoa cũng muốn chính phủ họ chiếm Bắc-kỳ như Dupré. Sử liệu cho thấy:
Vào năm 1873, lãnh sự Pháp ở Quảng Đông, Bá tước Chappedelaine, báo cáo về Paris như sau: Ở Bắc kỳ, quan lại An nam mít bị thù ghét dữ dội. Không phải dùng đến 2000 người và 4 tuần dương hạm, mà chỉ cần phái một tuần dương hạm cùng vài pháo hạm và một đại đội thủy quân lục chiến tới cửa sông Hồng Hà là đủ làm xứ Bắc kỳ trở thành một thuộc địa Pháp (J. Dupis,
Le Tonkin de 1872 à 1886, Histoire et Politique. Paris, 1910, p. 125. Dẫn theo Nguyễn Thế Anh, “Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ”, tr. 81). Nguyễn Trường Tộ, một người có tấm lòng ưu dân, ái quốc
là thế đấy
4. Gs Hoàng Kỳ: “Sáu điều lợi NTT trình bày chính là chủ trương ngoại giao đa phương do NTT đề xuất, việc mà hiện nay đảng ta cũng chủ trương như vậy, chứ không phải như TS võ đoán là: “Bang giao với Vatican. Đây là một trong hai chủ đích chính trong bản Điều trần này của NTT, còn 5 đề nghị kia chỉ là hoa lá cành, là củ cà rốt rỗng ruột không ăn được, nhằm che đậy hậu ý khuyên triều đình thoả hiệp với Pháp và bang giao với Vatican để thực hiện sách lược tôn giáo hoá Việt Nam (TS BK cho in đậm). Điều đó cũng có nghĩa là để cho Pháp dễ cai trị Việt Nam”. Đó là thái độ “không ưa đổ thừa cho xấu”, “nói lấy được” của người viết có ác ý!”
–Bùi Kha: Chính sách của nhà nước hiện nay là bang giao đa phương đa quốc chắc chắn không liên hệ gì đến việc NTT đề nghị triều Nguyễn bang giao với Vatican cả thế kỷ trước. Do đó, mong đừng so sánh lạc điệu như thế, không nên. Để xem tôi có ác ý với NTT hay không, vui lòng theo giỏi các chứng cứ qua sử liệu dưới đây:
4.1 Lm. Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) người đầu tiên trong lịch sử, vận động Pháp đánh chiếm nước ta và được Giáo Hoàng đồng
ý. Ông viết: “Tôi tưởng nước Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn cõi Đông Phương đưa về qui phục chúa Ki Tô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn. Với ý đó tôi rời Rôma ngày 11-9-1652 sau khi tới hôn chân Đức Giáo Hoàng.
...........
"Trên đường từ Lyon tới Paris tôi nghiệm thấy có sự quan phòng rất đặc biệt của Chúa tôi vẫn coi như kim chỉ nam và mẫu mực. Để ra mắt ở Pháp tôi cần có thiên thần hộ vực để đưa tôi lọt vào triều đình vua cao cả nhất hoàn cầu. Thế là tôi gặp ở Roanne đức Henri de Maupa, giám mục thành Puy, tu viện trưởng Saint Denis, đệ nhất tuyên úy của hoàng hậu. Ngài có nhã ý cùng đi với tôi trong cuộc hành trình nhỏ bé này. Trong mười lăm ngày, tôi thấy nơi ngài rất nhiều nhân đức và thương yêu suốt đời tôi, tôi quí mến công ơn và sẽ đề cao hội ngộ may mắn nhất trong suốt các cuộc hành trình của tôi.
Tôi chưa công bố thánh chiến chống mọi địch thù của đức tin ở Nhật, ở Trung Quốc, ở Đàng Trong, ở Đàng Ngoài và ở Ba Tư thì lập tức đã có một số đông con cái thánh Inhaxu, đầy tinh thần đã đưa thánh Phanchicô Xavie tới ba trăm quốc gia, các ngài đã bừng bừng ao ước vác thánh giá Thầy và đem đi cắm ở những nơi cùng kiệt cõi đất...”�
4.2. Linh mục Huc và Giám mục Pellerin
cũng thế: "Bí thư của phái đoàn Pháp ở Trung Quốc, theo lệnh của Hoàng đế muốn tập trung tài liệu về các phái bộ truyền giáo ở Đông Dương, đã tiếp xúc với cácđại diện Giáo Hoàng ở Thái Lan, Việt Nam và Kampuchia. Căn cứ vào các tin tức do những người này cung cấp, chính phủ Pháp đã quyết định phái Montigny thực hiện sứ mệnh trong vùng này. Nhưng đây là các vận động được hỗ trợ bằng sự can thiệp của các nhân vậtquan trọng như Tổng Giám Mục Bonnechose ở Rouen và của chính Hoàng Hậu, bà này đã thuyết phục được vua, dù lúc đó vua không có kế hoạch thực dân nào rõ rệt. Các vận động này được thực hiện bởi hai người truyền giáo: Linh Mục Huc, hội viên Hội thánh Lazare, cựu đại diện Giáo Hoàng ở Trung Quốc, tác giả cuốn “Đạo Thiên Chúa ở Trung Quốc, Tartarie và Tây Tạng” cùng nhiều tác phẩm khác về Trung Hoa, và Giám mục Pellerin đại diện Giáo Hoàng tại Bắc Nam Kỳ”.
4.3. Đến Pháp vào đầu tháng 5, ngày 16-5 ông trình bày trước Ủy ban và ngày 21-5 trao cho họ một bảntrần tình chi tiết trước khi được Napoléon III tiếp kiến. Giám mục đã cho chúng ta thấy vài chỉ dẫn đáng lưu ý về cuộc hội kiến trong một bức thư gửi cho một người truyền giáo tại Tây Tạng: Nhà vua đã tiếp tôi rất niềm nở và còn ban cấp cho tôi nhiều hơn những điều tôi xin. Hoàng thượng hết sức sẵn lòng giúp đỡ các phái bộ và ý ngài muốn rằng các nhà truyền giáo Pháp phải được tự do khắp nơi, cần phải cầu nguyện Thượng Đế giữ lại người của Chúa ở lại trên ngôi. Các phái bộ của Ngài, ở Cao Ly, Nhật Bản, cũng sắp được tự do nay mai, phải hy vọng điều đó. Nước Pháp sẽ đứng vững tại các xứ đó và rồi sẽ không còn có sự đàn áp nữa.
Nhưng sự việc hình như cứ kéo dài mãi, giám mục sốt ruột thấy là nên nhắc lại vấn đề với Napoléon III. Xin Chúa thượng, người ta đọc trong thư đề ngày 30-8-1857 của ông. Cho phép thần lại nói đến các người mới theo đạo khốn khổ ở xứ Cochinchine và các nhà truyền giáo ở nước
An
Nam, hiện giờ máu họ đang đổ và tình cảnh họ còn kinh khủng hơn từ cuộc vận động sau chót của nước Pháp. Nếu bây giờ người ta vẫn không làm gì cho bọn thần cả, e rằng đạo Thiên Chúa bị tận diệt ở tại các vùng hình như sẵn sàng tiếp đón lợi ích của đạo Thiên Chúa và nền văn minh. Thần đến xin Chúa Thượng đừng bỏ rơi bọn thần. Điều bệ hạ làm cho bọn thần sẽ khiến cho ân phúc cuả Chúa ban xuống cho bệ hạ và triều đại huy hoàng của bệ hạ...
4.4. Kế đến tháng 11, Giám mục Pellerin đi Rôma, Giáo Hoàng Pie IX tán thành các vận động để giúp đỡ cho các phái bộ truyền giáo."
Nguyên văn tiếng Pháp:
Arrivé en France au début de mai, il fut entendu le 16 mai par la commission et lui remit un mémoire détaillé le 21 mai, avant d'être recu par Napoléon III. L'évêque nous donne quelques indications intéressantes sur cette entrevue dans une de ses lettres à un missionnaire du Thibet: “L'empereurs m'a très bien accueilli et m'a accordé plus même que je n'avais demandé. Sa Majesté est parfaitement disposé pour les Missions, et son intention est que les missionnaires francais soient libres partout; il faut prier Dieu de conserver sur le trône l'homme de la providence. Vos Missions, celles de la Corée, du Japon seront aussi bientôt libres, il faut l'espérer. La France va s'établir solidement dans ces pays, et alors il n'y aura plus de persécution possible” (1)…
(Để giảm số trang, tôi chỉ dẫn một đoạn tiếng Pháp tượng trưng).
Archives Missions Entrangères - lettre à Mgr Thonuire - Desmazures, 30-7-1858, cité par Franchini, Ouv. cité.
Archives du ministère des Affaires Étrangère Vol. 27 (Cao Huy Thuan Christianisme Et Colonialisme Au Vietnam 1857-1914, p. 67 & 68).
Qua một tài liệu khác, chúng ta cũng thấy vai trò quan trọng của Giám mục Pellerin trong việc vận động Pháp xâm lăng nước ta. Và đã được Giáo hoàng La Mã Pie IX chấp thuận:
4.5. Lợi dụng lý do truyền giáo, cấm đạo tại Việt Nam, thực dân Pháp qua trung gian Giám mục Pellerin đã đệ trình đề án kế hoạch xâm lược Việt Nam lên Giáo hoàng Pie IX và đã được La Mã chấp thuận (Xem A. Delvaux, Mgr. Pellerin, Nazattreth, Hồng Kông, 1937, tr. 54, nguyên văn: �Une des facteurs qui influèrent favorablement sur la mise en campagne de l'expédition de Cochinchine fut l'avis favorable de Pie IX qui avait approuvé pleinement les démarches de Mgr Pellerin lors de son voyage à Rome� (Phần tiếng Việt lẫn tiếng Pháp, trích trong cuốn Phong Trào Nghĩa Hội Quảng Nam, tác giả Nguyễn Sinh Duy, nhà xuất bản Đà Nẵng, 1996, trang 17).
Qua năm trích dẫn trên, chúng ta thấy các Giáo Hoàng đã đi vào con đường chính trị, đã vận động và song hành với quân đội thực dân phương Tây để xâm chiếm nước ta. Thế mà NTT khuyên triều đình nên thông hiếu với Giáo Hoàng. Người chuyên nghề thuyết khách là thế!
Dưới đây tôi nêu thêm hai thí dụ nhỏ trong muôn ngàn thí dụ để thấy sự sai lầm mà hầu như cố ý của nhà thuyết khách Nguyễn Trường Tộ. Một đoạn trong mật thư đề ngày 24-7-1862, Đô đốc Bonard gởi cho Chasseloup Laubat như sau.
4.6.“Ai
(các giáo sĩ, BK) cũng ôm ấp lý tưởng trở lại thời kỳ mà Giám-mục Bá Đa Lộc được xem như ông vua thực sự của xứ An Nam, thời kỳ mà mọi việc chỉ có thể được thực hiện theo lời khuyến cáo của ông giám mục nầy, hoặc được ông cho phép. Để đạt mục đích đó, các nhà truyền giáo đã dùng kế hoạch sau đây: nếu những ai nối vị vua Gia Long mà không theo ý của các ông giáo sĩ, thì họ sẽ tìm cách phủ nhận tính chính thống của vua nầy, và khi lật đổ được triều đình hiện tại thì sẽ bầu lên một ông vua khác theo ý họ.”�
Nguyên văn tiếng Pháp:
"Tous caressent l'idée de revenir au temp où l'Évêque d'Adran était le véritable souverain du royaume d'Annam, temps où rien ne se faisait que par ses conseils ou sa permission. Pour parvenir à ce but voici quels moyens ils ont employés: les unes et les autres, ne trouvant pas que les successeurs de la dynastie de Gia Long obtempérassent assez à leurs désirs, ont contesté la légitimité de ceux-ci et ont cherché à mettre en avant un candidat qui, s'il renversait la dynastie régnante, leur offrit plus de garanties pour arriver à leurs fins”. (Trích trong “Archives du Ministère des Affaires Étrangères, Asie, Mémoires et Documents”, Vol, 28, Fol.85 - 88: Thư khố Bộ Ngoại giao, Á châu, kỷ yếu và tài liệu, tập 28, trang 85-88, CHT, SĐD trang 150).
4.7. Đoạn thư của Bonard nói trên mô tả về âm mưu của các linh mục, giám mục người Pháp. Và một đoạn khác trong thư đó viết về hành động của các giáo sĩ dòng tu Đô-Mi-Níc người Tây Ban Nha như sau:
4.8. “Còn tu sĩ dòng Dominique Tây Ban Nha thường chiếm cứ nhiều vùng miền Thượng Du Bắc Việt, họ lại còn bất trị hơn: hăng hái và quá cuồng tín, đa số trong bọn nầy phát xuất từ các đoàn du kích và phe Carlistes, họ rời bỏ Tây Ban Nha và sẵn sàng mang gươm, súng và thánh giá chữ thập dốc toàn lực tham dự vào các cuộc nổi loạn gây tai họa cho xứ Bắc Kỳ.”
(Quant aux Dominicains espagnols qui occupent généralement le haut Tonkin ils sont beaucoup plus ingouvernables: ardents et fanatiques au dernier degré, un assez grand nombre d'entre eux sortant des bandes de guérillas et de carlistes ayant abandonné l'Espagne portent assez volontiers le sabre et le mousquet avec la croix et sont mêlés, et de coeur et le corps, aux révoltes qui affligent le Tonkin. (CHT, SĐD, p. 152).
Hai dẫn dụ nêu trên, đã cho thấy Nguyễn Trường Tộ bênh vực và đánh giá sai về vai trò của các giáo sĩ.
Chúng ta nên để ý rằng giáo hội Công giáo là một tổ chức theo đẳng cấp tuyệt đối. Giáo Hoàng là người đại diện Chúa ở trần gian, ông có quyền cách chức, bổ nhiệm, cấm đoán hoặc cho phép các Hồng y, Giám mục, Linh mục, con chiên thi hành các công tác đức tin và công tác trần thế. Do đó, chúng ta hiểu rằng A. de Rhodes đã được Giáo hoàng đồng ý và cho phép qua Pháp vận động triều đình đánh chiếm Việt Nam. Một linh mục, giám mục không làm điều gì khác nếu không được Giáo hoàng chấp thuận. Như thế, việc vận động một thế lực chính trị ngoài Vatican để xâm chiếm Việt Nam đã có từ 1652 do Giáo hoàng chỉ thị cho ông A. de Rhodes (xin xem thêm bài “Góp ý với giáo sư Chương Thâu về Linh mục A. De Rhodes và chữ quốc ngữ” trong cuốn Kitô Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại (Văn Hóa Cali. xuất bản, Hoa kỳ, 1996).
Qua sử liệu không thể chối cải như thế, phải chăng ông Bùi Kha có “thái độ “không ưa đổ thừa cho xấu”, “nói lấy được” của người viết có ác ý!”
?
5. Gs. Hoàng Kỳ viết: “Một người dù bị triều đình đối xử bất công do chính sách sai đối với giáo dân; có điều kiện để có thể “vinh thân phì gia” nếu sẵn sàng cộng tác với giặc, nhưng vẫn quyết từ bỏ để về sống cực khổ ở quê nhà.”
- Bùi Kha:
Ông NTT có về sống cực khổ ở quê nhà hay luôn luôn sống sát cánh với ông tình báo Gauthier gần 20 thì trong bài nầy tôi đả viết rỏ.
Còn
cho rằng NTT “Một người dù bị triều đình đối xử bất công do chính sách sai đối với giáo dân”, có thật như vậy không? Để cho vấn đề được vô tư hơn, và để thấy ngay các hành động mà giáo sĩ đã tác hại cho đất nước Việt Nam, xẩy ra lúc mà Nguyễn Trường Tộ vào khoảng 30 tuổi, chúng ta nên nghe lời than phiền của Đô đốc Rigault de Genouilly về hành động mà họ gọi là
“kẻ tử đạo".
“Không một nền cai trị nào, dù là phục vụ cho đạo Công giáo, lại có thể dung thứ cho sự xâm phạm thường xuyên và ngu xuẩn vào các vấn đề chính trị, dân sự, và quân sự vốn không được và không phải thuộc quyền hạn của họ
(các giáo sĩ, BK). Nếu cũng vì những yếu tố buộc tội đó mà Giám mục Pellerin bị nhà cầm quyền An Nam trục xuất thì báo chí của người truyền đạo lại kêu la om sòm là họ bị bạo hành”.
(Fut - elle au service de l'intérêt chrétien, ne pouvait tolérer leur intrusion permanente et insolente dans les affaires politiques, civiles et militaires qui ne sont et ne doivent pas être de leur ressorts. Si l'expulsion du Mgr Pellerin avait été prononcée, pour les mêmes chefs d'accusation, par une autorité Vietnamienne, la presse des missionnaires aurait crié partout persecution (CHT, p. 113).
Ý kiến của Đô đốc Page trong văn thư đề ngày 14-12-1859 và 25-12-1859 cũng có những ý kiến tương tự:
Sau khi đi khắp nước thấy nhiều, nghe nhiều cuối cùng Đô đốc Page công nhận lý lẽ vững chắc của triều đình Huế, chính ông cũng bực mình về thái độ của các nhà truyền đạo và con chiên của họ:
“Thật vậy, trong lúc dân chúng hoảng hốt chạy trốn khi quân Pháp kéo đến và tổ chức vũ trang tự vệ, ở nơi đông dân thì 3000 tín đồ Công giáo đi theo Pháp và xin được đưa vô Saigòn là nơi mà Page đã dựng lên một thị trấn. Tôi ngạc nhiên biết bao? khi hôm sau các nhà truyền giáo đến nói với tôi, rằng các con chiên An Nam không tuân theo một quyền lực vô đạo, họ nói như thế. Óa! Họ cũng không muốn có cảnh sát để chận đứng trộm cướp du đảng, cướp bóc thành phố? Và tôi rất hổ thẹn khi thú nhận với Ngài rằng Giáo Hội Công giáo tại An Nam đã ngạo nghễ đi rao giảng các nguyên lý đó: Ngoài ra không người Việt Nam theo Công giáo nào ngần ngại xin gia nhập làm lính dưới cờ Pháp, ông vua Việt Nam không theo đạo, không phải là vua của họ. Chắc bây giờ ngài đã hiểu tại sao vua, quan đã coi các nhà truyền giáo là kẻ thù?”
Xem thế, một Đô đốc thực dân Pháp cùng tín ngưỡng, cũng không thể chịu nổi những hành động của các giáo sĩ chứ trách gì các vua quan triều Nguyễn.
Nguyên Văn tiếng Pháp:
Après avoir beaucoup parcouru le pays, beacoup regardé, beaucoup écouté, l'amiral Page finit par reconnaitre le bienfondé des arguments du gouvernement de Huế, lui même ayant été choqué par l'attitude des missionnaires et de leurs chrétiens.
En effet, tandis que la population fuyait avec épouvante à l'approche des troupes francaises et que des milices armées s'organisaient là où il y avait un centre de population, 3.000 catholiques se rallièrent aux Francais et demandèrent à être ramenés à Saigon où Page avait crée une municipalité. “Quelle a été ma surprise? Lorsque le lendemain les missionnaires sont venus me déclarer que les chrétiens annamites ne pouvaient pas obéir à une autorité payenne, c'est leur mot. Quoi! Pas même pour la police municipale? Pour empêcher les voleur, les vagabonds de mettre la ville au pillage? Et je suis confus d'avouer à Votre Excellence que ces principes sont professés hautement par les associations annamites catholiques... “Du reste, pas un Vietnamien catholique n'hésita à demander à s'enriler comme soldat sous le draupeau francais. Le roi payen du Vietnam n'était point leur roi. “Votre Excellence comprendra sans doute maintenant comment le Roi et les mandarins regardent les missionnaires catholiques comme des ennemis? (Dépêche de l'amiral Page, du 14-12 et 25-12-1859. Archives Nationales, Fonds, Marine BB4 777.CHT, p. 128 & 129).
Thực ra đó là hành động của một số con chiên không ít thời Pháp chiếm Việt Nam, nhưng ngày nay đã đổi khác. Chúng ta vô cùng trân quý những tâm tình đó.
6. Gs Hoàng Kỳ: “…đề nghị nhà vua cho mở các trường dạy kỹ thuật mà sau này ông đã trình”.
Bùi Kha:
Gs Hoàng Kỳ muốn nói đến trường kỹ thuật mà NTT và Gm Gauthier đề nghị mở ở Huế năm 1868. Đó là thêm một đề nghị không thành thật của NTT. Thật vậy, việc mở trường (huấn nghệ, kỹ nghệ) yếu tố quan trọng hàng đầu sau trường sở, dụng cụ ... là phải có quyết tâm, thứ hai giáo chức phải có bằng cấp hoặc kiến thức chuyên môn về ngành mà mình được mời dạy. Theo tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 23-2-1868 gởi cho vua Tự Đức thì các vị giáo chức có bằng cấp chuyên môn để dạy huấn nghệ, kỹ nghệ. Nhưng theo Hội truyền giáo Paris thì mấy vị nầy không có các bằng cấp hoặc khả năng mà Giám mục Gauthier mô tả. Nguyên văn:
“Theo một tờ phúc trình của Giám mục Gauthier ngày 30 tháng 2 năm Tự Đức 21 (23-2-1868):
- Linh mục Thông, (tức Montrouzies) biết phép toán, bản đồ các nước thiên hạ, in bóng (quang học), điện khí, phân ngũ kim; biết nói có thứ đất thứ đá ấy thì có những giống chi.
Nhưng
theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris, thì Linh mục Montrouzies trước khi nhập Hội Truyền giáo Paris, ngày 1-5-1867 đã đậu cử nhân văn chương.
- Linh mục Đồng (tức Renauld) biết phép toán, thiên văn, đo độ số mặt trời mà họa đồ bản, đo thiên xích cho được đi biển, biết phép cầu cao cầu viễn, biết đo đất cho biết nơi nào cao nơi nào thấp, biết bản đồ các nước thiên hạ, biết dùng truyền tin thẳng, biết làm thu lôi trụ.
Nhưng
cũng theo ký sự của Hội Truyền giáo Paris thì sau khi học xong chủng viện, Linh mục Renauld gia nhập Hội Truyền Giáo Paris 14-10-1866 và theo học một khóa đặc biệt về kiến trúc và họa đồ một năm trước lúc lên đường sang Việt Nam.
- Giáo sĩ (tức bác sĩ Hernaiz) không phải linh mục hay tu sĩ mà chỉ là một nhân sĩ tôn giáo nên gọi giáo sĩ như Nguyễn Trường Tô cũng được gọi là giáo sĩ, thì không dạy học trò được vì nặng tai, nhưng cũng giúp Linh mục Thông mà phân tích các tính ngũ kim ngũ hành. Lại biết làm thuốc.
Nhưng tới Việt Nam chưa được mấy ngày giáo sĩ nầy do bệnh cũ tái phát đã xin về Pháp trở lại.
- Còn Ca Xanh (nguyên tên là Ca sa nhi) là một người thợ máy, trước đã giúp việc tàu Thuận Thiệp, có lẽ do giám mục gặp ở Sài gòn đem về giới thiệu với triều đình, nhưng Ca xanh đòi lương quá cao (320 đồng/tháng, tính ra tiền là một ngàn, bảy trăm sáu chục quan) và đòi hỏi nhiều điều kiện, nên không dung” (TBC, SĐD, tr. 49 & 50). Các đối chiếu nên trên chứng tỏ Vua quan triều Tự Đức bị thầy trò Nguyễn Trường Tộ dối trá lừa bịp có hậu ý. Mong Gs Hoàng Kỳ nên cẩn thận lúc viết.
Dưới đây là
sáu sử liệu cho thấy Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ, người cùng với NTT mà vua Tự Đức lầm nhờ đi mua dụng cụ và thuê thầy giáo về mở trường kỷ thuật ở Huế, là một tên tình báo:
Sau khi hiệp ước 1862 ký giữa Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha, triều đình vua Tự Đức kiếm cách chuộc lại ba tỉnh đã mất. Trong chiều hướng nầy, một người Công giáo cuồng nhiệt là Trung Tá hải quân Aubaret vận động, được bộ ngoại giao Pháp và vua Napoléon III đồng ý. Vì thế một hiệp ước mới (thế hiệp ước cũ 1862) được bộ ngoại giao và bộ hải quân soạn thảo theo quan điểm của vua Napoléon III, và được ký tại Huế ngày 15-1-1864.
Theo hiệp ước nầy, ba tỉnh bị chiếm trong năm 1862 được trả lại cho Việt Nam, ngoại trừ thành phố Sài Gòn, Mỹ Tho, Vũng Tàu và Côn Đảo. Để đổi lại việc trả 3 tỉnh nầy, Pháp có quyền bảo hộ 6 tỉnh Nam bộ, ba hải cảng Đà nẵng, Ba Lạt và Quảng Nam...
Theo hiệp ước 1864, Aubaret chủ trương chiếm Nam Kỳ bằng con đường tôn giáo và thương mại, chứ không phải Aubaret có lòng tốt gì đối với dân Việt Nam đâu (CHT. SĐD, trang 174, 175). Trong triều đình Pháp chia làm hai phe, phe ủng hộ và phe chống. Phe chống khuyên vua đừng phê chuẩn hiệp ước.
5.1.- Gauthier theo phe Aubaret:
Về phía các nhà truyền giáo cũng chia làm 2 phe, phe chống, phe bênh. Chúng ta cũng nên lưu ý rằng chống hoặc bênh cũng cùng một mục đích là đồng hóa dân Việt Nam nhưng theo cách nầy hay theo đường khác mà thôi. Trong phe ủng hộ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier hai người có liên hệ đến việc mở trường nói trên. Thư của Giám mục Lefèbre viết cho Linh mục Pernot, cho chúng ta thấy điều đó:
“Hiệp ước Aubaret bị dìm, đó không phải là điều rủi ro. Chỉ có Giám mục Sohier và Giám mục Gauthier là tán đồng hiệp ước, nhưng đứng trên quan điểm chính trị thực sự và quyền lợi của hội truyền giáo chúng ta, việc trả lại ba tỉnh để lấy tiền thật là một sự ngu ngốc kỳ lạ. Vấn đề bây giờ là phải lấy luôn ba tỉnh phía Nam: Đó là ý đồ của chính phủ và của toàn thể Bộ Tham Mưu chúng ta, nhưng cần phải có một nguyên cớ nghe được, vì cần phải có tôn trọng công lý và tôi không biết từ khi hiệp ước được ký kết với Bonard, người An Nam có cố tình phá vở hiệp ước hay không; vì không có gì rõ ràng là triều đình Huế không tôn trọng, dù có nhiều vi phạm ở địa phương mà họ có thể quy trách nhiệm cho dân chúng và quan lại, là những người, dĩ nhiên, không mấy sẵn sàng chấp nhận bất cứ hiệp ước nào với nước ngoài, nhất là ở Bắc Kỳ. Chắc Cha đã gặp Giám mục Sohier, người theo phe Aubaret, nhưng bất đồng ý kiến với tôi. Ông Aubaret đã trở lại Xiêm, hết sức xấu hổ về việc thất bại ngoại giao của ông, sự thất bại tôi đã cho ông thấy trước, khi ông ghé Sài gòn”.
Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ).
(Lettre de Mgr. Lefèbre au Père Pernot, datée du 27-9-1864, citée par Taboulet, Bulletin de la Société des Études Indochinoise 1943, tom XVIII, N" 4, 4ème trimestre. Mgr. Sohier et Mgr. Gauthier sont respectivement évêque de Huế et évêque du Tonkin méridionnal (CHT, p. 181).
5.2.-Gauthier được mời họp mật:
Năm 1872 tàu Bouragne chở trung tá hải quân Senez ra Bắc kỳ để dò xét tin tức cho một cuộc chiếm cứ vùng nầy. Trong thư báo cáo của hạm trưởng Senez gởi cho Đô đốc Dupré chúng ta thấy có mời Giám mục Gauthier họp mật với vị sĩ quan Senez nầy:
“...Vừa lên bờ tôi gửi ngay thư cấp tốc cho Giám mục Gauthier cách đó lối mười cây số và hẹn gặp ở trong làng. Chúng tôi sống suốt ngày giữa đám dân Thiên Chúa giáo, họ rất niềm nở với chúng tôi...Lúc 4 giờ chúng tôi thấy một nhà truyền giáo, Cha Frichot đến nói chuyện với chúng tôi vì Giám mục đi vắng. Cha xác nhận lại những gì mà chúng tôi biết lúc sáng do sự tiết lộ của những phái viên: loạn lạc ngày càng bành trướng, từ các tỉnh Lạng sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên, Tuyên Quang lan đến Sơn Tây, Bắc Ninh, Quảng Yên, Hải Dương và những người khởi nghĩa làm loạn, trộm cướp, đã làm những điều cực kỳ táo bạo.
Cha xứ vùng Phát Diệm xác nhận các tin tức đó ngoại trừ vấn đề chính thống và tôn giáo của người dòm ngó ngôi Vua, về hai điểm này có những ý kiến mâu thuẫn nhau. Nhưng sự kiện chắc chắn là cầm đầu cuộc nổi loạn này có một người đang dòm ngó ngôi vua Bắc Kỳ, dù thuộc dòng chính thống hay không”.
(Tôi bỏ phần tiếng Pháp để giảm số trang).
5.3.- Giám mục Gauthier viết:
“Triều đình Huế chỉ nghe tiếng nói của đại bác mà thôi”.
Trong thư đề ngày 12-2-1873, 19-2-1873 gởi cho Đô đốc Dupré, Giám mục Gauthier viết:
“Cuộc chiến nầy làm hao mòn tài chánh và giết hại những tinh hoa của dân tộc
(dĩ nhiên là dân tộc Pháp, BK). Giám mục Gauthier viết như vậy và còn than phiền về những việc sách nhiễu con chiên. Theo tôi (giám mục Gauthier) khi nói đến triều đình Huế và quan lại. Các người đó chỉ có nghe theo tiếng nói của đại bác, còn thì điếc hẳn không nghe gì khác.” (Tức là Giám mục khuyên không nên nghe triều đình Huế về một giải pháp ở Bắc kỳ mà phải chiếm nhanh, BK).
Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ)
5.4.- Gauthier muốn có một chính phủ
Ki Tô tại Bắc Kỳ.
“Bằng những sự phóng đại đó, các kẻ truyền đạo cố lôi cuốn các viên chỉ huy quân sự Pháp vào các cuộc chinh chiến và họ tin rằng một khi sự xung đột tái diễn thì nhất định Pháp sẽ mắc kẹt trong guồng máy chiến tranh.
Tôi tin rằng Giám mục Gauthier và Giám mục Puginier, nhất là ông thứ nhì, không chịu nỗi ý kiến một giải pháp hòa bình cho vấn đề: Giải pháp này sẽ phá tan hy vọng của họ mong muốn thấy một chính phủ riêng biệt, chính phủ này có lẽ sẽ là một chính phủ Công giáo. Các tín đồ Cônggiáo lại càng phóng đại hơn nữa các ý tưởng đó và xúi giục các linh mục, các người chăn dẫn họ để đưa đến một sự đổ vỡ mới giữa hai chính phủ... Suốt ngày, chúng tôi nhận tới tấp các báo cáo và các lời yêu cầu đem quân chinh phạt các tỉnh đó”.�
Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ).
5.5.-
Tại sao giám mục Gauthier muốn có một chính phủ Công giáo tại Bắc Kỳ?
Trả lời: Sẽ dễ dàng biến người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô giáo hoàn toàn. Có ích gì lúc người Bắc Kỳ trở thành Ki Tô? Giám mục Puginier trả lời thế cho chúng ta:
“Tôi xác nhận rằng, khi nào Bắc Kỳ trở thành Công giáo, thì nó cũng trở thành một nước Pháp nhỏ, hoàn toàn giống như các đảo Philippines đã thành một nước Tây Ban Nha nhỏ… Giám mục Puginier viết tiếp:
Nếu chính phủ hiểu rõ quyền lợi thực sự của nước Pháp mà ủng hộ chúng tôi một cách thật sự dù che đậy đôi chút để tránh đụng chạm dư luận, tôi quả quyết rằng trong sứ mệnh của tôi, mỗi năm chúng ta có thể thu về cho nước Pháp khoảng 20.000 người bạn bằng cách cải đạo, chắc chắn tỉ lệ nầy sẽ gia tăng hàng năm, và có đủ lý do mạnh để hy vọng rằng sau 30 năm, gần hết xứ Bắc Kỳ đều trở thành Công giáo, nghĩa là trở thành người Pháp hết”.�
Nguyên văn tiếng Pháp(bỏ)
Tất cả các giám mục linh mục Pháp đều là những tên thực dân cuồng nhiệt. Trong số đó, GiámmụcPuginierđược xếp hạng nhất, Giám mục Gauthier, thầy của Nguyễn Trường Tộ đứng hạng nhì. Là hai kẻ đắc lực và nguy hiểm nhất trong chủ trương biến Bắc Kỳ thành một nước Pháp nhỏ và độc lập khỏi triều đình Huế.Giám mục Puginier đã uổng công đích thân đến Sài Gòn (Từ Bắc Kỳ, BK) để bàn trực tiếp với Đô đốc Dupré, nhưng Dupré vẫn cương quyết không can thiệp vào những vấn đề của nội bộ Bắc Kỳ�.
5.6.- Biến Bắc Kỳ trở thành một nước Pháp nhỏ sau khi đã đổi đạo dân Bắc, chủ trương nầy cũng được Đô đốc Dupré chỉ trích là quá nguy hiểm. Trong thư gởi cho Bộ Trưởng Hải Quân và Thuộc Địa ngày 30-12- 1874 cho chúng ta thấy điều đó:
Dupré viết: “Những lần tôi nói chuyện với Giám mục Puginier. Trước khi ông rời Sài Gòn, lòng tôi vẫn không thay đổi: vì thế tôi vẫn giữ nguyên các nhận xét mà tôi đã trình bày với ngài, dù vị giám mục nầy đã khổ công khuyến cáo rằng hãy bỏ cái chính nghĩa đã tạo cho dân chúng (An -Nam) có cảm tình với nước Pháp và theo con đường mà ông Garnier, một anh hùng bị kết án, đã vạch sẵn, nhưng người ta đã không biết những khó khăn của tình thế, do viên sĩ quan khốn nạn nầy để lại mà chúng ta phải gánh chịu”.
Giám mục Gauthier cũng thuyết phục, nhưng Dupré cũng không thay đổi ý kiến:
“Chắc chắn tôi sẽ không làm vừa lòng hoàn toàn Giám mục Gauthier được, ông ta quá hăng say và trong nhiều trường hợp tôi nhận thấy thật sự quá nguy hiểm nếu nhắm mắt nghe lời của ông giám mục nầy”.
Nguyên văn tiếng Pháp (bỏ).
(Dupré au ministre de la Marine etdes Colonies, 30-12-1874, Archives ministère de la F.O.M. A 30 (25) carton 13. CHT, p. 366).
Mgr. Gauthier ne pouvait non plus changer les idées de Dupré:
Il me sera certainement impossible de donner une entière satisfaction à Mgr. Gauthier; son ardeur est extrême, et en maintes circonstances, j'ai pu reconnaitre combien il serait dangereux d'accepter sans réserves les appréciations de ce prélat”.
(Dupré au ministre de la Marine et des Colonies, 26-7-1876, Archives du ministère de la F.O.M. A 30 (26) carton 14. CHT, p. 367).
Qua sáu dẫn chứng nêu trên, chúng ta mới biết rõ Gm Gauthier là một tên tình báo hạng nặng. Và chúng ta có thể quả quyết rằng, đưa ra miếng mồi Mở Trường Kỹ Thuật là một mưu chước đã được bàn luận kỹ lưỡng giữa Giám mục Gauthier và Nguyễn Trường Tộ để thăm dò và phỉnh gạt triều đình. Và qua đó chúng ta cũng thấy rõ thêm cái tư tưởng chẳng thà mất nước chứ không thà mất ngoại bang của Nguyễn Trường Tộ. Cũng thế chúng ta mới hiểu rõ tại sao mà Nguyễn Trường Tộ đề nghị triều đình nên
Thương hiếu với Giáo Hoàng, Dùng giám mục linh mục vào việc canh tân,
Những việc Giám mục Gauthier có thể giúp, Thương lượng với Giám mục Croc” v.v...
Và Nguyễn Trường Tộ gần suốt 20 năm đi đứng nằm ngồi ăn ở bên cạnh ông tình báo Gauthier chứ đâu có
“từ bỏ để về sống cực khổ ở quê nhà” như Gs Hoàng Kỳ bênh vực không có chứng cứ!
Kết luận: Một cách công bằng chúng ta có thể kể một số công của Nguyễn Trường Tộ (như tôi đã đề cập trong nhiều bài viết trước đây), và bên cạnh đó cũng phải cho thấy cái tội của ông đối với đất nước.
* Công:
1. Chỉ huy đào Thiết cảng,
2. Làm được hai cái nhà thờ mặc dầu thời bấy giờ là chỗ để cho các giáo sĩ gián điệp và Việt gian cư trú,
3. Có vài tư tưởng tiến bộ, có thể xử dụng được, ở rải rác trong một số bài như Cải cách phong tục, Thư gởi Tây-soái, Về việc chỉnh đốn quân đội và quốc phòng,
v.v. CÔNG thì như một giọt nước mà tội thì cả đại dương. Sau đây chỉ giản lược 10 tội:
* Tội:
1. Ngày 16..10.1858 cùng với các linh mục, giám mục Việt và ngoại quốc làm áp lực để quân Pháp chiếm đánh thẳng Huế cho chóng dứt điểm,
2. Năm 1861 làm thư ký và thông dịch cho Tổng hành dinh của quân thực dân Pháp tại Sài gòn để mở rộng vùng chiếm đóng,
3. Vai kề vai lòng cạnh lòng với tên tình báo Gauthier suốt gần 20 năm, cùng với tên nầy, thập thò núp bóng sau bức màn canh tân và cùng nhau viết 58 bài chiêu dụ để lừa dối nhân dân và phỉnh gạt triều đình nhằm phục vụ cho ước vọng của ngoại bang,
4. Cố tình nhận định tình hình sai lạc để làm nhụt khio1 quân ta nhằm cứu vãn cảnh lâm nguy của quân đội Pháp từ năm 1858,
5. Dối trá trong việc mở trường kỹ thuật ở Huế,
6. Âm mưu đề nghị đào kênh từ Hải dương vào Huế để toàn dân nổi loạn,
7. Đề nghị thương hiếu với giáo hoàng để thúc đẩy tiến trình Công giáo hóa Việt Nam. Có như thế Pháp mới dễ biến Bắc kỳ thành một nước Pháp nhỏ như Giám mục Puginier chủ trương.
8. Đề nghị dùng các linh mục Việt gian vào việc canh tân đất nước, và mở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ và viện dưỡng lão do các giám mục thực dân cử người coi sóc. Lúc các ông linh mục và giám mục có mặt khắp nơi, họ sẽ biến những người Việt hiền hòa thành những kẻ ly khai với tổ quốc, rồi hô hào một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền toàn cõi Việt nam,
9. Năm 1868, ngăn cản triều đình cử phái bộ đi Pháp khiếu nại để lấy lại 3 tỉnh miền tây Nam kỳ,
10. Thay vì phải đánh gấp để đuổi giặc về nước vào những tháng cuối năm 1870 và đầu năm 1871. Vì sợ Pháp bại trận, nên N. T. Tộ khuyên phải dùng con đường ngoại giao, thay vì vũ lực. Và nếu xử dụng vũ lực, thì không nên thực hiện ngay mà phải hai năm sau.
Và chính ông Tộ, có lẽ, cũng đã cảm thấy những việc làm bán nước hại dân của mình nên đã trăn trở ân hận trước lúc chết:
“Nhất thất túc thành thiên cổ hận”! (Một lần lỡ bước, hối hận ngàn năm).
Tôi rất thông cảm Gs cũng như nhiều người viết sai về Nguyễn Trường Tộ mà lý do chình là thiếu sử liệu, cũng như không đọc kỷ các bài chiêu dụ của ông ta rồi đối chiếu với tình hình chính trị, quân sự và tôn giáo của ngoại bang thời bấy giờ, và đặc biệt là vì phát xuất từ lòng yêu nước nồng nàn nên không ngớt lời ca ngợi những ai có tinh thần yêu nước. Nhưng trường hợp Nguyễn Trường Tộ thì chúng ta bị lầm trên 150 năm qua.